Tải bản đầy đủ (.pdf) (242 trang)

Luận văn XD tiêu chuẩn đánh giá trình độ tập luyện của vận độngviên các môn TT hoạt động có chu kỳ lứa tuổi 15 đến 17 tại thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.17 MB, 242 trang )

0

MỤC LỤC
Danh mục chữ viết tắt thông thường.............................................................................
Danh mục chữ viết tắt y sinh.........................................................................................
ĐẶT VẤN ĐỀ................................................................................................................
Chương 1.....................................................................................................................
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU...............................................
1.1. Trình độ tập luyện..................................................................................13
1.2. Đánh giá trình độ tập luyện...................................................................24
1.3. Tố chất thể lực.......................................................................................26
1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến TĐTL của VĐV bơi và điền kinh...............31
1.5. Những yếu tố ảnh hưởng đến sức bền trong bơi và điền kinh...............33
1.6. Huấn luyện thể thao...............................................................................46
1.7. Các công trình nghiên cứu liên quan.....................................................52
Chương 2.....................................................................................................................
ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP VÀ TỔ CHỨC NGHIÊN CỨU.............................
2.1. Đối tượng nghiên cứu...............................................................................
2.2. Phương pháp nghiên cứu..........................................................................
2.2.1. Phương pháp tổng hợp và phân tích tài liệu......................................64
2.2.2. Phương pháp phỏng vấn.....................................................................65
2.2.3. Phương pháp quan sát sư phạm.........................................................65
2.2.4. Phương pháp kiểm tra y học...............................................................65
2.2.5. Phương pháp kiểm tra sư phạm..........................................................72
2.2.6. Phương pháp thực nghiệm sư phạm...................................................80
2.2.7. Phương pháp toán học thống kê.........................................................80
2.3. Tổ chức nghiên cứu..................................................................................
Chương 3.....................................................................................................................
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN..............................................................
3.1. Đánh giá thực trạng và xây dựng tiêu chuẩn đánh giá trình độ tập luyện
của VĐV bơi, chạy CLTB tỉnh Thanh Hóa lứa tuổi 15-17..............................




1

3.1.1. Lựa chọn các chỉ tiêu, các test đánh giá trình độ tập luyện của
VĐV bơi, chạy cự ly trung bình tỉnh Thanh Hóa lứa tuổi 15-17..................84
3.1.2. Thực trạng hình thái, chức năng chức năng sinh lý của VĐV bơi,
chạy cự ly trung bình tỉnh Thanh Hóa lứa tuổi 15-17..................................99
3.1.3. Thực trạng tố chất thể lực của VĐV bơi, chạy CLTB tỉnh Thanh Hóa
lứa tuổi 15-17. (trình bày ở bảng 3.9)...........................................................105
3.1.4. Xây dựng tiêu chuẩn đánh giá TĐTL (sư phạm) VĐV bơi, chạy
CLTB tỉnh Thanh Hóa lứa tuổi 15-17, giai đoạn chuyên môn hóa............111
3.1.5. Xây dựng bảng điểm đánh giá tổng hợp TĐTL của VĐV bơi, chạy
CLTB tỉnh Thanh Hóa lứa tuổi 15-17, giai đoạn chuyên môn hóa...........119
3.2. Kiểm nghiệm đánh giá tăng trưởng TĐTL VĐV bơi, chạy CLTB tỉnh
Thanh Hóa lứa tuổi 15-17, giai đoạn chuyên môn hóa..................................137
3.2.1. Cơ sở lý luận xây dựng nội dung huấn luyện bơi, chạy CLTB.........137
3.2.2. Cấu trúc nội dung huấn luyện đối với bơi CLTB.............................147
3.2.3. Cấu trúc nội dung huấn luyện đối với chạy CLTB...........................152
3.2.5. Kết quả sau thực nghiệm..................................................................165
Kết luận chương 3:.....................................................................................................190
KẾT LUẬN - KIẾN NGHỊ.......................................................................................192
Kết luận:.........................................................................................................192
Kiến nghị :.....................................................................................................193
TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................................194
PHỤ LỤC..................................................................................................................204


2


Danh mục chữ viết tắt thông thường
STT

Từ viết tắt

1
2
3
4
5
6
7
8
9

CLTB
ĐDB
ĐK
HCB
HCV
HLTT
HLV
Nxb
SBTĐ

10

SEA Games

11

12
13
14
15
16
17
18
19
20

SMB
TDTT
TĐTL

TĐTB
THPT
TTTT
TSB
VĐV
Xpc

Viết đầy đủ
Cự ly trung bình
Đô ô dài bước
Điền kinh
Huy chương bạc
Huy chương vàng
Huấn luyê ôn thể thao
Huấn luyê ôn viên
Nhà xuất bản

Sức bền tốc đô ô
Southeast Asian Games (Đại hội Thể
thao Đông Nam Á)
Sức mạnh bâ ôt
Thể dục thể thao
Trình đô ô tâ ôp luyê ôn
Tốc đô ô
Tốc đô ô trung bình
Trung học phổ thông
Thành tích thể thao
Tần số bước
Vâ ôn đô ông viên
Xuất phát cao


3

Danh mục chữ viết tắt y sinh
STT

Từ viết tắt

Tên đầy đủ tiếng Anh

Tên tiếng Viê ôt

1

ATP


Adenozin Triphosphate

2

ADP

Adenozin Diphosphate

3

AT4

Acid lactic threshold

4

DTS

5

CO2

Carbon dioxide

6

CP

Creatine Phosphate


7

CNT

Heart work (HW)

Công năng tim

8

FT

Fast twitch

Sợi cơ co nhanh

9

HA

10

HR

Heart Rate

Tần số nhịp tim

11


LA

Lactic acide

Axit lactic (AL)

12

O2

Oxy

13

PWC170

Physical Working Capacity

14

ST

15

VAnT

16

VO2max


Slow twitch
VelocityAnaerobic
Threshold
Volume oxy maximum
uptake

Ngưỡng axit lactic 4
mmol/lít
Dung tích sống
Khí các bô nic

Huyết áp

Sợi cơ co châ ôm
Ngưỡng yếm khí tốc đô ô
Thể tích oxy hấp thụ tối đa


4

DANH MỤC BẢNG TRONG LUẬN ÁN
Thể
loại

Số

Bảng
3.1

3.2

3.3

Nội dung

Kiểm định lựa chọn test đánh giá thực trạng TĐTL về hình thái
chức năng, tố chất thể lực VĐV bơi CLTB tỉnh Thanh Hóa lứa
tuổi 15-17 (n =23)
Kiểm định lựa chọn test đánh giá thực trạng TĐTL về hình thái
chức năng, tố chất thể lực VĐV chạy CLTB tỉnh Thanh Hóa lứa
tuổi 15-17 (n =23)
Độ tin cậy các test đánh giá TĐTL VĐV bơi cự ly trung bình
tỉnh Thanh Hóa lứa tuổi 15-17

Sau
trang

90

91
96

3.4

Độ tin cậy các test đánh giá TĐTL VĐV chạy cự ly trung bình
tỉnh Thanh Hóa lứa tuổi 15-17

97

3.5


Tính thông báo các test đánh giá TĐTL (sư phạm) TĐTL VĐV
bơi cự ly trung bình tỉnh Thanh Hóa lứa tuổi 15-17

99

3.6
3.7
3.8
3.9
3.10
3.11
3.12
3.13

Tính thông báo các test đánh giá TĐTL (sư phạm) TĐTL VĐV
chạy cự ly trung bình tỉnh Thanh Hóa lứa tuổi 15-17
Thực trạng hình thái chức năng sinh lý VĐV bơi cự ly trung
bình tỉnh Thanh Hóa lứa tuổi 15-17
Thực trạng hình thái chức năng sinh lý VĐV chạy cự ly trung
bình tỉnh Thanh Hóa lứa tuổi 15-17
Thực trạng tố chất thể lực VĐV bơi cự ly trung bình tỉnh Thanh
Hóa lứa tuổi 15-17
Thực trạng tố chất thể lực VĐV chạy cự ly trung bình tỉnh
Thanh Hóa lứa tuổi 15-17
Kiểm định phân phối chuẩn Shapyro-Winky các test của VĐV
bơi CLTB tỉnh Thanh Hóa lứa tuổi 15-17.
Kiểm định phân phối chuẩn Shapyro-Winky các test của VĐV
chạy CLTB tỉnh Thanh Hóa lứa tuổi 15-17
Tiêu chuẩn phân loại các chỉ tiêu đánh giá TĐTL (sư phạm)
VĐV bơi CLTB tỉnh Thanh Hóa 15-17 tuổi - Nam.


100
101
102
106
109
113
114
115


5

Thể
loại

Số

3.14
3.15
3.16
3.17
3.18

3.19
3.20
3.21
3.22
3.23
3.24

3.25
3.26
3.27
3.28

Nội dung

Tiêu chuẩn phân loại các chỉ tiêu đánh giá TĐTL (sư phạm)
VĐV bơi CLTB tỉnh Thanh Hóa lứa tuổi 15-17 - Nữ
Tiêu chuẩn phân loại các chỉ tiêu đánh giá TĐTL (sư phạm)
VĐV chạy CLTB tỉnh Thanh Hóa lứa tuổi 15-17 - Nam
Tiêu chuẩn phân loại các chỉ tiêu đánh giá TĐTL (sư phạm)
VĐV chạy CLTB tỉnh Thanh Hóa lứa tuổi 15-17 - Nữ.
Hệ số tương quan giữa các yếu tố thành phần với thành tích bơi
CLTB của VĐV bơi VĐV bơi cự ly trung bình tỉnh Thanh Hóa
lứa tuổi 15-17.
Hệ số tương quan giữa các yếu tố thành phần với thành tích bơi
CLTB của VĐV chạy cự ly trung bình tỉnh Thanh Hóa lứa tuổi
15-17.
Tỷ trọng ảnh hưởng các test chuyên môn với thành tích bơi
CLTB của VĐV tỉnh Thanh Hóa lứa tuổi 15-17.
Tỷ trọng ảnh hưởng các test chuyên môn với thành tích chạy
CLTB của VĐV tỉnh Thanh Hóa lứa tuổi 15-17.
Bảng điểm các chỉ tiêu đánh giá TĐTL (các test chuyên môn)
VĐV bơi CLTB tỉnh Thanh Hóa lứa tuổi 15-17 - Nam.
Bảng điểm các chỉ tiêu đánh giá TĐTL (các test chuyên môn)
VĐV bơi CLTB tỉnh Thanh Hóa lứa tuổi 15-17 - Nữ.
Bảng điểm các chỉ tiêu đánh giá TĐTL (các test chuyên môn)
VĐV chạy CLTB tỉnh Thanh Hóa 15-17 tuổi - Nam.
Bảng điểm các chỉ tiêu đánh giá TĐTL (các test chuyên môn)

VĐV chạy CLTB tỉnh Thanh Hóa lứa tuổi 15-1 - Nữ.
Bảng điểm tổng hợp đánh giá TĐTL (sư phạm) VĐV bơi CLTB
tỉnh Thanh Hóa lứa tuổi 5-17 .
Bảng điểm tổng hợp đánh giá TĐTL (sư phạm) VĐV chạy
CLTB tỉnh Thanh Hóa lứa tuổi 15-17.
Cấu trúc nội dung huấn luyện VĐV bơi CLTB tỉnh Thanh
Hóa lứa tuổi 15-17, giai đoạn chuyên môn hóa
Cấu trúc nội dung huấn luyện VĐV chạy CLTB tỉnh Thanh
Hóa lứa tuổi 15-17, giai đoạn chuyên môn hóa

Sau
trang

116
117
118
120

121
121
121
123
123
124
124
125
125
161
163



6

Thể
loại

Số

3.29
3.30
3.31
3.32
3.33
3.34
3.35
3.36

Nội dung

Tăng trưởng về hình thái, chức năng sinh lý VĐV bơi CLTB
tỉnh Thanh Hóa 15-17 tuổi.
Tăng trưởng về hình thái, chức năng sinh lý VĐV chạy CLTB
tỉnh Thanh Hóa lứa tuổi 15-17.
Tăng trưởng TĐTL (sư phạm) VĐV bơi CLTB tỉnh Thanh Hóa
15-17 lứa tuổi - Nam
Tăng trưởng TĐTL (sư phạm) VĐV bơi CLTB tỉnh Thanh Hóa
lứa tuổi 15-17 - Nữ
Tăng trưởng TĐTL (sư phạm) VĐV chạy CLTB tỉnh Thanh
Hóa lứa tuổi 15-17 - Nam
Tăng trưởng TĐTL (sư phạm) VĐV chạy CLTB tỉnh Thanh

Hóa lứa tuổi 15-17 - Nữ
Bảng tổng hợp đánh giá TĐTL (sư phạm) VĐV bơi CLTB tỉnh
Thanh Hóa lứa tuổi 15-17, giai đoạn chuyên môn hóa
Bảng tổng hợp đánh giá TĐTL (sư phạm) VĐV chạy CLTB
tỉnh Thanh Hóa lứa tuổi 15-17, giai đoạn chuyên môn hóa

Sau
trang

166
167
168
169
170
171
178
179


7

DANH MỤC BIỂU TRONG LUẬN ÁN
Thể
loại

Số

Biểu
đồ


3.1
3.2
3.3

Nội dung

Tăng trưởng một số chỉ tiêu chức năng sinh lí VĐV bơi
CLTB tỉnh Thanh Hóa lứa tuổi 15-17 - Nam
Tăng trưởng một số chỉ tiêu chức năng sinh lí VĐV bơi
CLTB tỉnh Thanh Hóa lứa tuổi 15-17 - Nữ
Tăng trưởng một số chỉ tiêu chức năng sinh lí VĐV chạy
CLTB tỉnh Thanh Hóa lứa tuổi 15-17 - Nam

Sau
trang

172
172
173

3.4

Tăng trưởng một số chỉ tiêu chức năng sinh lí VĐV chạy
CLTB tỉnh Thanh Hóa lứa tuổi 15-17 - Nữ

173

3.5

Tăng trưởng TĐTL (sư phạm) VĐV bơi CLTB tỉnh Thanh

Hóa lứa tuổi 15-17 - Nam

174

3.6

Tăng trưởng TĐTL (sư phạm) VĐV bơi CLTB tỉnh Thanh
Hóalứa tuổi 15-17 - Nữ

174

3.7

Tăng trưởng TĐTL (sư phạm) VĐV chạy CLTB tỉnh Thanh
Hóa lứa tuổi 15-17 - Nam

175

3.8

Tăng trưởng TĐTL (sư phạm) VĐV chạy CLTB tỉnh Thanh
Hóa lứa tuổi 15-17 - Nữ

175

3.9

Tổng hợp đánh giá TĐTL (sư phạm) VĐV bơi CLTB tỉnh
Thanh Hóa lứa tuổi 15-17 - Nam


176

3.10

Tổng hợp đánh giá TĐTL (sư phạm) VĐV bơi CLTB tỉnh
Thanh Hóa lứa tuổi 15-17 - Nữ

176

3.11

Tổng hợp đánh giá TĐTL (sư phạm) VĐV chạy CLTB tỉnh
Thanh Hóa lứa tuổi 15-17 - Nam

180

3.12

Tổng hợp đánh giá TĐTL (sư phạm) VĐV chạy CLTB tỉnh
Thanh Hóa lứa tuổi 15-17 - Nữ

180


8

ĐẶT VẤN ĐỀ
Trình độ tập luyện (TĐTL) là một phức hợp gồm nhiều thành tố: Hình
thái, y - sinh, tâm lý, kỹ thuật, chiến thuật, thể lực, ngày càng được nâng cao
nhờ ảnh hưởng trực tiếp, lâu dài của lượng vận động (LVĐ) tập luyện và thi

đấu cũng như các liệu pháp hỗ trợ ngoại sinh khác. Trong quy trình đào tạo
vận động viên (VĐV) thể thao đỉnh cao, việc đánh giá TĐTL của VĐV theo
tuổi, giới tính và môn thể thao chuyên sâu rất có ý nghĩa về mặt thực tiễn và
lý luận, đặc biệt trong tuyển chọn và đào tạo VĐV trẻ [1],[5],[7].
Như vậy, quan niệm khoa học về TĐTL là rất phong phú, đa dạng được
nhìn nhận dưới nhiều góc độ khác nhau, nhưng đều thống nhất ở chỗ nó được
hình thành, phát triển và nâng cao dưới tác động của LVĐ. Do đó, TĐTL là
năng lực thích ứng của cơ thể đối với lượng vận động tập luyện nhờ quá trình
huấn luyện có hệ thống.
Do tác động có chủ đích của LVĐ nên trong cơ thể VĐV đã xảy ra các
biến đổi sinh học. Sự tác động có hệ thống sẽ dẫn đến những thích ứng nâng
cao năng lực làm việc của các cơ quan trong cơ thể, cải thiện năng lực điều
khiển của hệ thần kinh đối với hệ điều tiết của hệ vận động, các cơ quan và tổ
chức. Những thích ứng đó thể hiện ở trình độ phát triển tổng hợp về kỹ thuật,
chiến thuật, các tố chất thể lực (TCTL), năng lực trí tuệ và các yếu tố khác.
VĐV có thành tích thể thao (TTTT) càng tốt thì TĐTL càng cao, năng lực thể
thao càng cao thì thành tích thể thao càng tốt. Vì vậy, hiểu đúng về TĐTL của
VĐV có ý nghĩa quan trọng trong việc điều khiển và điều chỉnh quá trình
huấn luyện một cách khoa học, phát huy tính tích cực, tự giác tập luyện nâng
cao hiệu quả trong công tác huấn luyện [4],[10],[11],[18],[19].
Kiểm tra đánh giá TĐTL và đề ra phương pháp huấn luyện phù hợp,
khoa học để nâng cao TĐTL của VĐV được đánh giá là rất quan trọng, đã


9

sớm được các nhà khoa học TDTT của nước ta du nhập và tập trung nghiên
cứu. Các công trình nghiên cứu đã xây dựng được các tiêu chuẩn đánh giá
riêng lẻ hoặc tổng hợp trình độ tập luyện (TĐTL) của VĐV các môn thể thao
khác nhau [3],[21],[56].

Tuy vậy, nghiêm túc nhìn nhận việc xây dựng tiêu chuẩn đánh giá
TĐTL của vận động viên (VĐV) các môn thể thao ở nước ta còn một số tồn
tại cơ bản đó là: Công tác nghiên cứu về lý luận và phương pháp kiểm tra
đánh giá TĐTL ở nước ta còn thiếu, việc xây dựng tiêu chuẩn đánh giá TĐTL
các môn thể thao chưa sâu; Các tiêu chuẩn đánh giá xây dựng chưa đồng bộ
cho các nhóm tuổi và các giai đoạn huấn luyện; Một số tiêu chuẩn đánh giá
còn chưa phù hợp hoặc tụt hậu và thiếu tính thực tiễn; Nghiên cứu ứng dụng
các tiêu chuẩn đánh giá TĐTL còn chưa rộng rãi ở các đối tượng tập
luyện[39],[75].
Hai môn Bơi lội và Điền kinh là những môn thể thao cơ bản và quan
trọng trong chương trình thi đấu của các kỳ Đại hội thể thao Olympic và các
giải quốc tế. Trong thời gian qua, trên đấu trường quốc tế thành tích của bơi
lội và điền kinh nước ta không ngừng tăng lên. Đặc biệt tại SEA Games 282015 Sinhgapore thành tích của VĐV Nguyễn Thị Ánh Viên, Hoàng Quý
Phước (môn Bơi) và Nguyễn Thị Huyền (Điền kinh)…được xem là hiện
tượng và đã tỏa sáng ghi đậm nét trong lịch sử thể thao nước nhà.
Ngày nay, các cuộc tranh tài ở các môn thể thao nói chung, trong đó bơi
và điền kinh nói riêng ngày càng quyết liệt. Các kỷ lục thế giới của bơi lô ôi và
điền kinh liên tiếp bị phá vỡ và nhiều kỷ lục mới được thiết lập trong các kỳ
Đại hô iô Olympic, các giải đấu thế giới, châu lục và khu vực. Để đạt được
những thành tích, kỷ lục quý giá thì công tác đào tạo VĐV đòi hỏi phải hết
sức bài bản, khoa học hay nói cách khác là phải đưa và ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến vào tuyển chọn, đào tạo và huấn luyện thể thao.


10

Ở các nước tiên tiến trong những thập niên gần đây, công tác đào tạo
VĐV không chỉ dựa vào yếu tố sẵn có của bẩm sinh, di truyền, năng khiếu và
cũng không đơn thuần chỉ dựa vào yếu tố khổ luyện của VĐV, mà huấn luyện
thể thao phải là sự kết hợp chặt chẽ giữa sự khổ luyện với khoa học-công
nghệ tiên tiến [25],[28],[31].

Để tạo dựng cơ sở khoa học cho định hướng và chuẩn hóa quy trình
đào tạo VĐV nhiều năm, giải pháp có tính thực tiễn và khả thi hơn cả là vận
dụng phương pháp tiếp cận đi tắt đón đầu, từng bước xây dựng các tiêu chí
đặc trưng mô hình của VĐV cấp cao từng môn thể thao trọng điểm, đồng thời,
trong phạm vi có thể, vẫn tiến hành dần dần đánh giá TĐTL của VĐV trẻ các
cấp trong chương trình thể thao quốc gia nhằm nâng cao hiệu quả tuyển chọn,
đào tạo và huấn luyện VĐV các cấp[82],[83],[85],[104].
Thanh Hóa là một địa phương có phong trào thể dục thể thao (TDTT)
khá mạnh, một số môn thể thao nhất là các môn thể thao có chu kỳ như Điền
kinh, Bơi lội…đều đã giành được những thành tích tương đối tốt trong các
giải thi đấu toàn quốc, đồng thời cũng đóng góp nhiều vận động viên xuất sắc
cho đội tuyển Bơi và Điền kinh Quốc gia.
Trong quá trình đào tạo vận động viên, các huấn luyện viên đã bước
đầu ứng dụng các phương pháp huấn luyện hiện đại và khoa học. Tuy nhiên,
vẫn còn mang tính chủ quan, chưa xây dựng được hệ thống chỉ tiêu, tiêu
chuẩn đánh giá một cách khoa học nên chừng mực nhất định vẫn còn hạn chế,
hiệu quả công tác tuyển chọn, đào tạo và huấn luyện VĐV các môn thể thao
còn chưa cao, chưa bền vững trong đó các môn thể thao hoạt động có chu kỳ
như bơi lội và điền kinh không phải là ngoại lệ.
Từ cơ sở tiếp cận trên tôi nghiên cứu đề tài “Xây dựng tiêu chuẩn
đánh giá trình độ tập luyện của vận động viên các môn thể thao hoạt động
có chu kỳ lứa tuổi 15 - 17 tại Thanh Hóa” (Do khuôn khổ có hạn đề tài chỉ


11

tập trung nghiên cứu trên VĐV bơi và VĐV chạy CLTB, giai đoạn chuyên
môn hóa, là các nội dung sức bền đặc trưng cho các môn thể thao có chu kỳ
và đồng thời là trọng điểm của thể thao Thanh Hóa).
MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:

Trên cơ sở thực trạng về: Hình thái, y sinh và TCTL của VĐV bơi,
VĐV chạy CLTB tỉnh Thanh Hóa lứa tuổi 15-17, xây dựng tiêu chuẩn đánh
giá TĐTL (sư phạm) và cấu trúc định hướng nội dung huấn luyện giúp HLV
chủ động điều chỉnh kế hoạch huấn luyện góp phần nâng cao hiệu quả đào tạo
VĐV và tiết kiệm kinh phí.
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU:
1. Xây dựng tiêu chuẩn đánh giá TĐTL (sư phạm) của VĐV bơi, VĐV
chạy CLTB tỉnh Thanh Hóa lứa tuổi 15-17, giai đoạn chuyên môn hóa.
2. Kiểm nghiệm, đánh giá TĐTL (sư phạm) VĐV bơi, VĐV chạy cự ly
trung bình tỉnh Thanh Hóa lứa tuổi 15-17, giai đoạn chuyên môn hóa thông
qua cấu trúc định hướng nội dung huấn luyện.
GIẢ THUYẾT KHOA HỌC:
Việc đánh giá TĐTL của VĐV theo tuổi, giới tính và môn thể thao
chuyên sâu rất có ý nghĩa về mặt thực tiễn và lý luận, đặc biệt trong tuyển
chọn, đào tạo và huấn luyện thể thao. Nếu đánh giá đúng trình độ tập luyện
(TĐTL) của VĐV sẽ góp phần quan trọng trong việc điều khiển và điều chỉnh
quá trình huấn luyện khoa học, nâng cao hiệu quả công tác đào tạo VĐV thể
thao và tiết kiệm kinh phí đào tạo.


12

Chương 1
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Trình độ tập luyện

TĐTL là một khái niệm tổng hợp đặc trưng cho khả năng của toàn bộ
cơ thể; là mức độ thích ứng của cơ thể và năng lực thể thao đạt được dưới tác
động của lượng vận động tập luyện, qua quá trình huấn luyện có hệ thống
được thể hiện ở mức độ nâng cao khả năng chức phận và năng lực vận động

của VĐV hay nhờ lượng vận động tập luyện, lượng vận động thi đấu và các
bài tập bổ trợ khác [1],[38],[43],[82].
Khái niệm về quá trình biến đổi lâu dài của trình độ tập luyện luôn gắn
liền với các phạm trù “phát triển” và “thích nghi” [1],[30],[38].
Phát triển là một quá trình những biến đổi trạng thái của tất cả những
thành tố tạo nên thực tế trong thực thể, trong tự nhiên và xã hội diễn ra theo
quy luật nhất định. Sự biến đổi các thực thể đó có mối quan hệ tương hỗ về
lượng và chất; tính ngẫu nhiên, tính đa dạng của những biến đổi đó theo xu
hướng chung và tồn tại lâu dài [53],[54],[55]. Sự phát triển trình độ tập luyện
nhờ tác động lâu dài của lượng vận động tạo nên sự biến đổi về chức năng và
cấu trúc trong các cơ quan và các hệ thông cơ thể. Tuy nhiên mọi quá trình
phát triển đều mang tính tịnh tiến thường gắn với các yếu tố có tính chất chu
kì. Do đó quá trình phát triển trình độ tập luyện được thực hiện không theo
đường vòng, không theo đường thẳng mà dường như theo đường xoáy chôn
ốc bao gồm cả các yếu tố đối lập nhau nghĩa là vừa có tính chu kì, vừa có
dạng tuyến tính (đường thẳng) trong quá trình phát triển của trình độ tập
luyện [47],[58],[75].
Nếu xem xét quá trình phát triển trình độ tập luyện ở tầm chu kì dài
hạn thông qua lăng kính “trạng thái sung sức thể thao” thì càng cần phải lưu ý
tới tính chất xoáy chôn ốc của quá trình phát triển trình độ tập luyện.


13

Trong phạm vi một chu kì huấn luyện dài hạn, trạng thái của VĐV
thường thay đổi theo quy luật và theo từng giai đoạn: giai đoạn có trạng thái
sung sức thể thao được thay bằng giai đoạn tương đối ổn định và tiếp đến là
giai đoạn suy giảm tạm thời trạng thái sung sức thể thao. Ngoài ra mỗi chu kì
mới, như thường lệ, đều có điểm khác so với chu kì trước đó ở chỗ sự phát
triển trình độ tập luyện ở mức độ cao hơn. Sự phát triển trình độ tập luyện

theo từng giai đoạn và mang tính chu kì, do vậy tính chất lặp lại là quy luật
phổ biến và chung nhất đối với bất kì quá trình phát triển TĐTL nào.
Thời lượng từng giai đoạn phát triển trạng thái sung sức thể thao có
mối quan hệ tương hỗ, ví dụ: giai đoạn một diễn ra mạnh bao nhiêu thì giai
đoạn hai tới nhanh bấy nhiêu, như vậy thời lượng giai đoạn một quyết định
thời lượng giai đoạn hai. Nói một cách tổng quát là thời lượng của từng giai
đoạn tùy thuộc vào sự thay đổi các phương tiện sử dụng bài tập trong tập
luyện và phụ thuộc vào thời gian thích ứng với lượng vận động chuyên môn
của VĐV theo hướng đã được lựa chọn [93],[100],[107].
Tóm lại quá trình phát triển trình độ tập luyện là một quá trình mang
tính chu kì và diễn biến lâu dài theo dạng xoáy chôn ốc của những biến đổi về
chức năng và cấu trúc trong tất cả các hệ thống của toàn bộ cơ thể vận động
viên. Nếu xem xét những luận điểm cơ bản về lý thuyết phát triển trên cơ sở
lý thuyết thích nghi chúng ta thấy rằng sự phát triển trình độ tập luyện thực
chất là chu kì của những phản ứng thích nghi. Như vậy, quá trình thích nghi là
một trong những mặt quan trọng của quá trình phát triển trình độ tập luyện lâu
dài.
Ngay từ những năm 1930 nhiều công trình nghiên cứu cho rằng, những
trấn động stress căng thẳng, kể cả lượng vận động tập luyện và thi đấu với
thời gian tác động tương đối lâu dài sẽ gây nên những phản ứng định hình
gồm 3 giai đoạn: giai đoạn lo lắng hồi hộp ban đầu dần dần đổi sang giai đoạn


14

đề kháng, nếu như stress quá mạnh, quá lâu thì phản ứng stress chuyển sang
giai đoạn kiệt sức [8].
Khi đề cập đến bản chất có tính chu kì của hội chứng thích ứng, giải
thích sự xuất hiện của giai đoạn thứ ba người ta cho rằng, đó là cạn kiệt nguồn
năng lượng thích ứng. Cho đến lúc này chưa rõ nguồn năng lượng thích ứng

là gì, nhưng bản chất tự nhiên của giai đoạn 3 về hội chứng thích ứng nói
chung chứng tỏ nguồn thích ứng là có giới hạn. Tuy chưa có những phương
pháp xác định nguồn dự trữ năng lượng thích ứng một cách khách quan họ đề
nghị phân thành 2 loại năng lượng thích ứng:
- Một loại năng lượng thích ứng thể hiện bề ngoài, dễ nhận biết và
phục hồi được.
- Một loại năng lượng thích ứng có chiều sâu ẩn chứa dưới dạng dự
trữ, bồi hoàn toàn nguồn năng lượng đã bị tiêu hao trong vận động tập luyện
vào lúc nghỉ ngơi hoặc chuyển đổi sang hoạt động khác.
Trong thực tiễn thi đấu thể thao có những trường hợp VĐV sau 2-3
tuần, đôi khi 2-3 tháng nghỉ ngơi đầy đủ do bị chấn thương hoặc bị ốm, khi
tham gia thi đấu bỗng nhiên đạt thành tích cao bất ngờ.
Theo quan điểm lý thuyết thích ứng nêu trên có thể giải thích hiện
tượng trên là nguồn dự trữ thích ứng có chiều sâu đến mức sau hàng tháng
hoặc hơn vẫn phát huy tác dụng có hiệu quả [72],[73],[96].
Ý tưởng của các nhà khoa học tiếp tục được phát triển trong các công
trình của các chuyên gia khác nhau, khi họ chia quá trình thích ứng thành ba
mức độ chức năng các nguồn dự trữ sinh học: dự trữ sinh học ở mức độ chức
năng thứ nhất là chuyển từ trạng thái tĩnh sang trạng thái hoạt động bình
thường với đặc điểm là các phản ứng đồng hóa chiếm ưa thế. Đối với mức độ
chức năng thứ 2 của dự trữ sinh học được biểu hiện bằng sự cân bằng giữa
các phản ứng của cả hai quá trình đồng hóa và dị hóa.


15

Cuối cùng mức độ chức năng dự trữ sinh học thứ 3 có thể được khai
thác các tình huống căng thẳng đòi hỏi, tất nhiên phải trả bằng giá đắt và diễn
dưới dạng phản ứng stress cao độ. Cần phải nhấn mạnh rằng thể thao hiện đại
có mức độ cạnh tranh rất gay gắt phải chịu đựng những căng thẳng về tâm lý

và thể lực rất lớn trong hàng các cuộc thi đấu quốc tế lớn luôn phiên, liên tục
cả mùa giải từ 2-4 tháng. Những tình huống như vậy có thể để lại những hậu
quả lâu dài, có thể gây ra những trấn thương nghiêm trọng do stress hoặc do
dự mệt mỏi mạn tính.
Rất đáng quan tâm ý kiến đến nhiều ý kiến cho sự cạn kiệt nguồn năng
lượng thích nghi thường có thể phục hồi sau lượng vận động tập luyện trong
thời gian ngắn, nhưng nếu sự cạn kiệt hoàn toàn nguồn năng lượng thích ứng
thì khó phục hồi. Ví dụ như trong lịch sử môn đua xe đạp chưa bao giờ thấy
một VĐV chiến thắng ở giải Tây Ban Nha (tháng 4) lại có thể chiến thắng ở
giải vô địch thế giới (tháng 8) duy nhất vào năm 1974 và 1987 chỉ có 2 VĐV
E.Merks và Roge là đoạt được 3 lần trong một mùa giải: Giải Italy (tháng 56), Tour de france (tháng 6) và vô địch thế giới (tháng 8).
Trong trường hợp này số ngày thi đấu chỉ trong vòng 2 tháng với 44
ngày tham gia các vòng đua lớn khối lượng thi đấu 8000 km. Nhưng đáng tiếc
trong những năm sau chẳng bao giờ họ có thể đạt thành tích cao trong bất kì
cuộc đua nào cho dù cuộc thi đấu đó cách xa mấy năm sau [93],[109],[110].
Những dữ kiện đây chứng tỏ không thể duy trì lâu dài trạng thái sung
sức thể thao (trình độ tập luyện cao) và nếu coi thường những quy luật thích
ứng đã quá rõ ràng thì sẽ nảy sinh những hậu quả trầm trọng không lường
trước được[6],[82],[85].
Những công trình nghiên cứu hiện nay xem xét những biến đổi diễn ra
trong cơ thể đáp lại những tác động khác nhau và quá trình thích ứng được
phân thành 4 giai đoạn [80],[84],[90].


16

- Giai đoạn cấp báo: có đặc điểm là các chức phận của hệ thống cơ thể
vượt quá mức tối đa, không tiết kiệm trong tiêu hao dự trữ của từng cơ quan,
các phản ứng stress cũng nghiêm trọng và dẽ gây trấn thương. Trong giai
đoạn này chưa xuất hiện những đổi mới về chức phận và hình thái trong các

hệ thống khác nhau của cơ thể.
- Giai đoạn quá độ: giai đoạn quá độ của quá trình thích ứng lâu dài có
đặc điểm là quá trình đổi mới về hình thái và chức năng diễn ra tích cực, đặc
biệt là sự phì đại vận động trong cơ bắp và các hệ thống khác, làm hoạt hóa
bộ máy di truyền của cấu trúc tế bào, tổng hớp các thành tố trong cấu tạo (axit
nucleotic, các albumin) tăng cường khả năng chức phận của các hệ thống cơ
thể đang thích nghi. Hình thành các dấu vết về mặt cấu trúc còn tản mạn.
Thực chất giai đoạn này có thể nói trình độ tập luyện đang phát triển.
- Giai đoạn ổn định: trong giai đoạn này những phản ứng của cơ thể
dần dần giảm đi đối với các yếu tố gây ra thích ứng. Những biến đổi về cấu
trúc trong các hệ thống cơ thể khác nhau được phát triển ở mức độ nhất định,
như vậy nâng cao khả năng chức phận của các hệ thống đó và đảm bảo hoạt
động tiết kiệm và ổn định. Giai đoạn này hoàn thiện quá trình hình thành các
dấu vết về mặt cấu trúc một cách hệ thống, những biến đổi về hình thái, chức
phận trong cơ thể diễn ra theo quy luật từ từng bước một.
- Giai đoạn trạng thái trơ ỳ của hệ thống cơ thể đối với quá trình thích
ứng, tuy không nhất thiết xuất hiện, nhưng có thể làm rối loạn quy luật trong
tập luyện thể thao khi sử dụng lượng vận động hoặc trong khi thi đấu có các
tình huống gây cấn- stress.
Dưới góc độ miễn dịch học các nhà khoa học cũng cho quá trình thích
ứng miễn dịch thành 4 giai đoạn [17],[29],[40].
- Giai đoạn động viên: huy động các nguồn dự trữ của hệ miễn dịch
trong cơ thể để đáp lại lượng vận động tập luyện với cường độ thấp.


17

- Giai đoạn phục hồi: khi tăng cường độ và khối lượng của lượng vận
động tập luyện, hàng rào phòng vệ sinh lý của cơ thể thực tế vẫn được duy trì
giai đoạn trước.

- Giai đoạn suy giảm hồi phục: thường quan sát thấy trong thời kì thi
đấu với lượng vận động cường độ cao có hiện tượng giảm sút miễn dịch khá
rõ. Sau khi thi đấu xuất hiện như là yếu tố stress, hiện tượng tê liệt về chức
phận của hệ thống miễn dịch.
- Giai đoạn dung lượng vận động tập luyện giảm đi đáng kể: quan sát
thấy các chỉ số về trạng thái miễn dịch và hormon được phục hồi dần dần.
Quá trình thích ứng không phải là để lại những dấu vết giản đơn khi
biến đổi cấu trúc trong các hệ thống chức năng nào đó của cơ thể. Thực tế
chứng tỏ rằng sự biến đổi trong quá trình thích ứng đều có mối quan hệ tương
hỗ giữa các hệ thống, có sự phân phối lại nguồn dự trữ của cơ thể diễn ra
trong từng giai đoạn mới của quá trình thích ứng lâu dài để hình thành trạng
thái sung sức thể thao nhờ lượng vận động tập luyện và thi đấu hợp lý trong
mỗi chu kì huấn luyện dài hạn.
Khả năng thích ứng của cơ thể không phải là vô hạn, với một tiền đề
quan trọng để mở rộng những phản ứng thích ứng đều là kết quả của sự thủ
tiêu một phần hoặc toàn phần của quá trình thích ứng đã được hình thành
trước đó, nghĩ là cần thiết có giai đoạn suy thoái thích ứng. Hoàn toàn đúng
và có lý vì trong quá trình phát triển chủng loài của con người cũng là cũng là
quá trình thích nghi lâu dài, cái gì không đáp ứng được trong bối cảnh mới
đều bị loại bỏ và thay thể bằng cái mới phù hợp hơn [52],[81],[88].
Những quy luật trình bày trên đây cũng có thể diễn ra trong một chu kì
tập luyện dài hạn. Khi một chương trình mới bắt đầu hình thành thì cũng là
lúc bắt đầu thủ tiêu cái cũ. Ngay từ những năm 60 của thế kỉ 20, trong những
luận điểm về sự cần thiết phải có giai đoạn phục hồi, còn gọi là giai đoạn quá


18

độ sau khi kết thúc chu kì huấn luyện dài hạn. Novicop và Matveep cho rằng
mỗi một lần trước khi có trạng thái sung sức thể thao mới, cần phải thủ tiêu

hoặc quăng cái cũ đi [54].
Tính chất giai đoạn của quá trình thích nghi một lần nữa chứng minh
rằng sự phát triển trình độ tập luyện là một quá trình có tính chất chu kì và
giai đoạn vì vậy không thể kích thích kiên tục để phát triển trình độ tập luyện
do những đặc điểm nêu trên của các quá trình thích ứng. Lý thuyết chu kì vẫn
có sức sống mãnh liệt của nó, chứ đâu phải đã “cáo chung” như một số người
đã lầm tưởng [54].
Trong mỗi chu kì phát triển trình độ tập luyện có một giai đoạn thích
ứng lâu dài với những biến đổi hình thái-chức năng tương ứng trong các cơ
quan và các hệ thống cơ thể. Những biến đổi về cấu trúc chịu sự tác động
nhiều lần không thể diễn ra tức thời mà đòi hỏi một thời gian nhất định.
Khái niệm biến đổi cấu trúc không tách rời khái niệm thời gian bởi vì
mỗi cấu trúc sinh học bắt đầu từ những đại phân tử và các phần cấu thành và
kết thúc bằng các tổ chức tế bào và từng tế bào trong đó cũng có cuộc sống
riêng của mình do những đặc điểm về cấu trúc và hoạt động riêng của bản
thân [101],[102],[105].
Từ những điều trình bày trên đây sự biến động của trình độ tập luyện
theo thời gian không diễn ra theo một lộ trình tuyến tính, ngay cả khi nâng
lượng vận động tập luyện một cách hệ thống, mà diễn biến có tính chất giai
đoạn và thang bậc khác nhau. Bởi vậy cho nên, trong lý luận cũng như trong
thực tiễn phải có những thông tin đầu đủ kịp thời về quá trình biến động diễn
ra.
Trong thực tế, các môn thể thao khác nhau thì mức độ quan trọng của
từng năng lực thể thao trong TĐTL có khác nhau, mỗi môn thể thao đều có
những yếu tố khác nhau, mỗi môn thể thao đều có những yêu cầu cao, có tính


19

chất riêng đối với cơ quan hoặc hệ cơ quan trong cơ thể. Vì vậy, mỗi môn thể

thao đều có tác dụng hoàn thiện chủ yếu một hay một số chức năng hoặc cơ
quan nhất định. Trình độ tập luyện của vận động viên được xác định thông
qua các phương pháp sư phạm, tâm lý, y sinh học. Tuy nhiên, TĐTL là một
khái niệm tổng hợp đặc trưng cho khả năng của toàn bộ cơ thể.
Từ những quan điểm về TĐTL của các tác giả nêu trên, có thể tóm tắt
như sau: TĐTL là mức độ thích ứng của cơ thể và năng lực thể thao đạt được
dưới tác động của lượng vận động tập luyện, qua quá trình huấn luyện có hệ
thống được thể hiện ở mức độ nâng cao khả năng chức phận và năng lực vân
động của VĐV hay nhờ lượng vận động tập luyện, lượng vận động thi đấu và
các bài tập bổ trợ khác [1],[38],[43],[82].
Đặc điểm cơ bản của TĐTL là thời gian tập luyện càng lâu dài, liên tục
thì TĐTL càng cao. Ngược lại, nếu gián đoạn tập luyện thì TĐTL bị giảm sút.
Mỗi môn thể thao khác nhau, cấu trúc của TĐTL sẽ khác nhau.
Từ các quan điểm về TĐTL của VĐV được trình bày ở trên, cho thấy
các nhà khoa học đã nhìn nhận dựa trên các luận điểm chính sau:
- TĐTL được xem xét trong trạng thái động.
- TĐTL chủ yếu là những biến đổi thích nghi về hình thái và chức năng
sinh lý diễn ra trong cơ thể dưới tác động của lượng vận động tập luyện và thi
đấu mà biều hiện là sự nâng cao khả năng chức phận và năng lực vận động
của VĐV.
- TĐTL là thước đo hiệu quả các quá trình huấn luyện phụ thuộc vào
quá trình huấn luyện.
- TĐTL gồm nhiều mặt, nhiều thành phần, trong đó yếu tố đặc trưng cơ
bản nhất của nó là thành tích thể thao.
- TĐTL được thông qua con đường tập luyện và thi đấu thể thao.


20

Do tác động có chủ đích của lượng vận động tập luyện nên trong cơ thể

vận động viên đã xảy ra các biến đổi sinh học. Sự tác động có hệ thống sẽ dẫn
đến những thích ứng nâng cao năng lực làm việc của các cơ quan trong cơ
thể, cải thiện năng lực điều khiển của hệ thần kinh đối với hệ điều tiết của hệ
vận động và các cơ quan và tổ chức.
Những thích ứng đó thể hiện ở trình độ phát triển tổng hợp về kỹ thuật,
chiến thuật, các tố chất thể lực năng lực trí tuệ và các yếu tố khác. VĐV có
thành tích thể thao càng tốt thì TĐTL càng cao, năng lực thể thao càng cao thì
thành tích thể thao càng tốt.
Theo Aulic I.V, yếu tố cơ bản của TĐTL là thành tích thể thao. Do đó,
TĐTL là năng lực tiềm tàng của vận động viên để đạt được những thành tích
nhất định trong môn thể thao được chọn lựa và năng lực này biểu hiện cụ thể
ở mức độ chuẩn bị về kỹ thuận thể thao, về thể lực, chiến thuật, đạo đức, ý chí
và trí tuệ. TĐTL chính là mức độ thích ứng của cơ thể đối với một nhiệm vụ
cụ thể, đạt được bằng con đường tập luyện [1].
Theo Novicop A.D và Matveep L.P, khái niệm TĐTL thường được gắn
chủ yếu với những biến đổi thích ứng về mặt sinh học (về chức năng và hình
thái) xảy ra trong cơ thể vận động trong quá trình tập luyện, được biểu hiện ở
sự nâng cao năng lực hoạt động; TĐTL càng cao thì hoàn thành một hoạt
động nhất định càng có hiệu quả và hoàn thiện hơn. Do đó TĐTL là thước đo
mức thích ứng của cơ thể đối với một hoạt động cụ thể đạt được thông qua tập
luyện [53],[54].
Theo quan điểm của Ozolin và cộng sự, TĐTL của vận động viên là kết
quả tổng hợp của việc giải quyết các nhiệm vụ trong thực tiễn HLTT. TĐTL
thể hiện ở mức độ nâng cao chức phận cơ thể, năng lực hoạt động chung và
chuyên môn của vận động viên ở mức độ hoàn thiện các kỹ năng và kỹ xảo
thể thao phù hợp [55].


21


Lưu Quang Hiệp, Lê Nguyệt Nga, Lê Quý Phượng và một số tác giả thì
cho rằng, mức độ thích nghi của cơ thể với hoạt động cụ thể nào đó đạt được
bằng tập luyện đặc biệt được gọi là TĐTL. Như vậy theo các tác giả khi xem
xét TĐTL, thực chất đó chính là quá trình đào tạo cho con người thích nghi
với hoạt động cơ bắp, giữ các hệ chức năng trên cơ sở những biến đổi sấu sắc
về cấu tạo, chức năng sinh lý và sinh hóa trong cơ thể [29],[46],[48],[58].
Harre cho rằng, TĐTL của vận động viên thể hiện ở sự nâng cao năng
lực thể thao nhờ ảnh hưởng của lượng vận động tập luyện, lượng vận động thi
đấu và các biện pháp bổ trợ khác. Còn năng lực thể thao cao phù hợp với
TĐTL của họ được coi là trạng thái thể thao [25].
Cũng theo Harre, TĐTL được thể hiện ở sự phát triển của từng yếu tố
của năng lực thể thao như: tố chất thể lực, năng lực kỹ thuật, phối hợp vận
động, năng lực chiến thuật và cả phẩm chất tâm lý. Ngoài ra, TĐTL còn thể
hiện ở sự thích ứng về các mặt sinh học thông qua năng lực làm việc được
nâng cao của các hệ thống chức năng cơ thể. TĐTL được đánh giá bằng các
test sư phạm, tâm lý, sinh lý, các test chuyên môn và các cuộc thi đấu thể
thao. Do ảnh hưởng của lượng vận động trong tập luyện và thi đấu, năng lực
thể thao của vận động viên được nâng cao phù hợp với từng giai đoạn huấn
luyện, trình độ được nâng cao phù hợp với các năng lực thể thao được gọi là
TĐTL [35].
Tác giả Bùi Huy Quang, cho rằng, TĐTL của vận động viên là khả
năng thích ứng ngày càng cao của vận động viên đạt được trong quá trình tập
luyện và thi đấu. Khả năng thích ứng này được biểu hiện bằng sự phát triển
tổng hợp những năng lực về kỹ thuật, chiến thuật, tố chất thể lực và tâm lý
[61]. Theo Trịnh Trung Hiếu, Nguyễn Sỹ Hà, TĐTL là trạng thái gắn liền với
những biến đổi thích nghi của các đặc tính sinh học trong cơ thể vận động


22


viên, những biến đổi đó xác định mức độ, khả năng của các hệ thống chức
năng cơ thể [30].
Quan điểm của Nguyễn Toán và Phạm Danh Tốn, chỉ ra TĐTL của vận
động viên là kết quả tổng hợp của việc giải quyết các nhiệm vụ trong thực
tiễn tập luyện thể thao. Nó thể hiện ở mức nâng cao khả năng chức phận của
cơ thể các hệ thống chức năng cơ thể, năng lực hoạt động chung và chuyên
môn của vận động viên ở mức hoàn thiện các kỹ năng, kỹ xảo thể thao phù
hợp. Qua quá trình nghiên cứu TĐTL của VĐV được thể hiện một cách tổng
hợp bao gồm các thành tố cơ bản như: Thể lực, kỹ thuật, chiến thuật, năng lực
tâm lý, ý chí. Giữa chúng có quan hệ mật thiết, vừa thúc đẩy vừa chế ước cho
nhau [73].
Theo Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn Kim Minh, Trần Quốc Tuấn, TĐTL
là một phức hợp bao gồm nhiều thành tố y sinh, tâm lý, kỹ thuật, thể lực ngày
càng được nâng cao nhờ ảnh hưởng trực tiếp lâu dài của lượng vận động tập
luyện và thi đấu cũng như các liệu pháp hỗ trợ ngoại sinh khác [84].
Nguyễn Ngọc Cừ (1998), định nghĩa, TĐTL là phạm trù đa giá trị, có
tính tương đối trừu tượng, tiềm ẩn, không thể nhận biết ngày được bằng trực
quan vì nó là tổng hòa những biến đổi thích nghi vô số các yếu tố thuộc các
lĩnh vực khoa học y sinh, sư phạm và tâm lý diễn ra bên trong cơ thể của vận
động viên, thông qua quá trình huấn luyện lâu dài, được biểu hiện ra bên
ngoài bằng năng lực vận động và thành tích thể thao, nhưng không phải lúc
nào TĐTL cũng tốt cũng được thể hiện một cách vô điều kiện ra ngoài bằng
thành tích thể thao cao bởi lẽ chúng ta không thể lường hết và cũng không thể
điều tiết được tất cả nhũng yếu tố chi phối tiêu cực đối với các cuộc thi đấu
thể thao [17].


23

Như vậy, quan niệm khoa học về TĐTL là rất phong phú, đa dạng được

nhìn nhận dưới nhiều góc độ khác nhau, nhưng đều thống nhất ở chỗ nó được
hình thành, phát triển và nâng cao dưới tác động của lượng vận động.
Do đó, TĐTL là năng lực thích ứng của cơ thể đối với lượng vận động
tập luyện nhờ quá trình huấn luyện có hệ thống. Vì vậy, hiểu đúng TĐTL của
VĐV có ý nghĩa quan trọng trong việc điều khiển và điều chỉnh quá trình
huấn luyện một cách khoa học, phát huy tính tích cực, tự giác trong tập luyện
và trong công tác huấn luyện.
1.2. Đánh giá trình độ tập luyện

Trong quy trình đào tạo VĐV nhiều năm, việc đánh giá trình độ tập
luyện của các VĐV các cấp theo độ tuổi, giới tính và môn thể thao chuyên
sâu rất có ý nghĩa về mặt thực tiễn và lí luận, đặc biệt trong tuyển chọn và
huấn luyện VĐV. Về kiểm tra, đánh giá trình độ tập luyện, các học giả nước
ngoài có một số khái niệm khái quát sau:[63],[97],[99],[103].
- Đánh giá là một quy trình gồm hai công đoạn kiểm tra và đánh giá.
Trong đó kiểm tra là việc sử dụng phương pháp chuẩn mực để thu thập được
các số liệu đủ độ tin cậy. Sau đó tiến hành so sánh đối chiếu với tiêu chuẩn
đánh giá nhằm xác định mức độ phân loại kết quả kiểm tra.
- Kiểm tra đánh giá trình độ tập luyện là quá trình kiểm tra nhằm thu
thập số liệu đánh giá và sau đó là quá trình so sánh với tiêu chuẩn đánh giá đã
được xây dựng một cách khoa học để xác định mức độ phân loại kết quả kiểm
tra từng chỉ tiêu và cuối cùng là đánh giá tổng hợp chung quá trình đánh giá
TĐTL.
Ở Việt Nam Dương Nghiệp Chí, Nguyễn Ngọc Cừ và nhiều tác giả cho
rằng: kiểm tra là quá trình thu thập số liệu, còn đánh giá là xác định mức độ
phân loại kết quả test [14]. Hay nói cách khác là phân loại thành tích vận
động viên, quá trình xác định ấy được gọi là quá trình đánh giá. Theo Nguyễn


24


Thế Truyền và cs (2002), thì việc kiểm tra đánh giá TĐTL của vận động viên
có ý nghĩa quan trọng không thể thiếu trong quá trình tuyển chọn và huấn
luyện thể thao [83]. Lê Nguyệt Nga (2004), cho rằng kiểm tra đánh giá trình
độ tập luyện được tiến hành trong những giai đoạn nhất định của quá trình
huấn luyện, dùng các phương pháp và công cụ, dụng cụ và phương tiện. Kiểm
tra thích hợp, thông qua kiểm tra thông tin phản ánh được trình độ tập huấn
của vận động viên. Nội dung kiểm tra TĐTL bao gồm: Hình thái chức năng
của cơ chế tổ chất vận động, năng lực kỹ chiến thuật, tổ chất và phẩm chất
tâm lý. Kiểm tra phải có độ tin cậy (Kết quả kiểm tra lặp lại giống nhau). Tính
hiệu quả của kết quả kiểm tra có thể phản ánh chính xác một mặt nào đó của
TĐTL) tính khách quan (những người kiểm tra khác nhau cho cùng kết quả
kiểm tra như nhau trên đối tượng kiểm tra) [47] .
Từ các kết quả tổng hợp về các quan niệm trình độ tập luyện và kiểm
tra đánh giá trình độ tập luyện trên của các tác giả trong và ngoài nước. Đối
với VĐV các môn thể thao nói chung và với VĐV thể thao các môn có chu kỳ
nói riêng đều có sự thống nhất quan niệm về TĐTL là những biến đổi thích
ứng về sinh học phù hợp với đặc thù với môn thể thao tập luyện thông qua
quá trình tập luyện và thi đấu. Cùng với khả năng hoàn thiện về kỹ chiến
thuật, nâng cao các tố chất thể lực, năng lực tâm lý đáp ứng yêu cầu phát triển
thành tích thể thao.
Kiểm tra đánh giá là quá trình gồm hai công đoạn kiểm tra thành tích
các chỉ tiêu đánh giá và việc xác định mức độ phân loại thành tích của VĐV
thông qua đánh giá trung gian và đánh giá tổng hợp. Từ những kết quả kiểm
tra so sánh phân loại mức độ thành tích các chỉ tiêu sẽ giúp xác định mức độ
phân loại kiểm tra giúp cho HLV có những thông tin khách quan tin cậy để
điều chỉnh kế hoạch một cách hợp lý và khoa học. Với tầm quan trọng như



×