GIÁ TRỊ CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT ĐỐI VỚI CÔNG
CUỘC ĐỔI MỚI VIỆT NAM
1. PHẦN MỞ ĐẦU
Mác- Ăng ghen đã đi vào lịch sử tư tưởng triết học nhân loại, tạo nên
một cuộc cách mạng vĩ đại trong triết học bằng việc xây dựng và phát triển cả
chủ nghĩa duy vật lẫn phép biện chứng, làm cho triết trở thành công cụ nhận
thức và cải tạo thế giới. Ngay từ những tác phẩm đầu tay, Mác- Ăng ghen đã
nhận thấy cái "Hạt nhân hợp lý" trong triết học Hê Ghen là phép biện chứng,
Mác- Ăng ghen đã bảo vệ và phát triển tư tưởng về tính thống nhất của thế
giới; Về sự vận động và phát triển tất yếu, nội tại và có tính quy luật của thế
giới. Trong hàng loạt và tác phẩm triết học được thừa nhận là những tác phẩm
kinh điển, như " Hệ tư tưởng Đức", "Chống Đuy Rinh", "Biện chứng của tự
nhiên", Lút Vích Phơ Oi bắc" và "Sự cáo trung của triết học cổ điển Đức",
Mác- Ăng ghen đã khẳng đinh rằng, phép biện chứng là khoa học về những
quy luật phổ biến về sự vận động và phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy,
quy luật mâu thuẫn, quy luật chất và quy luật phủ định của phủ định là những
quy luật cơ bản nhất, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự
phát triển là những nguyên lý nền tảng, các phạm trù tất yếu và ngẫu nhiên,
bản chất và hiện tượng, nguyên nhân và kết quả...Là những cặp phạm trù cơ
bản của phép biện chứng; Và do vậy, phép biện chứng là hình thức tư duy
quan trọng nhất của cả khoa học tự nhiên lẫn khoa học xã hội, là phương pháp
luận nền tảng các khoa học này.
Trên cơ sở thế giới quan đúng đắn, triết học Mác khẳng định, mọi sự
vật hiện tượng, mọi quá trình của tự nhiên, xã hội và tư duy luôn tồn taị trong
mối liên hệ phổ biến, chúng luôn vận động, biến đổi không ngừng theo quy
luật khách quan vốn có của nó, về bản chất của mọi sự vận động biến đổi của
thế giới luôn có su hướng phát triển. Vì vậy có thể nói rằng, triết học Mác là
học thuyết về sự phát triển, phát triển là tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt trong
phép biện chứng duy vật. Vấn đề này cũng khẳng định tính cách mạng, khoa
học của triết học Mác Xít. Đây là vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng trong
nhện thức và cải tạo thế giới của con người. Vì vậy quán triệt quan điểm phát
triển là nguyên tắc trung nhất chỉ đạo mọi hành động, suy nghĩ của con người.
Đối với các Đảng cộng sản, phép biện chứng duy vật về sự phát triểns là cơ
sở lý luận và phương pháp xem xét khoa học trong quá trình hoạch định
đường lối chiến lược và sách lược đúng đắn, là tiêu chí đánh giá một Đảng
Mác Xít chân chính hay giả danh Mác Xít.
2
2
Hiện nay thế giới đang có sự biến động rất sâu sắc, trước những vấn đề
toàn cầu mà không một quốc gia riêng lẻ nào có thể tự giải quyết, nếu không
có sự hợp tác đa phương. Chủ nghĩa xã hội trên thế giới, từ những bài học
thành công và thất bại, cũng như khát vọng và sự thừa tỉnh của các dân tộc có
điều kiện và khả năng tạo ra bước phát triển mới. Theo quy luật tiến hoá của
lịch sử loài người nhất định sẽ tiến tới CNXH.
Những nét mới của tình hình thế giới, khu vực đang tác động mạnh mẽ
đến tình hình nước ta. Trước mắt chúng ta có cả cơ hội lớn và thách thức lớn.
Ngày nay thế và lực của nước ta đã lớn mạnh, nhưng đồng thời phải đối mặt
với nhiều hình thức. Bốn nguy cơ mà Đảng ta đã từng chỉ ra, đến nay vẫn tồn
tại và diên biến phức tạp đan xen tác động lẫn nhau, không thể xem nhẹ nguy
cơ nào.
"Cuôc đấu tranh ý thức hệ trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận hiện nay đặt
ra rất khẩn trương cả trong nước và trên bình diện Quốc tế. Âm mưu tấn công
chúng ta bằng phá hoại tư tưởng, bằng "diễn biến hoà bình" của cả thế lực thù
địch ngày càng gay gắt hơn". (1). Vị vậy để có vũ khí chiến đấu đẩy lùi các
âm mưu và thủ đoạn trên mặt trận tư tưởng bảo vệ Chủ nghĩa Mác Lê Nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời góp phần quan trọng vào việc truyền bá tư
tưởng, xây dựng củng cố niềm tin vững chắc vào đường lối chủ trương của
Đảng thì vấn đề có tính bức thiết cho mỗi Đảng viên Đảng cộng sản là.
Phải nghiên cứu nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ
nghĩa Mác nói chung và phép biện chứng duy vật nói riêng.
Sử dụng phương pháp lô gíc và lịch sử, phương pháp phân tích tổng
hợp tác giả tập trung làm rõ những vấn đề cơ bản về phép biện chứng duy vật
với tư cách là học thuyết khoa học về sự phát triển.
Qua đó tác giả nêu lên những giá trị của nó với tư cách là cơ sở khoa học đề
vận dụng trong hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng trong giai đoạn
cách mạng hiện nay.
I Khái quát lịch sử và nội dung cơ bản của phép biện chứng duy vật
trong triết học Mác-Lênin
Nghiên cứu lịch sử phát triển của triết học nhân loại cho ta nhận thức
rằng: chỉ có triết học Mác-Lênin mới luận giải một cách khoa học về sự tồn
tại, vận động và phát triển của thế giới tự nhiên, xã hội và tư duy. Nó giải đáp
kịp thời những vấn đề bức xúc mà tư tưởng tiên tiến của loài người đặt ra,
đồng thời soi sáng các nhiệm vụ lịch sử đã chín muồi của nhân loại, giúp giải
phóng con người thoát khỏi áp bức bóc lột. Triết học Mác-Lênin không chỉ
giải đáp các nhiệm vụ của lịch sử nhân loại bằng khái quát triết học mà còn
3
3
hiện thực hoá các tư tưởng đó bằng thực tiễn cách mạng, hay nói cách khác:
triết học Mác-Lênin là sự thống nhất hữu cơ giữa giải thích thế giới và cải tạo
thế giới, thống nhất giữa tính cách mạng và tính khoa học.
Triết học Mác-Lênin là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận duy
nhất cho phép con người nhận thức đầy đủ, đúng đắn toàn bộ thế giới trong sự
tồn tại, vận động và phát triển. Sự ra đời của triết học Mác- Lênin là một kết
quả hợp quy luật, là sự thống nhất hữu cơ giữa những tiền đề khách quan và
nhân tố chủ quan. Là một hệ thống triết học trong đó có sự thống nhất giữa
thế giới quan duy vật triệt để và phương pháp luận biện chứng khoa học.
Nói tới Triết học là nói tới hệ thống quan điểm chung nhất của con người
về thế giới và vai trò của con người trong thế giới ấy. Tuy nhiên, tuỳ thuộc
vào lập trường thế giới quan và phương pháp luận, sự chế ước của điều kiện
xã hội-lịch sử và yếu tố chủ quan mà mỗi trường phái triết học có những quan
điểm khác nhau và đối lập nhau. Triết học Mác-Lênin là sự hội tụ đầy đủ
những giá trị tinh hoa trong tư tưởng triết học nhân loại, chính vì vậy nó là cơ
sở lý luận duy nhất cho phép nhận thức thế giới. Với một hệ thống những
nguyên lý, quy luật, phạm trù mang tính khái quát cao, cho đến nay nó vẫn
còn nguyên giá trị.
Trong triết học Mác-Lênin, chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng thống
nhất chặt chẽ với nhau: chủ nghĩa duy vật là chủ nghĩa duy vật biện chứng;
còn phép biện chứng là phép biện chứng duy vật. Sự thống nhất đó đã làm
cho triết học Mác-Lênin trở thành thế giới quan và phương pháp luận thật sự
khoa học trong nhận thức và thực tiển hiện nay vì sự tiến bộ của xã hội.
Trên cơ sở kế thừa và phát triển sáng tạo những “ hạt nhân hợp lý” trong
lịch sử tư tưởng triết học nhân loại, trực tiếp là triết học cổ điển Đức, Mác và
Ăngghen đã xây dựng lên phép biện chứng duy vật. Phép biện chứng duy vật
là sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy vật với phương pháp biện
chứng; giữa lý luận nhận thức với lôgíc biện chứng. Sự ra đời của phép biện
chứng duy vật là cuộc cách mạng trong phương pháp tư duy trước đó, nó đem
lại cho con người tính tự giác cao trong mọi hoạt động. Mỗi luận điểm của
phép biện chứng là kết quả của sự nghiên cứu rút ra từ giới tự nhiên, cũng
như lịch sử xã hội loài người. Nhờ vậy, C.Mác và Ph.Ăngghen đã khắc phục
được những hạn chế vốn có của phép biện chứng tự phát thời cổ đại cũng như
những sai lầm của phép biện chứng duy tâm khách quan thời cận đại, làm cho
phép biện chứng duy vật trở thành một khoa học, thể hiện ở việc giải quyết
đúng đắn vấn đề cơ bản của triết học trên quan điểm thực tiển, ở sự thống
4
4
nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy vật với phép biện chứng, ở quan niệm
duy vật triệt để và ở tính thực tiển cách mạng của nó.
Thứ nhất: Bằng việc đưa quan điểm thực tiển vào hoạt động nhận thức,
đặc biệt việc thấy vai trò quyết định của hoạt động sản xuất vật chất đối với
sự tồn tại và phát triển của xã hội, các nhà duy vật biện chứng đã khắc phục
được hạn chế của chủ nghĩa duy vật trước đó để giải quyết thoả đáng vấn đề
cơ bản của triết học. Ở đây, trong khi khẳng định vai trò quyết định của các
yếu tố vật chất, các nhà duy vật biện chứng đã “không loại trừ việc các lĩnh
vực tư tưởng, đến lượt chúng, lại có tác động ngược lại, nhưng là tác động cấp
hai lên những điều kiện vật chất ấy”1.
Thứ hai : Bằng việc kế thừa những tư tưởng hợp lý của các học thuyết
trước đó, với việc tổng kết thành tựu các khoa học của xã hội đuơng thời,
C.Mác và Ăngghen đã giải thoát thế giới quan duy vật khỏi hạn chế siêu hình
và cứu phép biện chứng khỏi tính chất duy tâm thần bí để hình thành nên chủ
nghĩa duy vật biện chứng với sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy vật
với phép biện chứng. Sự thống nhất này đem lại cho con người một quan niện
hoàn toàn mới về thế giới.
Thứ ba : Quan niện duy vật triệt để. V.I.Lênin nhận định rằng: “Trong
khi nhận thức sâu và phát triển chủ nghĩa duy vật triết học, Mác đã đưa học
thuyết đó tới chổ hoàn bị và mở rộng học thuyết ấy từ chổ nhận thức giới tự
nhiên đến chổ nhận thức xã hội loài người.”2.
Thứ tư : Tính thực tiển cách mạng của chủ nghĩa duy vật biện chứng
trước hết thể hiện ở:
Một là, chủ nghĩa duy vật biện chứng là vũ khí lý luận của giai cấp vô
sản, nó không chỉ vạch ra con đường đấu tranh cho sự thắng lợi của CNCS.
Mà còn là vũ khí quan trọng trong cuộc đấu tranh chống lại các trường phái
phản động và khắc phục những hạn chế của tư tưởng phản khoa học.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng ra đời đã được giai cấp vô sản tiếp nhận
như một công cụ định hướng cho hành động, như vũ khí lý luận trong cuộc
đấu tranh tự giải phóng mình và giải phóng toàn thể nhân loại. Vũ khí lý luận
này đã tạo nên bước chuyển biến về chất của phong trào công nhân từ trình độ
tự phát lên trình độ tự giác. C.Mác và Ăngghen nhận định: “giống như chủ
nghĩa duy vật biện chứng thấy giai cấp vô sản là vũ khí vật chất của mình,
giai cấp vô sản cũng thấy chủ nghĩa duy biện chứng là vũ khí tinh thần của
mình.”3.
1 C.Mác&Ăngghen:toàn tập, Nxb-CTQG,H1997,t37.tr603
2
V.I.Lênin:toàn tập,Nxb,tiến bộ,Mcv,1980,t23,tr53.
3 C.Mác&Ăngghen:toàn tập,Nxb CTQG
5
5
Bản chất cách mạng, khoa học của phép biện chứng duy vật còn thể hiện
ở chỗ nó luận giải mục đích, con đường đi tới giải phóng con người, vì con
người, lấy sự phát triển toàn diện của con người làm thước đo chung cho sự
phát triển của xã hội. Như Mác chỉ ra rằng: ý nghĩa lịch sử, mục đích cao cả
của sự phát triển xã hội là phát triển con người toàn diện, nâng cao năng lực
và phẩm giá con người, giải phóng con người, loại trừ ra khỏi cuộc sống con
người mọi sự tha hóa, để con người được sống với cuộc sống đích thực con
người và bước quan trọng nhất trên con đường đó là giải phóng con người về
mặt xã hội. Điều đó cho thấy rằng trong quan niệm của Mác, thực chất của
tiến trình phát triển lịch sử xã hội loài người là vì con người, vì cuộc sống
ngày càng tốt đẹp hơn cho con người, phát triển toàn diện và giải phóng con
người.
Hai là, chủ nghĩa duy vật biện chứng không chỉ giải thích thế giới mà
còn đóng vai trò cải tạo thế giới.
Bất kỳ một học thuyết triết học nào cũng không trực tiếp làm thay đổi
thế giới, mà thông qua tri thức về thế giới, con người hình thành mục đích,
phương hướng, biện pháp… chỉ đạo hoạt động vào thế giới. Bất kỳ học thuyết
triết học nào cũng phải giải thích thế giới, song để thực hiện được vai trò cải
tạo thế giới, học thuyết phải phản ánh đúng thế giới, phảI định hướng hoạt
động cho con người phù hợp với quy liật, phải được quần chúng nhân dân tin
và hành động theo. Nội dung và bản chất của chủ nghĩa duy vật biện chứng
đáp ứng được yêu cầu này. Sức mạnh cải tạo thế giới của chủ nghĩa duy vật
biện chứng thể hiện ở mối quan hệ mật thiết với hoạt động thực tiển của quần
chúng nhân dân, với cuộc đấu tranh giai cấp vô sản trên mọi lĩnh vực. Bản
chất cách mạng, khoa học của phép biện chứng duy vật còn được thể hiện ở
sự thống nhất giữa giải thích thế giới và cải tạo thế giới. Việc đưa thực tiễn
vào triết học là bước ngoặt cách mạng trong triết học Mác, trong Luận cương
về Phoiơbắc, Mác viết: “Các nhà triết học đã giải thích thế giới bằng nhiều
cách khác nhau, song vấn đề là cải tạo thế giới”4.
Ba là, chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định sự tất thắng của cái mới.
Ph.Ăngghen cho rằng không có gì là tối hậu, là tuyệt đối, là thiêng liêng cả.
Trên mọi sự vật và trong mọi sự vật đều mang dấu ấn của sự suy tàn tất yếu
bởi không có gì tồn tại ngoài quá trình không ngừng của sự hình thành và tiêu
vong, của sự tiến triển vô cùng tận từ thấp đến cao.5
Tính cách mạng sâu sắc của chủ nghĩa duy vật biện chứng thể hiện qua
việc nó phản ánh đúng đắn các quy luật chi phối sự vận động và phát triển;
4 C.Mác-Ăngghen,TT,t3,NxbCTQG,H1994,tr12
5 C.Mác&Ăngghen:toàn tập,Nxb CTQG, H2004,t21,tr394.
6
6
qua đó, qúa trình xoá bỏ cái cũ, cái lỗi thời để xác lập cái mới, cái tiến bộ hơn
là tất yếu. Hệ thống các quy luật, phạm trù của nó không chỉ phản ánh đúng
đắn thế giới khách quan mà còn chỉ ra những cách thức để định hướng cho
con người trong nhận thức thế giới và cải tạo thế giới. Phép biện chứng duy
vật không chỉ khái quát những thành tựu của tất cả các khoa học cụ thể, mà nó
còn kết tinh những tinh hoa trong quá trình phát triển tư tưởng triết học của
nhân loại.
Tính cách mạng và tính khoa học của phép biện chứng duy vật thống
nhất chặt chẽ với nhau bởi vì phép biện chứng là học thuyết “về sự phát triển,
dưới hình thức hoàn bị nhất, sâu sắc nhất và không phiến diện, học thuyết về
tính tương đối của nhận thức của con người, nhận thức này phản ánh vật chất
luôn luôn phát triển không ngừng”6.
Phép biện chứng duy vật về bản chất có tính phê phán và cách mạng.
Mác và Ăngghen đã chỉ ra rằng “phép biện chứng duy vật không có gì là tối
hậu, là tuyệt đối, là thiêng liêng cả. Nó chỉ ra tính chất quá độ của mọi sự vật
và trong mọi sự vật, và đối với nó không có gì tồn tại ngoài quá trình không
ngừng của sự tiến triển vô cùng vô tận từ thấp đến cao” 7. Bản chất cách mạng
của phép biện chứng duy vật thể hiện ở chỗ, trong khi đưa quan niệm về tính
hợp lý của cái hiện tồn thì đồng thời cũng bao hàm trong nó quan niệm về sự
diệt vong tất yếu của cái hịên tồn đó. Với bản chất cách mạng sâu sắc và triệt
để, được thể hiện trong các nguyên lý, các cặp phạm trù và các quy luật của
mình, phép biện chứng đã vạch ra biện chứng của quá trình phát triển, với nội
dung và hình thức hết sức phong phú. Nó là cơ sở phương pháp luận để chỉ
đạo chủ thể xác định phương pháp cách mạng khoa học và đúng đắn.
Trong phép biện chứng duy vật, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến dùng
để khái quát bức tranh toàn cảnh chằng chịt những mối liên hệ của thế giới (tự
nhiên, xã hội và tư duy). Tính chất vô tận của thế giới, cũng như tính chất có
hạn của mỗi sự vật, hiện tượng trong thế giới đó chỉ có thể giải thích được
trong mối liên hệ phổ biến và được quy định bằng nhiều mối liên hệ vô hình,
vai trò khác nhau.
MLH phổ biến chỉ ra trong họat động nhận thức và hoạt động thực tiển,
không nên tuyệt đối hoá mối liên hệ nào và cũng không nên tách rời mối liên
hệ này khỏi các mối liên hệ khác; bởi trên thực tế, các mối liên hệ còn phải
được nghiên cứu cụ thể trong sự biến đổi và phát triển của chúng. Đó là phải
xem xét toàn diện các mối liên hệ; trong tổng số các mối liên hệ phải rút ra
được những mối liên hệ bản chất, chủ yếu để hiểu thấu bản chất của sự vật; từ
6 V.I.Lênin:toàn tập,Nxb.tb,Mcv,2005,t23.tr53
7 C.Mác&Ph.Ăngghen:toàn tập,Nxb-CTQG,H2004,t20,tr364.
7
7
bản chất của sự vật phải quay lại hiểu rõ toàn bộ sự vật trên cơ sở liên kết các
mối liên hệ bản chất, chủ yếu với tất cả các mối liên hệ khác của sự vật để bảo
đảm tính đồng bộ khi giải quyết các vấn đề của đời sống. Quan điểm toàn
diện, đối lập với mọi suy nghĩ và hành động phiến diện, chiết trung, siêu hình.
Nguyên lý về sự phát triển của phép biện chứng duy vật phản ảnh đặc
trưng biện chứng phổ quát quá trình vận động đi lên từ thấp đến cao, từ đơn
giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Phát triển là một
trường hợp đặc biệt của vận động.
Trong quá trình phát triển, sự vật, hiện tượng chuyển hoá sang chất mới,
cao hơn phức tạp hơn; làm cho cơ cấu tổ chức, phương thức vận động và chức
năng của sự vật ngày càng hoàn thiện hơn. Phát triển có tính khác quan, phổ
biến, đa dạng. Mọi sự vật hiện tượng luôn vận động, biến đổi không ngừng và
về phương diện bản chất của mọi sự vận động, biến đổi của thế giới có xu
hướng phát triển. Vì vậy quán triệt quan điểm phát triển là nguyên tắc chung
trong chỉ đạo hành động và suy nghĩ của con người. Đó là phải xem xét sự vật
trong sự vận động, biến đổi và phát triển của nó, phải tư duy năng động, linh
hoạt, mềm dẻo, phải nhận thức được cái mới và ủng hộ cái mới.
Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, đây là hạt nhân của
phép biện chứng. Quy luật này vạch ra nguồn gốc, động lực của sự phát triển,
phản ảnh quá trình đấu tranh giải quyết mâu thuẫn bên trong sự vật. Quy luật
này có ý nghĩa phương pháp luật to lớn trong việc phát hiện và phân tích mâu
thuẫn của sự vật cũng như tìm ra con đường đúng đắn để giải quyết mâu
thuẫn nhằm thúc đẩy sự vật phát triển. Khi phân tích mâu thuẫn, phải xem xét
toàn diện các mặt đối lập, theo dõi quá trình phát sinh, phát triển của các mặt
đó. Phải phân biệt được các loại mâu thuẫn để giải quyết kịp thời đưa sự vật
phát triển tiến lên. Phải xác định đúng trạng thái chín muồi của mâu thuẫn để
tìm ra phương thức, phương tiện và lực luượng có khả năng gỉai quyết mâu
thuẫn và tổ chức giải quyết mâu thuẫn một cách triệt để.
Quy luật chuyển hoá từ những thay đổi về lượng dẫn tới những biến
đổi về chất và ngược lại chỉ ra cách thức vận động và phát triển của sự vật,
hiện tượng. khi nghiên cứu quy luật này, là cơ sở nhận thức đầy đủ cả mặt
lượng và mặt chất của nó. Nắm được nội dung quy luật này, trong hoạt động
thực tiển phải dựa trên việc hiểu đúng đắn vị trí, vai trò và ý nghĩa của mỗi
loại thay đổi(chất và lượng) để hoạt động có hiệu quả. Tránh nôn nóng, đốt
cháy giai đoạn tích luỹ về lượng; đồng thời tránh tư tưởng tuyệt đối hoá sự
thay đổi về lượng, không kịp thời chuyển những thay đổi về lượng sang
những thay đổi về chất, từ những thay đổi mang tính tiến hoá sang những thay
8
8
đổi mang tính cách mạng và ngược lại không biết sử dụng chất mới để thúc
đẩy lượng tiép tục phát triển.
Quy luật phủ định của phủ định chỉ ra khuynh hướng vận động phát triển
của sự vật, hiện tượng; tính tất yếu của sự ra đời cái mới và mối liên hệ giữa
cái mới và cái cũ. Quy luật này có một ý nghĩa phương pháp luận to lớn trong
quá trình thay thế cái cũ bằng cái mới, cái tiến bộ nhất định sẽ chiến thắng cái
lạc hậu. Do đó, cần chống thái độ phủ định sạch trơn cái củ. Trong công tác,
chúng ta phải biết phát hiện và quý trọng cái mới, phải tin tưởng vào tương lai
phát triển của cái mới,mặc dù lúc đầu nó còn yếu ớt, ít ỏi, phải ra sức bồi
dưỡng, phát huy cái mới, tạo điều kiện cho nó chiến thắng cái cũ. Trong khi
đấu tranh với cái cũ, chúng ta phải biết sàng lọc, biết giữ lấy những gì là tích
cực, có giá trị của cái cũ, biết cải tạo cái cũ cho phù hợp với những điều kiện
mới. Vừa phải chống thái độ “hư vô chủ nghĩa” trong khi nhìn nhận lịch sử,
đánh giá quá khứ, vừa phải chống thái độ bảo thủ, khư khư giữ lại những gì
đã lỗi thời cản trở bước tiến của lịch sử.
Ba quy luật trên thống nhất hữu cơ với nhau, phản ánh sự tác động qua
lại của những mặt quan trọng nhất trong sự liên hệ và vận động phát triển của
sự vật hiện tượng. Cùng với ba quy luật cơ bản, phép biện chứng duy vật còn
có hệ thống các phạm trù, đó là những khái niệm chung nhất phản ánh những
mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ chung, bản chất của sự vật hiện
tượng về phương diện nào đó của hiện thực. Ngoài tính khách quan, các phạm
trù còn mạng tính biện chứng, chúng luôn có sự liên hệ chằng chịt với nhau,
trong những điều kiện nhất định có thể chuyển hoá lẫn nhau.
Những phạm trù có tính liên hệ trực tiếp với nhau được xếp thành những
cặp đôi, gọi là những cặp phạm trù cơ bản hay những quy luật không cơ bản
của phép biện chứng duy vật. Những cặp phạm trù quen thuộc trong phép
biện chứng duy vật là: phạm trù cái riêng và cái chung; nguyên nhân và kết
quả; tất nhiên và ngẫu nhiên; nội dung và hình thức; bản chất và hiện tượng;
khả năng và hiện thực.Như vậy, phép biện chứng duy vật là một hệ thống
hoàn chỉnh bao gồm nhiều yếu tố, mỗi yếu tố có một vai trò nhất định nhưng
có quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong đó quy luật thống nhất và đấu tranh của
các mặt đối lập giữ vai trò quan trọng nhất, là hạt nhân của phép biện chứng
duy vật. Lênin viết: “Có thể định nghĩa vắn tắt phép biện chứng duy vật là
học thuyết về sự thống nhất của các mặt đối lập, như thế là nắm được hạt
nhân của phép biện chứng, nhưng điều đó đòi hỏi phải có những giải thích và
một sự phát triển”8.
8 Lê-nin,TT,t29,Nxb-tb Mcv,H1981,tr240
9
9
Có thể thấy vai trò hạt nhân của quy luật mâu thuẫn ở chỗ nó cho phép ta
nắm được bản chất của sự vật, chỉ rõ nguồn gốc, động lực của sự phát triển, là
chìa khoá cho phép đi sâu tìm hiểu toàn bộ phép biện chứng duy vật. Phạm
trù mâu thuẫn xuyên suốt toàn bộ hệ thống quy luật của phép biện chứng, đó
là : mâu thuẫn lượng - chất; mâu thuẫn phủ định - khẳng định; chung - riêng;
nguyên nhân - kết quả,…Với quan điểm hệ thống, đòi hỏi khi tiếp cận và áp
dụng phép biện chứng trong xem xét và giải quyết các vấn đề đặt ra phải thấy
được vai trò chi phối của quy luật mâu thuẫn, đồng thời không xem nhẹ vai
trò của các yếu tố khác.
Nội dung các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật vừa là sự cụ
thể hoá thêm nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và sự phát triển. Đồng thời
vừa đi sâu phản ánh cái bản chất và nội dung bên trong của quá trình vận
động, phát triển của thế giới vật chất. Còn các cặp phạm trù cơ bản của phép
biện chứng duy vật phản ánh tính phong phú muôn vẻ của sự vận động, phát
triển của thế giới vật chất, là sự cụ thể hoá tiếp theo các hình thức phát triển
của sự vật và cụ thể hoá các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật.
Nếu như những nguyên lý của phép biện chứng duy vật là những luận điểm
bao quát nhất, có tính chất biện chứng chung nhất về thế giới thì các quy luật
cơ bản, các cặp phạm trù đi sâu nghiên cứu từng mối liên hệ bản chất, từng
góc cạnh cụ thể khác nhau của các sự vật hiện tượng đặt trong quá trình vận
động, phát triển không ngừng của thế giới vật chất.
Như vậy, có thể thấy phép biện chứng duy vật là một phương pháp luận
triết học với đặc trưng cơ bản là xem xét, luận giải thế giới như một chỉnh thể
của những sự vật hiện tượng luôn liên hệ và ràng buộc với nhau. Luôn vận
động và không ngừng biến đổi. Với tư cách là một phương pháp luận triết học
biện chứng, luận giải, xem xét các sự vật hiện tượng một cách biện chứng, nó
hoàn toàn đối lập với phép siêu hình, chính vì vậy phép biện chứng duy vật là
hình thức cao nhất của tư duy khoa học. Đồng thời phép biện chứng duy vật
là sự tổng kết toàn bộ sự phát triển của triết học và khoa học tự nhiên, là sự
khái quát cao quy luật của tự nhiên và thế giới. Phép biện chứng duy vật
không chỉ là khoa học tư duy mà còn là khoa học về những quy luật phổ biến
của sự vận động, phát triển của tự nhiên và xã hội loài người.
Phép biện chứng duy vật không chỉ là một hệ thống lý luận của con
người mà nó còn là một hệ thống phương pháp phổ quát, chung nhất giúp con
người trong hoạt động thực tiễn, trong nhận thức và cải tạo hiện thực khách
quan. Hệ phương pháp luận chung đó được nghiên cứu và rút ra từ những
nguyên lý, quy luật, phạm trù của phép biện chứng duy vật, trở thành những
10
10
nguyên tắc chung nhất chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người. Đó là
nguyên tắc khách quan, toàn diện, lịch sử cụ thể và phát triển. Quán triệt
nguyên tắc này khi xem xét sự vật hiện tượng phải đặt sự vật trong tổng hoà
các mối quan hệ của các mặt, các thuộc tính của chính sự vật ấy; phải xem xét
chúng trong trạng thái vận động, biến đổi và theo xu hướng chung là phát
triển tiến lên. Bên cạnh đó phải tìm ra nguyên nhân quan trọng quyết định đến
sự vận động của sự vật, tìm ra nguồn gốc động lực của sự phát triển là giải
quyết các mâu thuẫn nảy sinh tồn tại trong mỗi sự vật. Muốn cải tạo sự vât
phải thường xuyên tăng cường sự tích luỹ về lượng, khi có điều kiện tạo nên
sự nhảy vọt về chất, chống mọi biểu hiện chủ quan duy ý chí, nôn nóng đốt
cháy giai đoạn trong sự phát triển, đồng thời chống tư tưởng bảo thủ trì trệ,
khi lượng đã đến giới hạn độ, điểm nút lại chần chừ do dự không kiên quyết
tạo nên sự nhảy vọt về chất. Xây dựng niềm tin vào cái mới, cái tiến bộ, quyết
tâm củng cố niềm tin, ủng hộ cái mới , tạo điều kiện để cái mới chiến thắng;
kiên quyết ngăn chặn tiến tới loại trừ cái cũ, cái bảo thủ lạc hậu gây cản trở
con đường phát triển.
Thực tiễn khoa học đã chứng minh thế giới vật chất không do ai sinh ra
và không bị mất đi. Các sự vật, hiện tượng của tự nhiên, xã hội đều chỉ là
những dạng tồn tại cụ thể khác nhau của vật chất; thế giới thống nhất ở tính
vật chất, luôn vận động biến đổi không ngừng theo những quy luật khách
quan vốn có của nó. Nguồn gốc của mọi sự vận động của thế giới là do đấu
tranh của các mặt đối lập bên trong của nó. Hoàn toàn không thể giải thích
được sự tồn tại của thế giới từ những lực lượng bên ngoài một cách thần bí,
mà chỉ có thể xuất phát từ thế giới quan duy vật biện chứng mới nhận thức
được thế giới một cách đúng đắn.
Cùng với sự phát triển của khoa học, đặc biệt là những thành tựu khoa
học tự nhiên, sinh học, tin học,…con người ngày càng khám phá và phát hiện
ra ngày càng nhiều các thuộc tính, các hình thức tồn tại của vật chất. Song có
thể nói rằng tất cả các thành tựu của khoa học hiện đại hiện nay cũng không
hề mâu thuẫn, trái ngược với những nguyên lý, quy luật, phạm trù mà phép
biện chứng duy vật đã khái quát. Ngay cả sự ra đời, tồn tại và phát triển của
xã hội cũng vậy, không thể có cái nhìn đúng đắn nếu không xuất phát từ nền
tảng vật chất của nó, bản thân xã hội cũng chỉ là một kết cấu vật chất đặc thù.
Sự vận động, phát triển bao giờ cũng do nguyên nhân vật chất, nguyên nhân
kinh tế với những quy luật cơ bản của nó.
Quá trình tiếp cận, xem xét giá trị của phép biện chứng duy vật cần
khẳng định rõ: Với hệ thống các nguyên lý, quy luật, phạm trù, phép biện
11
11
chứng duy vật là công cụ nhận thức vĩ đại, là cơ sở cách mạng- khoa học chỉ
đạo quá trình nhận thức hiện thực khách quan. Cho dù thế giới có vận động,
biến đổi thế nào đi chăng nữa, dù phong phú thế nào đi chăng nữa thì cũng
đều nằm trong quỹ đạo, phạm vi mà phép biện chứng duy vật đã khái quát.
Với chức năng trang bị thế giới quan và phương pháp luận khoa học, phép
biện chứng duy vật đến nay vẫn giữ nguyên giá trị và có vai trò ngày càng
tăng trong thời đại ngày nay. Nó cho phép chúng ta có những kết luận khoa
học về xã hội tư bản từ bản chất, xu hướng vận động và sự diệt vong tất yếu
của nó. Đồng thời cho phép chúng ta nhận thức đúng đắn sự khủng hoảng, tìm
ra nguyên nhân và biện pháp khắc phục sự khủng hoảng của xã hội chủ nghĩa.
Như vậy ở đây chính là phép biện chứng duy vật đã tạo ra tính cách
mạng bằng cách xuất phát từ vai trò chỉ đạo hoạt động thực tiễn để cải tạo thế
giới. Xuất phát từ quan điểm duy vật triệt để, triết học Mác-Lênin đã nhận
thức đúng đắn vai trò, vị trí của thực tiễn đối với sự tồn tại, vận động và phát
triển của thế giới, đặc biệt trên lĩnh vực xã hội. Thực tiễn không chỉ là cơ sở
động lực của nhận thức, là tiêu chuẩn để kiểm tra, đánh giá nhận thức mà còn
đóng vai trò quyết định đối với quá trình cải tạo thế giới, cải tạo hiện thực.
Trong triết học Mác-Lê nin nói chung và phép biện chứng duy vật nói riêng
thì toàn bộ quá trình nhận thức đều xuất phát từ thực tiễn với mục đích cuối
cùng là chỉ đạo hoạt động cải tạo thực tiễn, chính vì vậy cho đến nay chưa có
một học thuyết nào thay thế được. Tuy nhiên, khẳng định bản chất cách mạng
và khoa học, chúng ta cũng nhận thức sâu sắc rằng triết học Mác-Lênin nói
chung và phép biện chứng duy vật nói riêng là một hệ thống mở nên chúng ta
không coi nó như một cáI đó đã xong xuôI hẳn, bât khả xâm phạm mà coi nó
luôn cần được bổ sung, phát triển trên nền tảng phát triển của hoạt động thực
tiễn và hoạt động nhận thức. Chủ nghĩa duy vật biện chứng không phải là giáo
điều mà là kim chỉ nam vho hành động, nó đặt ra những yêu cầu có tính
nguyên tắc phương pháp luận mà từ những nguyên tắc ấy con người phải vận
dụng sáng tạo sao cho phù hợp với từng hoàn cảnh lịch sử cụ thể.
2.2. Vận dụng phép biện chứng duy vật trong đổi mới của Đảng ta.
Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ 2011, Đảng ta khẳng
định quá độ lên CNXH “là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu
tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trên tất
cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá
độ lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội
đan xen”. Vì vậy, để thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới xây dựng
CNXH việc nhận thức đúng đắn và vận dụng sáng tạo phép biện chứng duy
12
12
vật vào thực tiễn công cuộc đổi mới có ý nghĩa quyết định đến sự thắng lợi
của cách mạng VN. Do vậy đòi hỏi mỗi chúng ta hơn lúc nào hết càng phải
nắm vững phép biện chứng duy vật, mài sắc tư duy biện chứng để nhận thức
đúng những biến đổi sâu sắc của tình hình thế giới, để đáp ứng những đòi hỏi
cấp bách của sự nghiệp đổi mới trong giai đoạn hiện nay.
Nắm vững nguyên lý của phép biện chứng duy vật cho phép Đảng ta, nhân
dân ta kiên định và lạc quan vào con đường xã hội chủ nghĩa mà Đảng và
nhân dân ta đã lựa chọn, mặc dù hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới đang lâm
vào khủng hoảng và thoái trào, triết học Mác-Lênin bị các thế lực thù địch tấn
công chủ nghĩa tư bản đã kịp thời điều chỉnh thích nghi đã tạo ra những bước
phát triển mới, xong những mâu thuẫn nội tại không hề mất đi. Chính sự vận
động của những mâu thuẫn nội tại đó và cuộc đấu tranh của nhân dân lao
động sẽ quyết định vận mệnh của chủ nghĩa tư bản, “ Theo quy luật tiến hoá
của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội”.
Về con đường đi lên CNXH, Văn kiện Đại hội IX khẳng định "Con
đường đi lên cảu nước ta là sự phát triển quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập địa vị thống trị cuả quan hệ sản xuất
và kiến trúc thượng tầng chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu
mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ TBCN, đặc biệt về khoa học công nghệ,
để phát triền nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại" (1).
Thực chất của việc bỏ qua CNTB ở nước ta đó là:
Thứ nhất: Bỏ qua vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc
thượng tầng TBCN, bỏ qua những cơ sở kinh tế, chính trị, xã hội của chế độ
áp bức, bất công đối với con người.
Thứ hai: Đối với nước ta, sự bỏ qua ấy được thực hiện các bước đi
nhằm thực hiện sự "Rút ngắn" so với con đường đau khổ mà xã hội loài người
đã trải qua trong giai đoạn phát triển TBCN.
Thứ ba: Thông qua việc lọc bỏ quan hệ kinh tế, chính trị của chế độ
TBCN để kế thừa những thành tựu mà nền văn minh nhân loại đạt được dưới
chủ nghĩa tư bản.
Như vậy, đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản là quá trình lâu
dài, đầy khó khăn phức tạp, chúng ta cùng một lúc phải giải quyết nhiều mây
thuẫn cơ bản của thời kỳ quá độ. Quá trình giải quyết mâu thuẫn của cách
mạng nước ta là quá trình vừa tuân theo những sự phát triển tiến hoá dần dần
về lượng, lại vừa tranh thủ những bước phát triển cách mạng nhảy vọt về
chất; vừa kế thừa tất cả những mặt “hợp lý” của chủ nghĩa tư bản để phát triển
lực lượng sản xuất, lại phải vừa đấu tranh tích cực để loại bỏ những mặt tiêu
cực, mất nhân tính của chủ nghĩa tư bản; vừa biết tích luỹ nội dung, lại vừa
13
13
phải luôn luôn nhạy bén để cải tạo hình thức cho phù hợp; vừa kết hợp những
giá trị truyền thống của dân tộc với những tiến bộ của nền văn minh mới. Con
đường quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta đòi hỏi phải chủ động và tự
giác phát triển và sử dụng chủ nghĩa tư bản làm khâu trung gian, làm phương
tiện để đi lên chủ nghĩa xã hội, nhất là hướng chủ nghĩa tư bản vào con đường
tư bản nhà nước. Đó chính là sự kết hợp tự giác cao mặt đối lập thông qua
hàng loạt các khâu trung gian và bước quá độ.
Như vậy, với bản chất cách mạng và khoa học của các nguyên lý, phạm
trù, quy luật của phép biện chứng duy vật đã giúp cho Đảng ta nhìn nhận và
vạch ra con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hoàn toàn đúng đắn. Đưa
đất nước ta thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, tạo ra những tiền đề cần
thiết để đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phấn
đấu cho mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
Sự nghiệp đổi mới chỉ có thể thành công khi Đảng ta trung thành và vận
dụng đúng đắn những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lê nin nói chung và phép
biện chứng duy vật nói riêng. Trái lại nếu không giữ vững lập trường, không
nắm vững bản chất cách mạng và khoa học, xa rời những nguyên lý cơ bản
của phép biện chứng duy vật thì sẽ mắc sai lầm, chệch hướng xã họi chủ
nghĩa…Nhận thức đúng đắn bản chất của phép biên chứng duy vật là một
trong những bảo đảm về tư tưởng, đường lối đúng đắn tận dụng thời cơ, thuận
lợi để tiến lên, đẩy lùi nguy cơ đưa cách mạng Việt Nam tiến vững chắc trên
con đườngyax hội chủ nghĩa mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta lựa chọn.
Để khắc phục những biểu hiện lệch lạc, trong quá trình giáo dục lý luận
Mác-Lênin, đồng thời tăng cường truyền thụ lý tưởng xã hội chủ nghĩa, niềm
tin cộng sản cho cán bộ đảng viên và nhân dân hiện nay, một trong những yêu
cầu cấp bách là phải trang bị cho các thế hệ kiến thức khoa học về những quy
luật phổ biến của sự vận động và phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy. Đó
là những nguyên lý, quy luật, phạm trù, khái niệm của triết học Mác-Lênin,
bởi đây là cơ sở khoa học để khẳng định tính đúng đắn xu thế phát triển khách
quan của nhân loại và chủ nghĩa xã hội. Thế giới quan triết học Mác-Lênin
phải giữ vai trò chủ đạo trong định hướng quan điểm chính trị, tư tưởng trong
đời sống tinh thần của nhân dân ta, giúp cho cán bộ đảng viên và nhân dân
nhận thức đúng đắn và lý giải có cơ sở khoa học, xây dựng niềm tin lý tưởng
ở chủ nghĩa xã hội, tin vào sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa, khẳng định
sự tất thắng của chủ nghĩa xã hội.
3. KẾT LUẬN
14
14
Phép biện chứng duy vật ra đời là kết quả sự kế thừa có chọn lọc toàn
bộ tư tưởng triết học nhân loại, là đỉnh cao của trí tệu loài người do Mác Ăng
Ghen và Lê Nin kế thừa và phát tiển. Cấu trúc của phép biện chứng duy vật
bao gồm các nguyên lý, các quy luật cơ bản, các cặp phạm trù. Trong nội
dung của nó, tư tưởng phát triển là tư tưởng chủ đạo xuyên suốt. Bản chất của
nó hàm chức tính cách mạng, khoa học rất sâu sắc.
Đây là cơ sở lý luận cho các Đảng cộng sản nói chung và Đảng ta nói
riêng trong quá trình hoạch định đường lối chiến lược và sách lược ở từng
giai đoạn cách mạng. Đối với mỗi người cộng sản, phép biện chứng duy vật
trở thành công cụ quan trong bậc nhất trong nhận thức và hoạt động để cải tạo
hoàn cảnh và cải tạo bản thân.
Các tổ chức Đảng, mỗi cán bộ Đảng viên với tư cách là chủ thể tiến
hành công tác Đảng, công tác chính trị trọng Quân đội phải thường xuyên
nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của phép biện chứng duy vật để
vận dụng có hiệu quả các hoạt động, góp phần xây dựng đơn vị vững mạnh
toàn diện, xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhệu từng bước hiện
đại, không ngừng nâng cao sức mạnh chiến đấu, hoàn thành mọi nhiệm vụ mà
Đảng giao.