Tải bản đầy đủ (.pdf) (158 trang)

Luận văn xác định quan hệ tố chất sức mạnh với kỹ thuật nhảy phát bóng, nhảy chuyền bóng trong bóng chuyền

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 158 trang )

1

MỤC LỤC
Tran
g
Trang bìa.
Trang phụ bìa.
Lời cam đoan.
Mục lục.
Danh mục ký hiệu viết tắt trong luận án.
Danh mục các đơn vị đo lường được sử dụng trong luận án.
Danh mục các biểu bảng, biểu đồ, hình vẽ trong luận án.
Đặt vấn đề.

1

Chương 1. Tổng quan các vấn đề nghiên cứu.

6

1.1. Những vấn đề cơ bản của bóng chuyền hiện đại.

6

1.1.1. Đặc trưng của thi đấu bóng chuyền hiện đại.

6

1.1.2. Xu thế hiện đại trong các môn bóng.

7



1.2. Tổng quan những đặc điểm cơ bản về kỹ thuật - chiến thuật trong
thi đấu bóng chuyền.
1.2.1. Đặc điểm về kỹ thuật.
1.2.2. Đặc điểm về chiến thuật.
1.2.3. Xu hướng phát triển kỹ thuật phát bóng và chuyền bóng
trong bóng chuyền hiện đại.
1.2.4. Đặc điểm chuyên môn hoá vị trí trong huấn luyện và thi
đấu.
1.3. Khái quát về kỹ thuật nhảy phát bóng và nhảy chuyền bóng.

8
8
9
11
17
18

1.3.1. Khái quát về kỹ thuật nhảy phát bóng.

18

1.3.2. Khái quát về kỹ thuật nhảy chuyền bóng.

22

1.4. Tổng quan về giảng dạy - huấn luyện tố chất thể lực chuyên môn
trong bóng chuyền.
1.4.1. Cơ sở lý luận về huấn luyện tố chất thể lực chuyên môn
trong bóng chuyền.

1.4.2. Đặc điểm sinh lý tố chất sức mạnh đối với sinh viên, VĐV
bóng chuyền trong tập luyện và thi đấu.

24
24
29


2

1.4.3. Đặc điểm về phát triển tố chất sức mạnh trong huấn luyện
bóng chuyền hiện đại.
1.5. Quan điểm về huấn luyện kỹ thuật nhảy phát bóng và nhảy chuyền
bóng (nêu bóng) trong bóng chuyền.
1.5.1. Quan điểm về huấn luyện kỹ thuật nhảy phát bóng.
1.5.2. Quan điểm về huấn luyện kỹ thuật nhảy chuyền (nêu) bóng.
1.5.3. Quan hệ giữa yếu tố thể lực và kỹ thuật nhảy phát bóng,
nhảy chuyền (nêu) bóng trong huấn luyện bóng chuyền.
1.6. Nhận xét.
Chương 2. Đối tượng, phương pháp và tổ chức nghiên cứu.
2.1. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu.
2.1.2. Khách thể nghiên cứu.
2.2. Phương pháp nghiên cứu.
2.2.1. Phương pháp phân tích và tổng hợp tài liệu.
2.2.2. Phương pháp phỏng vấn tọa đàm.
2.2.3. Phương pháp kiểm tra sư phạm.
2.2.4. Phương pháp quan sát sư phạm.
2.2.5. Phương pháp quan trắc video xác định chỉ số sinh cơ.
2.2.6. Phương pháp thực nghiệm sư phạm.

2.2.7. Phương pháp toán học thống kê.
2.3. Tổ chức nghiên cứu.
2.3.1. Thời gian nghiên cứu.
2.3.2. Địa điểm nghiên cứu.
Chương 3. Kết quả nghiên cứu và bàn luận.
3.1. Xác định đặc điểm sinh cơ học và mối quan hệ giữa tố chất sức
mạnh với kỹ thuật nhảy phát bóng, nhảy chuyền bóng trong bóng
chuyền.
3.1.1. Xác định đặc điểm sinh cơ học của kỹ thuật nhảy phát
bóng và nhảy chuyền bóng trong bóng chuyền.
3.1.1.1. Cơ sở lý luận xác định các nhóm cơ chính tham gia vào
các động tác kỹ thuật bóng chuyền.
3.1.1.2. Đặc điểm sinh cơ học của kỹ thuật nhảy phát bóng và
nhảy chuyền bóng trong bóng chuyền.

34
39
39
44
49
54
56
56
56
56
56
56
57
58
64

65
69
70
74
74
75
76

76
76
76
80


3

3.1.2. Lựa chọn các test sư phạm đánh giá sức mạnh và xác định
mối quan hệ giữa tố chất sức mạnh với kỹ thuật nhảy
phát bóng và nhảy chuyền bóng trong bóng chuyền.
3.1.3. Xác định mối quan hệ giữa tố chất sức mạnh với kỹ thuật
nhảy phát bóng và nhảy chuyền bóng trong bóng chuyền.

85
88

3.1.3.1. Xác định mối quan hệ giữa các chỉ số sinh cơ học với
hiệu quả kỹ thuật nhảy phát bóng, nhảy chuyền bóng.

88


3.1.3.2. Xác định mối quan hệ giữa các test sư phạm với kỹ
thuật nhảy phát bóng, nhảy chuyền bóng.

90

3.1.3.3. Xác định mối quan hệ giữa các test sư phạm với các chỉ
số sinh cơ đánh giá hiệu quả kỹ thuật nhảy phát bóng,
nhảy chuyền bóng.

91

3.1.3.4. Xác lập tỷ trọng ảnh hưởng và mối tương quan đa nhân
tố giữa các nhóm yếu tố thành phần đến hiệu quả kỹ
thuật nhảy phát bóng, nhảy chuyền bóng trong bóng
chuyền.

93

3.1.4. Bàn luận về đặc điểm sinh cơ học, các test đánh giá và
mối quan hệ giữa tố chất sức mạnh với kỹ thuật nhảy
phát bóng, nhảy chuyền bóng trong bóng chuyền.

99

3.1.4.1. Về đặc điểm sinh cơ học, các test đánh giá hiệu quả kỹ
thuật nhảy phát bóng, nhảy chuyền bóng trong bóng
chuyền.

99


3.1.4.2. Về mối quan hệ giữa tố chất sức mạnh với kỹ thuật nhảy
phát bóng, nhảy chuyền bóng trong bóng chuyền.

104

3.2. Lựa chọn, ứng dụng và xác định hiệu quả hệ thống bài tập phát
triển sức mạnh của kỹ thuật nhảy phát bóng và nhảy chuyền bóng
trong bóng chuyền.

107

3.2.1. Cơ sở lý luận lựa chọn bài tập phát triển sức mạnh của kỹ
thuật nhảy phát bóng và nhảy chuyền bóng trong bóng
chuyền.

107

3.2.2. Cơ sở thực tiễn lựa chọn bài tập phát triển sức mạnh của
kỹ thuật nhảy phát bóng và nhảy chuyền bóng trong bóng
chuyền.

111

3.2.3. Ứng dụng và xác định hiệu quả hệ thống bài tập phát triển
sức mạnh của kỹ thuật nhảy phát bóng và nhảy chuyền
bóng trong bóng chuyền.

117



4

3.2.3.1. Tổ chức thực nghiệm.

117

3.2.3.2. Xây dựng tiến trình thực nghiệm.

119

3.2.3.3. Kết quả thực nghiệm.

120

3.2.4. Bàn luận về hiệu quả hệ thống bài tập phát triển sức mạnh
của kỹ thuật nhảy phát bóng và nhảy chuyền bóng trong
bóng chuyền.

133

Kết luận và kiến nghị

137

Kết luận

137

Kiến nghị


140

Danh mục các công trình nghiên cứu đã công bố có liên quan đến
luận án.

141

Danh mục tài liệu tham khảo.

142

Phụ lục.


5

DANH MỤC KÝ HIỆU VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN.

CLB

-

Câu lạc bộ.

ĐC

-

Đối chứng.


FIVB

-

Liên đoàn bóng chuyền thế giới

GDTC

-

Giáo dục thể chất.

HLV

-

Huấn luyện viên.

NCKH

-

Nghiên cứu khoa học.

TDTT

-

Thể dục thể thao.


THCN

-

Trung học chuyên nghiệp.

THCS

-

Trung học cơ sở.

THPT

-

Trung học phổ thông.

TN

-

Thực nghiệm.

VĐV

-

Vận động viên.


XHCN

-

Xã hội chủ nghĩa.

LVĐ

-

Lượng vận động


6

DANH MỤC CÁC ĐƠN VỊ ĐO LƯỜNG ĐƯỢC SỬ DỤNG
TRONG LUẬN ÁN
cm

-

Centimét.

g

-

Gam.

kG


-

Kilôgam (lực).

l

-

Lần.

m

-

Mét.

m/s

-

Mét/giây (đo vận tốc)

m2

-

Mét vuông.

s


-

Giây.


7

ĐẶT VẤN ĐỀ
Bóng chuyền là một môn thể thao phát triển nhanh và rộng rãi ở nước
ta, là một môn thể thao có tính hấp dẫn cao với các hoạt động kỹ - chiến thuật
biến hoá đa dạng đã thu hút rất nhiều người tham gia tập luyện và thi đấu. Tập
luyện và thi đấu bóng chuyền không những có tác dụng phát triển thể chất,
củng cố nâng cao sức khoẻ, mà bóng chuyền đỉnh cao còn tạo cho VĐV có
tính tập thể, tinh thần đoàn kết, giáo dục, rèn luyện cho VĐV những phẩm
chất đạo đức và ý chí, góp phần vào việc giáo dục, phát triển con người toàn
diện.
Trong lĩnh vực GDTC trường học, cũng như trong lĩnh vực TDTT quần
chúng, bóng chuyền được phát triển ở hầu hết các địa phương trong cả nước,
được đông đảo quần chúng nhân dân tham gia tập luyện; đồng thời bóng
chuyền đã trở thành môn học chính thức trong chương trình GDTC tự chọn
tại các trường THPT, Đại học, Cao đẳng và THCN, hàng năm đều có các giải
thi đấu môn bóng chuyền của học sinh, sinh viên toàn quốc, là môn thi đấu
chính thức tại Hội khoẻ Phù Đổng toàn quốc, cũng như Hội thi nghiệp vụ sư
phạm toàn quốc do Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức.
Về thể thao thành tích cao, bóng chuyền Việt Nam được đánh giá là có
sự tiến bộ vượt bậc so với những năm trước đây. Vừa qua, đội tuyển bóng
chuyền nam Việt Nam đã giành được thứ hạng nhất định trong khu vực. Hiện
nay bóng chuyền hiện đại thế giới đã phát triển mạnh theo xu hướng toàn
diện: Cao, nhanh, mạnh, linh hoạt thể hiện trên tất cả kỹ thuật của bóng

chuyền, từ mở đầu là phát bóng, đệm bóng, chuyền bóng, cuối cùng là đập
bóng. Bóng chuyền hiện đại phải khống chế tầm cao trên không bằng tiếp xúc
bóng nhanh. Có thể nói, nhảy phát bóng và nhảy chuyền bóng kết hợp với
hoạt động đập bóng là biện pháp chính để giành điểm, là mặt đối lập của
phòng thủ (đỡ phát bóng, đỡ đập bóng, chắn bóng...) luôn là mặt chính tạo ra


8

sự mất cân bằng giữa tấn công và phòng thủ. Tấn công là mặt chính yếu, thúc
đẩy toàn bộ kỹ thuật bóng chuyền phát triển. Trong bóng chuyền, từ kỹ thuật
phát bóng, di chuyển trong phòng thủ, di chuyển trong chuyền hai, di chuyển
trong chắn bóng đến các kỹ thuật khác đều thể hiện nổi trội tố chất, năng lực
sức mạnh mà rõ nhất là nhảy phát bóng và nhảy chuyền bóng, các huấn luyện
viên khi huấn luyện đã tăng cường các bài tập kỹ thuật và thể lực toàn diện
hơn như sức mạnh nhằm nâng cao trình độ kỹ thuật toàn diện, biến hóa nhiều
trên cơ sở tâm lý ổn định. Muốn có sức tấn công nhanh, mạnh, biến hóa thì
sức mạnh là yếu tố quyết định để vượt lên trên đối phương giành chiến thắng.
Thực tế của công tác giảng dạy - huấn luyện bóng chuyền hiện nay cho
thấy, một trong những xu thế rõ nhất của bóng chuyền hiện đại là tấn công
chiếm ưu thế hơn phòng thủ, đồng thời xu hướng phát triển bóng chuyền hiện
đại là: Toàn diện, nhanh, cao, biến. Về mặt kỹ, chiến thuật - khâu thể hiện
chính tính đối kháng trong thi đấu nhằm được điểm nhiều hơn và đối phương
được điểm ít hơn, nên việc nghiên cứu các kỹ thuật thuộc hai phạm trù tấn
công và phòng thủ là một trọng điểm trong phát triển bóng chuyền hiện đại.
Thực tế quá trình phát triển của bóng chuyền cho thấy: Kỹ thuật luôn là một
khâu then chốt để thực hiện mục tiêu chiến thuật nhằm giải quyết quy luật
được mất điểm trên cơ sở tố chất thể lực và hình thái cơ thể tốt. Nói một cách
khác, kỹ thuật là khâu xuyên suốt để hợp đồng trực tiếp giữa các thành viên
trong đội để chiến thuật biến hoá trên cơ sở kỹ thuật điêu luyện trong đó kỹ

thuật tấn công làm trung tâm, gồm các kỹ thuật nhảy phát bóng, nhảy chuyền
bóng, đập bóng...
Hoàn thiện kỹ - chiến thuật tấn công trong bóng chuyền hiện đại là nhờ
nâng cao khả năng phối hợp tấn công nhanh với tín hiệu, xu thế trong tấn
công là giãn vị trí tấn công ra xa lưới, phối hợp nhanh, biến hoá ở vị trí số 3,
hơn nữa tấn công từ tuyến hai ngày càng được sử dụng rộng rãi. Lối đánh tốc


9

độ và bất ngờ kết hợp với động tác giả như: Nhảy phát bóng, nhảy chuyền
bóng, chạy lên đập giả, nhảy giả, đập bóng bằng bật nhảy một chân… đã
được sử dụng nhiều và mang lại hiệu quả cao. Trong thi đấu, các pha phản
công liên tục, tối đa, có hiệu quả đã tạo áp lực lâu dài lên đối phương. Cho
đến nay, nhảy phát bóng và nhảy chuyền bóng được coi là một trong những
kỹ thuật tấn công rất có hiệu quả, với việc thay đổi luật thi đấu gần đây cho
phép phát bóng chạm lưới, nên các VĐV đã chú trọng rất nhiều đến chiến
thuật phát bóng, chuyền bóng. Những pha phát bóng luôn với mục đích phá
vỡ chiến thuật tấn công của đối phương, thậm chí nếu chiến thuật phát bóng
tốt sẽ giành được điểm trực tiếp [28], [36].
Mặt khác, bóng chuyền hiện đại đòi hỏi các VĐV phải có một thể lực
tốt, khả năng phối hợp tấn công biến hoá, đa dạng. Hơn nữa, hiện nay trong
thi đấu bóng chuyền đã có VĐV libero chuyên về phòng thủ, do đó cần thiết
phải có một sự phối hợp chiến thuật thi đấu tốt đặc biệt là chiến thuật phát
bóng tốt mới đem lại hiệu quả cao trong thi đấu. Một trong những yếu tố được
xác định có mối quan hệ mật thiết đối với các kỹ - chiến thuật bóng chuyền
hiện đại đó là tố chất thể lực, đặc biệt là tố chất sức mạnh. Việc xác định được
mối quan hệ ảnh hưởng giữa tố chất sức mạnh với các kỹ - chiến thuật như
nhảy phát bóng, nhảy chuyền bóng sẽ là cơ sở để các giáo viên, HLV làm căn
cứ điều chỉnh quá trình giảng dạy, huấn luyện kỹ - chiến thuật nhằm nâng cao

hiệu quả trong tập luyện và thi đấu. Nhưng tiếc rằng đến nay, vấn đề này vẫn
chưa được các nhà chuyên môn quan tâm nghiên cứu một cách đầy đủ.
Ở Việt Nam, các nghiên cứu về vấn đề giảng dạy - huấn luyện kỹ, chiến
thuật và thể lực chuyên môn cho sinh viên, VĐV bóng chuyền đã thu hút sự
chú ý quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học TDTT, các nhà nghiên cứu,
các nhà giáo dục chuyên môn ở nhiều lĩnh vực khác nhau như: Đinh Văn Lẫm
(1994, 1999) [28], [29]; Ngô Trung Lượng, Phan Hồng Minh (1965) [32]; Phan


10

Hồng Minh, Nguyễn Thành Lâm, Trần Đức Phấn (1997) [35], [36]; Trần Hùng
(2007) [31]; Phạm Thế Vượng (2008) [83]; Lê Trí Trường (2012) [77]... Kết
quả nghiên cứu của các công trình này đã đưa ra được hệ thống các bài tập
huấn luyện kỹ thuật đập bóng cũng như hệ thống các bài tập huấn luyện tâm lý,
thể lực chuyên môn cho sinh viên, VĐV bóng chuyền.
Có thể khẳng định, các kết quả nghiên cứu trên, dù ở lĩnh vực này hay
ở lĩnh vực khác tuy chưa nhiều, song chúng là cơ sở ban đầu hết sức đáng quý
cả về mặt tư liệu lẫn về mặt định hướng, và về phương pháp nghiên cứu đối
với đối tượng chủ yếu trong giảng dạy - huấn luyện kỹ chiến thuật, tố chất thể
lực chuyên môn cho VĐV các đội tuyển cũng như sinh viên chuyên sâu các
trường Đại học TDTT.
Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, nhằm mục đích phát triển tố chất
thể lực và kỹ thuật chuyên môn cho sinh viên chuyên sâu bóng chuyền, góp
phần nâng cao chất lượng giảng dạy môn học bóng chuyền cho sinh viên
chuyên sâu ngành sư phạm thể dục trường Đại học TDTT Bắc Ninh, từng
bước nâng cao hiệu quả công tác giảng dạy - học tập trong nhà trường, chúng
tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:
“XÁC ĐỊNH QUAN HỆ TỐ CHẤT SỨC MẠNH VỚI KỸ THUẬT NHẢY
PHÁT BÓNG, NHẢY CHUYỀN BÓNG TRONG BÓNG CHUYỀN”

Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở phân tích tổng hợp tài liệu, sử dụng các trang thiết bị quan
trắc video vào nghiên cứu kỹ thuật trên các đối tượng sinh viên, VĐV bóng
chuyền, luận án tiến hành xác định đặc điểm và mối tương quan giữa tố chất
sức mạnh chuyên môn với kỹ thuật nhảy phát bóng, nhảy chuyền bóng trong
bóng chuyền, trên cơ sở đó hệ thống hóa các bài tập phát triển tố chất sức
mạnh chuyên môn đối với mối tương quan giữa sức mạnh và kỹ thuật nhảy
phát bóng, nhảy chuyền bóng cho sinh viên chuyên sâu bóng chuyền.


11

Mục tiêu nghiên cứu:
Đề đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, luận án thực hiện các mục
tiêu nghiên cứu sau:
Mục tiêu 1: Xác định đặc điểm sinh cơ học và mối quan hệ giữa tố chất sức
mạnh với kỹ thuật nhảy phát bóng, nhảy chuyền bóng trong bóng
chuyền.
Mục tiêu 2: Hệ thống hóa và xác định hiệu quả các bài tập phát triển sức
mạnh của kỹ thuật nhảy phát bóng và nhảy chuyền bóng trong
bóng chuyền.
Giả thuyết khoa học của luận án:
Giả thuyết xác định rằng, nếu mối quan hệ giữa tố chất sức mạnh
chuyên môn với kỹ thuật nhảy phát bóng, nhảy chuyền bóng được xác định là
mối tương quan mạnh và thuận chiều thì hệ thống các bài tập phát triển sức
mạnh mà luận án nghiên cứu sẽ đem lại hiệu quả ứng dụng đối với mối tương
quan giữa sức mạnh chuyên môn và hai kỹ thuật nhảy phát bóng, nhảy
chuyền bóng. Đồng thời mối quan hệ ảnh hưởng này sẽ là cơ sở để các HLV,
các giáo viên làm căn cứ góp phần nâng cao hiệu quả kỹ thuật nhảy phát
bóng, nhảy chuyền bóng luyện trong quá trình giảng dạy - huấn luyện cho

sinh viên, VĐV bóng chuyền.


12

Chương 1. TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU.
1.1. Những vấn đề cơ bản của bóng chuyền hiện đại.
1.1.1. Đặc trưng của thi đấu bóng chuyền hiện đại.
Bóng chuyền, môn thể thao đồng đội thi đấu đối kháng gián tiếp do có
lưới ngăn cách, không va chạm thân thể trực tiếp, hoạt động thi đấu bóng
chuyền theo hướng Toàn diện - Cao - Nhanh - Biến, đòi hỏi ở VĐV khả năng
thích ứng với LVĐ lớn và năng lực phối hợp vận động cao trong thời gian dài
[14], [16], [34], [35].
Toàn diện trong thi đấu bóng chuyền thể hiện ở việc thực hiện một loạt
kỹ thuật cơ bản và biến hóa (chuyền, đệm, phát, đập, chắn) trong một khoảng
thời gian ngắn. Kỹ thuật ứng dụng thi đấu (vận dụng cụ thể trong thi đấu); kỹ
thuật sở trường, tức khả năng vận dụng điêu luyện vào tình huống nào đó
được đào tạo phù hợp với điều kiện cá nhân (chuyền 2, libero, chủ công, phụ
công, hoặc sở trường về phát, phòng thủ, chuyền 1, chắn), độc chiêu tức có
trình độ kỹ xảo cao mang tính sáng tạo, độc đáo của cá nhân mà người khác
chưa đạt tới. Cuối cùng xuyên suốt mang tính nền móng cơ sở tạo điều kiện
cho sự phát triển của tất cả các kỹ thuật trên mà mọi tài năng muốn phát triển
đến trình độ cao nhất cần có là công cơ bản (công tay, công thân, công chân,
công mắt và năng lực phán đoán cảm nhận). Ngoài toàn diện về kỹ thuật ra
còn phải toàn diện về tri thức, vận dụng kỹ- chiến thuật cá nhân và tập thể,
năng lực thích ứng với hoàn cảnh, sức khoẻ, tâm lý, nhân cách và thể lực
chuyên môn. Sự toàn diện thể hiện năng lực, trình độ thi đấu gắn chặt hữu cơ
thống nhất ở con người. Tính toàn diện này cần gắn với xu thế phát triển của
bóng chuyền hiện đại, hướng ứng dụng của quá trình đào tạo, huấn luyện,
đồng thời là yêu cầu toàn diện của từng cá nhân VĐV, chưa kể phạm vi trình

độ tổng hợp một đội bóng hình thành sức mạnh thể hiện về trình độ thi đấu
cao trước mọi đối thủ [13], [22], [28], [42], [43].


13

Cao trong bóng chuyền chỉ chiều cao đứng, cao với tay, bật cao xa có
đà hoặc không có đà, cao thể hiện năng lực khống chế không gian cao xa tạo
điều kiện cho VĐV khống chế tầm cao, không gian chiều cao theo chiều
thẳng đứng và chiều ngang [43], [46], [53], [55], [83].
Nhanh trong bóng chuyền chỉ năng lực thực hiện động tác nhanh, tần số
động tác nhanh (bật đập nhanh, ghìm nhanh, xoay chuyển nhanh), nhanh
trong sự điều khiển của thần kinh theo hướng tăng tốc và nhanh trong giảm
tốc. Nhanh chính là điều kiện để thực hiện được là biến hoá [43], [46], [53],
[71], [87], [88].
Biến hoá nhanh chỉ năng lực điều khiển cao nhất với trình độ kỹ năng,
kỹ xảo cao vận dụng trong điều kiện biến đổi của thi đấu. Biến hoá phải thể
hiện trên cơ sở nhịp điệu tốc độ biến điểm, biến tầm, biến phương, biến chiều,
biến hình động tác, biến lực...). Bóng chuyền phải vận động tiếp xúc điều
khiển bóng trong thời gian rất ngắn (theo luật), bóng lại luôn chuyển động
trên không, không dừng lại nên biến hoá là mục tiêu cao nhất mang tính nghệ
thuật sáng tạo cao, tức tài năng bóng chuyền cần có năng lực linh hoạt cao
[13], [14], [16], [22], [28], [34], [35], [42], [43].
1.1.2. Xu thế hiện đại trong các môn thể thao tập thể.
Do thành tích thi đấu không đo đếm được mà chỉ xác định theo chuẩn
mực quy định mang tính quan sát chủ quan, nên sự phát triển của từng môn
thể thao tập thể (môn bóng) chủ yếu bằng phương pháp xây dựng mô hình
VĐV tương ứng với nó và là mô hình của từng tuyến chơi.
Có thể khái quát một số xu thế chính phát triển các môn thể thao tập thể
trong thời gian hiện nay là:

Sự phát triển nhanh mang tính phổ cập, làm cho thể thao trở thành bộ
phận không thể thiếu trong đời sống văn hoá xã hội của con người hiện đại
[1], [6], [8], [29], [58].


14

Trong công tác huấn luyện và thi đấu đặc biệt nâng cao lượng vận động
tối đa, chú trọng các tố chất chuyên môn đặc thù, chuyên môn hoá từng cầu
thủ, chú trọng các kỹ thuật sở trường của VĐV để thích ứng nhanh với nhịp
độ thi đấu cao luôn biến đổi [2], [7], [12].
Toàn diện hoá lối chơi và chức năng của cầu thủ. Huấn luyện toàn diện
các tuyến chơi trong giai đoạn thi đấu khác nhau, chú ý chức năng thi đấu của
từng cầu thủ cùng với việc phối hợp nhuần nhuyễn với một lượng vận động
ngày càng lớn, chất lượng cao hoạt động thi đấu của toàn đội [24], [25], [27].
Sự tri thức nghệ thuật hoá lối chơi và chức năng của các cầu thủ được
đặc biệt quan tâm: VĐV phải nắm vững nhanh và chính xác diễn biến trận
đấu cùng những tình huống phát triển của nó. Có suy nghĩ độc lập, sáng tạo
ứng phó nhanh, linh hoạt phối hợp toàn đội một cách nhịp nhàng. Trong huấn
luyện phải kết hợp chặt chẽ giữa trí tuệ bẩm sinh với tiếp thu, bổ xung hình
thành nhanh các kỹ năng vận động, kinh nghiệm thi đấu của đội thông qua
các cuộc thi đấu lớn [30], [31], [32]
Nói tóm lại xu thế phát triển của các môn thể thao tập thể biểu hiện ở
tính năng động và tích cực của từng đấu thủ, chất lượng hiệu quả của các
hành động phối hợp thi đấu ăn ý của họ và uy tín phổ cập của từng môn thể
thao tập thể.
1.2. Tổng quan những đặc điểm cơ bản về kỹ thuật - chiến thuật trong thi
đấu bóng chuyền.
1.2.1. Đặc điểm về kỹ thuật.
Trong huấn luyện thể thao mặc dù với những giá trị khác nhau, song kỹ

thuật thể thao vẫn là một trong những đại lượng cơ bản để xác định thành
tích. Do đó một bộ phận chính của huấn luyện thể thao là huấn luyện kỹ thuật
thể thao, phải hướng vào sự lĩnh hội và việc nắm vững chắc chắn phần nào
thành thạo kỹ thuật thể thao.


15

Kỹ thuật là cơ sở để thực hiện các nhiệm vụ chiến thuật. Trình độ vận
dụng kỹ thuật trong mọi tình huống thi đấu liên quan chặt chẽ với trình độ thể
lực, năng lực tâm lý [11], [72], [73]. Trong bóng chuyền tính phối hợp tập thể
cao, phức tạp, kỹ thuật ứng dụng mang tính chuyên môn cao, tinh tế, như phát
bóng - chuyền - đệm - đập - chắn bóng.
Theo các tác giả Iu.N.Klesep, A.G.Airianx (1997) Kỹ thuật là tổng hợp
của các động tác chuyên môn cần thiết cho VĐV bóng chuyền để đạt thành
tích cao trong thi đấu. Trong mỗi giai đoạn phát triển, kỹ thuật là phương tiện
quan trọng để tiến hành thi đấu, tạo điều kiện giải quyết các nhiệm vụ chiến
thuật cụ thể trong các tình huống khác nhau trong khuôn khổ của luật quy
định. Để đạt được hiệu quả cao khi giải quyết các tình huống chớp nhoáng
xảy ra trong quá trình thi đấu, VĐV bóng chuyền phải nắm vững các loại kỹ
thuật và sử dụng chúng có hiệu quả trong thi đấu [30].
Theo đặc điểm tổ chức các hoạt động thì kỹ thuật thi đấu được chia
thành làm 2 loại: Kỹ thuật tấn công và kỹ thuật phòng thủ. Mỗi loại chia
thành 2 nhóm: Kỹ thuật di chuyển và kỹ thuật với bóng. Mỗi nhóm được chia
ra hàng loạt các động tác kỹ thuật: Kỹ thuật di chuyển gồm 4 loại: (tư thế
chuẩn bị, đi, chạy, nhảy); kỹ thuật tấn công gồm 3 loại (phát bóng, chuyền
nêu bóng, đập bóng); kỹ thuật phòng thủ gồm 2 loại (đỡ bóng và chắn bóng).
1.2.2. Đặc điểm về chiến thuật.
Hiện nay với trình độ thành tích thể thao cao, việc xử lý về chiến thuật
của một VĐV, một nhóm hay toàn đội trong thi đấu đã trở thành một nhân tố

xác định thành tích. Nhân tố này có thể có ý nghĩa quyết định thắng hay bại.
Theo D. Harre (1988), chiến thuật thể thao được hiểu là học thuyết chỉ
đạo cuộc đấu thể thao. Học thuyết này thể hiện trên 3 hình thức tương ứng với
các bộ môn thể thao và các môn thể thao khác nhau: Thi đấu cá nhân, thi đấu
giữa 2 người và thi đấu đồng đội [17].


16

Bóng chuyền là môn thi đấu đồng đội, chiến thuật là việc tổ chức phối
hợp của toàn đội trong thi đấu với sự giúp đỡ phối hợp của các hoạt động
mang tính chất cá nhân, nhóm và toàn đội. Mục đích hàng đầu của huấn luyện
chiến thuật là dạy cho người tập thực hiện các động tác kỹ thuật phù hợp với
các tình huống thi đấu. Trình độ điêu luyện chiến thuật của VĐV bóng chuyền
sẽ không thể có được nếu như VĐV không có sự hiểu biết về chiến thuật thi
đấu hiện đại, và lịch sử phát triển của chiến thuật. Dựa trên các nguyên tắc tổ
chức hoạt động, chiến thuật thi đấu bóng chuyền được chia thành: chiến thuật
tấn công và chiến thuật phòng thủ. Các loại chiến thuật được chia thành các
nhóm chiến thuật: chiến thuật cá nhân, chiến thuật nhóm và chiến thuật toàn
đội [43], [60], [61].
Chiến thuật tấn công: Chiến thuật tấn công và chiến thuật phòng thủ
có mối liên quan chặt chẽ với nhau. Mỗi một động tác phòng thủ cũng là một
hoạt động phản công hoặc chuẩn bị tấn công [30], [35], [43].
Chiến thuật cá nhân trong tấn công: Hoạt động chiến thuật của từng
VĐV là một phần của chiến thuật toàn đội, bao gồm: hoạt động không có
bóng và hoạt động có bóng.
Các hoạt động không bóng có liên quan tới chọn vị trí để đỡ phát
(chuyền một, chuẩn bị tấn công), chọn vị trí chuyền hai (tổ chức tấn công),
chọn vị trí đập bóng (hoàn thành tấn công), những hoạt động này ổn định kéo
dài trong suốt thời gian thi đấu nhằm thu hút đánh lừa đối phương.

Các hoạt động có bóng gồm các hoạt động chọn các cách phối hợp tấn
công, phòng thủ và áp dụng biện pháp đó có hiệu quả. VĐV có thể dùng các
cách phát bóng biến lực (đa dạng), đập bóng nhiều kiểu khác nhau... để làm
đối phương ảnh hưởng về tâm lý và rối loạn chiến thuật.
Chiến thuật nhóm trong tấn công: Là sự phối hợp của hai hoặc một số
VĐV nhằm giải quyết một phần nhiệm vụ chiến thuật của toàn đội.


17

Đội hình thi đấu trên sân của đội được bố chí thành hai hàng, các VĐV
hàng trên và các VĐV hàng dưới, phản ánh sự phối hợp của các VĐV cùng
hàng và giữa hai hàng. Nhưng sự phối hợp đó được xác định bằng số lần
chạm bóng của đội và vị trí đứng để thực hiện tấn công.
Chiến thuật toàn đội trong tấn công: Hiệu quả tấn công phụ thuộc
không chỉ vào trình độ chuẩn bị kỹ - chiến thuật cá nhân của các VĐV và
hành động chuẩn xác của người chủ công mà còn phụ thuộc vào sự thống nhất
và phối hợp ăn ý chặt chẽ của toàn đội.
Chiến thuật phòng thủ: Mục đích của chiến thuật phòng thủ là làm vô
hiệu hoá các đợt tấn công của đối phương. Nhiệm vụ chủ yếu của phòng thủ
là không để bóng rơi xuống sân đội mình và không phạm lỗi kỹ thuật, đồng
thời tìm cơ hội để tạo ra các pha bóng tấn công sang sân đối phương [35],
[43].
Chiến thuật cá nhân trong phòng thủ: Tư thế chuẩn bị, chọn vị trí để
hoạt động và các hoạt động không trực tiếp với bóng.
Chiến thuật nhóm trong phòng thủ: Là sự phối hợp hành động của một
số VĐV hoặc một số bộ phận trong các tình huống thi đấu khác nhau. Các bộ
phận liên quan được xác định bằng 3 tuyến phòng thủ: hàng chắn bóng, yểm
hộ chắn bóng và phòng thủ hàng sau.
Chiến thuật toàn đội trong phòng thủ: Chiến thuật toàn đội phòng thủ

được xác định bằng 3 tuyến (chắn bóng, yêm hộ và phòng thủ hàng sau),
được quyết định tùy thuộc vào phương án bố trí đội hình và sự phối hợp hoạt
động của các VĐV khi chắn bóng và phòng thủ đỡ đập bóng.
1.2.3. Xu hướng phát triển kỹ thuật phát bóng và chuyền bóng trong
bóng chuyền hiện đại.
Do phân hoá mạnh chuyên sâu toàn diện nhằm phát huy năng lực vận
động điều khiển vận dụng của con người, thêm cải tiến luật thi đấu ngày càng


18

hoàn chỉnh, kỹ thuật phát bóng và chuyền bóng trong bóng chuyền những
năm gần đây, nhất là sau khi luật thi đấu mới ra đời, đã hiện rõ xu hướng phát
triển theo các hướng nổi bật là phát bóng cao, chuyền bóng nhanh biến.
Phát bóng điểm chạm phát bóng tầm cao:
Trong thi đấu bóng chuyền trước đây, sau khi kỹ thuật phát bóng bổ
nghiêng mạnh ra đời, người ta đã dùng cách đối phó là chuyền bóng cao tay
đỡ bước một với các tư thế thấp lăn ngã, rồi sinh ra kỹ thuật đệm bóng bàn
tay, mu bàn tay và cổ tay nhưng không được chính thức chấp nhận vì cho đệm
bóng là kỹ thuật chuyền bóng “ngoại lai” không chính thống, không mang
tính khéo léo của bàn tay và ngón tay. Do quan niệm đơn sơ như vậy, nên kỹ
thuật đệm bóng không được nghiên cứu và phát triển. Chỉ khi bóng bay và
đập bóng mạnh cắm ra đời, đệm bóng mới được thừa nhận là kỹ thuật chính
thức với đầy đủ chức năng kỹ chiến thuật, các hệ phương pháp giảng dạy
huấn luyện cho nó. Bóng bay đã hoàn thiện kỹ thuật đệm bóng, đưa đệm bóng
thành một kỹ thuật làm kỹ thuật bóng chuyền hoàn thiện toàn diện hơn, là mặt
đối lập của phát bóng và đập bóng [28], [45], [46].
Do kỹ thuật đệm bóng được nâng cao chi tiết chuyên sâu nên đã trở
thành vũ khí tốt đối lập với tấn công phát bóng đập bóng, việc nghiên cứu đập
bóng phát bóng được đẩy mạnh. Trong thời gian dài, đệm bóng chế ngự được

uy lực phát bóng (mạnh, bay) đập bóng nên bóng chuyền đã quay lại trong
thời gian dài dùng phát bóng bảo đảm qua lưới (phát cao tay trước mặt) không
hỏng nên được điểm phải nhờ chắn bóng phòng thủ phản công. Mức đối
kháng giảm rõ trong khâu đỡ phát - tấn công sau đỡ phát, thi đấu bóng chuyền
trở nên kém hấp dẫn do kéo dài thời gian đấu.
Các chuyên gia đã tìm cách tăng uy lực phát bóng nhằm gây khó khăn
cho đệm bóng bằng cách phát triển biến hoá các loại hình phát bóng như: Phát
bóng bay cao tụt, bay là ngang lượn sóng hay rắn bò, bay rẽ ngang, bay lao


19

ngực… nhưng chưa thật thành công và kĩ thuật nhảy phát bóng cao mạnh ra
đời. Nhảy phát bóng có cấu trúc động tác giống vụt đập quần vợt, phát bóng
tiếp xúc ở tầm cao, tốc độ nhanh, phạm vi khống chế điểm rơi sân đối phương
ở hàng sau tốt, dùng sức mạnh toàn thân như đập bóng mạnh nên tính tấn
công tăng rõ và được các VĐV có thể hình cao to sức bật tốt nhất là các đội
Âu Mỹ tiếp nhận sử dụng rất nhanh. Trước đó tỷ lệ phát bóng ăn điểm trực
tiếp chỉ khoảng 1 - 2% tối đa 5%, tỉ lệ đỡ phát tốt và tổ chức tấn công sau đỡ
phát thành công tới 70%, dẫn đến chiến thuật tấn công của quá trình phát - đỡ
phát đa dạng (nhất là hàng sau đan lên) với mức thành công 45% (phản công
đạt 15%), với nữ trên 30% và phản công khoảng 20%. Các đội Châu Á, đặc
biệt là nữ trong thời kỳ này đã phát huy hết mức đệm bóng tổ chức chiến
thuật tấn công sau đỡ phát rất thành công nên đã giữ chức vô địch thế giới
nhiều lần trước các đội Âu Mỹ [44], [56].
Do uy lực phát bóng giảm nên tăng hiệu quả tấn công của giai đoạn
phát - đỡ phát tấn công, gánh nặng của thi đấu đối kháng rơi vào quá trình
phòng thủ chắn bóng phản công rõ nhất là quá trình chắn bóng - phòng thủ
phản công sau tấn công sau đỡ phát. Mức đối kháng căng thẳng nhất là chắn
bóng - phòng thủ đỡ đập, tỉ lệ chắn bóng thấp, tỉ lệ phòng thủ đỡ đập càng

thấp hơn. Vì thế phần lớn yếu tố tổ chức phản công phải bằng hình thức chiến
thuật đơn giản điển hình là điều chỉnh phản công. Đối với các đội nam trình
độ cao trên thế giới thường chỉ đạt 30% thành công trong chắn bóng, còn đội
nữ thường chỉ đạt 20%.
Ngay khi thi đấu theo luật mới, do sợ phát hỏng mất điểm nên xảy ra
hiện tượng tương tự phát kém uy lực - đỡ phát tốt - tấn công sau đỡ phát đa
dạng và gánh nặng rơi vào chắn bóng phòng thủ của phản công. Theo thống
kê, các đội nam nữ mạnh của ta thì chắn bóng phòng thủ phản công ít thành
công nên thi đấu xảy ra hiện tượng “ăn nhát một”, bên phát bóng ít được


20

điểm, bên đỡ phát lại tấn công ăn điểm giành lại quyền phát bóng khá dễ
dàng.
Các đội nam nữ phương đông do thể hình tương đối thấp linh hoạt
trong tấn công sau đỡ phát nhất là khi uy lực phát tấn công cao cho nên hiệu
quả của giai đoạn này giảm, khó tổ chức tấn công biến hoá đa dạng ảnh
hưởng kết quả thi đấu. Rõ ràng để đối phó với nhảy phát bóng cao mạnh cũng
như các biến hoá của nó phải “cắt” ngay, nếu không sẽ bị đối phương dẫn
điểm.
Vũ khí nhảy phát bóng của VĐV cao to có sức bật tốt sức mạnh lớn
chứng tỏ uy lực tấn công lớn, ép ghìm đối phương ngay từ đầu, không cho đối
phương tổ chức tấn công biến hoá ngay sau đỡ phát. Điều đó không chỉ gây
khó khăn cho các đội Châu Á mà ngay các đội Âu Mỹ cũng gặp khó khăn về
đỡ phát tấn công. Tăng tầm cao khi phát bóng, làm đối phương khó đỡ phát
phá chuyền bước 1 cao hơn, nhằm áp đảo đối phương giành chủ động từ đầu.
Các kỹ thuật nhảy phát quạt chém bổ bóng, phát bay và mạnh, phát cắm và là
là ngang làm nhảy phát biến hoá hơn. Do chiều cao đứng VĐV tăng nhanh
gần như bóng rổ, sức bật cao, lực tay lớn, tốc độ vung tay nhanh nên đúng là

nhảy phát bóng rất “khó chịu”, được ứng dụng rộng trong bóng chuyền hiện
đại. Đội nữ Cu Ba có Luis, Margarita, Mosai (Braxin) Carol (Mỹ)
Artamonova (Nga) Gui Yongmei (Trung Quốc)… nhảy phát uy lực với tầm
chạm bóng khoảng 300cm. Với nam bật với trung bình khoảng 350 - 360 cm
(cao nhất 372 cm), tầm chạm bóng phát cao nên nhảy phát bóng thường rơi ở
cuối sân khoảng 200cm, độ rơi phủ khá kín hàng sau… Nhảy phát bóng từ
cao xuống với biến hoá của nó, tốc độ bóng nhanh (cao nhất khoảng 30 32m/s, tức 108 - 115km/g) nên kỹ thuật phát bóng đó là yếu tố thúc đẩy giành
điểm trong thi đấu. Ở Thế vận hội lần thứ 25, trận đấu giữa nam Braxin - Hà
lan, Braxin dùng nhảy phát mạnh được 11 điểm giúp đội giành chức vô địch


21

Thế vận hội. Các đội Âu Mỹ cao to nhưng chỉ những ai nhảy phát bóng đạt
tốc độ khoảng 30m/s trở lên mới được nhảy phát [44], [54], [56].
Nhiều đội Châu Á, vì không nghiên cứu kỹ phát bóng trong thi đấu
theo luật mới, sợ hỏng ngay từ phát bóng đối phương được điểm ngay nên đã
chọn phát bảo đảm không hỏng và trông chờ vào “may rủi” của chắn bóng
phản công. Nên quan niệm đó không hoàn toàn đúng vì không phát huy được
uy lực tấn công phát bóng, không chủ động tấn công ngay từ đầu. Lại thêm do
ít dùng nhảy phát nên không tập được đỡ nhảy phát bóng do đó khó thành
công.
Việc mở rộng khu phát bóng đến hết 9m biên ngang từ ngày
01/01/1995 đã tạo điều kiện cho biến hoá phát bóng điểm đường, góc, xa gần
dẫn đến tầm khống chế nhảy phát rộng hơn. Lợi dụng ưu thế chiều dài chiều
rộng của sân… để tận dụng không gian phát theo dọc sân chéo sân, bóng
mạnh nhẹ, nhanh chậm độ vòng, xa gần lưới, phát khu, phát người, phát điểm
cần được nghiên cứu kỹ.
Luật thi đấu mới đã tạo điều kiện cho nâng cao uy lực tấn công trong
phát bóng, do đó đi trước một bước trong vấn đề này sẽ mở đầu cho giành ưu

thế để giành chiến thắng trận đấu [28], [46].
Chuyền bóng nhanh biến:
Chuyền bóng nhanh chỉ kỹ thuật chuyền bóng cao tay, kỹ thuật này
ngày càng tăng tốc độ. Chuyền bóng là kỹ thuật lâu đời nhất từ lúc có bóng
chuyền, đây là kỹ thuật cơ bản quan trọng nhất, là phương tiện tổ chức bắc
cầu nối liền tấn công và phản công hạt nhân của tổ chức tấn công. Kỹ thuật
chuyền bóng cao tay thể hiện năng lực linh hoạt biến hoá cao nhất của con
người, điều khiển bóng theo góc độ, tầm, độ vòng, điểm rơi góc độ theo tính
thời gian, tính không gian và tính không - thời gian. Chỉ tính tiếp xúc bóng
với các hình tay có bàn tay, ngón tay, nắm đấm, bàn tay mở, bàn tay chụm với


22

động tác như gõ, đẩy, chọc, vạt, quạt, úp, vẩy, mổ quay, đập, móc, củng,
chém… [46], [54], [56].
Chiến thuật chuyền bóng là nhân tố quyết định thành bại tấn công trận
đấu. Trong nhiều năm, mục đích chiến thuật bóng chuyền là phát huy sức
mạnh tổng hợp các kỹ thuật, trong đó người nêu bóng luôn giữ vai trò người
lãnh đạo phát động tổ chức chiến thuật, điều chỉnh nhịp độ trận đấu về tốc độ,
diện, cánh, điểm tấn công. Tất cả các đội đều cần người nêu có kỹ thuật điêu
luyện, động tác kín đáo, khống chế bóng tốt, phân bóng hợp lý, năng lực biến
hoá linh hoạt ứng biến rất cao, tốc độ chuyền bóng ra tay khống chế tốt luôn
nhanh biến. Người nêu hiện đại không chỉ giỏi về đứng nêu, di động nêu, mà
còn nhảy nêu 1 hay 2 tay hoãn xung bóng hợp lý tăng giảm thời gian chuyền
bóng 0,1 - 0,2 giây (dùng tăng giảm độ nảy của ngón tay cổ tay), tăng hay hạ
thấp điểm tiếp súc bóng, linh hoạt úp ngửa bàn tay, đứng ngang hay nghiêng
hoặc úp mặt vào lưới… che động tác ra tay… người nêu chuyền vào lưới, xa
lưới hay ra hàng sau, song song hay chéo lưới bóng nhanh với độ vòng tương
đối thấp tăng tốc độ rút ngắn thời gian bóng trên không biến đổi nhịp độ tấn

công. Theo thống kê, thời gian từ lúc bóng chạm tay đến khi bóng rời tay
thường là 0,075s. Nếu dùng hình tay hai ngón cái ngang đối nhau thì thời gian
bóng trong tay là 0,073s, còn dùng hình tay ngón chọc trước thì thời gian trên
là 0,0775s. Thời gian từ lúc bóng rời tay đến khi đập chạm bóng cần 0,3s, với
lao ngắn 0,35s, lao tên bắn biên 0,8s, nêu cho đập 1 chân lao bay sau cần
0,53s. Cầu thủ Orbeira đội Braxin từ số 1 lướt ra sau tấn công mất thời gian từ
nêu đến đập 0,8s; cầu thủ Phuore đội Pháp đập hàng sau lao dãn biên ở khu số
5 mất thời gian từ nêu đến đập 1s đến 1,1s; cầu thủ Buveir đập chồng sau ở
khu số 6 mất 0,8s, nên xét tổng quát, chạy đập hàng sau mất thời gian cơ bản
không khác hàng trước khi tấn công, tức là tấn công hàng trước hay hàng sau
với bóng nêu của người chuyền hai tương đối thấp tốc độ nhanh để tăng tốc


23

tranh thủ thời gian đột phá hàng chắn bóng đối phương hiệu quả hơn [28],
[44].
1.2.4. Đặc điểm chuyên môn hoá vị trí trong huấn luyện và thi đấu.
Căn cứ vào đặc điểm, nhiệm vụ và luật thi đấu, các chuyên gia bóng
chuyền chia chức năng của các cầu thủ thi đấu trên sân thành: VĐV tấn công
(nhịp thứ nhất và nhịp thứ hai), VĐV chuyền hai và VĐV phòng thủ tự do
(Libero) Iu.N.Klesep - A.G.Airianx (1997) [30].
VĐV tấn công “nhịp thứ nhất”: Chính là các VĐV tấn công bảo đảm,
ổn định và hiệu quả. Thường thường các VĐV này đập bóng với đường
chuyền hai thấp. VĐV tấn công “nhịp thứ nhất” thường thực hiện chức năng
chắn bóng chính. Khi chắn bóng đơn, VĐV này hoạt động như các VĐV
khác, thực hiện theo nhiệm vụ đã phân công, bám chắn các VĐV cụ thể của
đối phương.
Chức năng của VĐV “nhịp thứ nhất” được mở rộng trước hết nhờ vào
sự đa dạng của đập bóng từ các đường chuyền hai khác nhau ở các vị trí, cũng

như việc nâng cao đáng kể trình độ tập luyện của VĐV.
VĐV tấn công “nhịp thứ hai”: Phải đạt trình độ huấn luyện tổng hợp và
có thể lực toàn diện, linh hoạt, khả năng định hướng nhanh, tư duy chiến thuật
sắc bén. VĐV này phải nắm vững các phương pháp tấn công ở tất cả các vị trí
trong những tình huống phối hợp chiến thuật phức tạp.
Trong khi chắn bóng, VĐV “nhịp thứ hai” đảm nhiệm chắn bóng phụ
“biên” hoặc chắn bóng ở giữa “chính”. Chức năng của VĐV “nhịp thứ hai”
được mở rộng cùng với sự hoàn thiện các hành động tấn công và phòng thủ
của toàn đội.
VĐV chuyền hai (người nêu chính): Là người tổ chức phối hợp chiến
thuật toàn đội, nhất là trong tấn công, là người có trình độ kỹ thuật toàn diện,
đặc biệt là có khả năng chuyền hai chính xác biến hóa trong mọi tình huống.


24

Các khả năng chuyên biệt của VĐV chuyền hai bao gồm: Khả năng phán
đoán, quan sát( đối phương và đồng đội), bình tĩnh, khả năng định hướng
nhanh tình huống trong thi đấu, khả năng của thị giác ngoại biên rộng. VĐV
chuyền hai giỏi được gọi là người tổ chức đấu pháp của trận đấu.
Những nhiệm vụ của người chuyền hai trong tấn công là: Phải chuyền
chuẩn để đập được vào vị trí phối hợp chiến thuật tấn công đơn giản hoặc
phức tạp, trên cơ sở tính toán đến các đặc điểm của từng VĐV đập bóng và sự
bố trí các cầu thủ chắn bóng của đối phương, biết di chuyển hợp lý từ hàng
sau lên (từ mọi vị trí) để tổ chức tấn công không chỉ sau khi đỡ phát bóng mà
còn cả trong diễn biến trận đấu, biết chủ động sáng tạo tổ chức phản công.
Trong hoạt động phòng thủ VĐV chuyền hai phải thực hiện các nhiệm
vụ sau: Phải thông thạo chắn bóng đơn và chắn bóng tập thể, linh hoạt nhanh
nhẹn thực hiện yểm hộ và đỡ đập bóng của cầu thủ đối phương, khi ở hàng
sau cần phải chọn cho mình một khu vực hoạt động rộng, phòng thủ chuẩn

xác, giữ vững tinh thần thi đấu của đội.
VĐV phòng thủ tự do (Libero): Do sự phát triển của bóng chuyền, với
thay đổi của luật một đột bóng có thể sử dụng 2 vận động viên Libero với
chức năng là vận động viên phòng thủ tự do ở hàng sau, không được tham gia
các hoạt động đập bóng cao hơn mép trên của lưới, phát bóng và chuyền hai
cho đồng đội đánh bóng tấn công ở khu vực phía trước.
Trong hoạt động thi đấu vận động viên Libero phải thực hiện các nhiệm
vụ: Đỡ chuyền một, Phòng thủ đỡ đập bóng của cầu thủ đối phương và yểm
hộ. Để thực hiện tốt các nhiệm vụ của mình đòi hỏi vận động viên Libero phải
có khả năng di chuyển nhanh nhẹn, khả năng phán đoán chính xác, phản xạ
tốt và trình độ về kỹ thuật phòng thủ điêu luyện.
1.3. Khái quát về kỹ thuật nhảy phát bóng và nhảy chuyền bóng.
1.3.1. Khái quát về kỹ thuật nhảy phát bóng.


25

Nhảy phát bóng là một kỹ thuật cơ bản của bóng chuyền, là khâu đầu
tiên của việc thực hiện hệ thống chiến thuật tấn công, đóng vai trò quyết định
giành thắng lợi trong thi đấu, là kỹ thuật sau khi thực hiện hướng bóng đi,
điểm rơi gần trùng với hướng vào đà và chiều gập cơ thể của người phát
bóng, với động tác thân người, mặt VĐV hướng vào lưới, để quan sát đối
phương đảm bảo tính chuẩn xác. Đập bóng trước mặt theo phương lấy đà là
cơ sở phát triển các kỹ thuật đập bóng biến hoá khác. Nhảy phát bóng theo
phương lấy đà có những giai đoạn sau: [22], [30], [78], [79], [83], [84]
Giai đoạn tư thế chuẩn bị: Người nhảy phát bóng đứng cách vạch cuối
sân khoảng 3m, ở tư thế cao, chân trước, chân sau, hai chân ở trạng thái tĩnh
tại chỗ, sẵn sàng xuất phát và điều chỉnh bước đà, mắt quan sát bóng để xác
định vị trí và chọn thời điểm vào đà, dậm nhảy thích hợp, thân trên hơi gập,
tay thuận cầm bóng, tay không thuận co tự nhiên.

Giai đoạn vào đà: Khi tung bóng xong, phán đoán đúng, xác định thời
gian và điểm rơi của bóng thì lập tức vào đà. Cần căn cứ vào tốc độ, độ cao và
cự ly đường bóng tung để xác định thời điểm vào đà thích hợp. Góc độ vào đà
tốt nhất là 90. Góc độ vào đà là góc tạo bởi đường chạy đà với đường giữa
sân, số bước vào đà có thể là một, hai, ba bước hoặc nhiều hơn tuỳ theo tình
huống, chủ yếu là cự ly giữa người và điểm rơi của bóng. Khi vào đà người
nhảy phát bóng chạy tự nhiên thoải mái, mắt quan sát bóng, tốc độ vào đà
nhanh dần, hạ thấp trọng tâm thân người, bước cuối cùng nhanh và dài nhất,
trọng tâm hạ thấp so với hai bước đầu. Khi chân dậm nhảy chuẩn bị đặt vào vị
trí dậm nhảy thì hai tay phối hợp nhịp nhàng vung chéo sang ngang ra sau,
cùng lúc hai chân dậm nhảy đặt tới vị trí dậm nhảy, đầu gối khuỵu, hạ thấp
trọng tâm, làm tăng sức khống chế để bật nhảy thuận lợi.
Giai đoạn bật nhảy: Từ tư thế kết thúc ở bước cuối cùng vào đà, hai tay
chuyển động xuống dưới ra trước, chân sau co về vị trí dậm nhảy, lúc này thân


×