Tải bản đầy đủ (.doc) (112 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP CHẾ BIẾN NÔNG sản ở TỈNH hải DƯƠNG HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (584.08 KB, 112 trang )

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Viết đầy đủ
Công nghiệp chế biến
Công nghiệp chế biến nông sản
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Cơ sở hạ tầng
Khoa học công nghệ
Kinh tế - xã hội
Lực lượng sản xuất
Trách nhiệm hữu hạn
Vệ sinh an toàn thực phẩm

Viết tắt
CNCB
CNCBNS
CNH, HĐH
CSHT
KHCN
KT-XH
LLSX
TNHH
VSATTP


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1: PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP CHẾ BIẾN

Trang
3


NÔNG SẢN Ở TỈNH HẢI DƯƠNG - CƠ SỞ LÝ
LUẬN VÀ KINH NGHIỆM
1.1. Những vấn đề chung về công nghiệp chế biến và

12

công nghiệp chế biến nông sản
1.2. Quan niệm, nội dung và những nhân tố tác động đến phát

12

triển công nghiệp chế biến nông sản ở tỉnh Hải Dương
1.3. Kinh nghiệm phát triển công nghiệp chế biến nông sản

21

ở một số tỉnh và bài học rút ra cho tỉnh Hải Dương
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP

32

CHẾ BIẾN NÔNG SẢN Ở TỈNH HẢI DƯƠNG
2.1. Thành tựu và hạn chế trong phát triển công nghiệp chế

42

biến nông sản ở tỉnh Hải Dương
2.2. Nguyên nhân của thành tựu, hạn chế và những vấn

42


đề đặt ra cần giải quyết
Chương 3: QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU

53

PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP CHẾ BIẾN NÔNG
SẢN Ở TỈNH HẢI DƯƠNG THỜI GIAN TỚI
3.1. Quan điểm cơ bản đẩy mạnh phát triển công

65

nghiệp chế biến nông sản ở tỉnh Hải Dương thời
gian tới
3.2. Giải pháp chủ yếu đẩy mạnh phát triển công nghiệp
chế biến nông sản ở tỉnh Hải Dương thời gian tới
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

65
72
96
98
104


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Công nghiệp chế biến nông sản là ngành có tác động mạnh mẽ vào lĩnh

vực nông nghiệp, nông thôn, tạo đà cho ngành nông nghiệp phát triển trên cơ
sở đa dạng hóa sản phẩm, bảo quản, cải biến và nâng cao giá trị nông sản, góp
phần tạo thêm nhiều công ăn việc làm và tăng thu nhập cho người lao động.
Vì vậy, Đảng ta luôn quan tâm đến phát triển CNCBNS.
Trong Đề án tái cơ cấu ngành Nông nghiệp được Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt tại Quyết định số 899/QĐ-TTg ngày 10/6/2013 đã chỉ rõ: “Ưu tiên
phát triển chế biến tinh, chế biến sâu, đổi mới công nghệ, thiết bị kết hợp với
các biện pháp về tổ chức sản xuất, tiêu thụ hàng hóa nhằm nâng cao giá trị gia
tăng nông, lâm, thủy sản, phấn đấu mỗi ngành hàng có mức tăng ít nhất 20%
trong vòng 10 năm” [51, tr.9].
Là tỉnh có nhiều tiềm năng, Hải Dương sớm nhận thức được vai trò của
CNCBNS đối với sự phát triển kinh tế nói chung, sự nghiệp CNH, HĐH nông
nghiệp nông thôn nói riêng. Những năm qua, CNCBNS ở Hải Dương luôn
được quan tâm phát triển. Sản phẩm của ngành phong phú đa dạng do yếu tố
đầu vào thuận lợi, không những đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng trong tỉnh, mà
còn từng bước đáp ứng nhu cầu cho các địa phương khác cũng như cho xuất
khẩu. Nhưng cho đến nay, CNCBNS ở tỉnh Hải Dương vẫn là ngành công
nghiệp nhỏ bé, công nghệ lạc hậu, phát triển ngành công nghiệp này chưa gắn
với phát triển vùng nguyên liệu. Vai trò của CNCBNS đối với sự phát triển
kinh tế nói chung, kinh tế nông nghiệp nói riêng còn hạn chế. Vì thế, hàng hoá
nông sản tiêu thụ trên thị trường trong nước và quốc tế hầu hết ở dạng thô, hoặc
sản phẩm chỉ qua sơ chế nên giá trị không cao, khả năng cạnh tranh thấp. Tác
động của CNCBNS đến việc thay đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi chưa mạnh.
Đầu tư cho CNCBNS chưa tương xứng với tiềm năng, công tác dự báo thị
trường còn nhiều hạn chế.
Đặc biệt khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của tổ chức
Thương mại thế giới (WTO); tham gia ký kết các hiệp định thương mại tự do
3



như Khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA), Hiệp định đối tác xuyên Thái
Bình Dương (TPP), và là thành viên của Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC)… đã
đem lại những thời cơ cũng như thách thức đối với ngành chế biến nông sản của
Việt Nam nói chung, CNCBNS của tỉnh Hải Dương nói riêng. Nếu ngành
CNCBNS của tỉnh không kịp thời đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất, chất
lượng sản phẩm, cải tiến mẫu mã thì nguy cơ “thua trên sân nhà” trong quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế là vấn đề hiện hữu. Vì vậy, đẩy mạnh phát triển
CNCBNS là yêu cầu cấp thiết ở tỉnh Hải Dương hiện nay. Do vậy, tác giả lựa
chọn đề tài: “Phát triển công nghiệp chế biến nông sản ở tỉnh Hải Dương”
làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành Kinh tế chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Phát triển CNCBNS là một trong những nội dung quan trọng trong quá trình
CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn. Hiện nay, đã có nhiều công trình của nhiều
nhà khoa học đề cập đến nó dưới những góc độ nghiên cứu khác khau, cụ thể là:
* Nghiên cứu làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn, chỉ ra những vấn đề có
tính quy luật và xu hướng vận động của CNCBNS có các công trình sau:
“Phát triển CNCBNS ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp”; Mã số
QK.04.03, do Đại học quốc gia Hà Nội chủ trì, người thực hiện Mai Thị
Thanh Xuân và Ngô Đăng Thành. Bằng các phương pháp thống kê, so sánh,
phân tích, tổng hợp, đề tài đã: Làm rõ cơ sở lý luận và thực trạng phát triển
CNCBNS ở Việt Nam. Phân tích kinh nghiệm phát triển CNCBNS của một số
nước có điều kiện tương đồng với Việt Nam, từ đó rút ra một số bài học mà
Việt Nam có thể vận dụng. Phân tích, đánh giá thực trạng phát triển CNCBNS
ở Việt Nam, nhất là CNCBNS xuất khẩu. Chỉ ra những thách thức và quan
điểm phát triển CNCBNS trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Đề xuất
các giải pháp nhằm thúc đẩy CNCBNS phát triển hiệu quả hơn.
“Xu hướng phát triển của ngành CNCB ở thành phố Hồ Chí Minh”,
Luận án tiến sĩ kinh tế của Vũ Anh Tuấn, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, 1998; đã luận giải những nét căn bản về lý luận và thực tiễn phát triển
4



CNCB ở thành phố Hồ Chí Minh và những xu hướng có tính qui luật trong quá
trình phát triển công nghiệp chế biến.
“Phát triển CNCB: những xu hướng có tính qui luật” của Vũ Anh Tuấn,
đăng trên tạp chí Phát triển kinh tế, Số 79, tháng 5 năm 1997... Bài báo đã phân
tích làm rõ sự cần thiết phát triển CNCB ở nước ta, trong đó nhấn mạnh sự cần
thiết phải đẩy mạnh phát triển CNCBNS; chỉ ra những vấn đề có tính quy luật
trong phát triển CNCB để ngành này phát triển đúng hướng.
“Phát triển CNCB nông, lâm sản trên địa bàn các tỉnh vùng Bắc Trung
bộ” của tác giả Nguyễn Hồng Lĩnh, luận án tiến sĩ kinh tế, bảo vệ tại Đại học
Kinh tế Quốc dân, năm 2007. Luận án nghiên cứu dưới góc độ kinh tế học, đã
trình bày một số vấn đề lý luận cơ bản về phát triển CNCB nông, lâm sản trên
địa bàn các tỉnh vùng Bắc Trung bộ. Những định hướng cơ bản và giải pháp
phát triển CNCB nông, lâm sản các tỉnh vùng Bắc Trung bộ.
“Phát triển công nghiệp chế biến nông sản ở tỉnh Gia Lai” của tác giả
Nguyễn Quý Thọ, luận văn thạc sĩ, chuyên ngành Kinh tế phát triển, bảo vệ
tại Đại học Đà Nẵng, năm 2011. Luận văn đã tập trung làm sáng tỏ cơ sở lý
luận và thực tiễn cho việc đề ra những chủ trương, chính sách phát triển công
CNCBNS của tỉnh Gia Lai theo yêu cầu bền vững trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.
* Dưới góc độ nghiên cứu đặc điểm, vai trò của công nghiệp chế biến
nông sản, chỉ ra kinh nghiệm và bài học đối với Việt Nam có các công trình
nghiên cứu sau:
“Vai trò của CNCBNS và dịch vụ đối với sự phát triển nền nông nghiệp
hàng hóa ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào”, luận án tiến sĩ kinh tế học, của
tác giả Bua Không Nam Ma Vông, bảo vệ tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh, năm 2001. Luận án đã làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về vai trò
của CNCBNS và dịch vụ đối với sự phát triển nền nông nghiệp hàng hóa, từ đó
nêu nên những phương hướng và giải pháp chủ yếu nâng cao vai trò CNCBNS

và dịch vụ nhằm thúc đẩy sự phát triển nền nông nghiệp hàng hóa ở Lào.
5


“Vai trò của CNCB nông lâm sản đối với sự phát triển của nền kinh
tế” của Tiến sĩ Trần Thị Ái Đức, đăng trên Tạp chí Kinh tế Châu Á - Thái
Bình Dương, số 274, tháng 3/2011. Bài báo đã phân tích vai trò của CNCB
nông lâm sản đối với sự phát triển nền kinh tế trên các khía cạnh: vai trò đối
với sự phát triển của sản xuất nguyên liệu; vai trò của nó đối với sản xuất
nông nghiệp theo hướng CNH, HĐH; và vai trò đối với việc đẩy mạnh xuất
khẩu, tăng nguồn thu ngoại tệ, phát huy lợi thế so sánh trong nước; giải quyết
việc làm, tăng thu nhập, nâng cao đời sống của người dân, nhất là người dân
trên địa bàn nông thôn.
“Đặc điểm của CNCBNS và chuỗi giá trị đối với chuỗi ngành hàng
nông sản” của tác giả Nguyễn Thị Minh Phượng và Nguyễn Thị Minh Hiền,
đăng trên Tạp chí Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương, số 367, tháng 6/2012.
Bài báo đã phân tích, nhấn mạnh những đặc điểm riêng biệt của ngành CNCB
các sản phẩm từ nông nghiệp và đưa ra chuỗi giá trị đối với ngành hàng nông
sản hiện nay.
“Phát triển CNCBNS và vai trò của nó trong bảo đảm hậu cần tại chỗ
cho khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố) vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay”
của tác giả Đỗ Văn Nhiệm, luận án tiến sĩ quân sự, bảo vệ tại Học viện Chính trị
- quân sự năm 2006. Trong luận án, tác giả nghiên cứu sự phát triển của
CNCBNS với tính cách là một lĩnh vực kinh tế và giới hạn việc nghiên cứu trong
nhóm ngành chế biến thực phẩm và đồ uống. Luận án đã trình bày những vấn đề
chung, thực trạng và những giải pháp chủ yếu về phát triển CNCBNS và phát
huy vai trò của nó trong bảo đảm hậu cần tại chỗ cho khu vực phòng thủ tỉnh
(thành phố) vùng Đồng bằng sông Hồng.
* Nghiên cứu CNCBNS dưới góc độ là một trong những giải pháp để
nâng cao giá trị hàng nông sản Việt Nam trong quá trình hội nhập:

“Khả năng cạnh tranh của nông sản Việt Nam trước thềm gia nhập
WTO” của Thạc sĩ Đỗ Huy Hà, đăng trên Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số
9/2006. Bài báo đã phân tích làm rõ thực tiễn khả năng cạnh tranh của nông sản
Việt Nam trước thềm gia nhập WTO, trên cơ sở đó đưa ra một số giải pháp
6


nhằm nâng cao sức cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam, đặc biệt là những
mặt hàng nông sản chế biến chủ lực.
“Phát triển CNCB rau quả ở Việt Nam trong quá trình hội nhập” của
tác giả Trương Đức Lực, luận án tiến sĩ kinh tế, bảo vệ tại Đại học Kinh tế
Quốc dân, năm 2006. Luận án đã nghiên cứu một bộ phận của CNCB, tập
trung vào chế biến rau quả. Phân tích làm rõ thực trạng phát triển CNCB rau
quả ở Việt Nam giai đoạn 1995-2005, chỉ ra những nguyên nhân, đồng thời đề
xuất một số biện pháp góp phần phát triển CNCB rau quả ở Việt Nam trong
tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH
nông nghiệp nông thôn.
“Phát triển công nghiệp chế biến nông sản xuất khẩu”, Nguyễn Kế
Tuấn, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, số 82, tháng 4/2004. Trong bài báo này tác
giả đã tập trung luận giải những tồn tại, yếu kém trong các mặt hàng nông sản
xuất khẩu ở nước ta, đặc biệt là hạn chế về chất lượng chế biến, chủng loại các
mặt hàng trước những yêu cầu đòi hỏi ngày càng cao của thị trường trong khu
vực và thế giới. Trên cơ sở đó đã đưa ra những giải pháp cơ bản nhằm tập trung
phát triển CNCB những mặt hàng nông sản phục vụ nhu cầu xuất khẩu, nâng
cao giá trị của hàng nông sản Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu.
“Chính sách tiêu thụ nông sản Việt Nam trong quá trình thực hiện
các cam kết với Tổ chức thương mại thế giới”, luận án tiến sĩ, của tác giả
Vũ Văn Hùng, bảo vệ tại Đại học Kinh tế quốc dân, năm 2012. Luận án
đã phân tích thực trạng chính sách tiêu thụ nông sản ở Việt Nam hiện nay,
đánh giá mặt tích cực, hạn chế và những nguyên nhân hạn chế của chính

sách tiêu thụ nông sản ở Việt Nam hiện nay; trên cơ sở đó luận án đã đưa
ra các quan điểm và giải pháp hoàn thiện chính sách tiêu thụ nông sản
nhằm gia tăng giá trị nông sản Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu; đảm
bảo hài hòa lợi ích của các chủ thể kinh tế nông nghiệp, nông thôn mà
trung tâm là lợi ích của người nông dân trong quá trình thực hiện các cam
kết đối với WTO.
7


“Nông sản xuất khẩu Việt Nam trong thời kỳ hội nhập - Thực trạng và
giải pháp phát triển” của Tiến sĩ Phạm Thị Xuân Thọ, đăng trên Tạp chí
Khoa học - ĐH TP Hồ Chí Minh, số 23 năm 2010. Bài viết đã phân tích thực
trạng, những thuận lợi, khó khăn của nông sản xuất khẩu Việt Nam, đồng thời
đưa ra một số giải pháp nhằm phát huy lợi thế cạnh tranh, tăng hiệu quả KTXH và môi trường cho nông sản xuất khẩu Việt Nam trong thời kỳ CNH,
HĐH đất nước. Một trong những giải pháp chủ lực là phải phát triển
CNCBNS để có những mặt hàng nông sản có sức cạnh tranh.
* Một số công trình nghiên cứu về thị trường tiêu thụ hàng nông sản ở
Việt Nam nói chung và từng vùng - lãnh thổ nói riêng:
Tác giả Đặng Phong Vũ (2000), “Thị trường tiêu thụ nông phẩm của
Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay - đặc điểm và phương hướng phát triển”,
luận án Tiến sĩ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Dưới góc độ kinh
tế học chính trị, tác giả đã phân tích làm nổi bật đặc điểm của thị trường tiêu
thụ nông phẩm của Đồng bằng sông Cửu Long và vai trò của thị trường này
đối với sự phát triển KT - XH của vùng; phân tích thực trạng thị trường tiêu
thụ nông phẩm của Đồng bằng sông Cửu Long, làm rõ những mâu thuẫn đặt
ra cần giải quyết để phát triển thị trường tiêu thụ nông phẩm của vùng trong
thời gian tới, trên cơ sở đó tác giả đề ra phương hướng và phải pháp phát triển
thị trường tiêu thụ nông phẩm của Đồng bằng sông Cửu Long. Tuy nhiên, do
giới hạn về phạm vi nội dung nghiên cứu nên tác giả chưa đề cập đến những
nhân tố tác động đến việc phát triển thị trường tiêu thụ nông sản và các nội

dung phát triển thị trường tiêu thụ nông sản.
Tác giả Hoàng Thị Ngọc Loan (2005), “Thị trường tiêu thụ hàng
nông sản của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập AFTA”, luận án Tiến sĩ
Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Tác giả đã khái quát lý
luận chung về thị trường, đặc điểm và các yếu tố tác động lên thị trường
nông sản, làm rõ thời cơ và thách thức đối với thị trường tiêu thụ hàng
nông sản của Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực; phân

8


tích thực trạng thị trường tiêu thụ nông sản của Việt Nam từ khi gia nhập
AFTA từ đó đề ra một số quan điểm và giải pháp phát triển thị trường tiêu
thụ nông sản của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập AFTA dưới góc độ
kinh tế học chính trị. Song do phạm vi nghiên cứu nên tác giả chưa bàn đến
khái niệm phát triển thị trường tiêu thụ hàng nông sản của Việt Nam, chưa
chỉ rõ mục đích, chủ thể, nội dung và cách thức phát triển thị trường này.
Tác giả Trần Đình Hiền (1992), “Những vấn đề kinh tế chủ yếu của
thị trường tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp Việt Nam”, luận án Phó tiến sĩ
Kinh tế, Đại học Kinh tế quốc dân. Dưới góc độ quản lý kinh tế và kế
hoạch hóa nền kinh tế quốc dân, tác giả đã làm rõ những vấn đề lý luận
chung về thị trường tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp ở Việt Nam sau hơn 5
năm thực hiện đường lối Đổi mới, đánh giá thực trạng thị trường tiêu thụ
sản phẩm nông nghiệp của nước ta, tập trung vào một số loại nông sản
chủ lực như lúa gạo, cà phê, sao su, hạt điều, thủy sản,... trên cơ sở đó đưa
ra những quan điểm định hướng và các giải pháp chủ yếu dưới góc độ
quản lý nhà nước về kinh tế và kế hoạch hóa nền kinh tế nhằm quản lý thị
trường tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp ở nước ta. Tuy nhiên, do góc độ
nghiên cứu nên tác giả chưa đề cập đến những vấn đề kinh tế chính trị của
thị trường tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp.

Tác giả Lê Đình Thụ (2014), “Sức cạnh tranh hàng nông sản của tỉnh
Gia Lai hiện nay”, Luận văn thạc sĩ, Học viện Chính trị. Dưới góc độ nghiên
cứu kinh tế chính trị, tác giả đã phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn về sức
cạnh tranh của hàng nông sản ở tỉnh Gia Lai, tập trung vào bốn nhóm hàng
nông sản chủ lực (cà phê, cao su, hồ tiêu, hạt điều), trên cơ sở đó đã đề xuất
quan điểm và những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao sức cạnh tranh hàng
nông sản của tỉnh Gia Lai. Tuy nhiên, luận văn chưa nghiên cứu phát triển
CNCBNS ở tỉnh Gia Lai một cách toàn diện, mà chỉ giới hạn ở phạm vi
nghiên cứu lý luận và thực tiễn, chỉ ra quan điểm, giải pháp nhằm nâng cao
sức cạnh tranh của hàng nông sản chủ lực của tỉnh Gia Lai.

9


Như vậy, các công trình khoa học, luận văn, luận án đã nghiên cứu nhiều
vấn đề liên quan tới ngành CNCBNS. Có công trình nghiên cứu cơ sở lý luận và
thực tiễn phát triển CNCBNS. Có công trình lại nghiên cứu vấn đề trên ở góc độ
đặc điểm vai trò để chỉ ra xu hướng phát triển của CNCB. Một số tác giả nghiên
cứu CNCBNS với tư cách là một lĩnh vực kinh tế và tập trung đi sâu nghiên cứu
từng phân ngành nhỏ của CNCBNS như chế biến rau quả, chế biến gỗ, chế biến
thực phẩm, chế biến đồ uống... để chỉ ra những giải pháp đẩy mạnh CNCBNS.
Một số tác giả lại tập trung nghiên cứu về thị trường tiêu thụ nông sản nói chung,
nông sản chế biến nói riêng để tìm ra các giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu nông
sản. Nhưng chưa có công trình nào trực tiếp nghiên cứu phát triển ngành
CNCBNS ở tỉnh Hải Dương một cách hệ thống, từ cơ sở lý luận, thực trạng,
những vấn đề đang đặt ra, trên cơ sở đó đề ra những chủ trương, biện pháp phát
huy những thế mạnh của tỉnh, tạo bước đột phá không chỉ đối với ngành CNCB,
mà còn thúc đẩy ngành nông nghiệp của tỉnh phát triển. Chính vì vậy, việc lựa
chọn vấn đề nghiên cứu của tác giả là cần thiết ở tỉnh Hải Dương hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích:
Luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn phát triển CNCBNS ở tỉnh Hải Dương; đề
xuất các quan điểm, giải pháp phát triển CNCBNS ở tỉnh Hải Dương thời gian tới.
Nhiệm vụ:
- Phân tích làm rõ cơ sở lý luận phát triển CNCBNS ở tỉnh Hải Dương
hiện nay, kinh nghiệm của một số tỉnh và bài học rút ra cho tỉnh Hải Dương.
- Đánh giá thành tựu và hạn chế trong phát triển CNCBNS ở tỉnh Hải
Dương giai đoạn từ 2010 đến nay.
- Chỉ ra nguyên nhân của thành tựu, hạn chế và những vẫn đề đặt ra cần
giải quyết để phát triển CNCBNS ở tỉnh Hải Dương trong thời gian tới.
- Đề xuất các quan điểm và giải pháp đẩy mạnh phát triển CNCBNS ở
tỉnh Hải Dương trong thời gian tới.
10


4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: Phát triển công nghiệp chế biến nông sản dưới
góc độ kinh tế chính trị.
* Phạm vi nghiên cứu:
Về nội dung: Công nghiệp chế biến nông sản có nội hàm rộng, luận văn
chỉ giới hạn việc nghiên cứu trong nhóm ngành công nghiệp sản xuất chế biến
thực phẩm, vì đây là ngành có nhiều tiềm năng và có vai trò to lớn đối với sự
phát triển nông nghiệp nói riêng, KT-XH của tỉnh Hải Dương nói chung.
Về không gian: Trên địa bàn tỉnh Hải Dương.
Về thời gian: Thời gian khảo sát từ 2010 đến nay.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận:
Luận văn dựa trên phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin để làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về phát
triển CNCBNS ở tỉnh Hải Dương, từ đó xây dựng hệ thống quan điểm và giải

pháp phù hợp đẩy mạnh phát triển CNCBNS ở tỉnh Hải Dương.
* Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu, bao gồm:
phương pháp nghiên cứu đặc thù của Kinh tế chính trị Mác - Lênin (phương
pháp trừu tượng hóa khoa học), cùng các phương pháp phân tích, thống kê, so
sánh, hệ thống hoá, khái quát hoá và phương pháp chuyên gia.
6. Ý nghĩa của đề tài
- Luận văn là tài liệu tham khảo cho các nhà quản lý hoạch định chủ
trương, chính sách phát triển CNCBNS trên địa bàn tỉnh Hải Dương và có thể
vận dụng đối với các địa phương khác.
- Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu,
giảng dạy môn Kinh tế chính trị liên quan đến vấn đề phát triển CNCBNS.
7. Kết cấu của đề tài
Luận văn gồm phần mở đầu, 3 chương (7 tiết), kết luận, danh mục tài
liệu tham khảo và phục lục.
11


Chương 1
PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP CHẾ BIẾN NÔNG SẢN
Ở TỈNH HẢI DƯƠNG - CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM

1.1. Những vấn đề chung về công nghiệp chế biến và công nghiệp
chế biến nông sản
1.1.1. Quan niệm về công nghiệp chế biến, công nghiệp chế biến
nông sản
* Công nghiệp chế biến:
Lịch sử phát triển của nền sản xuất xã hội cho thấy sự hình thành ngành
CNCB gắn với phân công lao động xã hội dưới tác động của sự phát triển
LLSX. Phân công lao động xã hội đã phân chia nền sản xuất xã hội thành nhiều

ngành nghề khác nhau, thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát triển. Sản xuất hàng
hóa càng phát triển, phân công lao động xã hội càng sâu sắc, nó diễn ra ngay
trong nội bộ từng ngành sản xuất, hình thành những ngành kinh tế độc lập.
Khi nghiên cứu về vấn đề trên, C.Mác đã dự báo: “Lao động nông
nghiệp là cái cơ sở tự nhiên không phải chỉ riêng cho lao động thặng dư trong
lĩnh vực của bản thân ngành nông nghiệp, mà nó còn là cơ sở tự nhiên để biến
tất cả các ngành lao động khác thành những ngành độc lập” [34, tr.33].
CNCB hình thành và phát triển do sự phân công trong nội bộ ngành công
nghiệp. Trong tác phẩm “Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản ở Nga” Lênin đã chỉ
rõ: “Sự phân công lao động xã hội là cơ sở của kinh tế hàng hóa. CNCB tách khỏi
công nghiệp khai thác và mỗi ngành công nghiệp đó lại chia thành nhiều loại nhỏ,
chúng sản xuất ra dưới hình thức hàng hóa, những sản phẩm đặc biệt và đem trao
đổi với tất cả các ngành sản xuất khác” [30, tr. 353].
Như vậy, các nhà kinh điển đã chỉ rõ, chính sự phát triển của phân
công lao động xã hội và nền kinh tế hàng hoá dưới tác động trực tiếp của
sự phát triển LLSX, dẫn đến sự hình thành và phát triển sâu rộng hơn
ngành CNCB.
Ngày nay, trong điều kiện KHCN hiện đại, kinh tế hàng hóa, kinh tế
thị trường phát triển cao thì CNCB càng phát triển với nhiều ngành nghề,
12


lĩnh vực đa dạng phong phú, sản xuất nhiều chủng loại hàng hóa với số
lượng lớn, chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của sản xuất và
đời sống. Vì vậy, CNCB ngày càng có vai trò quan trọng đối với sự phát
triển KT-XH của tất cả các quốc gia, nhất là các nước đang phát triển, đi lên
từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu.
Ở Việt Nam, ngay từ những năm tiến hành cải tạo và xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở miền Bắc, CNCB đã được chú ý đến. Nghị định 37/CP ngày 13/3/1974
của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã phân chia công nghiệp nước ta

thành 9 ngành đó là: Công nghiệp năng lượng, khai thác chế biến nguyên liệu;
Công nghiệp luyện kim; Công nghiệp chế tạo và sửa chữa thiết bị máy móc và
sản phẩm bằng kim loại; Công nghiệp hóa chất; Công nghiệp vật liệu xây dựng,
sành, sứ, thủy tinh, đá, gỗ và lâm sản; Công nghiệp lương thực, thực phẩm;
Công nghiệp dệt da, may mặc; Công nghiệp in và sản xuất các loại văn hóa
phẩm; và các ngành công nghiệp khác.
Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986), thực hiện đường lối Đổi
mới, mở cửa, nền kinh tế nước ta chuyển sang cơ chế thị trường, nên việc
phân loại các ngành kinh tế nói chung và công nghiệp nói riêng đã được xác
định lại theo quan điểm mới nhằm đáp ứng yêu cầu về quản lý và phù hợp với
sự phân chia theo tiêu chuẩn chung của quốc tế. Chính phủ đã ra Nghị định
75/CP ngày 27 tháng 10 năm 1993 Về việc ban hành “Hệ thống ngành kinh
tế quốc dân cấp I” [10, tr.7], và Quyết định số 143/TCTK/PPCĐ về việc ban
hành “Hệ thống ngành kinh tế cấp II cấp III và cấp IV” của Tổng cục trưởng
Tổng cục Thống kê ngày 22/12/1993 [54]. Theo cách phân loại mới này, các
ngành công nghiệp nước ta được chia làm 4 nhóm: Công nghiệp khai thác
mỏ; Công nghiệp chế biến; Công nghiệp sản xuất và phân phối điện, khí đốt,
nước; Công nghiệp xây dựng. Với cách phân loại theo hai văn bản của Chính
phủ và Tổng cục Thống kê nêu trên, ta thấy CNCB là ngành kinh tế - kỹ thuật
độc lập, là một trong 4 nhóm của ngành công nghiệp. Bản thân CNCB lại bao
gồm nhiều nhóm ngành khác nhau nữa như: Công nghiệp lương thực - thực
phẩm; Công nghiệp dệt và may mặc; Công nghiệp đồ gỗ; Công nghiệp sản
13


xuất giấy và in; Công nghiệp hóa dầu; Công nghiệp luyện kim; Công nghiệp
chế biến các khoáng sản không phải kim loại...
Từ sự phân tích trên, theo tác giả: Công nghiệp chế biến là một phân
ngành kinh tế thuộc ngành công nghiệp, thông qua các hoạt động bảo quản,
cải biến mức độ, khả năng đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng về giá trị sử

dụng và giá trị của nông sản bằng phương pháp công nghiệp, phục vụ nhu
cầu tiêu dùng ngày càng cao trong nước và xuất khẩu.
* Công nghiệp chế biến nông sản:
Công nghiệp chế biến nông sản được các nhà khoa học nghiên cứu
khá sâu và có sự tương đồng trong quan niệm. Theo Phó giáo sư, tiến sĩ
Bùi Quang Bình trình bày trong cuốn Giáo trình Kinh tế phát triển (Nhà
xuất bản Giáo dục, Hà Nội, 2010) thì: CNCBNS là một nhóm ngành của
công nghiệp chế biến, nó thực hiện các hoạt động bảo quản, cải tiến, nâng
cao giá trị sử dụng và giá trị nguồn nguyên liệu nông sản bằng phương
pháp công nghiệp là chủ yếu, để sản xuất hàng tiêu dùng nhằm đáp ứng
nhu cầu thị trường trong và ngoài nước.
Còn theo Tiến sĩ Đỗ Văn Nhiệm: “CNCBNS là một ngành hay một bộ
phận hợp thành ngành CNCB, bao gồm nhiều phân ngành, thực hiện các hoạt
động bảo quản, gìn giữ, cải biến nguồn nguyên liệu từ trồng trọt, chăn nuôi,
nuôi trồng và đánh bắt thuỷ, hải sản, thông qua các biện pháp cơ, nhiệt, hoá
gắn với tiến bộ khoa học - công nghệ mà trước hết là công nghệ sinh học
nhằm tạo ra giá trị sử dụng và giá trị mới cao hơn, đáp ứng ngày càng tốt
hơn nhu cầu của thị trường với hiệu quả kinh tế cao” [38, tr.22].
Các quan niệm trên dù còn có sự khác nhau, song cơ bản các nhà khoa
học đã có sự thống nhất trong quan niệm về ngành CNCBNS, đó là:
Về vị trí: CNCBNS là một bộ phận của ngành CNCB, bao gồm nhiều
phân ngành nhỏ, mỗi phân ngành thực hiện chế biến một hoặc một số loại
nguyên liệu đầu vào để tạo ra những mặt hàng nông sản chế biến nhất định.
Về vai trò: sự phát triển CNCBNS là một tất yếu khách quan trong quá
trình CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn. Bởi vì, chỉ có sự tham gia tích cực
14


của CNCBNS thì mới gìn giữ, bảo quản và nâng cao chất lượng, giá trị sử
dụng cũng như giá trị nông sản. Trên cơ sở đó nâng cao hiệu quả sản xuất

nông nghiệp, tăng thu nhập, cải thiện đời sống nhân dân, nhất là thu nhập của
người dân nông thôn.
Về chức năng, nhiệm vụ: các nhà khoa học đều thống nhất rằng,
CNCBNS đảm nhiệm thực hiện các hoạt động bảo quản, cải biến, nâng cao
giá trị sản phẩm từ ngành nông nghiệp bằng phương pháp công nghiệp là chủ
yếu, nhất là ứng dụng những thành tựu mới nhất của KHCN trong quá trình
sản xuất, chế biến nông sản.
Về mục đích: CNCBNS nhằm tạo ra những sản phẩm phong phú, đa
dạng về chủng loại, có chất lượng và giá trị gia tăng cao, đáp ứng tốt nhu cầu
tiêu dùng trong nước cũng như cho xuất khẩu.
Như vậy, CNCBNS rất đa dạng về ngành nghề, sản phẩm, trình độ
KHCN... Nếu căn cứ vào công dụng của sản phẩm cũng như nguyên liệu chế
biến thì CNCBNS bao gồm các ngành hẹp như: ngành chế biến lương thực
(xay xát, chế biến các sản phẩm tinh bột); ngành chế biến trái cây, thức uống;
ngành chế biến các loại cây công nghiệp (dừa, mía...); ngành chế biến thức ăn
gia súc, gia cầm; ngành sản xuất chế biến đường, bánh kẹo; ngành chế biến
thịt, sữa và các sản phẩm từ thịt, sữa.
Từ sự phân tích nêu trên, theo tác giả: CNCBNS là một bộ phận của
ngành CNCB, sử dụng các phương pháp chế biến công nghiệp và một số phương
pháp khác để thực hiện các hoạt động bảo quản, cải tiến, nâng cao giá trị sử
dụng và giá trị nguyên liệu từ ngành nông nghiệp, nhằm tạo ra những sản phẩm
phong phú, đa dạng, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.
Như vậy, nếu tiếp cận theo yếu tố đầu vào là những sản phẩm có nguồn
gốc từ nông nghiệp, thì CNCBNS bao gồm nhiều ngành khác nhau. Trong
phạm vi luận văn này, tác giả chỉ đi sâu nghiên cứu ngành công nghiệp sản xuất
chế biến thực phẩm. Bởi lẽ, đây là ngành có tiềm năng, thế mạnh và được tỉnh Hải
Dương quan tâm triển khai thành đề án, với mục đích CNCBNS phát triển mạnh
15



sẽ thúc đẩy nhanh sự phát triển KT-XH của tỉnh, thực hiện thành công sự nghiệp
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn.
Theo Quyết định số 10/2007/QĐ-TTg ngày 20/01/2007 của Thủ tướng
Chính phủ “Ban hành hệ thống ngành kinh tế của Việt Nam”, phân chia Hệ
thống ngành kinh tế của Việt Nam thành 5 cấp. Ngành công nghiệp sản xuất
chế biến thực phẩm là ngành kinh tế cấp 2 bao gồm các phân ngành như: (1)
Chế biến, bảo quản thịt và các sản phẩm từ thịt; (2) Chế biến, bảo quản thuỷ
sản và các sản phẩm từ thuỷ sản; (3) Chế biến và bảo quản rau quả; (4) Sản
xuất dầu, mỡ động, thực vật; (5) Chế biến sữa và các sản phẩm từ sữa; (6)
Xay xát và sản xuất bột; (7) Sản xuất thực phẩm khác; (8) Sản xuất thức ăn
gia súc, gia cầm và thuỷ sản (xem phụ lục 1).
Ở tỉnh Hải Dương, trên cơ sở tiềm năng thế mạnh, ngành công nghiệp
sản xuất chế biến thực phẩm được tập trung ở những phân ngành như: chế
biến thịt gia súc, gia cầm, thủy sản; chế biến và bảo quản rau, củ, quả; chế
biến bánh kẹo; xay xát; chế biến thức ăn gia súc, gia cầm và thủy sản; sản
xuất thực phẩm (bún; bánh đa; sản xuất món ăn, thức ăn chế biến sẵn…).
1.1.2. Đặc điểm của ngành công nghiệp chế biến nông sản
So với công nghiệp khai thác và các ngành công nghiệp chế biến khác,
CNCBNS có những đặc điểm riêng mà việc nhận thức đúng đắn chúng sẽ có
ý nghĩa quan trọng trong việc xác định vai trò và quan điểm phát triển, quản
lý ngành. Các đặc điểm đó là:
Một là, do nguồn nguyên liệu có đặc tính sinh vật nên CNCBNS thường
được tiến hành qua hai giai đoạn:
Giai đoạn sơ chế và bảo quản: Giai đoạn này được tiến hành ngay sau
khi thu hoạch, có thể nằm ngoài các xí nghiệp chế biến, sử dụng lao động và
phương pháp thủ công. Mục đích nhằm hạn chế mức độ tổn thất sau thu hoạch,
đảm bảo chất lượng nguyên liệu nông sản để đưa đến xí nghiệp chế biến.
Giai đoạn chế biến công nghiệp: đây là giai đoạn diễn ra trong các xí
nghiệp, nhà máy chế biến, sử dụng lao động có kỹ thuật cùng với máy móc,
16



thiết bị, công nghệ cần thiết. Giai đoạn này quyết định chất lượng sản phẩm
chế biến, làm gia tăng giá trị nông sản.
Hai là, sản phẩm của ngành CNCBNS gắn liền với nhu cầu cuộc sống
và ngày càng có nhu cầu cao hơn.
Do có nhiều yếu tố khác nhau (tâm lý tiêu dùng, tập quán tiêu dùng, thu
nhập tăng, tiến bộ KHCN, môi trường...) nên hiện đang có những xu hướng
tiêu dùng tác động mạnh mẽ đến việc phát triển CNCBNS: Xu hướng tăng
cường sử dụng các loại rau quả sạch; xu hướng tăng cường sử dụng các loại
nông sản đã qua chế biến. Hai xu hướng này làm cho các yêu cầu về VSATTP,
về đảm bảo chất dinh dưỡng, đảm bảo thời hạn sử dụng... ngày càng trở nên
nghiêm ngặt hơn. Điều này vừa có lợi cho CNCBNS nước ta trong cạnh tranh
với các sản phẩm của nước ngoài (do chưa có điều kiện sử dụng nhiều loại hóa
chất, chưa có điều kiện nuôi trồng nhân tạo nên phần lớn sản phẩm nông
nghiệp vẫn mang tính chất sản phẩm tự nhiên), nhưng đồng thời cũng tạo ra
những tác động bất lợi khác, đặc biệt là do công nghệ thường là công nghệ
thuộc các thế hệ cũ, không giải quyết được những yêu cầu mới nảy sinh.
Ba là, CNCBNS phát triển trong sự gắn bó mật thiết với nông nghiệp.
Nguyên liệu chính của CNCBNS là những sản phẩm của nông nghiệp
và hầu hết được sản xuất trong nước. Vì vậy, quy mô, tốc độ phát triển, cơ
cấu của CNCBNS phụ thuộc rất lớn vào quy mô, tính chất và trình độ phát
triển của sản xuất nông nghiệp. Nhưng mặt khác, là ngành chế biến các sản
phẩm của nông nghiệp nên CNCBNS lại là ngành đảm bảo đầu ra cho sản
xuất nông nghiệp, tạo động lực cho nông nghiệp phát triển. Tác động này của
CNCBNS sẽ thúc đẩy nông nghiệp phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa,
gắn với thị trường. Vì vậy, nếu thế mạnh của nông nghiệp nước ta là sản xuất
nhiều loại nông sản phẩm nhiệt đới thì việc phát triển CNCBNS sẽ tạo điều
kiện khai thác ngày càng tốt và có hiệu quả hơn thế mạnh đó. Tuy vậy, nhận
thức đặc điểm này cần lưu ý tới các vấn đề sau:

Nguyên liệu cho CNCBNS không chỉ là nông sản. Nhiều loại nguyên
liệu là do công nghiệp cung cấp, như các loại vật liệu bao bì, hóa chất. Các
17


loại vật liệu này ngày càng có vai trò quan trọng, nhưng ở nước ta chúng chưa
được phát triển tương xứng. Chính điều đó làm hạn chế khả năng khai thác
thế mạnh sản xuất các loại nông sản nhiệt đới của nuớc ta.
Tiến bộ KHCN tác động mạnh đến sản xuất và tiêu dùng, tạo ra những
biến đổi lớn và từ đó đặt ra những thách thức to lớn đối với CNCBNS. Nhiều
loại giống mới với những đặc tính mới và chất lượng cao đã được nghiên cứu
và đưa vào sản xuất. Điều này đòi hỏi CNCBNS phải nhanh chóng thay đổi
sản phẩm, thay đổi công nghệ, tiêu chuẩn kỹ thuật trong sản xuất chế biến.
Trong lĩnh vực tiêu dùng, những yêu cầu về chất lượng sản phẩm, VSATTP
cũng có điều kiện thực hiện tốt hơn và yêu cầu ngày càng khắt khe hơn.
Việc phát triển ngành CNCBNS và ngành nông nghiệp cần được đặt
trong mối quan hệ hữu cơ. Phải có các chương trình đồng bộ có mục tiêu
trong việc phát triển từng ngành hàng, từng nhóm sản phẩm, từ khâu sản xuất
nguyên liệu đến chế biến và tiêu thụ sản phẩm.
Bốn là, sản phẩm của CNCBNS rất phong phú, đa dạng về chủng loại,
chất lượng và mức độ chế biến.
Sự phong phú, đa dạng này phụ thuộc vào các yếu tố: Tiềm năng của
nền nông nghiệp; trình độ KHCN chế biến của ngành CNCBNS; nhu cầu, thị
hiếu, sức mua của người tiêu dùng. Trong các yếu tố trên, CNCBNS nước ta
có nhiều thuận lợi về tiềm năng nông nghiệp nhiệt đới, nhưng lại đang có
nhiều khó khăn do trình độ kỹ thuật và công nghệ thấp. Bên cạnh đó, thị
trường vừa có những thuận lợi cũng vừa có những khó khăn nhất định.
Năm là, CNCBNS là ngành có nhiều ưu thế hơn các ngành công
nghiệp khác như: vốn đầu tư thấp; thời gian thu hồi vốn nhanh; các công trình
đầu tư có thể nhanh chóng đưa vào sử dụng; sớm phát huy hiệu quả, do đó khả

năng thu hút vốn đầu tư cao hơn.
Các đặc điểm trên quan hệ chặt chẽ với nhau, phản ánh mối quan hệ
giữa LLSX với các quan hệ kinh tế trong quá trình tái sản xuất; phản ánh mối
quan hệ giữa trình độ KHCN với thị trường. Cần nhận thức đúng các đặc
18


điểm trên và mối quan hệ giữa chúng để tác động có hiệu quả đến sự phát
triển ngành CNCBNS.
1.1.3. Vai trò của ngành công nghiệp chế biến nông sản đối với sự phát triển
kinh tế - xã hội
Thứ nhất, CNCBNS góp phần kích thích, định hướng cho sản xuất nguyên liệu
Với tư cách là cầu nối giữa nguyên liệu với thị trường, CNCBNS có tác
dụng giữ gìn chất lượng nguyên liệu, tạo ra những sản phẩm có chất lượng
tốt, nhờ đó thu được lợi nhuận cao. CNCBNS chính là thị trường đầu ra của
khâu nguyên liệu. Nó có tác dụng định hướng về các mặt quy mô, cơ cấu,
kích cỡ, chất lượng, giá cả cho khâu sản xuất nguyên liệu một cách trực tiếp.
Việc ngành nông nghiệp sản xuất cái gì, sản xuất ra sao, khai thác như thế nào
phụ thuộc rất nhiều vào sự phát triển của CNCB. Nếu không có CNCBNS thì
sản phẩm nông nghiệp không có nguồn tiêu thụ ổn định, sản xuất nông nghiệp
khó đưa lại hiệu quả kinh tế, hàng hóa xuất khẩu chủ yếu dưới dạng thô, kém
khả năng cạnh tranh, bị thương lái chèn ép và thường bị thua thiệt.
Thứ hai, công nghiệp chế biến nông sản phát triển sẽ thúc đẩy nông
nghiệp phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa lớn
Nguồn nguyên liệu chính của CNCBNS là từ nông nghiệp nên để
ngành này phát triển tất yếu đòi hỏi nông nghiệp phải phát triển theo hướng
thâm canh, đa dạng hóa, tạo ra các loại sản phẩm, các vùng chuyên canh, có
năng suất cao, khối lượng hàng hóa lớn. CNCBNS phát triển sẽ tạo điều kiện
để nông nghiệp phát triển thuận lợi qua việc nâng cao hiệu quả của sản xuất
nông nghiệp, từ đó tăng khả năng tích lũy, tăng khả năng đầu tư mở rộng quy

mô, hiện đại hóa quá trình sản xuất. Tác động này trước hết thể hiện ở chỗ: sau
khi đưa vào chế biến, giá trị của nông sản tăng lên rất nhiều. Theo tính toán của
các chuyên gia, sau khi tinh chế giá trị của nông sản có thể tăng từ 4 - 10 lần so
với giá trị lúc chưa chế biến [63, tr.3]. Thông qua CNCBNS tạo khả năng mở
rộng thị trường tiêu thụ, làm giảm sự phụ thuộc vào yếu tố thời gian và khoảng
cách đối với tiêu dùng các sản phẩm nông nghiệp. Sự phát triển của CNCBNS
còn làm tăng nhu cầu về sản phẩm của nông nghiệp. Thông qua chế biến, từ một
19


sản phẩm nông sản có thể tạo ra nhiều loại sản phẩm có những giá trị sử dụng rất
khác nhau, thậm chí tạo ra những đặc tính mới, những giá trị sử dụng mới, từ đó
nâng cao mức độ và khả năng đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng.
Thứ ba, CNCBNS góp phần phát huy lợi thế so sánh, đẩy mạnh xuất
khẩu, tăng nguồn thu ngoại tệ và khả năng tích lũy cho nền kinh tế
Phát triển CNCBNS không chỉ gìn giữ, khắc phục làm giảm hư hao sản
phẩm nguyên liệu, mà còn bổ sung, làm tăng giá trị sử dụng của các sản phẩm,
mở rộng khả năng cung ứng hàng hóa trên thị trường với mẫu mã, hình thức đa
dạng, kích thích nhu cầu tiêu dùng của xã hội. Tính hiệu quả của CNCBNS trên
thị trường được thể hiện ở khối lượng lợi nhuận do sự phát triển của CNCB thu
được. CNCB càng phát triển thì sức cung hàng hóa càng lớn, đáp ứng nhu cầu tiêu
dùng ngày càng tăng, đem lại khối lượng lợi nhuận ngày càng nhiều, làm tăng thu
nhập.
Trong điều kiện chính sách kinh tế mở, sự phát triển của CNCBNS có
hiệu quả sẽ nâng cao sức cạnh tranh của hàng nông sản, tăng kim ngạch xuất
khẩu, giảm bớt sự mất cân đối trong cán cân xuất - nhập khẩu, mang lại nguồn
ngoại tệ lớn và tăng khả năng tích lũy cho nền kinh tế.
Thứ tư, phát triển CNCBNS góp phần đẩy mạnh phát triển KT-XH,
đóng góp quan trọng vào sự nghiệp CNH, HĐH đất nước
Công nghiệp chế biến nông sản phát triển sẽ tạo ra hiệu ứng tích cực

không chỉ đối với sự phát triển kinh tế mà còn có tác dụng mạnh mẽ đối với
đời sống xã hội, nhất là ở địa bàn nông thôn. Tác dụng của CNCBNS được
thể hiện ở việc khai thác có hiệu quả tiềm năng, lợi thế của kinh tế nông
nghiệp, giải quyết việc làm, tăng thu nhập, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo
giữa thành thị và nông thôn.
Không những thế, sự phát triển của CNCBNS còn tác động mạnh đến
nhiều ngành kinh tế khác như công nghiệp, dịch vụ…, là giải pháp quan trọng
trong quá trình thực hiện tái cơ cấu ngành nông nghiệp, nâng cao hiệu quả
nền kinh tế, đóng góp quan trọng vào sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Sự

20


phát triển của CNCBNS là một trong những thước đo quan trọng để đánh giá
trình độ phát triển kinh tế của một quốc gia.
Ở nước ta hiện nay, CNCBNS có vị trí rất quan trọng trong sự phát
triển KT-XH. Một số sản phẩm của CNCBNS có giá trị xuất khẩu tăng như
chè, cà phê, cao su, thủy hải sản... đã thu được nguồn ngoại tệ lớn cho đất
nước. Tuy vậy, ngành CNCBNS ở Việt Nam vẫn còn những hạn chế về số
lượng cơ sở chế biến, chất lượng chế biến nông sản chưa cao, khả năng cạnh
tranh trên thị trường còn thấp. Vấn đề đặt ra đối với CNCBNS là cần phát huy
lợi thế, khắc phục những hạn chế, mang lại hiệu quả kinh tế cho đất nước.
1.2. Quan niệm, nội dung và những nhân tố tác động đến phát triển
công nghiệp chế biến nông sản ở tỉnh Hải Dương
1.2.1. Quan niệm phát triển công nghiệp chế biến nông sản ở
tỉnh Hải Dương
Phát triển công nghiệp chế biến nông sản là đòi hỏi tất yếu đối với
một tỉnh nông nghiệp trong tiến trình CNH, HĐH. Là một trong những giải
pháp quan trọng để thực hiện thắng lợi chủ trương tái cơ cấu nông nghiệp
của Đảng. Phát triển CNCBNS để sử dụng có hiệu quả nguồn nguyên liệu,

tiết kiệm tài nguyên, tránh lãng phí, làm gia tăng giá trị trong từng đơn vị
sản xuất hàng hóa, đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng trong và ngoài nước.
Do đó, tác giả quan niệm phát triển CNCBNS ở tỉnh Hải Dương như sau:
Phát triển công nghiệp chế biến nông sản ở tỉnh Hải Dương là hoạt
động của các chủ thể nhằm làm gia tăng về quy mô, chất lượng và thay đổi
cơ cấu ngành CNCBNS theo kế hoạch, quy hoạch phát triển KT-XH của
tỉnh, tạo ra nhiều mặt hàng nông sản chế biến có giá trị gia tăng cao, đáp
ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.
Nội hàm khái niệm phát triển CNCBNS ở tỉnh Hải Dương được
hiểu trên một số khía cạnh cơ bản sau đây:
Mục đích phát triển CNCBNS ở tỉnh Hải Dương: thúc đẩy ngành
CNCBNS phát triển cả về quy mô, chất lượng và hoàn thiện cơ cấu, nhằm
khai thác có hiệu quả tiềm năng, lợi thế của tỉnh, tạo ra những mặt hàng
21


nông sản chế biến đa dạng phong phú về chủng loại, có chất lượng và giá
trị gia tăng cao, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.
Chủ thể và lực lượng tham gia phát triển CNCBNS ở tỉnh Hải Dương:
là tổ chức Đảng, chính quyền, các cấp trong tỉnh, các doanh nghiệp, cơ sở chế
biến, các tổ chức chính trị xã hội và người dân. Mỗi chủ thể trên có vị trí, vai
trò khác nhau trong phát triển công nghiệp chế biến nông sản.
Đối với Đảng bộ, chính quyền, các cơ quan, ban, ngành chức năng trong
tỉnh cần sử dụng các công cụ và chính sách tác động vào quá trình sản xuất và
chế biến nông sản nhằm đảm bảo cho ngành CNCBNS hoạt động hiệu quả, giải
quyết hài hòa lợi ích của các chủ thể tham gia.
Đối với người sản xuất nông sản (cung cấp nguyên liệu đầu vào) cần
nắm vững chủ trương, chính sách của tổ chức Đảng và chính quyền các cấp;
thông tin thị trường, tổ chức sản xuất đúng quy hoạch, đúng quy trình kỹ thuật
nhằm nâng cao năng suất, chất lượng và tính cạnh tranh của nông sản đáp ứng

nhu cầu của thị trường.
Đối với các cơ sở sản xuất, hộ gia đình, doanh nghiệp chế biến nông
sản (gọi chung là doanh nghiệp CNCBNS) thuộc mọi thành phần kinh tế cần
nắm vững chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ở các cấp, có kế
hoạch thu mua nông sản của nông dân kịp thời vụ, với giá cả hợp lý, tổ chức
sản xuất kinh doanh ổn định, không ngừng nâng cao năng suất, chất lượng sản
phẩm, hiệu quả kinh tế.
Phương thức phát triển: kết hợp sử dụng các quy luật của cơ chế thị
trường và các chính sách tác động của hệ thống chính quyền các cấp để phát
triển CNCBNS; kết hợp tăng cường đầu tư, xây dựng mới các doanh nghiệp
CNCBNS với mở rộng, nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh các
doanh nghiệp chế biến đã có.
1.2.2. Nội dung phát triển công nghiệp chế biến nông sản ở tỉnh Hải Dương
Thứ nhất, phát triển về quy mô các cơ sở công nghiệp chế biến nông sản
Để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng và khai thác có
hiệu quả nguồn nguyên liệu phong phú từ nền nông nghiệp của tỉnh, trong

22


thời gian tới tỉnh Hải Dương cần phải mở rộng về quy mô, tăng thêm số lượng
các doanh nghiệp chế biến nông sản, cụ thể là:
Sắp xếp lại các doanh nghiệp CNCBNS trong tỉnh cho hợp lý. Các
doanh nghiệp CNCBNS phải đặt ở địa điểm gần đường giao thông, gần cảng,
thị trường tiêu thụ và đặc biệt phải ở gần vùng sản xuất nguyên liệu, nhất là
những vùng nguyên liệu tập trung như các trang trại hay các vùng chuyên canh.
Nâng cấp các doanh nghiệp CNCBNS hiện có trong tỉnh, bao gồm đầu
tư nâng cấp các kho tạm trữ, bảo quản nông sản, tăng công suất của các doanh
nghiệp đang hoạt động hiệu quả, mua sắm máy móc, trang thiết bị phục vụ quá
trình chế biến.

Đầu tư xây dựng thêm một số doanh nghiệp chế biến có quy mô công
nghiệp. Đa dạng loại hình, quy mô chế biến công nghiệp; hình thành các
doanh nghiệp “đầu tàu” sản xuất các sản phẩm có thương hiệu và sức cạnh
tranh cao trên thị trường quốc tế.
Việc đầu tư xây dựng mới, cải tạo nâng cấp doanh nghiệp chế biến phải
đảm bảo yêu cầu công nghệ hiện đại, thiết bị tiên tiến, quy mô phù hợp với
vùng nguyên liệu và sản phẩm hàng hóa, khắc phục tình trạng ô nhiễm môi
trường, tiết kiệm năng lượng, sản lượng năm sau cao hơn năm trước.
Thứ hai, nâng cao chất lượng các doanh nghiệp công nghiệp chế biến
nông sản
Để nâng cao chất lượng ngành CNCBNS cần phải nâng cao chất lượng
các yếu tố cơ bản sau:
* Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực:
Chất lượng nguồn nhân lực (nguồn nhân lực trực tiếp sản xuất và nguồn
nhân lực tham gia gián tiếp vào quá trình sản xuất, chế biến nông sản) trong các
doanh nghiệp CNCBNS ở tỉnh Hải Dương đòi hỏi phải nâng cao một cách toàn
diện cả về trí lực, thể lực và tâm lực, cụ thể:
Nâng cao trí lực: bao gồm nâng cao trình độ học vấn, trình độ chuyên môn, kỹ
năng làm việc, kinh nghiệm làm việc (bằng cấp, trình độ tay nghề sơ chế, bảo quản
23


và chế biến). Nâng cao thể lực: bao gồm việc nâng cao sức khỏe và thể chất (độ tuổi,
chiều cao, cân nặng phù hợp) của nguồn nhân lực. Nâng cao tâm lực: chính là nâng
cao thái độ, tinh thần làm việc, ý thức kỷ luật, tính chủ động, sự chuyên tâm với
công việc trong các doanh nghiệp chế biến nông sản.
Do đó, tỉnh cần tích cực đào tạo, xây dựng đội ngũ chuyên gia về quản lý
nhà nước ngành CNCBNS. Bồi dưỡng kỹ năng quản trị, nghiệp vụ kinh doanh
cho các doanh nghiệp chế biến nông sản. Hỗ trợ các doanh nghiệp đào tạo, đào
tạo lại, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công nhân kỹ thuật trình độ cao, đáp

ứng nhu cầu sản xuất, yêu cầu vận hành các dây chuyền thiết bị hiện đại, công
nghệ tiên tiến.
* Nâng cao cơ sở vật chất, trình độ kỹ thuật công nghệ trong các doanh
nghiệp chế biến nông sản:
Tích cực đầu tư xây dựng CSHT phục vụ sản xuất nguyên liệu và chế biến.
Xây dựng và nâng cấp các kho, trạm thu mua, sơ chế, bảo quản nông sản sau thu
hoạch. Đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất kỹ thuật của các doanh nghiệp chế biến
hiện có theo hướng hiện đại, hiệu quả, quy mô hợp lý.
Sử dụng công nghệ chế biến nhiều tầng, trước mắt tận dụng kinh
nghiệm sơ chế bảo quản nông sản cũng như kỹ thuật chế biến nông sản truyền
thống (chế biến thủ công ở một số khâu) đã được nhân dân ta tích lũy qua
nhiều thế hệ. Đồng thời tăng cường trang bị dây chuyền sản xuất đồng bộ,
tiên tiến, áp dụng công nghệ chế biến hiện đại để nâng cao năng lực sơ chế,
bảo quản và năng lực chế biến nông sản. Tập trung vào phát triển công nghệ
sấy, đầu tư nâng cấp các kho bảo quản, tạm trữ, phát triển công nghệ bảo quản
rau quả, thủy sản tươi.
Nâng cao trình độ sản xuất của các doanh nghiệp CNCBNS, từng bước
phát triển năng lực chế biến công nghiệp. Áp dụng mạnh mẽ KHCN, đi thẳng
vào công nghệ hiện đại.
* Nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm:
Tăng năng suất lao động, chất lượng nguồn nguyên liệu đầu vào cho
phát triển CNCBNS bằng cách đưa nhanh tiến bộ KHCN và tăng cường cơ sở
24


vật chất kỹ thuật trong sản xuất nông nghiệp. Sử dụng những ưu thế và đặc tính
sinh học của các loại giống mới nhằm thu được nhiều sản phẩm nông sản có
chất lượng cao trên mỗi đơn vị diện tích ruộng đất hoặc mỗi đầu con gia súc.
Tỉnh cần lựa chọn cơ cấu cây trồng, vật nuôi phù hợp với điều kiện sinh thái
của từng địa phương, từng loại ruộng đất, từng mùa vụ nhằm khai thác tốt nhất

điều kiện tự nhiên của từng vùng và đạt hiệu quả kinh tế cao trong sản xuất
nông sản hàng hóa. Đồng thời, tỉnh phải áp dụng rộng rãi công nghệ sinh học
trong phát triển nông nghiệp, tạo ra những sản phẩm đầu vào phong phú đa
dạng, có năng suất và chất lượng tốt làm nguyên liệu cho công nghiệp chế biến.
Vấn đề có tính chất quyết định để nâng cao năng suất, chất lượng sản
phẩm nông sản chế biến của tỉnh hiện nay là phải hiện đại hóa máy móc, trang
thiết bị quy trình công nghệ phục vụ sơ chế, bảo quản và chế biến. Lựa chọn
các công nghệ chế biến thích hợp cho việc đổi mới công nghệ và nâng cao chất
lượng sản phẩm, áp dụng chặt chẽ các tiêu chuẩn quốc tế về nông sản an toàn.
Thứ ba, xây dựng cơ cấu ngành công nghiệp chế biến nông sản hợp lý
Cơ cấu sản phẩm của ngành CNCBNS: cần có sự chuyển dịch theo
hướng tăng số lượng và tỷ trọng các sản phẩm chế biến tinh và chế biến sâu,
tập trung vào các mặt hàng chủ lực của tỉnh như: chế biến rau, củ, quả (nhất là
vải Thiều); chế biến bánh kẹo (bánh Đậu xanh); xay xát lúa gạo; chế biến
thức ăn chăn nuôi; chế biến thịt gia súc, gia cầm.
Cơ cấu vùng sản xuất, chế biến nông sản: việc xây dựng các doanh
nghiệp sản xuất, chế biến nông sản cần có sự xắp xếp lại một cách hợp lý.
Tăng cường đầu tư, nâng cấp các doanh nghiệp CNCBNS sẵn có trong tỉnh.
Di chuyển một số doanh nghiệp ở trung tâm thành phố ra khỏi khu đông dân
cư, tập trung vào các khu công nghiệp để tận dụng tốt CSHT, thu hút đầu tư.
Tiếp tục xây dựng mới các doanh nghiệp có quy mô lớn gắn với vùng sản
xuất nguyên liệu tập trung (nhất là ở các vùng nông thôn). Cân đối việc đặt
các nhà máy chế biến một cách hợp lý giữa các huyện, thị xã trong tỉnh, nhằm
khai thác tốt tiềm năng thế mạnh của tỉnh.

25


×