Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Chuyên đề 3 tổ chức bộ máy hành chính nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (222.27 KB, 29 trang )

Chuyên đề 3
TỔ CHỨC BỘ MÁY HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
I. KHÁI QUÁT VỀ BỘ MÁY HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
1. Khái niệm và đặc điểm của bộ máy hành chính nhà nước
Bộ máy hành chính nhà nước được thiết lập để thực thi quyền hành pháp
(quyền tổ chức thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh,
quốc phòng và đối ngoại của Nhà nước). Hệ thống các cơ quan nhà nước đứng đầu
là Chính phủ và thực hiện quyền hành pháp được gọi là bộ máy hành chính nhà
nước (hay hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước).
Như vậy, bộ máy hành chính nhà nước là hệ thống cơ quan trong bộ máy nhà
nước được thành lập, tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật để thực
hiện quyền lực nhà nước, có chức năng quản lý hành chính nhà nước trên tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội. Bộ máy hành chính nhà nước là một bộ phận cấu
thành của bộ máy nhà nước. Do vậy, bộ máy hành chính nhà nước cũng mang đầy
đủ các đặc điểm chung của bộ máy nhà nước, đó là:
Một là, bộ máy hành chính nhà nước hoạt động mang tính quyền lực nhà nước,
được tổ chức và hoạt động trên nguyên tắc tập trung dân chủ. Tính quyền lực nhà
nước thể hiện ở chỗ: bộ máy hành chính nhà nước là một bộ phận của bộ máy nhà
nước; bộ máy hành chính nhà nước nhân danh nhà nước khi tham gia vào các quan
hệ pháp luật nhằm thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý.
Hai là, mỗi cơ quan trong bộ máy hành chính nhà nước đều hoạt động dựa trên
những quy định của pháp luật, có chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền nhất định và
có những mối quan hệ phối hợp trong thực thi công việc được giao. Hệ thống cơ
quan hành chính nhà nước có cơ cấu, tổ chức phù hợp với chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn do pháp luật quy định.
Chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của các cơ quan hành chính nhà nước do
pháp luật quy định. Đó là tổng thể những quyền và nghĩa vụ cụ thể mang tính
quyền lực, được nhà nước trao cho để thực hiện nhiệm vụ, chức năng của mình, cụ
thể: các cơ quan hành chính nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở pháp
luật và để thực hiện pháp luật, trong quá trình hoạt động có quyền ban hành các
quyết định hành chính thể hiện dưới hình thức là các văn bản pháp quy và các văn


bản cá biệt; được thành lập theo quy định của Hiến pháp, luật, pháp lệnh hoặc theo
quyết định của cơ quan hành chính nhà nước cấp trên; được đặt dưới sự kiểm tra,
giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp và báo cáo hoạt động trước cơ
quan quyền lực nhà nước cùng cấp; có tính độc lập và sáng tạo trong tác nghiệp
điều hành nhưng theo nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc quyền lực phục


tùng.
Ba là, về mặt thẩm quyền thì các cơ quan hành chính nhà nước được quyền đơn
phương ban hành văn bản quy phạm pháp luật hành chính và văn bản đó có hiệu
lực bắt buộc đối với các đối tượng có liên quan; cơ quan hành chính nhà nước có
quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế đối với các đối tượng chịu sự tác động,
quản lý của cơ quan hành chính nhà nước.
Ngoài những đặc điểm chung nói trên, bộ máy hành chính nhà nước còn có
những đặc điểm riêng như sau:
Một là, bộ máy hành chính nhà nước có chức năng quản lý hành chính nhà
nước, thực hiện hoạt động chấp hành và điều hành trên mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội, trong khi đó các cơ quan nhà nước khác chỉ tham gia vào hoạt động quản lý
trong phạm vi, lĩnh vực nhất định. Ví dụ: Quốc hội có chức năng chủ yếu trong
hoạt động lập pháp; Toà án có chức năng xét xử; Viện kiểm sát nhân dân có chức
năng kiểm sát. Chỉ bộ máy hành chính nhà nước mới có quyền thực hiện hoạt động
quản lý nhà nước trên tất cả các lĩnh vực: quản lý nhà nước về kinh tế, quản lý nhà
nước về văn hoá, quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội, quản lý xã hội,... Đó là
hệ thống các đơn vị cơ sở như công ty, tổng công ty, nhà máy, xí nghiệp thuộc lĩnh
vực kinh tế; trong lĩnh vực giáo dục có trường học; trong lĩnh vực y tế có bệnh
viện...
Hai là, bộ máy hành chính nhà nước là hệ thống cơ quan chấp hành, điều hành
của cơ quan quyền lực nhà nước. Thẩm quyền của bộ máy hành chính nhà nước
chỉ giới hạn trong phạm vi hoạt động chấp hành, điều hành. Hoạt động chấp hành điều hành hay còn gọi là hoạt động quản lý hành chính nhà nước là phương diện
hoạt động chủ yếu của cơ quan hành chính nhà nước. Điều đó có nghĩa là cơ quan

hành chính nhà nước chỉ tiến hành các hoạt động để chấp hành Hiến pháp, luật,
pháp lệnh, nghị quyết của cơ quan quyền lực nhà nước trong phạm vi hoạt động
chấp hành, điều hành của nhà nước.
Các cơ quan hành chính nhà nước đều trực tiếp hoặc gián tiếp phụ thuộc vào cơ
quan quyền lực nhà nước, chịu sự lãnh đạo, giám sát, kiểm tra của các cơ quan
quyền lực nhà nước cấp tương ứng và chịu trách nhiệm báo cáo trước cơ quan đó.
Các cơ quan hành chính nhà nước có quyền thành lập ra các cơ quan chuyên môn
để giúp cho cơ quan hành chính nhà nước hoàn thành nhiệm vụ.
Ba là, bộ máy hành chính nhà nước là hệ thống cơ quan có mối liên hệ chặt
chẽ, thống nhất. Bộ máy hành chính nhà nước là một hệ thống cơ quan được thành
lập từ trung ương đến cơ sở, đứng đầu là Chính phủ, tạo thành một chỉnh thể thống
nhất, được tổ chức theo hệ thống thứ bậc, có mối quan hệ mật thiết phụ thuộc nhau
về tổ chức và hoạt động nhằm thực thi quyền quản lý hành chính nhà nước. Hầu
hết các cơ quan hành chính nhà nước đều có hệ thống các đơn vị cơ sở trực thuộc.


Các đơn vị, cơ sở của bộ máy hành chính nhà nước là nơi trực tiếp tạo ra của cải
vật chất và tinh thần cho xã hội.
Bốn là, hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước mang tính thường xuyên,
liên tục và tương đối ổn định, là cầu nối đưa đường lối, chính sách, pháp luật vào
cuộc sống. Tất cả các cơ quan hành chính nhà nước có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau, đó là mối quan hệ trực thuộc trên - dưới, trực thuộc ngang - dọc, quan hệ
chéo... tạo thành một hệ thống thống nhất mà trung tâm chỉ đạo là Chính phủ.
Năm là, bộ máy hành chính nhà nước có chức năng quản lý nhà nước dưới hai
hình thức là ban hành các văn bản quy phạm và văn bản cá biệt trên cơ sở Hiến
pháp, luật, pháp lệnh và các văn bản của các cơ quan hành chính nhà nước cấp trên
nhằm chấp hành, thực hiện các văn bản đó. Mặt khác trực tiếp chỉ đạo, điều hành,
kiểm tra... hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước dưới quyền và các đơn
vị cơ sở trực thuộc của mình.
Tóm lại, bộ máy hành chính nhà nước là bộ phận cấu thành của bộ máy nhà

nước, trực thuộc cơ quan quyền lực nhà nước một cách trực tiếp hoặc gián tiếp,
trong phạm vi thẩm quyền của mình thưc hiện hoạt động chấp hành - điều hành và
tham gia chủ yếu vào hoạt động quản lý nhà nước, có cơ cấu tổ chức và phạm vi
theo luật định.
Trong quá trình thực thi quyền lực này, các cơ quan hành chính nhà nước được
sử dụng quyền lập quy và quyền hành chính theo quy định của pháp luật.
- Quyền lập quy là quyền ban hành các văn bản pháp quy (còn gọi là văn bản
dưới luật) như ban hành Nghị định của Chính phủ, Quyết định của Thủ tướng
Chính phủ, Thông tư của Bộ trưởng, v.v. để cụ thể hoá luật, thực hiện luật nhằm
điều chỉnh những quan hệ kinh tế - xã hội thuộc phạm vi quyền hành pháp. Dưới
góc độ pháp luật, có thể xem đây là sự uỷ quyền của lập pháp cho hành pháp để
điều hành các hoạt động cụ thể của quyền lực nhà nước.
- Quyền hành chính là quyền tổ chức ra bộ máy cai quản, sắp xếp nhân sự, điều
hành công việc quốc gia, sử dụng nguồn tài chính và công sản để thực hiện những
chính sách của đất nước. Đó là quyền tổ chức, điều hành các hoạt động kinh tế - xã
hội, đưa pháp luật vào đời sống nhằm giữ gìn trật tự an ninh xã hội, phục vụ lợi ích
của công dân, bảo đảm dân sinh và giải quyết các vấn đề xã hội và sử dụng có hiệu
quả nguồn tài chính và công sản để phát triển đất nước một cách có hiệu quả.
Với tư cách là cơ quan hành chính cao nhất, Chính phủ nắm quyền thống nhất
quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng,
an ninh và đối ngoại của nhà nước; quản lý hệ thống bộ máy hành chính nhà nước
từ trung ương đến cơ sở trong khuôn khổ hệ thống chính trị hiện hành1.
1

. Người đứng đầu cơ quan hành pháp có thể là Thủ tướng (Anh, Nhật, Đức, Canada…) hoặc Tổng thống (Mỹ,
Braxin, Inđônesia…)


2. Các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước
Các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước là

những tư tưởng, quan điểm chỉ đạo làm nền tảng cho cho tổ chức và hoạt động của
của bộ máy hành chính nhà nước. Các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy
hành chính nhà nước có tính khách quan khoa học bởi chúng được xây dựng, đúc
kết từ thực tế cuộc sống trên cơ sở nghiên cứu sâu sắc các quy luật khách quan, cơ
bản của đời sống xã hội; đồng thời các nguyên tắc này cũng chứa đựng các yếu tố
chủ quan do chúng được xây dựng nên bởi con người. Tuy nhiên, đó chỉ là sự phản
ánh ý chí chủ quan của con người về các quy luật khách quan, chứ thực tế không
bao giờ chấp nhận các nguyên tắc thuần túy chủ quan, duy ý chí, hoàn toàn thoát ly
thực tế của con người.
Các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước có thể
được chia thành hai nhóm cơ bản là các nguyên tắc chính trị - xã hội và các nguyên
tắc tổ chức - kỹ thuật. Các nguyên tắc chính trị - xã hội bao gồm: nguyên tắc Đảng
lãnh đạo quản lý nhà nước; nguyên tắc tập trung dân chủ; nguyên tắc thu hút nhân
dân tham gia vào quản lý nhà nước; nguyên tắc pháp chế; nguyên tắc bình đẳng
dân tộc; nguyên tắc kế hoạch hóa… Các nguyên tắc tổ chức - kỹ thuật bao gồm:
nguyên tắc kết hợp quản lý theo ngành, lĩnh vực với quản lý theo lãnh thổ; nguyên
tắc kết hợp quan hệ trực tuyến với chức năng trên cơ sở trực tuyến; nguyên tắc kết
hợp chế độ tập thể lãnh đạo với chế độ thủ trưởng; nguyên tắc phân định chức năng
và quyền hạn; nguyên tắc trách nhiệm của cơ quan và người có thẩm quyền;
nguyên tắc trực thuộc hai chiều...
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn hoạt động của nền hành chính nhà
nước, ngoài nguyên tắc chung: Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ
có thể nêu lên những nguyên tắc tổ chức và hoạt động của hệ thống hành chính nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam như sau:
- Nguyên tắc dựa vào dân, sát dân, lôi cuốn dân tham gia quản lý, phục vụ lợi
ích chung của quốc gia và lợi ích của công dân. Nguyên tắc hoạt động của nền
hành chính Nhà nước ta là bảo vệ và phục vụ lợi ích chung của quốc gia và phục
vụ lợi ích của công dân một cách mẫn cán, có hiệu lực và hiệu quả.
Bộ máy hành chính nhà nước phải được tổ chức gọn nhẹ, ít tầng, nấc, gần dân
nhất để giải quyết mọi công việc hàng ngày của dân một cách nhanh nhất. Mọi

hoạt động thuộc hành chính nhà nước đều có mục đích phục vụ dân và phải do dân
giám sát.
- Nguyên tắc quản lý bằng pháp luật.
Nền hành chính dân chủ và có hiệu lực phải là một nền hành chính quán triệt
sâu sắc và thể hiện đầy đủ nguyên tắc nhà nước pháp quyền. Một nền hành chính
như vậy phải thực thi có hiệu lực quyền hành pháp trong khuôn khổ quyền lực nhà


nước thống nhất. không phân chia, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan
thực hiện các chức năng của quyền lực nhà nước. Khác với thuyết “phân lập ba
quyền” của Nhà nước tư sản, Nhà nước Việt Nam có sự phân định rõ chức năng
nhiệm vụ, quyền hạn của ba loại cơ quan nhà nước: Quốc hội (lập pháp); Chính
phủ (hành pháp); Toà án, Viện kiểm sát (tư pháp), có sự phân công, phối hợp và
thống nhất giữa ba cơ quan này trong một tổng thể quyền lực nhà nước thống nhất
không phân chia.
- Nguyên tắc tập trung dân chủ.
Xuất phát từ bản chất của một Nhà nước dân chủ xã hội chủ nghĩa, đặc điểm
của một nhà nước đơn nhất và để phù hợp với những nhiệm vụ chính trị của thời
đại, nền hành chính nhà nước ta phải bảo đảm tăng cường tính thống nhất, tập
trung cao, có quyền lực chính trị cũng như quyền lực kinh tế tập trung vững chắc
vào Nhà nước (trung ương), song song với việc mở rộng tính dân chủ mạnh mẽ
cho chính quyền địa phương theo tinh thần vận dụng hợp lý các phương thức tập
quyền, phân quyền, tản quyền, uỷ quyền, đồng quản lý... trên cơ sở nguyên tắc cơ
bản là tập trung dân chủ. Mọi biểu hiện của tư tưởng phân tán, vô chính phủ, có
màu sắc “cát cứ địa phương” hay “phép vua thua lệ làng” hoặc mọi biểu hiện của
bệnh tập trung quan liêu đều không được chấp nhận và phải được ngăn chặn kịp
thời.
- Nguyên tắc kết hợp quản lý theo ngành và lĩnh vực với quản lý theo lãnh thổ.
Yêu cầu quản lý thống nhất theo ngành và lĩnh vực nhằm bảo đảm sự phát triển
thống nhất về các mặt: chiến lược, quy hoạch và phân bố đầu tư; chính sách về tiến

bộ khoa học - công nghệ; thể chế hoá các chính sách thành pháp luật; đào tạo và
quản lý đội ngũ cán bộ, công chức khoa học kỹ thuật và công chức lãnh đạo, quản
lý, không phân biệt thành phần kinh tế - xã hội, lãnh thổ và cấp quản lý.
Yêu cầu quản lý thống nhất theo lãnh thổ là bảo đảm sự phát triển tổng thể các
ngành, các lĩnh vực, các mặt hoạt động chính trị - khoa học - văn hoá - xã hội trên
một đơn vị hành chính - lãnh thổ nhằm thực hiện sự quản lý toàn diện của nhà
nước và khai thác có hiệu quả tối đa mọi tiềm năng trên lãnh thổ, không phân biệt
ngành, thành phần kinh tế - xã hội và cấp quản lý.
Quản lý theo ngành hay lĩnh vực và quản lý theo lãnh thổ phải được kết hợp
thống nhất theo luật pháp và dưới sự điều hành thống nhất của một hệ thống
hành chính nhà nước thông suốt từ trung ương tới địa phương và cơ sở.
- Nguyên tắc phân biệt và kết hợp sự quản lý nhà nước với quản lý kinh doanh.
Nhà nước nói chung và bộ máy hành chính nhà nước nói riêng không thực hiện
chức năng kinh doanh và không can thiệp vào hoạt động sản xuất - kinh doanh đối
với những vấn đề mà theo luật thuộc quyền tự chủ của các đơn vị sản xuất - kinh
doanh. Do trình độ phát triển kinh tế - xã hội ngày càng cao, trình độ dân trí ngày


càng được mở rộng, do xu hướng quốc tế hoá của nền kinh tế và do chính sách mở
cửa của nhà nước ta, các mối quan hệ trong xã hội ngày nay trở nên càng phong
phú và phức tạp hơn. Sự tham gia của người dân vào những công việc mà trước kia
là độc quyền của nhà nước ngày càng nhiều thông qua những tổ chức quần chúng
hết sức đa dạng và phong phú. Sự đan xen ngày càng nhiều và phức tạp giữa khu
vực công và tư ngày càng tác động tới phương thức điều hành và quản lý của bộ
máy hành chính nhà nước. Đó là quá trình tất yếu của “xã hội hoá”. Mặt khác, tuy
bộ máy hành chính nhà nước không phải là một tổ chức kinh doanh, song để tăng
cường hiệu quả và hiệu năng của bộ máy, việc áp dụng và kết hợp đúng mức
những nguyên tắc quản lý kinh doanh vào các hoạt động hành chính nhà nước ngày
càng trở thành những đòi hỏi bức xúc.
Để nâng cao tính tự quản, khuyến khích các đơn vị kinh doanh hoạt động có

hiệu quả trong cơ chế thị trường và phát huy sáng tạo của công dân cộng thêm
những đặc thù nhất định của sản xuất - kinh doanh, việc tách các đơn vị này ra khỏi
bộ máy hành chính nhà nước là hợp lý và cần thiết.
- Nguyên tắc phân biệt hành chính điều hành với hành chính tài phán.
Hệ thống hành chính nhà nước là tổng thể các cơ cấu tổ chức và định chế nhà
nước có chức năng thực thi quyền hành pháp, quản lý công việc công hàng ngày
của nhà nước. Nó được tạo thành bởi một hệ thống các pháp nhân có quyền lập
quy, có thẩm quyền ra những quyết định hành chính và quản lý điều hành, tổ chức,
kiểm tra các tổ chức và các hoạt động của hệ thống hành chính nhà nước và của
công dân. Xét nội dung công việc của hành chính nhà nước, cần phân biệt rõ hành
chính điều hành và hành chính tài phán.
+ Hành chính điều hành thực hiện chức năng quản lý hàng ngày dựa trên các
nghị quyết của Đảng, nghị quyết Quốc hội, có nhiệm vụ và quyền hạn dự đoán tình
hình, ra quyết định về các mặt (kế hoạch, chính sách cụ thể, chủ trương, biện
pháp...), tổ chức, chỉ đạo, phối hợp, kiểm tra. Về mặt pháp luật, đó là ra những văn
bản dưới luật để thực hiện chức năng quản lý. Về mặt chính trị, là phục tùng và
phục vụ chính trị, chấp hành và thực hiện những quyết định mang ý nghĩa chính trị
của các cơ quan có thẩm quyền. Trong việc thực hiện chức năng quản lý đó, hành
chính điều hành phải thể hiện, giữ gìn, phát huy đầy đủ bản chất của một nhà nước
dân chủ và pháp quyền, tôn trọng các quyền con người và quyền công dân đã được
quy định trong pháp luật. Mọi sự vi phạm quyền con người và quyền công dân,
dưới dạng văn bản hành chính hay dưới dạng hành động thực tế, trái với pháp luật
nói chung và luật hành chính nói riêng đều xem là hành vi hành chính bất hợp
pháp.
Pháp luật công (công pháp) nói chung và luật hành chính nói riêng mang tính
một chiều, không bình đẳng giữa hai bên: một bên là cơ quan nhà nước hay nhà


chức trách nắm công quyền và một bên là công dân - tư nhân, có quyền và nghĩa
vụ được ghi trong Hiến pháp và pháp luật, phải tuân thủ pháp luật và chịu sự quản

lý của cơ quan hành chính nhà nước. Về mặt pháp lý, quan hệ giữa cơ quan nhà
nước với công dân, cũng như giữa cơ quan nhà nước cấp trên với cơ quan nhà
nước cấp dưới là quan hệ không bình đẳng, là quan hệ quyền uy, phụ thuộc, phục
tùng. Mặt khác, cơ quan hành chính nhà nước sinh ra để phục vụ dân, chịu sự giám
sát của dân, và tuân thủ pháp luật hành chính vì lợi ích của nhân dân. Nhiệm vụ
của các cơ quan hành chính là phục vụ dân một cách vô tư, đúng pháp luật, liên
tục, hàng ngày, không cửa quyền, lạm quyền, trì trệ và tham nhũng. Để bảo đảm
tính dân chủ cao của nền hành chính và xét xử kịp thời những vi phạm luật hành
chính của các cơ quan, các công chức hành chính đối với công dân, sự ra đời của
tài phán hành chính là một tất yếu khách quan.
+ Hành chính tài phán có chức năng giải quyết các khiếu kiện hành chính của
công dân đối với các quyết định và hành vi hành chính của các cơ quan hành chính
nhà nước theo trật tự tố tụng tư pháp. Hành chính tài phán cần phải đi song song
với hành chính điều hành nhưng độc lập với hành chính điều hành.
- Nguyên tắc kết hợp chế độ làm việc tập thể với chế độ một thủ trưởng. Trong
hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước có hai loại cơ quan:
+ Cơ quan thẩm quyền chung: hoạt động theo chế độ tập thể quyết định trong
phạm vi thẩm quyền nhất định do pháp luật quy định, ví như Uỷ ban nhân dân các
cấp.
+ Cơ quan thẩm quyền riêng: hoạt động theo chế độ một thủ trưởng quyết định.
Theo chế độ một thủ trưởng, cá nhân chịu trách nhiệm quyết định những vấn đề
thuộc phạm vi quản lý như: Bộ trưởng các bộ, thủ trưởng cơ quan ngang bộ, thủ
trưởng cơ quan hành chính hay đơn vị sự nghiệp công lập, v.v..
Đối với những tổ chức, cơ quan làm việc theo chế độ tập thể phải bảo đảm
nguyên tắc lãnh đạo tập thể thực sự, tránh dân chủ và tập thể hình thức. Mặc dầu
hoạt động theo chế độ tập thể quyết định, song mỗi cá nhân được phân công vẫn
phải chịu trách nhiệm về lĩnh vực được quản lý, đồng thời phải cùng chia sẻ trách
nhiệm chung với tập thể, tránh sự lẩn tránh, vô trách nhiệm.
Đối với các cơ quan, tổ chức làm việc theo chế độ một thủ trưởng thì thủ
trưởng cơ quan phải biết phát huy sức mạnh tập thể, xây dựng phong cách làm việc

dân chủ, tránh chuyên quyền, độc đoán.
II. TỔ CHỨC BỘ MÁY HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
1. Tổ chức bộ máy hành chính nhà nước ở trung ương


a) Quan niệm về Chính phủ
Ở các nước, mô hình tổ chức Chính phủ hiện nay thường có hai loại chính: thứ
nhất, người đứng đầu nhà nước nắm quyền hành pháp cao nhất; thứ hai, người
đứng đầu nhà nước giới thiệu để nghị viện bầu Thủ tướng và sau đó Thủ tướng lập
Chính phủ. Ở Việt Nam hiện nay, theo Điều 49 Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung
năm 2001), Chính phủ là: “cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính
nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.2
Thủ tướng Chính phủ do Quốc hội bầu ra theo đề nghị của Chủ tịch nước tại
kỳ họp thứ nhất của mỗi khoá Quốc hội. Thủ tướng đề nghị danh sách các Bộ
trưởng và các thành viên khác của Chính phủ để Quốc hội phê chuẩn. Quy định
pháp lý này vừa xác định vai trò và trách nhiệm của tập thể Chính phủ trước Quốc
hội, vừa xác định vai trò cá nhân của Thủ tướng là người lãnh đạo toàn bộ công
việc của Chính phủ và chịu trách nhiệm trước Quốc hội. Mặt khác cũng xác định
vai trò và trách nhiệm của các bộ trưởng trong tập thể Chính phủ và vai trò cá nhân
bộ trưởng về lĩnh vực mình phụ trách.
Trong điều kiện cụ thể của Việt Nam, Chính phủ là một thiết chế chính trị hành chính nhà nước, nắm quyền hành pháp, với chức năng: thống nhất việc quản
lý thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá, quốc phòng, an ninh
và đối ngoại của Nhà nước; lập quy để thực hiện các luật do quyền lập pháp định
ra; quản lý công việc hàng ngày của Nhà nước; tổ chức bộ máy hành chính nhà
nước và quản lý nhân sự của bộ máy đó; chức năng tham gia quá trình lập pháp.
Chính phủ lãnh đạo hoạt động của các bộ và chính quyền địa phương trên hai
phương diện:
- Thứ nhất, Chính phủ với tư cách là cơ quan chấp hành cao nhất của cơ quan
quyền lực nhà nước cao nhất thực hiện quyền lập quy bằng việc ban hành các văn

bản pháp quy dưới luật (Nghị quyết, Nghị định) để thực hiện các đạo luật, các pháp
lệnh và các nghị quyết của Quốc hội và Uỷ ban thường vụ Quốc hội có tính chất
bắt buộc thi hành trên phạm vi cả nước. Các bộ, ngành, địa phương có nghĩa vụ
thực hiện các văn bản pháp quy đó. Hội đồng nhân dân các cấp căn cứ vào tình
hình cụ thể của địa phương để ra quyết nghị các biện pháp thực hiện quyết định
của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Chính phủ đồng thời ban hành các
nghị quyết cho Uỷ ban nhân dân cùng cấp thực hiện.
- Thứ hai, Chính phủ với tư cách cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, từ trung ương đến Uỷ ban nhân dân
các cấp.
b) Nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ
Nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ được ghi trong Hiến pháp và Luật Tổ
2

. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2012, tr. 60.


chức Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trên nguyên tắc
chung, Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội và là cơ quan hành chính nhà
nước cao nhất.
Những quyền cơ bản trên được quy định chi tiết trong Luật Tổ chức Chính phủ.
Luật Tổ chức Chính phủ năm 2001 quy định nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ
gồm:
- Lãnh đạo công tác của các bộ, các cơ quan ngang bộ và các cơ quan thuộc
Chính phủ, Uỷ ban nhân dân các cấp, xây dựng và kiện toàn hệ thống bộ máy hành
chính nhà nước thống nhất từ trung ương đến cơ sở; hướng dẫn; kiểm tra Hội đồng
nhân dân thực hiện các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên; tạo điều kiện để Hội
đồng nhân dân thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn theo luật định; đào tạo bồi dưỡng,
sắp xếp và sử dụng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức làm việc trong các đơn vị
sự nghiệp công lập.

- Bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật trong các cơ quan nhà nước, tổ
chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế đơn vị vũ trang nhân dân và
công dân; tổ chức và lãnh đạo công tác tuyên truyền, giáo dục Hiến pháp và pháp
luật trong nhân dân.
- Trình dự án luật, pháp lệnh và các dự án khác trước Quốc hội và Uỷ ban
thường vụ Quốc hội.
- Thống nhất quản lý việc xây dựng, phát triển nền kinh tế quốc dân, phát triển
văn hóa, giáo dục, y tế, khoa học và công nghệ, các dịch vụ công; quản lý và bảo
đảm sử dụng có hiệu quả tài sản thuộc sở hữu toàn dân; thực hiện kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước, chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia.
- Thi hành những biện pháp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tạo
điều kiện cho công dân sử dụng quyền và làm tròn nghĩa vụ của mình; bảo vệ tài
sản, lợi ích của Nhà nước và của xã hội; bảo vệ môi trường.
- Củng cố và tăng cường nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân; bảo đảm
an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; xây dựng các lực lượng vũ trang nhân
dân; thi hành lệnh động viên, lệnh ban bố tình trạng khẩn cấp và mọi biện pháp cần
thiết khác để bảo vệ đất nước.
- Tổ chức và lãnh đạo công tác kiểm kê thống kê của Nhà nước; công tác thanh
tra và kiểm tra nhà nước, chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu,
hách dịch, cửa quyền trong bộ máy nhà nước; giải quyết khiếu nại, tố cáo của công
dân.
- Thống nhất quản lý công tác đối ngoại, đàm phán, ký kết điều ước quốc tế
nhân danh Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trừ trường hợp do Chủ
tịch nước ký với người đứng đầu Nhà nước khác; đàm phán, ký, phê duyệt, gia
nhập điều ước quốc tế nhân danh Chính phủ; chỉ đạo việc thực hiện các điều ước


quốc tế mà Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc gia nhập;
bảo vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích chính đáng của tổ chức và công dân Việt Nam
ở nước ngoài.

- Thực hiện chính sách xã hội, chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo; thống
nhất quản lý công tác thi đua, khen thưởng.
- Quyết định việc điều chỉnh địa giới các đơn vị hành chính dưới cấp tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương.
- Phối hợp với Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Ban Chấp hành
Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam, Ban Chấp hành Trung ương của đoàn thể
nhân dân trong khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình; tạo điều kiện để các
tổ chức đó hoạt động có hiệu quả3.
Trong tổ chức hệ thống hành chính nhà nước, Chính phủ có quyền hạn và
nhiệm vụ:
- Trình Quốc hội quyết định cơ cấu tổ chức của Chính phủ, thành lập, bãi bỏ
các bộ, cơ quan ngang bộ, thành lập mới, nhập, chia, điều chỉnh địa giới tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương, thành lập hoặc giải thể đơn vị hành chính - kinh tế đặc
biệt.
- Quyết định thành lập mới, nhập, chia, điều chỉnh địa giới các đơn vị hành
chính dưới cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
- Tổ chức và chỉ đạo hoạt động của hệ thống bộ máy hành chính nhà nước
thống nhất từ trung ương đến cơ sở; bảo đảm hiệu lực quản lý nhà nước thông suốt
trong hệ thống hành chính nhà nước, cơ quan hành chính cấp dưới phải phục tùng
sự lãnh đạo và chấp hành nghiêm chỉnh các quyết định của cơ quan hành chính cấp
trên.
- Quyết định và chỉ đạo thực hiện phân công phân cấp quản lý ngành và lĩnh
vực trong hệ thống hành chính nhà nước.
- Chỉ đạo thực hiện cải cách hành chính nhà nước, xây dựng nền hành chính
dân chủ, trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại, hoạt động có hiệu lực,
hiệu quả.
3.

Điều 8 Luật Tổ chức Chính phủ năm 2001 quy định cụ thể quyền hạn và nhiệm vụ của Chính phủ trên 10 lĩnh vực:
1. Nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ trong lĩnh vực kinh tế.

2. Nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ trong lĩnh vực khoa học, công nghệ và môi trường.
3. Nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ trong lĩnh vực văn hóa: giáo dục, thông tin, thể thao và du lịch.
4. Nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ trong lĩnh vực y tế và xã hội.
5. Nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ trong lĩnh vực dân tộc và tôn giáo.
6. Nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh và trật tự, an toàn xã hội.
7. Nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ trong lĩnh vực đối ngoại.
8. Nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ trong lĩnh vực pháp luật và hành chính tư pháp.
9. Nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ trong lĩnh vực tổ chức hệ thống hành chính nhà nước.
10. Nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ đối với Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.


- Quyết định thành lập, sáp nhập, giải thể cơ quan thuộc Chính phủ, quy định
nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy của bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc
Chính phủ; quy định về tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân và
hướng dẫn về tổ chức một số cơ quan chuyên môn để Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
quyết định phù hợp với đặc điểm riêng của địa phương; quy định định mức biên chế
hành chính, sự nghiệp thuộc Uỷ ban nhân dân.
- Thống nhất quản lý cán bộ, công chức, viên chức trong các cơ quan nhà
nước từ trung ương đến cơ sở; xây dựng và đào tạo đội ngũ cán bộ, công chức,
viên chức làm việc trong các đơn vị sự nghiệp công lập trong sạch, có trình độ,
năng lực, trung thành với Nhà nước xã hội chủ nghĩa, tận tụy phục vụ nhân dân;
quyết định và chỉ đạo thực hiện các chính sách, chế độ về đào tạo, tuyển dụng sử
dụng, tiền lương, khen thưởng, kỷ luật, nghỉ hưu và các chế độ khác đối với cán
bộ, công chức, viên chức làm việc trong các đơn vị sự nghiệp công lập; quy định
và chỉ đạo thực hiện chính sách cụ thể đối với cán bộ xã, phường, thị trấn.
Đối với Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Chính phủ
có quyền hạn:
- Hướng dẫn và kiểm tra Hội đồng nhân dân trong việc thực hiện Hiến pháp,
luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc
hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước, nghị quyết, nghị định của Chính phủ, quyết

định, chỉ thị của Thủ tướng; kiểm tra tính hợp pháp của các nghị quyết của Hội đồng
nhân dân.
- Tạo điều kiện để Hội đồng nhân dân thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn theo
luật định:
+ Gửi Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương các nghị quyết,
nghị định của Chính phủ, quyết định, chỉ thị của Thủ tướng có liên quan đến hoạt
động của chính quyền địa phương; giải quyết những kiến nghị của Hội đồng nhân
dân;
+ Bồi dưỡng đại biểu Hội đồng nhân dân kiến thức về quản lý nhà nước;
+ Bảo đảm cơ sở vật chất, tài chính để Hội đồng nhân dân hoạt động.
c) Cơ cấu tổ chức của Chính phủ
Cơ cấu tổ chức của Chính phủ do Hiến pháp và Luật Tổ chức Chính phủ quy
định. Tuỳ thuộc vào từng giai đoạn cụ thể, cơ cấu tổ chức của Chính phủ có những
yếu tố cấu thành khác nhau.
Chính phủ gồm có:
- Thủ tướng Chính phủ.
- Các Phó Thủ tướng.
- Các Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang bộ.
Số Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang bộ do Quốc hội


quyết định.
Thủ tướng do Quốc hội bầu, miễn nhiệm và bãi nhiệm theo đề nghị của Chủ
tịch nước.
Thủ tướng trình Quốc hội phê chuẩn đề nghị về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm,
cách chức và từ chức đối với Phó Thủ tướng, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan
ngang bộ.
Căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội, Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm,
cách chức, chấp thuận việc từ chức đối với Phó Thủ tướng, Bộ trưởng, Thủ trưởng
cơ quan ngang bộ4.

d) Hình thức hoạt động của Chính phủ
Hoạt động của Chính phủ được tiến hành theo ba hình thức:
- Hình thức thứ nhất là các phiên họp của Chính phủ (hoạt động của tập thể
Chính phủ). Luật Tổ chức Chính phủ quy định chế độ cụ thể về các kỳ họp (hàng
tháng) của Chính phủ5.
Hoạt động và quyết định mang tính tập thể của Chính phủ trên những lĩnh vực
cụ thể được quy định trong Luật Tổ chức Chính phủ. Điều này nhằm tăng cường
tính trách nhiệm của tập thể Chính phủ trước các vấn đề quan trọng của đất nước.
Luật Tổ chức Chính phủ năm 2001 quy định các công việc sau đây phải do tập thể
Chính phủ thảo luận tập thể và biểu quyết theo đa số:
+ Chương trình hoạt động hàng năm của Chính phủ;
+ Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh hàng năm và cả nhiệm kỳ, các dự án
luật, pháp lệnh và các dự án khác trình Quốc hội và Uỷ ban thường vụ Quốc hội;
các nghị quyết, nghị định của Chính phủ;
+ Dự án chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội dài hạn,
năm năm, hàng năm, các công trình quan trọng; dự toán ngân sách nhà nước, dự
kiến phân bổ ngân sách trung ương và mức bổ sung từ ngân sách trung ương cho
ngân sách địa phương; tổng quyết toán ngân sách nhà nước hàng năm trình Quốc
hội;
+ Đề án về chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo trình Quốc hội;
+ Các chính sách cụ thể về phát triển kinh tế - xã hội, tài chính, tiền tệ, các vấn
đề quan trọng về quốc phòng an ninh, đối ngoại;
+ Các đề án trình Quốc hội về việc thành lập, sáp nhập, giải thể bộ, cơ quan
ngang bộ; việc thành lập mới, nhập chia, điều chỉnh địa giới tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương, việc thành lập hoặc giải thể các đơn vị hành chính - kinh tế đặc
biệt; quyết định việc thành lập mới, nhập, chia, điều chỉnh địa giới các đơn vị hành
chính dưới cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
+ Quyết định việc thành lập, sáp nhập, giải thể cơ quan thuộc Chính phủ;
+ Các báo cáo của Chính phủ trước Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ
4


. Điều 3, Luật Tổ chức Chính phủ, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 7-8.

5.

Xem chi tiết Điều 31-35 Luật Tổ chức Chính phủ, Sđd, tr. 36-37.


tịch nước6.
- Hình thức thứ hai là sự chỉ đạo, điều hành của Thủ tướng và các Phó Thủ
tướng là những người giúp Thủ tướng phụ trách một hoặc một số lĩnh vực theo sự
phân công của Thủ tướng. Khi Thủ tướng vắng mặt thì một Phó Thủ tướng được
Thủ tướng uỷ nhiệm thay mặt Thủ tướng lãnh đạo công tác của Chính phủ.
- Hình thức thứ ba là hoạt động của các Bộ trưởng với tư cách là thành viên
tham gia vào công việc chung của Chính phủ và với tư cách là người đứng đầu một
cơ quan ngang bộ.
đ) Nhiệm vụ, quyền hạn của Thủ tướng Chính phủ
Theo Hiến pháp của Việt Nam, thiết chế tổ chức cơ quan chấp hành và hành
chính của nhà nước, Thủ tướng Chính phủ là người đứng đầu Chính phủ. Luật Tổ
chức Chính phủ năm 2001 quy định: Thủ tướng chịu trách nhiệm trước Quốc hội
và báo cáo công tác với Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước.
Thủ tướng Chính phủ vừa là người đứng đầu chính phủ có những nhiệm vụ và
quyền hạn sau đây:
- Lãnh đạo công tác của Chính phủ, các thành viên Chính phủ, Thủ trưởng cơ
quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các cấp:
+ Quyết định các chủ trương, biện pháp cần thiết để lãnh đạo và điều hành hoạt
động của Chính phủ và hệ thống hành chính nhà nước từ trung ương đến cơ sở;
+ Chỉ đạo việc xây dựng các dự án luật trình Quốc hội, các dự án pháp lệnh
trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội; các văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm
quyền của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ.

+ Quy định chế độ làm việc của Thủ tướng với thành viên Chính phủ, Chủ tịch
Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
+ Chỉ đạo, phối hợp hoạt động của các thành viên Chính phủ; quyết định những
vấn đề có ý kiến khác nhau giữa các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Thủ
trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương.
+ Đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện những quyết định của Quốc hội, Uỷ ban
thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ và Thủ tướng ở các ngành, các cấp.
- Triệu tập và chủ tọa các phiên họp của Chính phủ.
- Đề nghị Quốc hội thành lập hoặc bãi bỏ các bộ, cơ quan ngang bộ; trình Quốc
hội phê chuẩn đề nghị về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, cho từ chức vì lý do
sức khỏe hoặc lý do khác đối với Phó Thủ tướng, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan
ngang bộ; trong thời gian Quốc hội không họp, trình Chủ tịch nước quyết định tạm
định chỉ công tác của Phó Thủ tướng, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ.
- Thành lập hội đồng, ủy ban thường xuyên hoặc lâm thời khi cần thiết để giúp
6

. Điều 19, Luật Tổ chức Chính phủ, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 26-27.


Thủ tướng nghiên cứu, chỉ đạo, phối hợp giải quyết những vấn đề quan trọng, liên
ngành.
- Bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thứ trưởng và chức vụ tương đương; phê
chuẩn việc bầu cử các thành viên Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương; miễn nhiệm, điều động, cách chức Chủ tịch, các Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân
dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; phê chuẩn việc miễn nhiệm, bãi nhiệm
các thành viên khác của Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
- Quyết định các biện pháp cải tiến lề lối làm việc, hoàn thiện bộ máy quản lý
nhà nước, đề cao kỷ luật, ngăn ngừa và kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng,
lãng phí quan liêu, hách dịch, cửa quyền trong bộ máy và trong cán bộ, công chức,

viên chức làm việc trong các đơn vị sự nghiệp công lập.
- Đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ những quy định, chỉ thị, thông tư của Bộ
trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân và
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trái với Hiến
pháp, luật và các văn bản của các cơ quan nhà nước cấp trên.
- Đình chỉ việc thi hành những nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương trái với Hiến pháp, luật và các văn bản của các cơ quan
nhà nước cấp trên, đồng thời đề nghị Uỷ ban thường vụ Quốc hội bãi bỏ.
- Thực hiện chế độ báo cáo trước nhân dân về những vấn đề quan trọng thông
qua những báo cáo của Chính phủ trước Quốc hội, trả lời của Chính phủ đối với
chất vấn của đại biểu Quốc hội và ý kiến phát biểu với cơ quan thông tin đại
chúng7.
Trên lĩnh vực ban hành văn bản quy phạm pháp luật quản lý nhà nước, Thủ
tướng Chính phủ ký các nghị định của Chính phủ, ra quyết định để triển khai thực
hiện pháp luật đối với tất cả các ngành, các địa phương đến tận cơ sở.
Các nghị định của Chính phủ, quyết định của Thủ tướng Chính phủ có hiệu lực thi
hành trong phạm vi cả nước8.
e) Bộ và Bộ trưởng
* Khái niệm:
Theo quy định tại Nghị định số 36/2012/NĐ-CP của Chính phủ về chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ, cơ quan ngang Bộ ngày 18-4-2012,
Bộ là cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với ngành
(hoặc các ngành) hoặc lĩnh vực (hoặc các lĩnh vực) công tác trong phạm vi cả
nước; quản lý nhà nước đối với các loại dịch vụ công thuộc ngành, lĩnh vực. Cơ
quan ngang Bộ là khái niệm dùng để chỉ cơ quan nhà nước có địa vị pháp lý ngang
với Bộ (như Thanh tra Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước...).
Phạm vi quản lý nhà nước của bộ đối với ngành hoặc lĩnh vực được phân công
7

. Điều 20, Luật Tổ chức Chính phủ, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 27-30.


8.

Xem chi tiết: Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật và Luật Tổ chức Chính phủ.


bao gồm hoạt động của mọi tổ chức kinh tế, văn hoá, xã hội..., tổ chức hành chính
Nhà nước, đơn vị sự nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, các tổ chức đoàn thể, xã
hội, hoạt động của công dân Việt Nam cũng như các tổ chức và công dân nước
ngoài trên lãnh thổ Việt Nam thuộc phạm vi ngành do bộ quản lý.
* Phân loại bộ
Trên thực tế, có thể chia các bộ thành 2 nhóm: bộ quản lý nhà nước đối với lĩnh
vực và bộ quản lý nhà nước theo ngành.
Thực hiện chủ trương đổi mới cơ cấu tổ chức các cơ quan của Chính phủ
theo hướng quản lý đa ngành, đa lĩnh vực, bắt dầu từ Nghị quyết Hội nghị
Trung ương 7 (khóa VII), cơ cấu tổ chức của Chính phủ đã sắp xếp và rút gọn đầu
mối, từ chỗ có 49 đơn vị đã giảm xuống còn 39 đơn vị. Đến nhiệm kỳ Chính phủ
khóa XII tiếp tục giảm xuống còn 22 bộ, cơ quan ngang bộ (cơ cấu tổ chức của
Chính phủ nhiệm kỳ khóa XII được xây dựng trên tinh thần quán triệt Nghị quyết
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng và Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư,
Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa X đã được
Quốc hội phê chuẩn tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa XII). Trên cơ sở kế thừa
những thành quả từ nhiệm kỳ khóa XII về cơ cấu tổ chức Chính phủ và quán triệt
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, cơ cấu tổ chức Chính
phủ khóa XIII được phê chuẩn tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa XIII gồm 22 bộ
và cơ quan ngang bộ (theo Nghị quyết số: 03/2011/QH13 ngày 02-8-2011) với mục
tiêu trọng tâm là tổ chức thông suốt, hiệu lực, hiệu quả, bảo đảm nguyên tắc tập
trung dân chủ để thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội.
- Tổ chức bộ quản lý nhà nước theo lĩnh vực đều có ở các nước để thực hiện
quản lý nhà nước từng lĩnh vực lớn như: kế hoạch, tài chính, ngân hàng, khoa học,

công nghệ, lao động, giá, nội vụ, ngoại giao, tổ chức và công vụ. Các lĩnh vực này
liên quan đến hoạt động của tất cả các bộ, các cấp quản lý nhà nước, các tổ chức
trong xã hội và công dân. Bộ quản lý lĩnh vực có trách nhiệm giúp Chính phủ
nghiên cứu và xây dựng chiến lược kinh tế - xã hội chung; xây dựng các dự án, kế
hoạch tổng hợp và cân đối liên ngành; xây dựng các quy định chính sách, chế độ
chung hoặc ban hành những pháp quy về lĩnh vực phụ trách và hướng dẫn các cơ
quan nhà nước và các tổ chức kinh tế, văn hoá, xã hội thi hành; kiểm tra và bảo
đảm sự chấp hành thống nhất pháp luật trong hoạt động của các bộ và các cấp về
lĩnh vực do bộ quản lý, đồng thời có trách nhiệm phục vụ và tạo điều kiện thuận lợi
cho bộ quản lý ngành hoàn thành nhiệm vụ.
- Tổ chức bộ quản lý chuyên ngành để quản lý những ngành kinh tế - kỹ thuật, văn
hoá, xã hội và cũng có thể quản lý một nhóm liên ngành. Đó là những bộ có trách
nhiệm chỉ đạo toàn diện các cơ quan, đơn vị hành chính nhà nước và sự nghiệp; thực
hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước trên các lĩnh vực cụ thể do bộ phụ trách.


* Nhiệm vụ và quyền hạn quản lý nhà nước của bộ.
Bộ do Quốc hội quyết định thành lập, do đó trên nguyên tắc chung, nhiệm vụ,
quyền hạn của Bộ được quy định trong Hiến pháp, Luật Tổ chức Chính phủ và văn
bản quy phạm dưới luật. Theo Nghị định 36/2012/NĐ-CP ngày 18-4-2012 của
Chính phủ về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ, cơ quan
ngang Bộ, nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ được quy định gồm:
- Về pháp luật:
+ Trình Chính phủ dự án luật, dự thảo nghị quyết của Quốc hội; dự án pháp
lệnh, dự thảo nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội; dự thảo nghị định của
Chính phủ theo chương trình, kế hoạch xây dựng pháp luật hàng năm của Chính
phủ và các nghị quyết, dự án, đề án theo phân công của Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ.
+ Trình Thủ tướng Chính phủ dự thảo quyết định, chỉ thị và các văn bản khác
theo phân công.

+ Ban hành thông tư, quyết định, chỉ thị và các văn bản khác về quản lý nhà
nước đối với ngành, lĩnh vực; hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện các văn bản đó.
+ Chỉ đạo và tổ chức thực hiện công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp
luật thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ.
+ Kiểm tra các văn bản quy phạm pháp luật do các Bộ, Hội đồng nhân dân, Ủy
ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương ban hành có liên quan đến
ngành, lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ; nếu phát hiện những quy
định do các cơ quan đó ban hành có dấu hiệu trái với các văn bản quy phạm pháp
luật thuộc ngành, lĩnh vực do Bộ quản lý thì xử lý theo quy định của pháp luật.
- Về chiến lược, quy hoạch, kế hoạch:
+ Trình Chính phủ chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển dài hạn, năm
năm, hàng năm và các dự án, công trình quan trọng quốc gia thuộc ngành, lĩnh
vực; công bố (trừ những nội dung thuộc bí mật nhà nước) và tổ chức chỉ đạo thực
hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch sau khi được phê duyệt.
+ Thẩm định về nội dung các báo cáo nghiên cứu tiền khả thi và báo cáo
nghiên cứu khả thi các chương trình, dự án, đề án thuộc ngành, lĩnh vực; phê duyệt
và quyết định đầu tư các dự án thuộc thẩm quyền của Bộ theo quy định của pháp
luật.
- Về hợp tác quốc tế:
+ Trình Chính phủ quyết định chủ trương, biện pháp để tăng cường và mở rộng
quan hệ với nước ngoài và các tổ chức quốc tế; việc ký kết, phê chuẩn, phê duyệt
hoặc gia nhập và biện pháp bảo đảm thực hiện điều ước quốc tế nhân danh Nhà
nước hoặc nhân danh Chính phủ về ngành, lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà
nước của Bộ.


+ Tổ chức đàm phán, ký điều ước quốc tế theo ủy quyền của cơ quan Nhà nước
có thẩm quyền và tổ chức thực hiện kế hoạch hợp tác quốc tế, điều ước quốc tế mà
Việt Nam là thành viên trong phạm vi quản lý nhà nước đối với ngành, lĩnh vực.
+ Tham gia các tổ chức quốc tế theo phân công của Chính phủ; ký kết và tổ

chức thực hiện thỏa thuận quốc tế nhân danh Bộ theo quy định của pháp luật; tổ
chức thực hiện hợp tác quốc tế để thúc đẩy nâng cao hiệu quả, hiệu lực hoạt động
của cơ quan mình.
- Về cải cách hành chính:
+ Trình Chính phủ quyết định việc phân cấp nhiệm vụ quản lý nhà nước về
ngành, lĩnh vực cho chính quyền địa phương.
+ Quyết định và tổ chức thực hiện kế hoạch cải cách hành chính, công khai các
loại thủ tục hành chính thuộc ngành, lĩnh vực; quyết định phân cấp cho các cơ
quan, đơn vị trực thuộc theo thẩm quyền.
+ Cải cách tổ chức bộ máy của Bộ bảo đảm tinh gọn, hợp lý, giảm đầu mối, bao
quát đầy đủ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ theo phân công của Chính
phủ.
+ Thực hiện đổi mới phương thức làm việc, hiện đại hóa công sở, văn hóa công
sở và ứng dụng các kết quả nghiên cứu khoa học, công nghệ vào hoạt động của Bộ.
- Về quản lý nhà nước các dịch vụ công thuộc ngành, lĩnh vực:
+ Trình Chính phủ ban hành cơ chế, chính sách về cung ứng các dịch vụ công;
thực hiện xã hội hóa các hoạt động cung ứng dịch vụ công trong ngành, lĩnh vực.
+ Trình Thủ tướng Chính phủ quy hoạch mạng lưới tổ chức các đơn vị sự
nghiệp dịch vụ công.
+ Hướng dẫn việc thực hiện chính sách, pháp luật và hỗ trợ cho các tổ chức
thực hiện các hoạt động sự nghiệp dịch vụ công thuộc ngành, lĩnh vực theo quy
định của pháp luật.
- Về doanh nghiệp, hợp tác xã và các loại hình kinh tế tập thể, tư nhân khác:
+ Trình Chính phủ ban hành cơ chế, chính sách khuyến khích, hỗ trợ và định
hướng phát triển doanh nghiệp, hợp tác xã và các loại hình kinh tế tập thể, tư nhân
khác thuộc các thành phần kinh tế trong ngành, lĩnh vực.
+ Hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện các quy định đối với ngành, nghề kinh
doanh, dịch vụ có điều kiện theo danh mục Chính phủ quy định và xử lý vi phạm
thuộc thẩm quyền.
+ Thực hiện quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nước theo phân công, phân

cấp của Chính phủ đối với các công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà
nước làm chủ sở hữu và phần vốn nhà nước đầu tư vào các doanh nghiệp khác
được tổ chức và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp.
- Về hội, tổ chức phi Chính phủ:
+ Công nhận ban vận động về thành lập hội, tổ chức phi Chính phủ; có ý kiến


bằng văn bản với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc cho phép thành lập;
chia, tách; sáp nhập; hợp nhất; giải thể; đổi tên và phê duyệt điều lệ hội, tổ chức
phi Chính phủ.
+ Hướng dẫn, tạo điều kiện cho hội, tổ chức phi Chính phủ tham gia các hoạt
động trong ngành, lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ.
+ Kiểm tra, thanh tra việc thực hiện các quy định của pháp luật đối với hội, tổ
chức phi Chính phủ hoạt động trong ngành, lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà
nước của Bộ; xử lý hoặc kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý các vi
phạm pháp luật của hội, tổ chức phi Chính phủ theo quy định của pháp luật.
- Về tổ chức bộ máy, biên chế công chức và số lượng viên chức:
+ Trình Chính phủ quyết định: chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ
chức của Bộ; thành lập, tổ chức lại, giải thể tổng cục và tổ chức tương đương thuộc
Bộ; cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc
ngành, lĩnh vực.
+ Trình Thủ tướng Chính phủ quyết định: thành lập, tổ chức lại, giải thể các vụ,
cục và tương đương, đơn vị sự nghiệp công lập thuộc thẩm quyền quyết định của
Thủ tướng Chính phủ; chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của tổng
cục và tổ chức tương đương thuộc Bộ.
+ Quyết định việc thành lập, tổ chức lại, giải thể các đơn vị sự nghiệp công lập
khác không thuộc thẩm quyền của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ theo quy định
của pháp luật.
+ Quyết định thành lập phòng trong vụ thuộc Bộ, Thanh tra Bộ, Văn phòng Bộ
và chi cục thuộc cục theo quy định tại Nghị định của Chính phủ quy định chức

năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ.
+ Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của vụ và cục
thuộc Bộ, Thanh tra Bộ, Văn phòng Bộ, các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Bộ
theo quy định của pháp luật.
+ Chủ trì, phối hợp với Bộ Nội vụ ban hành thông tư liên tịch hướng dẫn chung
về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của các cơ quan chuyên môn
về ngành, lĩnh vực thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
và Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.
+ Xây dựng Danh mục vị trí việc làm, cơ cấu công chức theo ngạch và viên
chức theo chức danh nghề nghiệp để xác định kế hoạch biên chế công chức hàng
năm của Bộ và số lượng viên chức làm việc trong đơn vị sự nghiệp công lập hàng
năm của Bộ gửi Bộ Nội vụ theo quy định của pháp luật.
+ Quyết định giao biên chế công chức cho các tổ chức thuộc Bộ; quản lý biên
chế công chức trong các tổ chức, đơn vị thuộc Bộ; quản lý vị trí việc làm và số
lượng công chức, viên chức trong các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Bộ theo quy


định của pháp luật.
- Về cán bộ, công chức, viên chức:
+ Trình Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thứ trưởng.
+ Quyết định bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức người đứng đầu, cấp phó của
người đứng đầu các tổ chức, đơn vị thuộc cơ cấu tổ chức của Bộ, bao gồm: tổng
cục và tổ chức tương đương, cục, vụ, thanh tra, văn phòng, các đơn vị sự nghiệp
công lập và phòng trong vụ thuộc Bộ, Thanh tra Bộ, Văn phòng Bộ.
Người đứng đầu các tổng cục và tổ chức tương đương, cục, đơn vị sự nghiệp
công lập thuộc Bộ quyết định bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các chức danh
lãnh đạo, quản lý của các đơn vị thuộc cấp mình quản lý.
Việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các chức danh lãnh đạo, quản lý nêu
trên thuộc Bộ thực hiện theo quy định của Đảng và quy định của pháp luật.
+ Quản lý cán bộ, công chức, viên chức thuộc Bộ theo quy định của pháp luật.

Thực hiện các biện pháp cụ thể để tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính đối với
cán bộ, công chức, viên chức thuộc Bộ; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí,
phòng, chống tham nhũng, quan liêu, hách dịch, cửa quyền trong các tổ chức, đơn
vị thuộc Bộ.
+ Xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức,
viên chức và việc tuyển dụng, sử dụng, điều động, luân chuyển, nghỉ hưu, chế độ
tiền lương, khen thưởng, kỷ luật và các chế độ khác đối với cán bộ, công chức, viên
chức thuộc Bộ theo quy định của pháp luật.
+ Xây dựng tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ của công chức theo ngạch thuộc
ngành, lĩnh vực để Bộ Nội vụ ban hành; ban hành tiêu chuẩn chức danh nghề
nghiệp và cơ cấu viên chức thuộc ngành, lĩnh vực và tiêu chuẩn chức danh lãnh
đạo, quản lý của các cơ quan chuyên môn về ngành, lĩnh vực thuộc Ủy ban nhân
dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương theo quy định của pháp luật.
- Về kiểm tra, thanh tra:
+ Hướng dẫn, kiểm tra và thanh tra việc thực hiện chính sách, pháp luật về ngành,
lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ.
+ Kiểm tra, thanh tra các Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, ủy ban nhân dân các
cấp trong việc thực hiện nhiệm vụ của mình đối với ngành, lĩnh vực thuộc phạm vi
quản lý nhà nước của Bộ.
+ Giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của tổ chức, cá nhân liên quan đến
ngành, lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ; tổ chức việc tiếp dân theo
quy định của pháp luật.
- Về quản lý tài chính, tài sản:
+ Lập dự toán, phân bổ, quản lý và quyết toán ngân sách hàng năm của cơ quan
mình; kiểm tra tình hình thực hiện ngân sách thuộc ngành, lĩnh vực phụ trách theo


quy định của Luật Ngân sách Nhà nước.
+ Phối hợp với các cơ quan có liên quan xây dựng chế độ, tiêu chuẩn; định mức
chi ngân sách thuộc ngành, lĩnh vực.

+ Quản lý và chịu trách nhiệm về tài sản Nhà nước giao theo quy định của pháp
luật.
* Cơ cấu tổ chức bộ máy của Bộ
Số lượng các đơn vị trong cơ cấu tổ chức mỗi bộ tùy thuộc vào từng loại bộ
đã nêu trên và do Chính phủ quy định trong nghị định về chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và cơ cấu tổ chức bộ máy của bộ 9. Theo Nghị định 36/2012/NĐ-CP
ngày 18-4-2012 của Chính phủ về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ
chức của Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ cấu tổ chức của Bộ, cơ quan ngang Bộ bao
gồm:
- Các tổ chức giúp Bộ trưởng quản lý nhà nước:
+ Vụ;
+ Văn phòng Bộ;
+ Thanh tra Bộ;
+ Cục;
+ Tổng cục và tổ chức tương đương.
- Các đơn vị sự nghiệp công lập được quy định tại Nghị định quy định chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của từng Bộ:
+ Các đơn vị nghiên cứu chiến lược, chính sách về ngành, lĩnh vực;
+ Báo; Tạp chí; Trung tâm Thông tin hoặc Tin học;
+ Trường hoặc Trung tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức;
Học viện thuộc Bộ.
- Bộ trưởng trình Thủ tướng Chính phủ ban hành danh sách các đơn vị sự
nghiệp công lập khác thuộc Bộ đã được cấp có thẩm quyền thành lập.
- Số lượng cấp phó của người đứng đầu các tổ chức thuộc Bộ quy định tại các
khoản 1, 2 và 3 của Điều 15 Nghị định 36/2012/NĐ-CP ngày 18-4-2012 của Chính
phủ về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ, cơ quan ngang
Bộ không quá 03 người.
* Bộ trưởng:
- Bộ trưởng là thành viên Chính phủ, là người đứng đầu và lãnh đạo một Bộ;
tham gia vào hoạt động của tập thể Chính phủ và các công tác khác của Chính phủ;

thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Luật Tổ chức Chính phủ, các quy
định tại Nghị định 36/2012/NĐ-CP ngày 18-4-2012 của Chính phủ về chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ, cơ quan ngang Bộ và văn bản pháp
luật khác có liên quan; chịu trách nhiệm trước Thủ tướng Chính phủ, Quốc hội về
9

. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của bộ do Chính phủ quy định bằng nghị định. Công
chức của các bộ cần tham khảo nghị định thành lập bộ mình để biết rõ cơ cấu tổ chức bộ.


quản lý nhà nước đối với ngành, lĩnh vực trong phạm vi cả nước.
- Người giữ chức vụ cấp phó của Bộ trưởng (sau đây gọi chung là Thứ trưởng)
là người được giao phụ trách, chỉ đạo việc tổ chức thực hiện một hoặc một số lĩnh
vực công tác của Bộ theo sự phân công của Bộ trưởng và chịu trách nhiệm trước
Bộ trưởng và trước pháp luật về nhiệm vụ được phân công.
Khi Bộ trưởng vắng mặt, một Thứ trưởng được Bộ trưởng ủy nhiệm thay Bộ
trưởng điều hành và giải quyết công việc của Bộ và Bộ trưởng.
- Số lượng Thứ trưởng ở mỗi Bộ không quá 04 người. Đối với Bộ quản lý nhà
nước nhiều ngành, lĩnh vực lớn, quan trọng, phức tạp, số lượng Thứ trưởng có thể
nhiều hơn 04 người do Thủ tướng Chính phủ quyết định.
* Chế độ làm việc và trách nhiệm của Bộ trưởng
Theo Nghị định 36/2012/NĐ-CP ngày 18-4-2012 của Chính phủ về chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ, cơ quan ngang Bộ, chế độ làm việc
và trách nhiệm của Bộ trưởng được quy định như sau:
- Chế độ làm việc của Bộ trưởng:
Bộ trưởng làm việc theo chế độ thủ trưởng và Quy chế làm việc của Chính phủ;
bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ; thực hiện chế độ thông tin, báo cáo của Bộ
theo quy định.
- Trách nhiệm của Bộ trưởng đối với Bộ:
+ Chịu trách nhiệm trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ quyết định các vấn

đề liên quan đến ngành, lĩnh vực thuộc thẩm quyền của Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ theo Quy chế làm việc của Chính phủ.
+ Chịu trách nhiệm về chất lượng, nội dung các dự án, chương trình, đề án, văn
bản quy phạm pháp luật do Bộ chuẩn bị.
+ Ban hành Quy chế làm việc của Bộ và chỉ đạo, kiểm tra việc thực hiện Quy
chế đó.
+ Quyết định các công việc thuộc phạm vi quản lý của Bộ và chịu trách nhiệm
về các quyết định đó.
+ Lãnh đạo, chỉ đạo và kiểm tra các tổ chức, đơn vị thuộc Bộ trong việc thực
hiện các nhiệm vụ được giao; chịu trách nhiệm xây dựng đội ngũ công chức, viên
chức có đủ phẩm chất, trình độ, năng lực.
+ Chịu trách nhiệm về toàn bộ công việc thuộc trách nhiệm và thẩm quyền của
mình, kể cả khi đã phân công hoặc ủy nhiệm cho cấp phó.
- Trách nhiệm của Bộ trưởng đối với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ:
+ Thực hiện đầy đủ chức năng quản lý nhà nước của Bộ về các ngành, lĩnh vực.
+ Không chuyển công việc thuộc nhiệm vụ, thẩm quyền của mình lên Thủ
tướng Chính phủ. Đối với những vấn đề vượt quá thẩm quyền hoặc tuy đúng thẩm
quyền nhưng không đủ khả năng và điều kiện để giải quyết, Bộ trưởng phải chủ


động làm việc với Bộ trưởng có liên quan để hoàn chỉnh hồ sơ trình Chính phủ,
Thủ tướng Chính phủ xem xét quyết định.
+ Thực hiện đầy đủ nhiệm vụ và trách nhiệm của thành viên Chính phủ theo Quy
chế làm việc của Chính phủ.
- Trách nhiệm của Bộ trưởng đối với Bộ trưởng khác:
+ Không ban hành văn bản trái với quy định của các Bộ trưởng khác.
+ Chủ trì, phối hợp với các Bộ trưởng khác để giải quyết những vấn đề có liên
quan đến chức năng, nhiệm vụ của Bộ đó.
+ Trả lời bằng văn bản trong thời hạn pháp luật quy định về các vấn đề theo đề
nghị của các Bộ trưởng khác.

- Trách nhiệm của Bộ trưởng đối với Ủy ban nhân dân các cấp:
+ Chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra Ủy ban nhân dân các cấp thực hiện các nhiệm
vụ công tác thuộc ngành, lĩnh vực mình phụ trách.
+ Giải quyết các đề nghị của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương theo thẩm quyền của mình và trả lời bằng văn bản trong thời hạn
pháp luật quy định.
- Trách nhiệm của Bộ trưởng đối với các cơ quan của Quốc hội, với đại biểu
Quốc hội và với cử tri:
+ Trình bày hoặc cung cấp các tài liệu cần thiết theo yêu cầu của Ủy ban
thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc và các ủy ban của Quốc hội.
+ Trả lời các kiến nghị của Hội đồng Dân tộc và các ủy ban của Quốc hội theo
quy định của pháp luật.
+ Trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội và kiến nghị của cử tri về những vấn
đề thuộc ngành, lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ.
- Trách nhiệm của Bộ trưởng đối với các tổ chức chính trị - xã hội:
Bộ trưởng có trách nhiệm phối hợp với người đứng đầu tổ chức Mặt trận Tổ
quốc, Công đoàn và các tổ chức đoàn thể khác trong khi thực hiện nhiệm vụ của
Bộ.
2. Bộ máy hành chính ở địa phương
Theo Điều 123 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001): “Uỷ ban
nhân dân do Hội đồng nhân dân bầu là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân,
cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm chấp hành Hiến
pháp, luật, các văn bản của các cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của Hội
đồng nhân dân”10.
10

69.

. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2012, tr.



Với vị trí là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân và là cơ quan hành
chính nhà nước ở địa phương, Uỷ ban nhân dân có hai tư cách:
- Một là, cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân; chịu trách nhiệm thi hành
các nghị quyết của Hội đồng nhân dân và báo cáo công việc trước Hội đồng nhân
dân cùng cấp và Uỷ ban nhân dân cấp trên. Hội đồng nhân dân có quyền bầu, bãi
miễn các thành viên của Uỷ ban nhân dân, giám sát các hoạt động và bãi bỏ những
quyết định không thích đáng của Uỷ ban nhân dân cùng cấp. Uỷ ban nhân dân chịu
sự giám sát của Hội đồng nhân dân và đôn đốc của Thường trực Hội đồng nhân
dân.
- Hai là, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương (Uỷ ban nhân dân) chịu
trách nhiệm không chỉ chấp hành những nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng
cấp mà còn chấp hành các quyết định của các cơ quan chính quyền cấp trên, thi
hành luật thống nhất trên cả nước, thực hiện chức năng quản lý mọi mặt đời sống
xã hội trên phạm vi lãnh thổ địa phương. Uỷ ban nhân dân các cấp chịu sự lãnh đạo
thống nhất của Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất.
a) Nhiệm vụ, quyền hạn của Uỷ ban nhân dân.
Nhiệm vụ, quyền hạn của Uỷ ban nhân dân từng cấp được quy định tại Luật Tổ
chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 2003. Ở mỗi cấp, Uỷ ban nhân
dân có nhiệm vụ, quyền hạn khác nhau nhưng khái quát lại có thể có những loại
nhiệm vụ, quyền hạn sau:
- Quản lý nhà nước ở địa phương trong các lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp,
ngư nghiệp, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ, văn hoá, giáo
dục, y tế, khoa học, công nghệ và môi trường, thể dục, thể thao, báo chí, phát
thanh, truyền hình và các lĩnh vực xã hội khác, quản lý nhà nước về đất đai và các
nguồn tài nguyên thiên nhiên khác, quản lý việc thực hiện tiêu chuẩn đo lường chất
lượng sản phẩm hàng hoá.
- Tuyên truyền, giáo dục pháp luật, kiểm tra việc chấp hành Hiến pháp, luật,
các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của Hội đồng nhân dân
cùng cấp trong cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang

nhân dân và công dân ở địa phương.
- Bảo đảm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội; thực hiện nhiệm vụ xây
dựng lực lượng vũ trang và xây dựng quốc phòng toàn dân; thực hiện chế độ nghĩa
vụ quân sự, nhiệm vụ hậu cần tại chỗ, nhiệm vụ động viên, chính sách hậu phương
quân đội và chính sách đối với các lực lượng vũ trang nhân dân ở địa phương, quản
lý hộ khẩu, hộ lịch ở địa phương, quản lý việc cư trú, đi lại của người ngoài ở địa
phương.
- Phòng chống thiên tai, bảo vệ tài sản của Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức


xã hội, bảo vệ tính mạng, tự do, danh dự, nhân phẩm, tài sản, các quyền và lợi ích
hợp pháp khác của công dân; chống tham nhũng, chống buôn lậu, làm hàng giả và
các tệ nạn xã hội khác.
- Quản lý công tác tổ chức, biên chế, lao động tiền lương, đào tạo đội ngũ viên
chức làm việc trong các đơn vị sự nghiệp công lập và cán bộ cấp xã, bảo hiểm xã
hội theo sự phân cấp của Chính phủ.
- Tổ chức và chỉ đạo công tác thi hành án ở địa phương theo quy định của pháp
luật.
- Tổ chức, thực hiện việc thu, chi ngân sách của địa phương theo quy định của
pháp luật; phối hợp với các cơ quan hữu quan để bảo đảm thu đúng, thu đủ, thu kịp
thời các loại thuế và các khoản thu khác ở địa phương.
Uỷ ban nhân dân thực hiện việc quản lý địa giới đơn vị hành chính, xây dựng
đề án phân vạch, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính ở địa phương đưa ra Hội
đồng nhân dân cùng cấp thông qua để trình cấp trên xét.
Uỷ ban nhân dân chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Hội đồng nhân
dân cùng cấp và Uỷ ban nhân dân cấp trên. Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh chịu trách
nhiệm và báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân cùng cấp và Chính phủ11.
b) Cơ cấu của Uỷ ban dân nhân
Uỷ ban nhân dân gồm:
- Chủ tịch Uỷ ban nhân dân.

- Các Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân.
- Các uỷ viên ủy ban.
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân là đại biểu Hội đồng nhân dân. Các thành viên khác
của Uỷ ban nhân dân không nhất thiết là đại biểu Hội đồng nhân dân.
Kết quả bầu các thành viên của Uỷ ban nhân dân phải được Chủ tịch Uỷ ban
nhân dân cấp trên trực tiếp phê chuẩn; kết quả bầu các thành viên của Uỷ ban nhân
dân cấp tỉnh phải được Thủ tướng Chính phủ phê chuẩn.
Cơ cấu tổ chức của Uỷ ban nhân dân, số thành viên Uỷ ban nhân dân do Chính
phủ quy định trên cơ sở quy mô dân số, điều kiện phát triển kinh tế - xã hội12.
Các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân các cấp giúp Uỷ ban nhân dân
thực hiện chức năng quản lý nhà nước trên lĩnh vực và nhằm bảo đảm hoạt động
thống nhất quản lý ngành.
Về nguyên tắc, số lượng các cơ quan chuyên môn được xác định trên nhu cầu
hoạt động quản lý tại địa phương. Không nhất thiết ở trung ương có cơ quan
11

. Điều 12, Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 2003.
12

. Nghị định 13/2008/NĐ-CP và Nghị định 14/2008/NĐ-CP của Chính phủ quy định tổ chức các cơ quan
chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban
nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.


chuyên môn nào (bộ) thì ở địa phương phải có những cơ quan tương ứng.
Số lượng các cơ quan chuyên môn do Chính phủ quy định.
c) Hoạt động của Uỷ ban nhân dân.
Uỷ ban nhân dân là một thiết chế tập thể, nhưng “Chủ tịch Uỷ ban nhân dân
lãnh đạo, điều hành hoạt động của Uỷ ban nhân dân.
Khi quyết định những vấn đề quan trọng của địa phương, Uỷ ban nhân dân phải

thảo luận tập thể và ra quyết định theo đa số.
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân có quyền đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ những
văn bản sai trái của các cơ quan thuộc Uỷ ban nhân dân và các văn bản sai trái
của Uỷ ban nhân dân cấp dưới; đình chỉ việc thi hành nghị quyết sai trái các cơ
quan thuộc Uỷ ban nhân dân và các văn bản sai trái của Hội đồng nhân dân cấp
dưới, đồng thời đề nghị Hội đồng nhân dân cấp mình bãi bỏ những nghị quyết
đó”13.
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân là người lãnh đạo và điều hành công việc của Uỷ ban
nhân dân; chịu trách nhiệm cá nhân về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của
mình; cùng tập thể Uỷ ban nhân dân chịu trách nhiệm về hoạt động của Uỷ ban
nhân dân trước Hội đồng nhân dân cùng cấp và trước cơ quan nhà nước cấp trên.
Chủ tịch phân công công tác cho Phó Chủ tịch và các thành viên khác của Uỷ ban
nhân dân.
Uỷ ban nhân dân làm việc theo chế độ tập thể, trong đó mỗi thành viên Uỷ ban
nhân dân chịu trách nhiệm cá nhân về phần công việc trước Hội đồng nhân dân, Uỷ
ban nhân dân và cùng với các thành viên khác chịu trách nhiệm tập thể về hoạt
động của Uỷ ban nhân dân trước Hội đồng nhân dân cấp mình và trước cơ quan
nhà nước cấp trên. Trong tập thể Uỷ ban nhân dân, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân là
người đứng đầu, lãnh đạo công việc của Uỷ ban nhân dân, chỉ đạo các thành viên
khác thực hiện công việc được phân công. Uỷ ban nhân dân thảo luận tập thể và
quyết định theo đa số những việc quan trọng như chương trình làm việc, kế hoạch
và ngân sách; các biện pháp thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân về kinh
tế, xã hội; thông qua báo cáo của Uỷ ban nhân dân trước Hội đồng nhân dân, đề án
thành lập mới, sát nhập, giải thể các cơ quan chuyên môn; vạch và điều chỉnh địa
giới các đơn vị hành chính ở địa phương14.
Nhiệm vụ và quyền hạn của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân.
Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân quy định: Chủ tịch Uỷ
ban nhân dân có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
- Lãnh đạo công tác của Uỷ ban nhân dân, các thành viên của Uỷ ban nhân dân,
các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân:

13

. Điều 12 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2012,
tr. 69 - 70.
14
. Xem: Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 2003.


×