Tải bản đầy đủ (.doc) (89 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP CHẾ BIẾN NÔNG sản và VAI TRÒ của nó TRONG bảo đảm hậu cần tại CHỖ CHO KHU vực PHÒNG THỦ TỈNH THANH hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (423.78 KB, 89 trang )

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, nhằm phát triển một nền nông nghiệp
hàng hoá theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá là một chủ trương chiến lược
của Đảng và Nhà nước ta, trong đó việc gắn phát triển nông nghiệp với phát triển
công nghiệp chế biến nông sản có ý nghĩa hết sức quan trọng.
Thực tế cho thấy, khó khăn lớn nhất của sản xuất nông nghiệp nước ta hiện
nay khi chuyển sang sản xuất hàng hoá, là khâu tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp mà
nguyên nhân là khâu chế biến nông, lâm, thuỷ sản còn rất hạn chế, phần lớn còn
bán nguyên liệu thô hoặc sản phẩm sơ chế. Do đó, hiệu quả của sản xuất nông
nghiệp còn thấp, thất thoát sau thu hoạch lớn, ngành nghề và dịch vụ chưa phát
triển và chưa thu hút được nhiều lao động, thiếu việc làm nghiêm trọng... Vì vậy,
việc phát triển công nghiệp chế biến nông sản là một yêu cầu cấp thiết hiện nay.
Riêng đối với tỉnh Thanh Hoá, là tỉnh có vị trí địa lý khá thuận lợi, đất đai đa
dạng; có cả vùng ven biển, đồng bằng và miền núi, hệ thống sân bay, bến cảng,
đường thuỷ, tuy chưa phát triển ngang tầm nhưng đã có những thuận lợi bước đầu:
hệ thống thông tin liên lạc, hệ thống điện lưới phục vụ sản xuất đã có những tiến
bộ đáng kể, dân cư khá đông đúc, nguồn lao động tương đối dồi dào, lại cần cù và
có quyết tâm vươn lên làm giàu. Về cơ cấu nông nghiệp: vùng nguyên liệu phát
triển khá mạnh, đi đôi với phát triển chế biến nông sản dưới nhiều hình thức, quy
mô và chế độ sở hữu khác nhau đã góp phần thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, hàng
hoá đi lên theo con đường CNH, HĐH. Song, khâu chế biến còn rất khiêm tốn cả
về quy mô cũng như chất lượng sản phẩm. Do không chủ động được khâu chế biến
nên giá cả nông sản không ổn định, nhiều nông sản chóng bị hư hao, giá cả thấp,
gây thiệt hại lớn cho nông dân.
Từ góc độ kinh tế quân sự phát triển công nghiệp chế biến nông phẩm không
chỉ thúc đẩy kinh tế nông nghiệp nông thôn tăng trưởng và phát triển mà còn có ý
nghĩa to lớn quan trọng đối với quá trình củng cố xây dựng nâng cao khả năng đảm
bảo hậu cần tại chỗ cho khu vực phòng thủ tỉnh. Văn kiện hội nghị lần thứ 5 BCH



TW khoá IX nhất mạnh "kết hợp chặt chẽ CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn với
xây dựng tiềm lực và thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân, thể
hiện trong chiến lược, quy hoạch, kế hoạch dự án phát triển kinh tế xã hội của đất
nước... Đầu tư phát triển kinh tế xã hội ổn định dân cư các vùng xung yếu, cửa
khẩu, hải đảo phù hợp với chiến lược quốc phòng và chiến lược an ninh quốc gia"
[7, 95]
Vậy làm thế nào để kinh tế nông nghiệp, nông thôn ở Thanh Hoá phát triển
đúng định hướng chung của nền kinh tế cả nước? Bước phát triển công nghiệp chế
biến nông phẩm như thế nào để tạo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, và củng cố
an ninh quốc phòng trên địa bàn tỉnh? Đang là vấn đề đặt ra cấp thiết hiện nay,
nhằm góp phần chuyển mạnh nền nông nghiệp Thanh Hoá sang sản xuất hàng hoá
theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, tạo điều kiện
đảm bảo tốt hơn hậu cần cho khu vực phòng thủ tỉnh. Chính vì vậy, vấn đề: "Phát
triển công nghiệp chế biến nông phẩm và vai trò của nó trong đảm bảo hậu
cần tại chỗ cho khu vực phòng thủ tỉnh Thanh Hoá " được tác giả chọn làm đề
tài luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Cho tới nay, vấn đề phát triển công nghiệp chế biến nông phẩm đã được đề
cập trong nhiều chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Đã có một số công
trình khoa học, bài viết, nhiều cuộc hội thảo khoa học được tổ chức ở các Viện
nghiên cứu, các trường đại học, các địa phương với nhiều nội dung và cách tiếp
cận khác nhau. Như: đề tài "tác động của công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp nông thôn đến xây dựng củng cố nền quốc phòng toàn dân ở nước ta"
của tập thể tác giả Viện khoa học xã hội nhân văn quân sự, Bộ quốc phòng năm
2001. Luận án tiến sĩ kinh tế của tác giả Nguyễn Văn Bảy, "Công nghiệp hoá, hiện
đại hoá nông nghiệp và nông thôn đồng bằng bắc bộ và tác động của nó đối với
tăng cường sức mạnh khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố" Học viện chính trị quân
sự năm 2001. "Tổng kết thực tiễn tại hiệp hội mía đường Lam Sơn (Thanh Hoá)"
của tập thể tác giả thuộc Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.



Ở Thanh Hoá, tỉnh uỷ, UBND tỉnh đã có chương trình phát triển công
nghiệp phục vụ nông nghiệp. Song đề tài " Phát triển công nghiệp chế biến nông
phẩm và vai trò của nó trong đảm bảo đảm hậu cần tại chỗ cho khu vực phòng thủ
tỉnh Thanh Hoá " chưa có tác giả nào nghiên cứu.
Để thực hiện đề tài, tác giả có kế thừa và chọn lọc một số ý tưởng của các
công trình đã được công bố, kết hợp phân tích thực trạng ở địa phương để đề ra giải
pháp và kiến nghị nhằm hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích luận văn
Làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn phát triển công nghiệp chế biến
nông phẩm. Đánh giá vai trò của nó trong phát triển kinh tế – xã hội và đảm bảo hậu
cần tại chỗ cho khu vực phòng thủ tỉnh Thanh Hoá. Từ đó, đề xuất giải pháp phát
triển công nghiệp chế biến nông phẩm, gắn với đảm bảo hậu cần tại chỗ cho khu vực
phòng thủ ở Thanh Hoá hiện nay.
Nhiệm vụ của luận văn
Thực hiện mục đích trên luận văn có nhiệm vụ:
1. Phân tích lý luận và thực tiễn về phát triển công nghiệp chế biến nông
phẩm gắn với đảm bảo hậu cần tại chỗ cho khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố.
Làm rõ cơ sở lý luận về đảm bảo hậu cần tại chỗ cho khu vực phòng thủ tỉnh
2. Đánh giá tình hình và thực trạng qúa trình phát triển công nghiệp chế biến
nông sản ở tỉnh Thanh Hoá gắn với đảm bảo hậu cần tại chỗ cho khu vực phòng
thủ tỉnh giai đoạn 1996-2000. Phân tích thành tựu cùng những hạn chế, khó khăn,
vướng mắc, tìm ra nguyên nhân.
3. Đề xuất các quan điểm và giải pháp, nhằm tiếp tục phát triển công nghiệp
chế biến nông phẩm gắn với bảo đảm hậu cần tại chỗ cho khu vực phòng thủ tỉnh
Thanh Hoá giai đoạn 2001- 2010 có hiệu quả hơn.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
*Cơ sở lý luận



Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, các quan điểm cơ bản, đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam, và thực tiễn
quá trình phát triển công nghiệp chế biến nông phẩm và xây dựng, củng cố quốc
phòng, an ninh ở nước ta.
*Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài luận văn, ngoài sự vận dụng phương pháp chủ nghĩa duy
vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử cùng phương pháp nghiên cứu của kinh
tế chính trị và kinh tế quân sự Mác - Lênin, luận văn còn sử dụng phương pháp
phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh.
5. Ý nghĩa của luận văn
Luận văn có ý nghĩa: Góp phần làm rõ một số vấn đề về phát triển công
nghiệp chế biến nông sản theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở tỉnh Thanh Hoá nói
riêng, trên phạm vi ở nước nói chung.
Luận văn là công trình nghiên cứu lý luận gắn với thực tiễn của tỉnh Thanh
Hoá, nên còn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo trong quá trình hoạch định chủ
trương, chính sách phát triển lĩnh vực công nghiệp chế biến nông sản, gắn với tăng
cường bảo đảm hậu cần tại chỗ cho khu vực phòng thủ trên địa bàn tỉnh.
6. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục luận văn
gồm 2 chương 4 tiết.
Chương 1
PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP CHẾ BIẾN NÔNG PHẨM - YÊU CẦU TẤT
YẾU TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ HÀNG HOÁ, ĐẨY
MẠNH CNH, HĐH NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN VÀ ĐẢM BẢO HẬU CẦN
TẠI CHỖ CHO KHU VỰC PHÒNG THỦ TỈNH THANH HOÁ


1.1. Phát triển công nghiệp chế biến nông phẩm ở Thanh Hoá, yêu cầu

tất yếu trong quá trình phát triển kinh tế hàng hoá, đẩy mạnh CNH,
HĐH nông nghiệp, nông thôn
1.1.1. Khái niệm chung về công nghiệp chế biến và công nghiệp chế biến
nông phẩm
1.1.1.1. Công nghiệp chế biến
Nông nghiệp là một ngành kinh tế cơ bản của xã hội, đảm bảo nhu cầu tối
thiểu và hàng đầu cho con người, đó là lương thực, thực phẩm. Lịch sử phân công
lao động xã hội cho thấy, chỉ khi nào năng xuất lao động trong lĩnh vực trồng cây
lương thực đảm bảo nuôi sống một lượng lao động lớn hơn bản thân những lao
động trong lĩnh vực này, mới dẫn đến sự chuyển dịch một bộ phận lao động từ đây
sang phát triển sản xuất các loại cây trồng khác và phát triển chăn nuôi. Đây cũng
chính là cơ sở đầu tiên của sự phân công lao động xã hội. C.Mác dự báo: "Lao
động nông nghiệp là cái cơ sở tự nhiên không phải chỉ riêng cho lao động thặng dư
trong lĩnh vực của bản thân ngành nông nghiệp, mà nó còn là cơ sở tự nhiên để
biến tất cả các ngành lao động khác thành những ngành độc lập, và do đó nó là cái
cơ sở tự nhiên cho giá trị thặng dư được tạo ra ở các ngành đó" [18,33]. Trong lĩnh
vực công nghiệp chế biến phân công lao động cũng diễn ra sự vận động phát triển
từ thấp đến cao gắn liền với sự phát triển của kinh tế hàng hoá. Xuất phát từ thực
tiễn ở nước Nga, V.I Lê Nin cho rằng: "Trước khi có kinh tế hàng hoá, công
nghiệp chế biến gắn liền với công nghiệp khai thác, và đứng đầu công nghiệp này
là nông nghiệp cho nên sự phát triển của kinh tế hàng hoá là sự tách rời lần lượt
của các ngành công nghiệp ra khỏi nông nghiệp"[13,24- 25].Theo đó, công nghiệp
chế biến tách ra trở thành một ngành kinh tế độc lập. Ngành này có mặt ở các hoạt
động chế biến khác nhau, tạo ra nhiều loại hàng hoá đáp ứng nhu cầu đa dạng của
xã hội. Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, của nền kinh tế hàng hoá,
phân công lao động trong lĩnh vực công nghiệp chế biến lại tiếp tục được phát
triển. Theo đó nhiều ngành nghề cụ thể trong lĩnh vực này xuất hiện. Khi nghiên
cứu sự phát triển Chủ nghĩa Tư Bản ở Nga, V.I. Lê Nin đã chỉ rõ: "Công nghiệp
chế biến tách khỏi công nghiệp khai thác, và mỗi ngành công nghiệp đó lại chia ra,



thành nhiều loại nhỏ và phân loại nhỏ, chúng sản xuất ra dưới hình thức hàng hoá,
những sản phẩm đặc biệt và đem trao đổi với tất cả các ngành sản xuất khác" [13,21].
Như vậy, ở mỗi quốc gia chính sự phát triển của phân công lao động xã hội dưới
tác động trực tiếp của lực lượng sản xuất dẫn đến sự hình thành và phát triển sâu rộng
hơn ngành công nghiệp chế biến.
Trên cơ sở phân công lao động xã hội, khi nghiên cứu phương thức sản xuất Tư
Bản chủ nghĩa, C.Mác đã chia nền sản xuất xã hội thành hai khu vực: sản xuất tư liệu sản
xuất và sản xuất tư liệu tiêu dùng [19,579]. Khi phân tích tái sản xuất mở rộng trong điều
kiện tiến bộ kỹ thuật, V.I. Lê Nin đã chia nền sản xuất xã hội thành ba ngành lớn: sản
xuất tư liệu sản xuất để sản xuất tư liệu sản xuất; sản xuất tư liệu sản xuất để sản
xuất tư liệu tiêu dùng và cuối cùng là sản xuất tư liệu tiêu dùng. Các nước XHCN
trong đó có Việt Nam, trước đây thường phân chia nền sản xuất xã hội thành hai
ngành chính: Nông nghiệp và Công nghiệp.Trong công nghiệp lại chia thành công
nghiệp nặng và công nghiệp nhẹ. Khi chuyển đổi nền kinh tế để đáp ứng yêu cầu
của công tác quản lý và phù hợp với cách phân chia theo tiêu chuẩn chung của
quốc tế, việc phân loại các ngành kinh tế nói chung và ngành công nghiệp nói riêng
đã được tiếp cận theo quan niệm mới.
Ở nước ta Chính phủ đã ra Nghị định 75/CP ban hành hệ thống ngành kinh
tế quốc dân cấp I. Tổng cục Thống kê cũng đã ra Quyết định số 143/TCTK, hướng
dẫn việc thi hành hệ thống ngành kinh tế cấp II, III, IV. Văn bản này có hiệu lực
từ 22/12/1993. Theo cách phân loại này, ngành công nghiệp được chia thành 4
nhóm sau đây:
Công nghiệp khai thác mỏ; Công nghiệp chế biến; Công nghiệp sản xuất và
phân phối điện, khí đốt, nước; Công nghiệp xây dựng [9, 67]. Theo cách phân loại
này, công nghiệp chế biến được coi là một ngành kinh tế độc lập, bao gồm nhiều
ngành sản xuất khác nhau. Dựa trên những góc độ tiếp cận khác nhau, CNCB được
phân thành những nhóm ngành cụ thể sau đây:
- Tiếp cận theo kết quả sản xuất, các nhà kinh tế học hiện đại đã chia công
nghiệp chế biến thành 3 nhóm ngành: Công nghiệp thượng lưu (luyện thép, lọc dầu,



hoá dầu), Công nghiệp trung gian (chế tạo máy cùng các thiết bị điện tử) và Công
nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng.
- Tiếp cận theo nguồn nguyên liệu thuộc yếu tố đầu vào, công nghiệp chế
biến được chia thành hai nhóm ngành: chế biến nông - lâm - thuỷ sản và chế biến
khoáng sản.
- Tiếp cận theo giới hạn của nguồn hàng thuộc yếu tố đầu ra công nghiệp chế
biến được chia thành 2 nhóm ngành: chế biến phục vụ nhu cầu trong nước (thay
thế nhập khẩu) và chế biến để xuất khẩu.
Xuất phát từ văn bản của chính phủ, của Tổng Cục thống kê và ý kiến khác
nhau của các nhà nghiên cứu như đã trình bày ở trên có thể khái quát CNCB như
sau:
Công nghiệp chế biến là một ngành kinh tế kỹ thuật thuộc ngành công
nghiệp, thông qua các hoạt động bảo quản, cải tiến nâng cao giá trị sử dụng và
giá trị của nguyên liệu bằng phương pháp công nghiệp để sản xuất sản phẩm
nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khâủ với hiệu quả kinh tế
cao.
1.1.1.2. Công nghiệp chế biến nông phẩm
Từ những phân tích trên, có thể quan niệm: Công nghiệp chế biến nông
phẩm là một ngành hay một bộ phận hợp thành của công nghiệp chế biến, thực
hiện các hoạt động bảo quản, gìn giữ, cải biến thông qua quá trình cơ, nhiệt hoá
gắn với tiến bộ khoa học - công nghệ nhằm nâng cao giá trị và giá trị sử dụng
của nguyên liệu từ nông nghiệp để thoả mãn nhu cầu phong phú đa dạng của thị
trường với hiệu quả kinh tế cao.
Với cách quan niệm này, đối tượng chế biến của ngành công nghiệp này
bao gồm cả sản phẩm của lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp và nuôi trồng
thuỷ sản. Công nghiệp chế biến nông phẩm vừa mang những đặc điểm chung của
ngành công nghiệp chế biến vừa mang những đặc điểm riêng của ngành mình.
Những đặc điểm chung đó là:



Thứ nhất, đối tượng lao động chính của CNCB là nguyên liệu. Các nguyên
liệu này được sản xuất hoặc hoặc khai thác trong nông nghiệp (theo nghĩa rộng cả
nông- lâm – ngư nghiệp) và trong tự nhiên trong nước hoặc nước ngoài. Đặc điểm
này nói rõ mối quan hệ chặt chẽ giữa công nghiệp chế biến với các ngành, các
vùng nguyên liệu. Việc giải quyết mối quan hệ đó không chỉ giúp cho các vùng
nguyên liệu phát triển nhanh chóng, mà còn có liên quan rất lớn đến sự phát triển
chính bản thân ngành công nghiệp này.
Thứ hai, lao động của ngành công nghiệp chế biến, không chỉ bảo tồn, mà
còn nâng cao giá trị và giá trị sử dụng của nguyên liệu. Nhờ đó thoả mãn tốt hơn
nhu cầu của thị trường và thu được lợi nhuận nhiều hơn.
Thứ ba, do đặc thù về nguồn nguyên liệu, nhu cầu nhiều vẻ của thị trường và
tác động của cách mạng khoa học và công nghệ làm cho công nghiệp chế biến
ngày càng đa dạng về ngành nghề, phong phú về chủng loại sản phẩm, với nhiều
kích cỡ, mẫu mã và màu sắc khác nhau.
Thứ tư, công nghiệp chế biến thường có biến động lớn và rất nhạy cảm với
thị trường. Bởi lẽ, bản thân ngành này không chỉ lệ thuộc vào tình hình cung cấp
nguyên liệu của các ngành khai thác và trình độ phát triển của khoa học - công
nghệ, mà còn phụ thuộc vào nhu cầu, giá cả thị trường và đặc điểm của nền kinh tế
đóng hay mở.
Những đặc điểm này ảnh hưởng lớn đến số lượng, chất lượng, cơ cấu, kiểu
dáng sản phẩm mà công nghiệp chế biến đưa ra thị trường ở mỗi thời điểm khác
nhau.
Ngoài ra công nghiệp chế biến nông phẩm còn có những đặc điểm riêng:
Một là, hiệu quả CNCB nông phẩm phụ thuộc khá chặt chẽ vào khâu sơ chế
và bảo quản nông phẩm được tiến hành ngay sau khi thu hoạch. Ở nước ta hiện nay
khâu này chủ yếu sử dụng lao động thủ công cùng với những kinh nghi?m và
phương tiện truyền thống. Giai đoạn này nhiều khi mang ý nghĩa quyết định về
mức độ tổn thất sau thu hoạch và chất lượng nông phẩm -yếu tố đầu vào của công

nghiệp chế biến nông phẩm. Đến lượt mình, chất lượng nông phẩm có liên quan
đến chất lượng sản phẩm công nghiệp chế biến. Trong các xí nghiệp công nghiệp


chế biến nông phẩm chủ yếu sử dụng lao động kỹ thuật cùng với các máy móc,
thiết bị công nghệ hiện đại. Đây là giai đoạn quyết định mức độ tăng giá trị của sản
phẩm chế biến.
Sản phẩm công nghiệp chế biến nông phẩm thường gắn chặt với đời sống
hàng ngày của con người. Đời sống của con người càng nâng lên, càng đòi hỏi cao
hơn về chất lượng và phong phú hơn về chủng loại. Do đó càng đòi hỏi sự phát
triển mạnh mẽ hơn đối với ngành công nghiệp chế biến nông phẩm.
Hai là, hầu hết các mặt hàng công nghiệp chế biến nông phẩm đều có nguồn
gốc từ nguyên liệu do các ngành sản xuất nông nghiệp trong nước cung cấp. Vì
vậy, việc chế biến "cái gì" và chế biến “như thế nào” không chỉ phụ thuộc vào
“tiếng gọi của thị trường”, “do thị trường mách bảo”, mà còn tuỳ thuộc chặt chẽ
vào sự phát triển của các ngành sản xuất nguyên liệu cũng như các khu sản xuất
nguyên liệu tập trung. Nói cách khác phát triển CNCB nông phẩm không thể tách
rời thị trường và lĩnh vực sản xuất nguyên liệu.
1.1.2. Phát triển công nghiệp chế biến nông phẩm ở Thanh Hoá là yêu
cầu tất yếu trong quá trình phát triển kinh tế hàng hoá, đẩy mạnh CNH, HĐH
nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn tỉnh
1.1.2.1. Khả năng phát triển công nghiệp chế biến ở Thanh Hoá
Tỉnh Thanh Hoá ở toạ độ: 19 o18 - 20o00 vĩ độ Bắc, 104o22 - 106o04 Kinh độ
Đông, Phía Bắc giáp tỉnh: Ninh Bình, Hoà Bình và Sơn La; Phía Nam giáp Nghệ
An; Phía Tây giáp Tỉnh Hủa Phăn (nước Cộng hoà DCND Lào); Phía Đông là vịnh
Bắc Bộ với chiều dài bờ biển 102 km.
Tổng diện tích của Thanh Hoá là 11106,09km2 xếp thứ 6 về diện tích của các
tỉnh trong cả nước. Đồng thời, đây cũng là tỉnh có cả miền núi, vùng cao, biên giới,
đồng bằng và vùng biển. Trong đó diện tích vùng núi và vùng biển chiếm tỉ trọng
khá lớn. Dân số toàn tỉnh khoảng 3.592.488 người (xếp thứ hai về dân số so với

các địa phương trong cả nước), trong đó nông thôn là 3152581 người, chiếm
90,09%. Phân tích một cách cụ thể hơn sẽ thấy Thanh Hoá là tỉnh có khá nhiều
thuận lợi cả về địa hình, khí hậu và nguồn tài nguyên.
Về Địa hình


Địa hình Thanh Hoá có xu thế thấp dần từ Tây sang Đông, chia thành 3 vùng
rõ rệt:
- Vùng núi và trung du, gắn liền với hệ núi cao phía Tây Bắc và hệ núi
Trường Sơn phía Nam, với diện tích tự nhiên trên 800.000 ha. Độ cao trung bình
vùng núi từ 600 - 700m so với mặt nước biển, độ dốc trên 25 o. Vùng trung du có
độ cao trung bình 150 - 200m so với mặt nước biển, độ dốc từ 15o đến 20o.
- Vùng đồng bằng, chủ yếu được bồi tụ bởi sông Mã, sông Yên và một số
sông khác. Độ cao trung bình từ 5 - 15m, xen kẽ có các đồi thấp và núi đá vôi độc
lập.
- Vùng ven biển, thường nằm phía trong các bãi cát, có độ cao trung bình từ
3-6 m. Bờ biển dài và tương đối bằng phẳng, có những vùng đất khá rộng lớn
thuận lợi cho việc lấn biển, nuôi trồng thuỷ sản.
Về khí hậu
Thanh Hoá thường có lượng mưa trung bình hàng năm từ 1600 – 2200mm,
nhiệt độ trung bình hàng năm khoảng 23 - 24 oC, ánh sáng dồi dào. Đó là điều kiện
thuận lợi cho phát triển sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp, và có thể đưa vụ đông
thành vụ sản xuất chính. Tuy vậy trong phát triển nông nghiệp cũng cần chú ý đến
những bất lợi như bão, lụt về mùa mưa, nắng nóng và gió tây về mùa hạ để điều
chỉnh lịch gieo trồng cho thích hợp.
Về tài nguyên đất canh tác
Diện tích đất tự nhiên của Thanh Hoá là 1.110.604 ha. Trong đó gồm 10
nhóm chính, với 28 loại đất khác nhau. Các nhóm đất có diện tích tương đối lớn
gồm:
Đất đỏ vàng, diện tích khoảng 637.074 ha, chiếm 57%. Nhóm này thường

phân bố chủ yếu ở các huyện miền núi, trung du như Quan Hoá, Bá Thước, Như
Xuân, Thường Xuân, Cẩm Thuỷ, Ngọc Lặc, Thạch Thành, Lang Chánh. Đây là
nhóm đất thích hợp cho phát triển cây lâm nghiệp, cây công nghiệp và cây ăn quả
dài ngày như: cao su, cà phê, chè, cam, chanh, quế, luồng...


Đất vàng đỏ, diện tích khoảng 87.000 ha, phân bố ở độ cao trên 700m so với
mặt nước biển ở các huyện Quan Hoá, Lang Chánh, Thường Xuân. Nhóm này
thích hợp cho phát triển cây rừng.
Đất phù sa bồi tụ, diện tích khoảng 142.371 ha, phân bố chủ yếu ở các vùng
đồng bằng, ven biển. Nhóm này thích hợp cho trồng lúa, màu và cây công nghiệp
ngắn ngày.
Đất bị xói mòn trơ sỏi đá, diện tích khoảng 9.000 ha, chủ yếu phân bố ở
vùng trung du và các dãy núi độc lập ở đồng bằng ven biển như Nông Cống, Thiệu
Hoá, Yên Định, Hoằng Hoá, Hà Trung, Hậu Lậu, Tĩnh Gia, Đông Sơn... Hiện tại,
đa phần nhóm này chưa được đầu tư, cải tạo và đưa vào khai thác.
Cho đến nay diện tích đất đã sử dụng khoảng 756.669,73 ha,(bằng 68,13%
DTTN toàn tỉnh). Trong đó sử dụng vào sản xuất nông nghiệp là 239.842,2 ha,
(bằng 21,60% diện tích tự nhiên), trồng rừng là 405.713 ha (bằng 36,32% diện tích
tự nhiên). Từ đó cho thấy khả năng mở rộng diện tích để phát triển sản xuất nông
nghiệp của Thanh Hoá còn khá lớn. Hiện tại diện tích đất trống, đồi núi trọc cần
phủ xanh là 268.230 ha, bằng 24,01% diện tích tự nhiên.
Đất bãi bồi đã ổn định, diện tích khoảng 12.790 ha (kể cả đất hoang hoá ven
sông, một số vùng bãi bồi ven biển) ngoài ra bãi bồi đang lấn biển (chưa quai đê)
cũng chiếm một diện tích không nhỏ. Loại đất này chủ yếu nằm ở vùng Nga Sơn,
Hậu Lộc. Tại đây đang có xu thế lấn ra Hòn Nẹ với tốc độ nhanh. Nếu được quai
đê Thanh Hoá có khả năng mở rộng diện tích sản xuất khá lớn.
Đất có khả năng nuôi trồng thuỷ sản, diện tích khoảng 20.257 ha. Trong đó
mặt nước lợ khoảng 10.386 ha, mặt nước ngọt khoảng 9.871 ha. Cho đến nay, đa
phần nhóm này chưa được khai thác triệt để.

Tài nguyên rừng
Từ trước đến nay, rừng và nghề rừng vốn là một thế mạnh của tỉnh Thanh
Hoá. Theo số liệu thống kê, toàn tỉnh có 711.902 ha rừng và đất rừng, chiếm
63,7% tổng diện tích đất tự nhiên. Trong đó, rừng tự nhiên là 322.003 ha, rừng
trồng: 83.740 ha. Rừng trồng được phân thành 3 loại gồm rừng đặc dụng, rừng
phòng hộ và rừng kinh tế. Trong đó, rừng đặc dụng là 59.638 ha, rừng phòng hộ là


164.499 ha, rừng kinh tế là 181.556 ha. Với số diện tích đó đã đưa tổng trữ lượng
tre nứa và luồng là 1.000,67 triệu cây trong đó tre luồng là: 58.754 triệu cây.
Tài nguyên biển
Thanh Hoá có 102 km bờ biển, chạy dài từ cửa Còn (Nga Sơn) đến Hà Nẫm
(Tĩnh Gia). Vùng lãnh hải của tỉnh củng khá rộng, với diện tích 1,7 vạn km 2. Vùng
lãnh hải Thanh Hoá chịu ảnh hưởng bởi các dòng hải lưu nóng và lạnh, tạo thành
những bãi cá và bãi tôm có trữ lượng khá lớn so với tác tỉnh phía Bắc. Dọc bờ biển
có 5 cửa lạch lớn: Lạch Sung, Lạch Trường, Lạch Hới, Lạch Bạng và Lạch Ghép,
tạo điều kiện thuận lợi cho giao thông thuỷ và tàu thuyền đánh cá ra vào. Đồng
thời đây còn là bến đậu, là tụ điểm giao lưu kinh tế và đang từng bước trở thành
những cụm hoặc những trung tâm nghề cá của tỉnh.
Ở vùng cửa lạch có những bãi bồi rộng hàng ngàn ha. Nơi đây rất có khả
năng phát triển nuôi thuỷ sản, trồng cói, trồng cây chắn sóng và sản xuất muối.
Đáy biển vùng gần bờ thoải và bằng, có một số vụng và vịnh. Điển hình như
vụng Gầm (Sầm Sơn), vụng Thủi, vụng Biện, Vụng Quyền (Tĩnh Gia) và đảo Nẹ,
đảo Mê. Nơi đây có điều kiện thiên nhiên thuận lợi, tạo thành quần thể các bãi đặc
hải sản quí hiếm, đồng thời là vùng trú ẩn an toàn cho tàu thuyền đánh cá và vận
tải.
Trên cơ sở tiềm năng của tỉnh, Đại hội Đảng bộ Thanh Hoá lần thứ XV đã
xác định mục tiêu cụ thể cho giai đoạn 2001 - 2005:
Đưa nhanh những thành tựu của công nghệ sinh học vào sản xuất, tăng
nhanh năng suất, chất lượng cây trồng vật nuôi; bảo quản chế biến nông phẩm, bảo

vệ môi trường, lấy hiệu quả giá trị thu nhập, giá trị hàng hoá trên đơn vị diện tích
làm cơ sở cho việc chuyển đổi cơ cấu mùa vụ, cơ cấu cây trồng vật nuôi phù hợp
với từng vùng miền trong tỉnh nhằm đảm bảo an ninh lương thực, có lương thực
hàng hoá xuất khẩu.
Phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản; chú trọng chế biến nhỏ
ở nông thôn, gắn với việc quy hoạch vùng nguyên liệu, vừa tập trung đầu tư tạo ra
những sản phẩm chủ lực có tính cạnh tranh để xuất khẩu và tiêu dùng, ổn định diện
tích cây mía, thâm canh tăng năng suất và chất lượng, đảm bảo đủ nguyên liệu cho


3 nhà máy đường; tập trung chỉ đạo phát triển các vùng cây công nghiệp, cây ăn
quả tập trung: cao su 10.000 ha; cà phê 3.300 ha; sắn 4.000 ha; dứa 500 ha; lạc
20.000 ha, cói 4.000 ha; cà chua, dưa chuột 1.000 ha và một số cây công nghiệp,
cây ăn quả khác có giá trị kinh tế cao.
Phát triển chăn nuôi theo hướng sản xuất hàng hoá và xuất khẩu tăng nhanh
đàn gia súc, gia cầm, ứng dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật, du nhập lai tạo giống,
chế biến thức ăn, phòng dịch... để nâng cao năng suất, chất lượng cung cấp cho
công nghiệp chế biến và đáp ứng nhu cầu thị trường. Đầu tư nâng cấp và mở thêm
các xưởng chế biến các sản phẩm chăn nuôi cho tiêu dùng nội địa và xuất khẩu.
Phấn đấu tỷ trọng chăn nuôi trong nông nghiệp đạt 28%.
Tiếp tục phát triển lâm nghiệp xã hội theo hướng nông - lâm kết hợp, bảo vệ
và phát triển vốn rừng, tăng nhanh độ che phủ, đảm bảo môi trường sinh thái, trồng
mới 25.000 ha rừng tập trung và 80 triệu cây phân tán các loại, bảo vệ 405 ngàn ha
rừng hiện có, khoanh nuôi, tái sinh 15.000 ha, đủ nguyên liệu cho các nhà máy
giấy công suất 7 vạn tấn/năm và chế biến lâm sản khác.
Tiếp tục phát triển và đầu tư đồng bộ và có hiệu quả các đội tàu đánh cá xa
bờ. Sắp xếp, cải tiến cơ cấu nghề đánh bắt trong lộng và dở lộng, dở khơi. Coi
trọng thâm canh tăng năng suất và chất lượng nuôi trồng thuỷ sản, tập trung đầu tư
để phát triển nuôi tôm công nghiệp, chế biến phát triển theo hướng đa dạng sản
phẩm phục vụ tiêu thụ nội địa và xuất khẩu. Xây dựng nhà máy chế biến hải sản

công suất 5.000 tấn/năm, có kỹ thuật, công nghệ tiên tiến, đảm bảo tiêu chuẩn xuất
khẩu, cải tạo và nâng cấp các cơ sở chế biến đông lạnh hiện có. Xây dựng và phát
triển cơ sở vật chất kỹ thuật dịch vụ hậu cần. Đến năm 2005 sản lượng thuỷ sản đạt
57 - 65 ngàn tấn, giá trị xuất khẩu đạt 25 triệu USD. Quy hoạch lại nghề muối, đầu
tư xây dựng cơ sở hạ tầng đồng muối, nâng cao năng suất và chất lượng sản xuất
muối [26].
Tóm lại: Với điều kiện tự nhiên, xã hội, khí hậu và tài nguyên của tỉnh cho
phép Thanh Hoá phát triển mạnh một nền nông nghiệp hàng hoá. Nền nông nghiệp
ấy chỉ đạt hiệu quả kinh tế cao khi các sản phẩm nông – lâm – ngư nghiệp được
chế biến trước khi đưa ra cung ứng trên thị trường. Tức là , công nghiệp chế biến


nông phẩm phải luôn luôn được coi trọng trong quá trình phát triển. Và xét về
khách quan và chủ quan Thanh Hoá có đủ điều kiện đảm bảo cho phát triển ngành
công nghiệp chế biến nông phẩm với quy mô thích hợp; gắn phát triển công
nghiệp chế biến nông phẩm với phát triển các ngành, các vùng ngyên liệu thoả
mãn nhu cầu dân sự và quân sự trong tỉnh.
1.1.2.2. Phát triển công nghiệp chế biến nông phẩm ở Thanh Hoá xuất phát
từ yêu cầu của việc đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn và xây dựng
nông thôn mới
Phát triển công nghiệp chế biến nông phẩm là một quá trình gắn liền giữa
sản xuất nguyên liệu với chế biến nguyên liệu đó. Đó cũng là quá trình góp phần
phát triển và ổn định kinh tế - xã hội, củng cố khối liên minh giữa Công nhân,
Nông dân và tầng lớp trí thức trên địa bàn tỉnh, tạo nên những cụm công nghiệp dịch vụ góp phần đô thị hoá nông thôn thực hiện "Ly nông bất ly hương". Công
nghiệp chế biến nông phẩm trong sự gắn liền và hỗ trợ lẫn nhau giữa nông nghiệp,
công nghiệp và dịch vụ, góp phần thúc đẩy phát triển thị trường ngay trên địa bàn
nông thôn.
Trên địa bàn Thanh Hoá, số lượng tàu đánh cá có động cơ tính đến năm
1996 là 2.844 chiếc, tăng lên 3.637 chiếc năm 2000 và 5.263 chiếc năm 2001.
Thuyền đánh cá không có động cơ năm 1996 là 585 chiếc đến năm 2001 giảm còn

520 chiếc. Trong khi đó sản lượng hải sản tăng từ 18.867 tấn trong năm 1996, lên
35.760 tấn trong năm 2000 và 38.300 tấn trong năm 2001[4]. Tình hình đó càng
đòi hỏi công nghiệp chế biến nông phẩm phải từng bước đổi mới công nghệ, ứng
dụng những thành tựu khoa học - công nghệ tiên tiến, đẩy nhanh tốc độ công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Qua đó, tạo ra những sản phẩm
chế biến thuỷ hải sản chất lượng cao, giá thành thấp, đủ sức cạnh tranh trên thị
trường trong nước và thế giới. Chính điểm này có tác dụng kép, vừa tạo điều kiện
cho bà con trong tỉnh có thêm vốn để đổi mới công nghệ trong ngành thuỷ sản, vừa
góp phần thúc đẩy lĩnh vực trồng trọt và chăn nuôi phát triển từng bước đưa chúng
trở thành ngành sản xuất lớn.


Công nghiệp chế biến nông phẩm phát triển cho phép tận dụng ưu thế sẵn có
của nền nông nghiệp nhiệt đới, tạo ra các loại hàng hoá nông phẩm với giá trị kinh
tế ngày càng cao. Qua đó, càng tạo điều kiện cho nông dân phát huy hết khả năng
sản xuất, sử dụng hiệu quả đất đai, chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi và cơ cấu
lao động theo hướng CNH, HĐH. Nhờ đó đói nghèo được đẩy lùi từng bước.
Nông thôn mới với đời sống vật chất và tinh thần của cư dân ngày càng cao.
Thông qua cam kết tiêu thụ hết mía của nông dân theo giá thoả thuận, thực
hiện trợ giá và có chính sách khuyến khích người trồng mía giỏi, tích cực chuyển
giao công nghệ và giúp các xã vùng mía phát triển kết cấu hạ tầng, Công ty đường
Lam Sơn đã góp phần rất quan trọng trong việc thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, củng cố quan hệ sản xuất XHCN ở nông thôn. Lợi ích của người trồng mía
được bảo đảm, theo đó đã thúc đẩy các địa phương quy hoạch lại đất đai, “dồn
điền, đổi thửa” tạo ra biến đổi rõ rệt trong bước chuyển từ sản xuất mang tính tự
cấp tự túc sang kinh tế hàng hoá [10].
1.1.2.3. Phát triển công nghiệp chế biến nông phẩm xuất phát từ yêu cầu
của nền kinh tế thị trường trong bối cảnh mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế
Để góp phần nâng cao chất lượng các sản phẩm phục vụ tiêu dùng trong địa
bàn tỉnh, đáp ứng nhu cầu của thị trường trong nước và xuất khẩu. Việc đẩy mạnh

phát triển công nghiệp chế biến nông phẩm sau thu hoạch là vấn đề hết sức quan
trọng, vì hàng hoá nông phẩm sau thu hoạch nếu công tác bảo quản, chế biến
không kịp thời dễ bị hư hỏng, hao hụt và mau xuống cấp.
Chế biến nông phẩm sau thu hoạch bao gồm nhiều công đoạn từ phơi sấy,
bảo quản sơ chế và tinh chế. Nếu công việc này thực hiện không kịp thời sẽ gây ra
tổn thất đáng tiếc, và ảnh hưởng không nhỏ đến thu nhập của nông dân. Phát triển
CNCB nông phẩm là khâu hết sức quan trọng, công việc này làm tốt sẽ khuyến
khích nông dân an tâm sản xuất nhằm tạo ra các sản phẩm chất lượng cao, đáp ứng
cho nhu cầu thị trường trong tỉnh, trong nước và xuất khẩu. Phát triển công nghiệp
chế biến nông phẩm ngoài việc thúc đẩy chăn nuôi, trồng trọt phát triển theo hướng
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nó còn góp phần tăng tích luỹ cho ngân sách Nhà
nước ở địa phương, tăng kim ngạch xuất khẩu, nâng cao thu nhập của nông dân,


giảm dần khoảng cách thu nhập giữa thành thị và nông thôn; góp phần quan trọng
giải quyết việc làm cho người lao động. Thực tiễn, nhờ hiệu quả của chương trình
sản xuất mía, đời sống nông dân vùng nguyên liệu mía thuộc Công ty mía đường
Lam Sơn được cải thiện, bộ mặt nông thôn từng bước thay đổi, tạo sức cổ vũ rất
lớn cho phát triển vùng mía. Công ty có lợi từ phát triển vùng nguyên liệu mía, đã
chia xẻ lợi ích cho các vùng mía bù đắp lại một phần công lao của địa phương
trong việc đảm bảo điều kiện thuận lợi cho sản xuất và vận chuyển mía, hỗ trợ xây
dựng giao thông, điện, trường học và các hoạt động văn hoá, xã hội khác. Công
nghiệp chế biến nông phẩm phát triển không chỉ có ý nghĩa về mặt kinh tế mà còn
góp phần vào việc chuyển mạnh từ một thói quen sản xuất nhỏ, tự cung tự cấp sang
sản xuất nông sản hàng hoá một cách có hiệu quả. Chế biến nông phẩm có hiệu
quả sẽ thúc đẩy quá trình hình thành các vùng chuyên canh, chuyên môn hoá,
khuyến khích mọi thành phần kinh tế trong nông thôn chuyển sang sản xuất các
loại nông phẩm hàng hoá, hình thành vùng nguyên liệu ổn định, có chất lượng
cao cho chế biến công nghiệp.
Đặc biệt trong bối cảnh mở cửa, hội nhập kinh tế thực hiện AFTA đến năm

2006 hàng hoá nói chung và hàng hoá nông phẩm nói riêng sẽ giao lưu tự do trong
khu vực với thuế xuất 0 - 5%. Do đó, đẩy mạnh phát triển công nghiệp chế biến
nông phẩm càng trở nên bức xúc hơn đối với ngành nông nghiệp cả nước nói
chung, ngành nông nghiệp Thanh Hoá nói riêng. Vì trình độ công nghệ chế biến
nông phẩm còn quá thấp, phần nhiều nông phẩm vẫn phải bảo quản, chế biến tại
các hộ gia đình bằng phương pháp thủ công. Các xí nghiệp chế biến, kho tàng bến
bãi, máy móc trang thiết bị cũ kỹ, công suất thấp cho nên hoạt động kém hiệu quả
vì phải chịu khấu hao lớn; các định mức tiêu hao nguyên, nhiên liệu cao mà sản
phẩm sản xuất ra chất lượng thấp, nên khó chiếm lĩnh được thị trường ngay cả thị
trường nội tỉnh.
1.1.2.4. Phát triển công nghiệp chế biến nông phẩm xuất phát từ yêu cầu
cần nâng cao hiệu quả và tính bền vững của sản xuất nông nghiệp
Khi công nghiệp chế biến nông phẩm phát triển kể cả số lượng lẫn quy mô,
sẽ cho phép tận dụng triệt để thế mạnh của cây trồng, vật nuôi, góp phần làm cho


thu nhập của nông dân từ sản xuất nông nghiệp tăng lên, đồng thời kích thích nông
dân thâm canh, ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất trên diện tích đất canh
tác, mở rộng quy mô sản xuất, tạo những vùng nguyên liệu chuyên canh để cung
cấp cho các cơ sở chế biến công nghiệp.
Giai đoạn 1996 - 2000 nghề rừng của Thanh Hoá được tổ chức lại và phát
triển theo hướng lâm nghiệp xã hội, chuyển từ khai thác là chủ yếu sang trồng mới,
khoanh nuôi, chăm sóc và bảo vệ, gắn việc trồng rừng phòng hộ với phát triển rừng
kinh tế, bình quân hàng năm thời kỳ 1996 - 2000 trồng được 7.238 ha rừng tập
trung, nâng độ che phủ lên 37% tăng 1,3% so với mục tiêu Đại hội đề ra. Nghề
rừng phát triển đúng hướng đã góp phần xoá đói giảm nghèo giải quyết việc làm
cho hàng vạn hộ nông dân ở các huyện miền núi[26].
Chế biến nông phẩm gồm nhiều công đoạn từ bảo quản sau thu hoạch, sơ chế
đến tinh chế. Trong thực tế phát triển công nghiệp chế biến nông phẩm sẽ phải tập
trung vào cả hai lĩnh vực sơ chế, bảo quản và tinh chế. Đây là hai khâu rất quan

trọng cần được coi trọng. Ở khâu sơ chế bảo quản sẽ giúp giảm bớt sự hao hụt về số
lượng lẫn chất lượng nông phẩm, tránh được tổn thất đáng tiếc, ảnh hưởng đến thu
nhập của nông dân. Đặc biệt ở giai đoạn tinh chế sẽ tạo ra được các sản phẩm chất
lượng cao đáp ứng nhu cầu trong tỉnh, trong nước và xuất khẩu, tạo nên một thị
trường ổn định tiêu thụ hàng hoá nông phẩm cho nông dân, đây là vấn đề hết sức
quan trọng đảm bảo tính bền vững của sản xuất nông nghiệp. Thúc đẩy sản xuất
nông nghiệp thành sản xuất hàng hoá.
Mặt khác, phát triển công nghiệp chế biến nông phẩm đảm bảo được thức ăn
gia súc cho chăn nuôi, thúc đẩy chăn nuôi phát triển, tạo ra nguồn thực phẩm
dồi dào phục vụ đời sống nhân dân và tham gia vào thị trường xuất khẩu.
Theo đánh giá của Tỉnh uỷ Thanh Hoá cơ cấu đàn gia súc, gia cầm của tỉnh
có sự chuyển dịch theo hướng sản xuất hàng hoá, so với thời kỳ 1991 - 1995 thời
kỳ 1996 - 2000, đàn bò tăng 38 ngàn con, đàn lợn tăng 190 ngàn con, đàn gia cầm
tăng 2,1 triệu con. Dự án cải tạo đàn bò, nạc hoá đàn lợn, du nhập giống gia cầm
có năng suất cao được thực hiện giai đoạn đầu; nâng cấp các xí nghiệp giống lợn,
giống gia cầm, xí nghiệp súc sản xuất khẩu quy mô 3.000 tấn/năm [25].


Ngoài chính phẩm của công nghiệp chế biến nông phẩm, các phụ phẩm cũng
có thể được tận dụng để chế biến thành nguồn phân hữu cơ để phục vụ cho trồng
trọt.
Như vậy, phát triển công nghiệp chế biến nông phẩm vừa thúc đẩy sự phát
triển một nền nông nghiệp đa dạng hiệu quả, bền vững, vừa đảm bảo sự phát triển
một nền nông nghiệp sinh thái, bảo vệ môi sinh trong địa bàn tỉnh.
1.1.2.5. Phát triển công nghiệp chế biến nông phẩm xuất phát từ yêu cầu
cần tăng cường sức mạnh chiến đấu của khu vực phòng thủ tỉnh
Từ mối quan hệ kinh tế với chiến tranh, kinh tế với quốc phòng sẽ thấy rõ
mối quan hệ giữa sức mạnh chiến đấu của khu vực phòng thủ với công tác đảm bảo
hậu cần.
Sức mạnh chiến đấu của khu vực phòng thủ là sức mạnh tổng hợp của nhiều

lực lượng, nhiều yếu tố, nhiều quá trình. Trong đó có hoạt động chuẩn bị và đảm
bảo hậu cần. Cung cấp, đảm bảo đầy đủ lương thực, thực phẩm cho lực lượng vũ
trang là vấn đề đặc biệt quan trọng có quan hệ trực tiếp tới sức mạnh chiến đấu của
khu vực phòng thủ. Nông nghiệp, nông thôn giữ vai trò to lớn trong việc đảm bảo
cung cấp lương thực, thực phẩm cho lực lượng vũ trang nói chung và cho khu vực
phòng thủ nói riêng. Công nghiệp chế biến nông phẩm phát triển sẽ tạo tiền đề đẩy
nhanh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất nông
nghiệp phát triển toàn diện, đa dạng, phong phú tạo ra nguồn lương thực, thực
phẩm dồi dào đáp ứng cho nhu cầu đời sống của dân cư và tạo nguồn vật chất hậu
cần để đảm bảo, đặc biệt là lương thực thực phẩm cho khu vực phòng thủ. Sản xuất
nông nghiệp phát triển tạo ra nguồn nguyên liệu to, lớn đa dạng tạo điều kiện cho
các ngành công nghiệp chế biến, công nghiệp hậu cần của quân đội ở địa bàn nông
thôn phát triển vững chắc. Chính sự phát triển đa dạng, ổn định của công nghiệp
chế biến nông phẩm là cơ sở để cung cấp cho ngành hậu cần quân đội nói chung
và cho khu vực phòng thù tỉnh nói riêng những sản phẩm hàng hoá có chất lượng
cao (lương khô, bánh ép, đồ hộp) có khả năng dự trữ dài ngày, thuận tiện trong bảo
quản, vận chuyển, sử dụng phù hợp với hoạt động đặc thù của bộ đội trong chiến
đấu.


Ngược lại, khi công tác bảo đảm hậu cần cho khu vực phòng thủ được thực
hiện tốt, phù hợp với yêu cầu của lực lượng vũ trang thì sức mạnh của khu vực
phòng thủ được tăng cường, an ninh chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ giữ vững sẽ là
tiền đề chính trị xã hội cho sự phát triển của đất nước nói chung, của nông nghiệp,
nông thôn cũng như công nghiệp chế biến nông phẩm nói riêng phát triển.
1.2. Vai trò của công nghiệp chế biến nông phẩm đối với đời sống kinh
tế-xã hội và đảm bảo hậu cần tại chỗ cho khu vực phòng thủ tỉnh
Thanh Hoá
1.2.1. Vai trò của công nghiệp chế biến nông phẩm đối với đời sống kinh
tế - xã hội

Thứ nhất, định hướng và thúc đẩy việc sản xuất nguyên liệu theo hướng
nông nghiệp hàng hoá.
Công nghiệp chế biến nông phẩm với tư cách là khách hàng gắn với yêu tố
đầu ra của sản xuất nông nghiệp - sản xuất nguyên liệu cho chế biến. Sự tăng
trưởng nhanh hay chậm, cao hay thấp của công nghiệp chế biến nông phẩm có liên
quan đến quy mô sản xuất nông nghiệp dưới hình thức nguyên liệu. Trình độ công
nghệ của công nghiệp chế biến nông phẩm có liên quan đến cơ cấu, kích thước và
chất lượng của nguyên liệu có nguồn gốc từ nông nghiệp. Để đáp ứng nhu cầu
khách hàng, ngành công nghiệp chế biến nông phẩm buộc ngành nông nghiệp phải
đổi mới để thích nghi, để tồn tại và phát triển. Việc các ngành nông nghiệp sản
xuất cái gì ? sản xuất như thế nào ? sản xuất cho ai ? nếu không có ngành công
nghiệp chế biến thì mọi phương án sản xuất nguyên liệu khó đưa lại hiệu quả.
Thực tế những năm qua, giữa sản xuất và tiêu thụ hàng nông sản của Thanh
Hoá nói riêng, cả nước nói chung năm nào cũng xảy ra sự "lệch pha" giữa sản xuất
và tiêu thụ, gây thiệt hại lớn cho người sản xuất trực tiếp và cả nền kinh tế. Khi thì
hàng hoá nông sản thừa mứa ê hề, giá rẻ như bèo, các cơ sở thu mua chế biến
"ngoảnh mặt" khiến nông dân điêu đứng, lúc lại khan hiếm nguyên liệu đầu vào,
đẩy giá nguyên liệu lên cao. Điển hình của tình trạng "lệch pha" giữa sản xuất và
tiêu thụ là trong các mặt hàng rau quả, nông dân nhiều địa phương đã từng "vỡ


mộng" vì cây dứa, nhiều phen khốn đốn bởi sự "nóng lạnh" bất thường của các
doanh nghiệp chế biến xuất khẩu [28].
Nếu CNCB nông phẩm không phát triển, ngay cả nếu có thực hiện chính
sách mở cửa thì cũng chỉ xuất khẩu hàng thô, khó có khả năng cạnh tranh, dễ bị
chèn ép và thường bị thua thiệt là điều khó tránh khỏi. Như vậy, sự tồn tại, phát
triển cả về chiều rộng và chiều sâu của công nghiệp chế biến nông phẩm, có vai
trò, tác dụng định hướng, kích thích sản xuất nguyên liệu nông nghiệp phát triển
nhanh chóng về số lượng, cơ cấu, kích cỡ và chất lượng. Theo đánh giá của Tỉnh
uỷ Thanh Hoá giai đoạn 1996 - 2000 nông, lâm, ngư nghiệp phát triển theo hướng

sản xuất hàng hoá, gắn với việc khai thác tiềm năng kinh tế biển và trung du miền
núi. Các loại cây con có năng suất, hiệu quả thấp đang được thay thế dần bằng các
loại cây con có giá trị, hiệu quả cao hơn. Diện tích vụ đông được mở rộng và trở
thành vụ sản xuất chính của nhiều huyện. Các vùng cây công nghiệp tập trung
chuyên canh được quan tâm đầu tư phát triển [26].
Thông qua hợp đồng kinh tế được ký kết, với các điều khoản có lợi cho hai
bên: Điều khoản vốn ứng trước, giá cả mua bán, khối lượng, cơ cấu chất lượng và
thời gian giao nhận, làm cho các ngành nông nghiệp nguyên liệu yên tâm về thị
trường đầu ra để sản xuất nông phẩm, từ mục đích sản xuất để tiêu dùng sang mục
đích sản xuất để bán, sản xuất cái mà thị trường cần chứ không phải từ sản phẩm
mình có. Bằng cách đó, chuyển nền nông nghiệp tự cung tự cấp, tự túc sang nền
nông nghiệp thương phẩm theo hướng CNH, HĐH và phát triển kinh tế thị trường.
Thực tiễn từ 1996 đến nay ở Thanh Hoá vùng đồng bằng đã tập trung chuyển đổi
cơ cấu mùa vụ, cây trồng, vật nuôi theo hướng ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật,
hình thành các vùng chuyên canh, kết hợp từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông thôn, khôi phục các ngành nghề truyền thống, phát triển ngành nghề mới, tạo
việc làm và phân công lại lao động nông thôn. Kinh tế trung du có chuyển biến tích
cực theo hướng sản xuất hàng hoá. Miền núi bước đầu đã có sự chuyển dịch từ
kinh tế tự túc, tự cấp sang sản xuất hàng hoá.
Công nghiệp chế biến nông phẩm không chỉ bảo tồn giá trị sử dụng, mà còn
cải biến, bổ sung vào nguyên liệu những phẩm chất mới, từ đó nâng cao giá trị sản


phẩm, kích thích nhu cầu của thị trường. Mặt khác công nghiệp chế biến nông
phẩm còn tác động trở lại khu vực nguyên liệu, kích thích đầu tư năng lực phát
triển sản xuất nguyên liệu, tạo ra thị trường tiêu thụ ngày càng lớn và ổn định cho
khu vực này. Như vậy, công nghiệp chế biến nông phẩm không chỉ có vai trò định
hướng cho sản xuất nguyên liệu, mà còn là khâu trung gian gắn kết khâu sản xuất
nguyên liệu với khâu tiêu thụ. Chỉ thực hiện vai trò đó, công nghiệp chế biến mới
ổn định và bền vững.

Thứ hai, mở rộng khả năng cung ứng sản phẩm trên thị trường, tăng sức
cạnh tranh cho hàng hoá nông phẩm của tỉnh trên thị trường, thúc đẩy quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH.
Thông qua chế biến các sản phẩm do ngành nông nghiệp cung cấp, trên cơ
sở sử dụng công nghệ và đội ngũ lao động kỹ thuật, công nghiệp chế biến nông
phẩm có khả năng đưa ra thị trường những hàng hoá chất lượng cao, thoả mãn nhu
cầu đa dạng, phong phú của thị trường.
Vai trò của công nghiệp chế biến nông phẩm càng trở nên quan trọng với các
nước có nền kinh tế mở. Vì, khả năng cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường
không chỉ phụ thuộc vào trình độ khai thác các sản phẩm của nông nghiệp, ở lợi
thế và điều kiện tự nhiên (đất đai, khí hậu, thổ nhưỡng...) để có sản phẩm đó, mà
quan trọng hơn ở trình độ kết hợp sản phẩm nông nghiệp, với kỹ thuật, công nghệ
thông qua lao động của con người, công nghiệp chế biến nông phẩm có vai trò
"khuyếch đại" giá trị sử dụng và làm gia tăng giá trị của các sản phẩm nông
nghiệp, làm cho nó trở thành dạng sản phẩm mới thích hợp với thị trường, tăng sức
cạnh tranh và đạt hiệu quả kinh tế cao hơn.
Công nghiệp chế biến nói chung, công nghiệp chế biến nông phẩm nói riêng
gắn bó trực tiếp với thị trường hàng tiêu dùng, gắn với đời sống hàng ngày của mỗi
người dân, do đó công nghiệp chế biến nông phẩm rất nhạy cảm với yêu cầu tiêu
thụ của thị trường. Nó luôn thay đổi để thích hợp với thị trường; đồng thời, thông
qua phân tích và dự báo nhu cầu của thị trường, công nghiệp chế biến nông phẩm
có vai trò hướng dẫn thị trường và trở thành "người bạn đồng hành" gắn bó mật
thiết với người tiêu dùng.


Đối với Thanh Hoá do điểm xuất phát thấp, lại chịu ảnh hưởng nặng nề của
cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp, nên sản xuất nói chung, công
nghiệp chế biến nông phẩm nói riêng trước đây rơi vào tình trạng khủng hoảng,
khiến cho sản xuất và đời sống của dân cư trong tỉnh gặp nhiều khó khăn. Cũng
như tình trạng chung của cả nước, nhu cầu hàng tiêu dùng, trong đó có hàng tiêu

dùng, được sản xuất từ công nghiệp chế biến nông phẩm của Thanh Hoá mất cân
đối nghiêm trọng, cơ cấu ngành kinh tế hầu như không có sự biến đổi hoặc biến
đổi không đáng kể, biểu hiện: cơ cấu sản xuất, ngành nghề còn đơn điệu, chậm đổi
mới. Nhiều ngành sản xuất hàng tiêu dùng, chế biến nông, lâm, thuỷ sản, ngành
thu hút nhiều lao động như may, dệt, giày da ... chưa được tổ chức sản xuất nhiều
trong tỉnh, chưa đáp ứng được nhu cầu ngay cả thị trường nội tỉnh. Qua hơn mười
lăm năm đổi mới kể từ 1986 đến nay, cùng với cả nước, Thanh Hoá đã ra khỏi
khủng hoảng kinh tế - xã hội. Các ngành kinh tế nói chung, trong đó có ngành
công nghiệp có nhịp độ tăng trưởng khá.
Thời kỳ 1996 – 2000, tăng trưởng của công nghiệp - xây dựng trong GDP
bình quân đạt 13,5% trong đó: công nghiệp 15,8%, xây dựng 10%. Riêng năm
2000 công nghiệp tăng 27,9%. Đây là thời kỳ sản xuất công nghiệp được tập trung
đầu tư theo quy hoạch, với tỷ lệ đầu tư chiếm tỷ trọng lớn, thực sự làm thay đổi cơ
cấu theo hướng khai thác thế mạnh của địa phương, đó là công nghiệp vật liệu xây
dựng, công nghiệp chế biến cây công nghiệp. Một số sản phẩm có sản lượng lớn,
tăng khá như phân bón, đường - bánh kẹo, bia, nước ngọt, thuốc lá, nước mắm, hải
sản đông lạnh, chiếu cói [29].
Kết quả tăng trưởng nói trên của công nghiệp, trong đó có công nghiệp chế
biến nông phẩm, không chỉ đã góp phần đáp ứng nhu cầu về hàng tiêu dùng, giải
quyết có hiệu quả tình trạng mất cân đối về hàng tiêu dùng, mà còn góp phần làm
thay đổi cơ cấu kinh tế ngành trong GDP của tỉnh ngày một tiến bộ, phù hợp dần
với sự biến đổi theo hướng tỷ trọng nông nghiệp giảm dần, tỷ trọng công nghiệp và
dịch vụ tăng lên, trong đó ngành dịch vụ có nhịp độ tăng nhanh hơn ngành công
nghiệp trong GDP.


Chẳng hạn tỷ trọng nông, lâm, ngư nghiệp trong GDP bình quân giảm từ
46,10% thời kỳ 1991 - 1995 xuống còn 42,40% thời kỳ 1996 - 2000, tỷ trọng công
nghiệp xây dựng tăng từ 20,3% lên 23,4%, dịch vụ tăng từ 33,6% lên 34,2% [25].
Sự tăng trưởng và phát triển của công nghiệp chế biến nông phẩm, không

những làm thay đổi động thái cơ cấu ngành kinh tế trong tỉnh, mà còn tạo điều kiện
gắn nông - lâm - ngư nghiệp với công nghiệp chế biến nông phẩm, hình thành cơ
cấu nông - công nghiệp chế biến và dịch vụ ở nông thôn. Như Lênin đã khẳng
định: "Sự phát triển của việc chế biến về mặt kỹ thuật các nông sản thường thường
gắn liền với tiến bộ kỹ thuật trong nông nghiệp: Một mặt, bản thân việc sản xuất
nguyên liệu để chế biến thường thường đòi hỏi phải cải tiến nông nghiệp (thí dụ
việc trồng cây có củ) mặt khác, những phế liệu trong khi chế biến thường đem
dùng vào nông nghiệp, làm cho sản lượng nông nghiệp tăng lên và ít ra cũng khôi
phục một phần nào sự thăng bằng và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa nông nghiệp và
công nghiệp" [13, 353]. Bằng cách đó, nâng cao thu nhập của dân cư nông thôn với
tư cách là một nhân tố có liên quan đến dung lượng thị trường nông thôn, một thị
trường chiếm hơn 90% dân cư của cả tỉnh.
Vai trò của công nghiệp chế biến nông phẩm càng trở nên quan trọng khi
trình độ khoa học - công nghệ, trình độ sản xuất và cơ cấu của chính nó được tiếp
cận với những thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến. Thực tế đã chứng minh: khả
năng cạnh tranh về hàng chế biến trên thị trường nội địa cũng như ngoài nước phụ
thuộc vào trình độ đạt được của công nghiệp chế biến.
Thứ ba, thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển.
Bên cạnh vai trò thúc đẩy và định hướng các ngành sản xuất, khai thác
nguyên liệu, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm nông phẩm, công nghiệp chế
biến nông phẩm còn góp phần thúc đẩy phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật - công
nghệ, cung ứng vật tư, hoá chất, điện dịch vụ.... Vai trò này bắt nguồn từ chỗ để
sản phẩm được sản xuất ra và có sức cạnh tranh trên thị trường, ngoài các khu vực
cung cấp nguyên liệu, công nghiệp chế biến nông phẩm còn đòi hỏi phải có cơ sở
vật chất kỹ thuật để sản xuất. Không có cơ sở vật chất kỹ thuật thì công nghiệp chế
biến không thể tồn tại được. Điều đó cũng có nghĩa là: trình độ bảo tồn và làm gia


tăng giá trị sử dụng của các nguyên liệu cũng như mức độ đa dạng hoá, tính hợp lý
của cơ cấu sản phẩm chế biến, được quyết định bởi trình độ công nghiệp chế biến

mà trong đó, yếu tố hết sức cơ bản là cơ sở vật chất, kỹ thuật. Khả năng cạnh tranh
của sản phẩm công nghiệp chế biến của một địa phương, một khu vực, một quốc
gia được quy định bởi trình độ cơ sở vật chất kỹ thuật mà địa phương, khu vực,
quốc gia đó sử dụng. Chính vì vậy, sự phát triển của công nghiệp chế biến nông
phẩm, gây tác động dây chuyền tới sự phát triển của cơ sở vật chất kỹ thuật phục
vụ nó. Đồng thời, sự phát triển công nghiệp chế biến nông phẩm và cơ sở vật chất
kỹ thuật phục vụ công nghiệp chế biến, kéo theo các ngành cung ứng vật tư, điện,
hoá chất, dịch vụ... phát triển. Theo lôgíc này, phát triển công nghiệp chế biến,
công nghiệp chế biến nông phẩm là một trong những điều kiện để thúc đẩy các
ngành kinh tế khác trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá phát triển như xây dựng, vận tải,
kho bãi, tài chính, tín dụng, thông tin liên lạc, khoa học công nghệ ... Biểu hiện, để
đảm bảo đủ nguyên liệu mía Công ty mía đường Lam Sơn đã tác động vào khâu
trồng mía và người trồng mía thông qua các hoạt động chuyển giao công nghệ, trợ
giúp các xã vùng nguyên liệu phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế: Công ty tổ chức 6
trạm chuyển giao kỹ thuật và 10 điểm trình diễn khuyến nông trên các vùng mía,
nhằm phổ cập kiến thức mới cho người trồng mía. Giúp các xã vùng mía thúc đẩy
phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội. Từ năm 1990 - 1998 bằng nguồn vốn do
Công ty hỗ trợ và sức lao động của dân đã tu bổ nâng cấp và làm mới 178 km
đường (16 km nhựa, 162 km cấp phối đá mới làm) 22 cầu cống lớn nhỏ trong vùng
mía, 1992 - 1998 hỗ trợ 19 xã có trường học cao tầng [10].
Ngược lại, sự phát triển của các ngành này, lại thúc đẩy sự phát triển của
công nghiệp chế biến nông phẩm, cả về chiều rộng và chiều sâu, từ chưa hoàn
thiện đến hoàn thiện, từ sơ chế đến tinh chế, từ chất lượng thấp đến chất lượng cao
hơn.
Thứ tư, phát triển công nghiệp chế biến nông phẩm góp phần giải quyết
công ăn việc làm cho người lao động.
Để có hàng hoá nông phẩm có giá trị kinh tế cao, có khả năng cạnh tranh
trên thị trường trong tỉnh, trong nước cũng như thị trường thế giới, tất yếu phải



phát triển công nghiệp chế biến nông phẩm, với trình độ công nghệ hiện đại. Về
lôgíc khi trình độ công nghệ của công nghiệp chế biến nông phẩm càng hiện đại,
thì số lượng lao động trực tiếp cần sử dụng trong các cơ sở chế biến nông phẩm
càng giảm. Nhưng sự phát triển của công nghiệp chế biến nông phẩm lại đòi hỏi số
lượng lao động ngày càng nhiều hơn tại các khâu sản xuất, khai thác nguyên liệu,
cung ứng vật tư thiết bị và các lĩnh vực dịch vụ khác kể cả lưu thông và tiếp thị.
Theo báo cáo của Sở Thuỷ sản Thanh Hoá đến năm 2002 toàn tỉnh có 383
cơ sở dịch vụ hậu cần nghề cá, trong đó: 47 cơ sở đóng sửa tàu; 194 cơ sở dịch vụ
lưới sợi, xăng dầu; 142 cơ sở sản xuất đá lạnh, giải quyết việc làm cho 2.690 lao
động [23].
Sự phát triển của công nghiệp chế biến nông phẩm, không chỉ tạo thêm số
lượng việc làm cho người lao động, mà còn góp phần cải thiện điều kiện lao động
của con người, nâng cao trình độ lao động của họ. Nhờ đó tay nghề của người lao
động được nâng lên, lao động phổ thông chuyển thành lao động có tay nghề cao.
Thực tiễn Công ty mía đường Lam Sơn trong quá trình phát triển đã tạo ra
một vùng nguyên liệu rộng lớn, đa dạng và vững chắc trên phạm vi 87 xã, bốn
nông trường với diện tích 16.000 ha. Chỉ với số lao động của Công ty là 1977
người mà đã thu hút tới 27.409 hộ trồng mía trong đó hộ nông trường xã viên là
5.357 hộ nông dân là 22.052 hộ. Từ năm 1996 - 2000 Công ty đã ký hợp đồng với
các trường đại học đào tạo từ 30 - 40% công nhân có trình độ thợ bậc cao và đại
học [10].
Vai trò giải quyết việc làm của công nghiệp chế biến nông phẩm, càng trở
nên quan trọng hơn đối với Thanh Hoá. Vì, Thanh Hoá là một tỉnh đất rộng người
đông, điểm xuất phát về kinh tế còn thấp, tích luỹ ít, tỷ lệ lao động thiếu việc làm,
lao động chưa qua đào tạo còn cao. Do đặc điểm của sản xuất nông nghiệp có tính
thời vụ cao, lao động nông nhàn chiếm số lượng không nhỏ. Trong bối cảnh đó,
gắn nông nghiệp với công nghiệp chế biến nông phẩm và phát triển dịch vụ có ý
nghĩa rất quan trọng, là một giải pháp rất cơ bản nhằm tạo nhiều việc làm cho
người lao động nông thôn trên địa bàn tỉnh. Bằng cách đó phân công lại lao động



×