Tải bản đầy đủ (.doc) (100 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ CÔNG tác ĐẢNG, CÔNG tác CHÍNH TRỊ TRONG xây DỰNG và HOẠT ĐỘNG của lực LƯỢNG dân QUÂN tự vệ ở THÀNH PHỐ cần THƠ HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (471.69 KB, 100 trang )

3
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Dân quân, tự vệ là lực lượng vũ trang quần chúng không thoát ly sản xuất,
công tác, là một bộ phận của LLVT nhân dân nước Cộng hoà XHCN Việt Nam
đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự quản lý, điều hành của
Chính phủ và Uỷ ban nhân dân, sự chỉ đạo, chỉ huy của cơ quan quân sự các cấp;
là một trong những công cụ chủ yếu để bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền, bảo vệ
tính mạng, tài sản của nhân dân, tài sản của Nhà nước ở địa phương, cơ sở.
Công tác đảng, công tác chính trị trong xây dựng và hoạt động của
DQ,TV là một bộ phận CTĐ, CTCT trong LLVT nhân dân, là một trong những
hoạt động lãnh đạo của Đảng mà trực tiếp là của các cấp uỷ đảng địa phương,
cơ sở, nhằm xây dựng lực lượng DQ,TV vững mạnh, rộng khắp, tin cậy về
chính trị, đủ sức hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao, góp phần thực hiện thắng
lợi phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng - an ninh ở địa phương, cơ
sở, đáp ứng yêu cầu phát triển của công tác QS, QPĐP thời kỳ mới.
Trong các cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, chống Mỹ, lực lượng dân
quân du kích trên địa bàn Cần Thơ là bộ phận của LLVT ba thứ quân. đã góp phần
quan trọng vào công cuộc giải phóng quê hương, đất nước, đánh thắng mọi kẻ thù
xâm lược. Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, từ vị trí chiến lược
của thành phố Cần Thơ cả về chính trị, kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh, trong
thế trận phòng thủ của Quân khu 9 và cả nước, đòi hỏi LLVT địa phương, trong đó
có DQ,TV phải không ngừng nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu;
đủ sức bảo vệ các tổ chức đảng, chính quyền ở địa phương, cùng các lực lượng khác
giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, đồng thời tích cực tham gia xây
dựng cơ sở, xây dựng địa phương vững mạnh toàn diện và sẵn sàng chiến đấu bảo vệ
quê hương khi có chiến tranh xâm lược. Thực tế những năm gần đây, những yếu kém
trong lãnh đạo, quản lý điều hành của cấp uỷ đảng, chính quyền địa phương, cơ sở


4


cùng với tệ nạn tiêu cực ở địa phương, cơ sở, tình hình thiên tai, dịch hoạ…đang tiềm
ẩn những nhân tố gây mất ổn định... tác động xấu đến tình hình phát triển kinh tế - xã
hội, tăng cường tiềm lực quốc phòng - an ninh, đến xây dựng LLVT địa phương,
trong đó có quá trình xây dựng và tăng cường hoạt động của DQ,TV trên địa bàn
thành phố. Đòi hỏi, CTĐ, CTCT phải được tăng cường, không ngừng nâng cao chất
lượng, hiệu quả hoạt động, nhằm xây dựng lực lượng DQ,TV vững mạnh về chính
trị, đủ sức xử lý và giải quyết tốt mọi tình huống có thể xảy ra.
Thực tiễn, CTĐ, CTCT trong xây dựng và hoạt động của lực lượng DQ,TV ở
thành phố Cần Thơ vừa qua cho thấy, đã thường xuyên duy trì sự lãnh đạo, chỉ đạo
chặt chẽ của các cấp uỷ đảng, chính quyền địa phương, cơ sở; xây dựng được đội ngũ
cán bộ, chiến sỹ DQ,TV có sự vững vàng về chính trị, phát huy vai trò nòng cốt trong
giữ vững an ninh chính trị, hoàn thành nhiệm vụ. Tuy vậy, vẫn còn nhiều mặt chưa
đáp ứng; nhận thức về yêu cầu, nội dung xây dựng, cũng như điều hành các mặt hoạt
động, chất lượng đội ngũ cán bộ, chiến sỹ DQ,TV chưa cao, vẫn còn có biểu hiện
giảm sút ý chí, niềm tin, hoạt động cầm chừng, chưa ngang tầm đòi hỏi nhiệm vụ
quân sự, quốc phòng cũng như thực hiện các nhiệm vụ khác khi được giao phó.
Vì vậy, việc lựa chọn đề tài: “Công tác đảng, công tác chính trị trong
xây dựng và hoạt động của lực lượng dân quân, tự vệ ở thành phố Cần
Thơ hiện nay” là vấn đề có ý nghĩa lý luận, và thực tiễn sâu sắc.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong những năm qua, vấn đề nghiên cứu xây dựng LLVT nói chung,
lực lượng DQ,TV nói riêng đã được nhiều cơ quan, các nhà khoa học, cán bộ
lãnh đạo, chỉ huy các cấp quan tâm, đầu tư nghiên cứu dưới nhiều góc độ
khác nhau, tiêu biểu là:
Cục DQ,TV- Bộ Tổng Tham mưu đã giành nhiều thời gian, công sức tham
mưu cho Bộ Quốc phòng tư vấn cho Chính phủ xây dựng và sửa đổi Pháp lệnh
về DQ,TV; gần đây trong phiên họp thường kỳ (kỳ họp thứ năm của Quốc hội


5

khoá XII), Bộ Quốc phòng có Tờ trình về xây dựng Luật DQ,TV để thống nhất
chỉ đạo việc xây dựng và hoạt động của lực lượng DQ,TV trong toàn quốc thời
kỳ mới.
Tổng cục Chính trị đã ban hành “ Giáo trình CTĐ, CTCT trong công tác
QS, QPĐP” vào năm 2003, trong đó có chương “ CTĐ, CTCT trong xây dựng
và hoạt động của lực lượng DQ, TV”. Từ vị trí, vai trò, đặc điểm, nhiệm vụ, tính
chất hoạt động của DQ,TV, yêu cầu nhiệm vụ CTĐ, CTCT trong xây dựng và
hoạt động của DQ, TV, giáo trình đã đề cập những nội dung, biện pháp cơ bản
về CTĐ, CTCT trong xây dựng và hoạt động của DQ,TV. Đây là cơ sở để thống
nhất vận dụng giảng dạy trong các nhà trường quân sự; đồng thời đối với từng
địa phương, cơ sở có tổ chức DQ,TV, căn cứ vào đó xây dựng và tổ chức thực
hiện kế hoạch CTĐ, CTCT phù hợp với địa phương, ngành mình.
Về xây dựng LLVT địa phương về chính trị và xây dựng khu vực phòng
thủ tỉnh, thành, có các công trình nghiên cứu khoa học của các cá nhân, như:
Nguyễn Văn Hậu (2000), “Nâng cao chất lượng chính trị của lực lượng dân
quân phường ở thủ đô Hà Nội hiện nay” luận văn thạc sĩ khoa học chính trị
[26]; Nguyễn Nh− Hội (2002), “Nâng cao hiệu quả công tác đảng, công tác
chính trị trong xây dựng khu vực phòng thủ ở tỉnh Lâm Đồng hiện nay” luận
văn thạc sĩ khoa học chính trị [28]; Nguyễn Tiến Dũng (2005),“ Bộ đội địa
phương tỉnh Lâm Đồng tham gia xây dựng cơ sở chính trị xã, phường vững mạnh
trong giai đoạn hiện nay” luận văn thạc sĩ khoa học chính trị [16]. Các tác giả
trên, đã nghiên cứu lý luận và khảo sát, điều tra thực tế hoạt động của LLVT
địa phương, góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng LLVT địa
phương, xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành và xây dựng cơ sở chính trị
xã, phường vững mạnh. Những vấn đề cơ bản như: quan niệm, chủ thể, đối
tượng, nội dung, biện pháp, tiêu chí đánh giá công tác xây dựng. Trên cơ sở
đó, đánh giá thực trạng công tác xây dựng ở địa phương, cơ sở rút ra nguyên


6

nhân và những bài học kinh nghiệm cần được kế thừa, phát huy trong điều
kiện mới. Đồng thời, dự báo phương hướng, tình hình, nhiệm vụ, yêu cầu xây
dựng địa phương, cơ sở hiện nay. Dựa trên những quan điểm của Đảng, Nhà
nước, Đảng uỷ quân sự Trung ương về tình hình thế giới và trong nước, sự phát
triển mới của nhiệm vụ quân đội và nhiệm vụ QS, QPĐP...là cơ sở khoa học để
các tác giả đề xuất những giải pháp cơ bản góp phần xây dựng LLVT địa
phương, xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh theo phạm vi nghiên cứu đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn hiện nay. Đó là hệ thống các giải pháp về
tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho đội ngũ cán bộ,
chiến sĩ trong LLVT, các cấp, các ngành và nhân dân địa phương đối với
nhiệm vụ này; hoàn thiện cơ chế, chính sách đối với các lực lượng tham gia
xây dựng địa phương, cơ sở; đổi mới, nâng cao chất lượng hiệu quả nội dung,
hình thức tham gia xây dựng; kết hợp tham gia xây dựng địa phương, cơ sở
vững mạnh về chính trị tạo điều kiện phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc
phòng - an ninh trên từng địa bàn tỉnh, thành phố. Song, kết quả nghiên cứu
của các luận văn trên mới chỉ là bước đầu, gắn đối tượng, phạm vi, địa bàn nhất
định, làm cơ sở để tiếp tục nghiên cứu đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ QS, QPĐP
thời kỳ mới.
Ngoài ra, còn các bài báo đăng trên các tạp chí tiêu biểu như: Trần Nam
Chuân (2006), “Bàn về xây dựng, huấn luyện dân quân, tự vệ đáp ứng yêu
cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc hiện nay”Tạp chí dân quân, tự vệ – giáo dục
quốc phòng [14]; Nguyễn Khắc Giáp (2008), “Mấy vấn đề rút ra trong công
tác tìm kiếm, cứu nạn của lực lượng dân quân, tự vệ Quân khu 2” Tạp chí
dân quân, tự vệ – giáo dục quốc phòng[25]; Hà Nghĩa Lộ (2008), “Kết quả và
kinh nghiệm phối hợp giữa lực lượng Quân sự và Công an trong nhiệm vụ
bảo vệ an ninh trật tự ở thành phố Cần Thơ” Tạp chí dân quân, tự vệ – giáo
dục quốc phòng [31]; Phạm Văn Muộn (2008) “ Một số giải pháp trong xây


7

dựng và hoạt động của lực lượng dân quân, tự vệ quận Phú Nhuận - thành phố
Hồ Chí Minh” Tạp chí dân quân, tự vệ – giáo dục quốc phòng [38]; Đặng
Ngọc Mai (2008), “Nâng cao sức chiến đấu của chi bộ quân sự là nhiệm vụ
quan trọng, thường xuyên của Đảng uỷ phường Thới Bình - Ninh Kiều thành phố Cần Thơ” Tạp chí dân quân, tự vệ – giáo dục quốc phòng [33];
Nguyễn Khắc Nghiên (2009), “Xây dựng lực lượng dân quân, tự vệ đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới” Tạp chí dân quân, tự
vệ – giáo dục quốc phòng [39]; Huỳnh Thanh Phương (2008), “ Công tác phổ
biến, giáo dục Pháp luật cho lực lượng vũ trang thành phố Cần Thơ”, (Tạp chí
QPTD, 8),[41]; Vũ Cao Quân (2008), “Bộ chỉ huy quân sự thành phố Cần Thơ

áp dụng đồng bộ nhiều biện pháp để nâng cao chất lượng công tác quân sự,
quốc phòng địa phương” Tạp chí dân quân, tự vệ – giáo dục quốc phòng [43];
Vũ Cao Quân (2008), “ Nhìn lại 5 năm thực hiện Pháp lệnh dân quân, tự vệ ở
thành phố Cần Thơ” Tạp chí dân quân, tự vệ – giáo dục quốc phòng [44];
Trương Tấn Sang (2008), “Thường xuyên chăm lo xây dựng lực lượng dân
quân, tự vệ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ quốc phòng - an ninh trong tình hình
mới” Tạp chí dân quân, tự vệ – giáo dục quốc phòng [45]; Hồ Xuân Thức
(2008), “Xây dựng và hoạt động của chi bộ quân sự xã, phường, thị trấn hiện
nay” Tạp chí quốc phòng toàn dân [46]. Văn Công Danh – Trần Bá Thanh
(2009), “ Xây dựng cơ quan quân sự tỉnh Bình Dương vững mạnh đáp ứng
nhiệm vụ quốc phòng – an ninh thời kỳ mới” Tạp chí giáo dục lý luận chính
trị quân sự [15]
Các bài báo khoa học đăng trên các tạp chí của các tác giả nói trên phản
ánh sâu sắc nhiều vấn đề đang đặt ra từ thực tiễn, với các cách tiếp cận theo
phạm vi, lĩnh vực, góc độ khác nhau. Đó là: tổng kết thực tiễn thực hiện Pháp
lệnh DQ,TV, xây dựng và hoạt động, giáo dục chính trị, huấn luyện quân sự
cho DQ,TV; phối hợp chặt chẽ với lực lượng công an, tuần tra giữ gìn bảo
đảm trật tự an toàn xã hội, sẵn sàng cơ động, chiến đấu theo yêu cầu của địa



8
phương; xây dựng chi bộ quân sự vững mạnh toàn diện, là cơ sở và điều kiện
thực hiện tốt công tác QS, QPĐP ở địa bàn, cơ sở. Các tác giả đã tập trung
luận giải, phân tích làm rõ những vấn đề cơ bản về xây dựng LLVT địa
phương trong đó có lực lượng DQ,TV đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình
hình mới. Xây dựng LLVT địa phương trong thời bình hiện nay là sự kế tục
và phát triển những kinh nghiệm truyền thống chống ngoại xâm trong lịch sử
dựng nước và giữ nước của dân tộc trong xây dựng, huấn luyện và hoàn thành
nhiện vụ của LLVT địa phương trong điều kiện mới. Những kinh nghiệm của
việc nâng cao chất lượng giáo dục chính trị, huấn luyện quân sự cho cán bộ,
chiến sĩ DQ,TV cần được coi trọng và tiếp tục phát huy nhằm không ngừng
nâng cao bản lĩnh chính trị, khả năng cơ động sẵn sàng chiến đấu, làm nòng
cốt cho toàn dân đánh giặc ở địa phương, cơ sở trong giai đoạn cách mạng
mới, góp phần xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Thời gian qua, hoạt động giáo dục chính trị, huấn luyện quân sự cho
LLVT địa phương trong đó có lực lượng DQ,TV, có nhiều mặt tích cực,
chuyển biến tiến bộ, đã trực tiếp góp phần giữ vững ổn định chính trị, tạo điều
kiện cho việc phát triển kinh - tế xã hội ở địa phương. Tuy nhiên, chất lượng
xây dựng, giáo dục chính trị, huấn luyện quân sự và hoạt động của DQ,TV ở
một số địa phương, cơ sở còn hạn chế, chưa đều và chưa có sự ổn định vững
chắc. Nhìn chung, yếu tố tích cực vẫn là cơ bản. Song, cũng không thể xem nhẹ
việc khắc phục kịp thời những hạn chế, thiếu sót. Từ đó, các tác giả đã làm rõ
những giải pháp tập trung vào tăng cường hoạt động sơ, tổng kết thực tiễn; kế
thừa, phát huy những kinh nghiệm trong xây dựng và hoạt động của LLVT địa
phương qua các thời kỳ lịch sử phù hợp với điều kiện lịch sử mới của thời đại,
của đất nước, của từng địa phương, cơ sở, gắn nhiệm vụ của LLVT địa
phương.


9

Từ nhiều góc độ khác nhau, các công trình của các tác giả đã tập trung
nghiên cứu những vấn đề rất cơ bản, luận giải, làm sáng tỏ cơ sở lý luận, thực
tiễn và đề xuất những giải pháp theo phạm vi nghiên cứu. Những công trình
khoa học và bài viết đó là nguồn tư liệu, tài liệu tham khảo phong phú, tin cậy
để tác giả kế thừa trong nghiên cứu, vận dụng. Tuy nhiên, vấn đề: “Công tác
đảng, công tác chính trị trong xây dựng và hoạt động của lực lượng dân
quân, tự vệ ở thành phố Cần Thơ hiện nay” hiện chưa có một công trình nào
đề cập, nghiên cứu một cách hệ thống và toàn diện. Vì vậy, việc tác giả lựa
chọn vấn đề này làm đề tài nghiên cứu là hoàn toàn không trùng lặp với bất
cứ công trình khoa học, luận văn, luận án đã nghiệm thu, công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Mục đích
Luận giải làm rõ một số vấn đề về lý luận và thực tiễn CTĐ, CTCT trong
xây dựng và hoạt động của lực lượng DQ,TV; trên cơ sở đó xác định yêu cầu
và đề xuất những giải pháp tăng cường CTĐ, CTCT trong xây dựng và hoạt
động của lực lượng DQ,TV ở thành phố Cần Thơ hiện nay.
* Nhiệm vụ
Luận giải làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản về DQ,TV và CTĐ,
CTCT trong xây dựng và hoạt động của lực lượng DQ,TV ở thành phố Cần
Thơ.
Đánh giá đúng thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân và rút ra một số kinh
nghiệm CTĐ, CTCT chủ yếu trong xây dựng và hoạt động của lực lượng
DQ,TV ở thành phố Cần Thơ.
Xác định yêu cầu và đề xuất những giải pháp CTĐ, CTCT trong xây
dựng và hoạt động của lực lượng DQ,TV ở thành phố Cần Thơ hiện nay.
* Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu:


10

Đề tài tập trung nghiên cứu CTĐ, CTCT trong xây dựng và hoạt động
của lực lượng DQ,TV ở thành phố Cần Thơ hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu :
Hoạt động CTĐ, CTCT trong xây dựng và hoạt động của lực lượng
DQ,TV trên các địa bàn quận, huyện; các tổ chức đoàn thể, cơ quan hành
chính sự nghiệp, các cơ sở doanh nghiệp có tổ chức lực lượng DQ,TV thuộc
thành phố Cần Thơ. Các số liệu, tư liệu điều tra, khảo sát trên địa bàn chủ yếu
được sử dụng từ năm 2005 đến nay.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nghị quyết của Đảng,
pháp luật của Nhà nước, nghị quyết của ĐUQSTW, của cấp uỷ địa phương về
xây dựng lực lượng DQ,TV là cơ sở lý luận để thực hiện đề tài.
* Cơ sở thực tiễn
Thực tiễn CTĐ, CTCT trong xây dựng và hoạt động của lực lượng
DQ,TV ở thành phố Cần Thơ; các báo cáo sơ, tổng kết về công tác quốc
phòng, quân sự địa phương, trong đó có đánh giá về kết quả xây dựng và hoạt
động của DQ,TV và kết quả nghiên cứu khảo sát thực tế của tác giả ở các cơ
quan quân sự quận, huyện, các cơ sở trong thành phố Cần Thơ, để luận giải,
làm sáng tỏ mục đích, nhiệm vụ nội dung của đề tài.
* Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, đề tài sử
dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của các khoa học liên ngành và
chuyên ngành; trong đó chú trọng phương pháp kết hợp lô gích - lịch sử,
phương pháp điều tra, khảo sát, tổng kết thực tiễn và phương pháp chuyên
gia.
5. Ý nghĩa lý luận thực tiễn của luận văn


11

Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần cung cấp thêm cơ sở khoa
học giúp cấp uỷ, chính quyền, cơ quan quân sự địa phương các cấp, trước hết
là cấp uỷ địa phương, cơ sở vận dụng trong lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng và
hoạt động của lực lượng DQ,TV trên các địa bàn thuộc thành phố Cần Thơ
hiện nay; đồng thời, có thể dùng làm tài liệu tham khảo, phục vụ quá trình
nghiên cứu, giảng dạy ở các nhà trường trong và ngoài quân đội.
6. Kết cấu của luận văn : Gồm : Mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận,
danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CÔNG TÁC ĐẢNG,
CÔNG TÁC CHÍNH TRỊ TRONG XÂY DỰNG VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA
LỰC LƯỢNG DÂN QUÂN, TỰ VỆ Ở THÀNH PHỐ CẦN THƠ

1.1. Xây dựng, hoạt động của lực lượng dân quân, tự vệ và công tác đảng,
công tác chính trị trong xây dựng và hoạt động của lực lượng dân quân, tự vệ ở
thành phố Cần Thơ
1.1.1. Xây dựng và hoạt động của lực lượng dân quân, tự vệ ở thành
phố Cần Thơ
* Khái quát về thành phố Cần Thơ.
Thành phố Cần Thơ nằm lưu vực sông Hậu, có diện tích tự nhiên
1.389,6 km2, phía Đông giáp các tỉnh Đồng Tháp và Vĩnh Long, phía Bắc


12
giáp tỉnh An Giang và Đồng Tháp, phía Tây giáp tỉnh Kiên Giang, phía Nam
giáp tỉnh Hậu Giang. Với 9 đơn vị hành chính, gồm 5 quận và 4 huyện, trong
đó quận Ninh Kiều là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của thành phố.
Nằm ở trung tâm ĐBSCL, Cần Thơ có vị trí hết sức quan trọng. Đây là nơi
hội tụ của điều kiện tự nhiên với những vùng sinh thái rộng lớn, có những

tuyến giao thông huyết mạch cả đường bộ, đường thuỷ, nối Cần Thơ với
thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh, thành phố thuộc vùng ĐBSCL.
Cần Thơ là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội của vùng
ĐBSCL, giữ vị trí chiến lược của tiểu vùng Tây sông Hậu, là điểm giao lưu
trong tứ giác kinh tế lớn, năng động hiện nay: Cần Thơ - Cà Mau - An Giang
- Kiên Giang.

Điều đó tạo thuận lợi cho thành phố phát triển đồng bộ các

khu vực kinh tế theo hướng kinh tế vùng như: khu công nghiệp chế biến nông,
ngư sản và phục vụ nông, ngư nghiệp; khu công nghiệp có công nghệ cao,
khu cảng biển và sân bay hàng không quốc tế, khu thương mại tập trung ...với
nhịp độ công nghiệp hóa, hiện đại hóa của toàn vùng.
Những năm gần đây, dân số thành phố tăng khá nhanh, do dân cư từ các
tỉnh ĐBSCL đến (hiện có khoảng gần 1,2 triệu người); với 7 dân tộc đang
sinh sống, chủ yếu là người Kinh chiếm 96.68% dân số, còn lại là người Hoa, Khme,
Chăm, Tày, Nùng...trong đó có gần 7% dân số là người theo đạo. Đó là những nguồn
lực quan trọng đảm bảo cho thành phố phát triển theo hướng toàn diện, bền vững. Xây
dựng và phát triển thành phố Cần Thơ trở thành thành phố đồng bằng cấp quốc gia,
văn minh, hiện đại, xanh, sạch, đẹp, xứng đáng là thành phố cửa ngõ của cả vùng hạ
lưu sông MêKông; là trung tâm công nghiệp, trung tâm thương mại - dịch vụ, du lịch,
trung tâm giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ, trung tâm y tế và văn hoá, là đầu
mối quan trọng về giao thông vận tải nội vùng và liên vận quốc tế; là địa bàn trọng
điểm giữ vị trí chiến lược về quốc phòng, an ninh của vùng Đồng bằng Sông Cửu
Long.


13
Vùng đất Cần Thơ được khai mở và chính thức có tên trên bản đồ Việt Nam
vào năm 1739 với tên gọi Trấn Giang. Chính hành trình khai phá đất đai, chinh

phục tự nhiên, chống giặc ngoại xâm, đã hình thành bản lĩnh và phong cách đặc
trưng của đồng bào vùng ĐBSCL, với đức tính: cương trực, bao dung, độ lượng,
trọng nhân nghĩa, cần cù, chịu khó, yêu nước, thương nòi...Nhờ đó, mà tô đẹp
truyền thống “anh hùng, kiên trung, bất khuất”; góp phần cùng quân và dân cả
nước chiến thắng Thực dân, Đế quốc, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước;
cùng với các địa phương trên cả nước thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược
là xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Nằm trong thế trận phòng thủ chung của Quân khu 9 và cả n−ớc, với vị trí
chiến l−ợc hết sức quan trọng, công tác QS, QPĐP của thành phố Cần Thơ có nội
dung cơ bản lμ: tổ chức nhân dân xây dựng nền QPTD; xây dựng LLVT nhân dân
địa ph−ơng; xây dựng vμ củng cố tiềm lực quốc phòng, tiến hμnh xây dựng khu
vực phòng thủ ở địa ph−ơng. Trong đó, tập trung vμo các nhiệm vụ cụ thể:
th−ờng xuyên tổ chức thực hiện giáo dục quốc phòng ở địa ph−ơng; xây dựng
thành phố thμnh khu vực phòng thủ liên hoàn vững chắc; xây dựng LLVT địa
ph−ơng vững mạnh lμm nòng cốt cho xây dựng khu vực phòng thủ, giữ vững an
ninh chính trị, trật tự an toμn xã hội; thực hiện tốt chế độ đăng ký, quản lý chặt
chẽ lực lượng DQ,TV, xây dựng lực lượng DQ,TV vững mạnh, rộng khắp.
Nhiệm vụ xây dựng, củng cố quốc phòng của đất n−ớc là nhiệm vụ rất nặng
nề, đòi hỏi phải phát huy đầy đủ trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và
của cả hệ thống chính trị ở n−ớc ta. Theo đó, công tác QS, QPĐP trên địa bàn thành
phố bao gồm nhiều lực l−ợng tham gia, trong đó cấp uỷ địa ph−ơng trực tiếp lãnh
đạo; chính quyền địa ph−ơng quản lý, điều hành; các ban, ngành, đoàn thể mà nòng
cốt là cơ quan quân sự làm tham m−u theo chức năng; ng−ời chỉ huy tr−ởng cơ
quan quân sự địa ph−ơng chỉ huy thống nhất các LLVT thuộc quyền. Củng cố quốc
phòng, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toμn xã hội, bảo vệ có hiệu quả tính
mạng, tμi sản của nhân dân, bảo vệ Đảng bộ, chính quyền vμ thμnh quả cách mạng


14
ở địa ph−ơng; trực tiếp góp phần xây dựng hậu ph−ơng chiến l−ợc vμ lực l−ợng

hậu bị trong chiến tranh, động viên toμn dân tham gia xây dựng LLVT địa ph−ơng,
xây dựng vμ quản lý chặt chẽ lực lượng DQ,TV để trực tiếp bảo vệ Đảng, chính
quyền địa phương, tính mạng và tài sản của nhân dân, đáp ứng yêu cầu chiến tranh
nhân dân ở địa ph−ơng, góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong mọi tình huống.
* Vị trí, vai trò của lực lượng DQ, TV
Hiện nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng, DQ,TV là bộ phận quan trọng cấu
thành LLVT nhân dân của Nhà nước cộng hoà XHCN Việt Nam. “DQ, TV là
LLVT quần chúng không thoát ly sản xuất, công tác, là LLVT nhân dân của Nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam, sự quản lý điều hành của Chính phủ và của Uỷ ban nhân dân các cấp,
sự chỉ đạo, chỉ huy thống nhất của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và sự chỉ đạo, chỉ
huy trực tiếp của cơ quan quân sự địa phương các cấp” [52, tr.34]. Trong sự
nghiệp giải phóng dân tộc trước đây cũng như trong công cuộc củng cố quốc
phòng, bảo vệ Tổ quốc XHCN hiện nay, lực lượng DQ,TV luôn luôn giữ một vị trí
chiến lược quan trọng.
Chủ nghĩa Mác - Lênin đã đặt cơ sở lý luận cho vấn đề tổ chức
xây dựng LLVT của quần chúng trong khởi nghĩa giành chính quyền và
bảo vệ giữ vững thành quả cách mạng V.I. Lênin chỉ rõ: “ Một dân tộc
muốn giành độc lập không chỉ giới hạn ở những phương thức thông
thường để tiến hành chiến tranh. Khởi nghĩa quần chúng, chiến tranh
cách mạng, những đội du kích ở mọi nơi, đó là phương thức duy nhất
để một dân tộc nhỏ có thể đánh thắng một dân tộc lớn”[2, tr.523]
Sức mạnh của toàn dân vũ trang là một ưu thế tuyệt đối của chiến tranh nhân
dân để đánh bại chiến tranh xâm lược của kẻ thù. Tiếp thu và vận dụng sáng tạo lý
luận của Chủ nghĩa Mác- Lênin, kinh nghiệm chiến tranh du kích vào thực tiễn
cách mạng Việt Nam, khi nói về vai trò của lực lượng DQ,TV Chủ tịch Hồ Chí
Minh khẳng định: “ DQ,TV và du kích là lực lượng của toàn dân tộc, là một lực


15

lượng vô địch, là một bức tường sắt của Tổ quốc. Vô luận địch nhân hung bạo thế
nào hễ đụng vào lực lượng đó, bức tường đó, thì địch nào cũng phải tan rã”[37,
tr.132].
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng và bạo lực là phương thức chủ yếu
để giành chính quyền. Trước khi thành lập quân đội, Đảng ta đã thành lập các đội tự
vệ, các đội du kích để thực hiện nhiệm vụ "bảo vệ quần chúng đấu tranh hàng
ngày"; bảo vệ tổ chức đảng, bảo vệ cơ sở chính trị và bảo vệ cán bộ, bảo vệ căn cứ
địa cách mạng. Tiêu biểu là các đội "Xích vệ đỏ" thời kỳ Xô Viết Nghệ Tĩnh và các
đội du kích Bắc Sơn, Ba Tơ... thời kỳ trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Trong các cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, trên cơ sở vũ trang
quần chúng, Đảng đã tổ chức ra LLVT ba thứ quân gồm: bộ đội chủ lực, bộ đội địa
phương và DQ,TV. Do được tổ chức phù hợp với nhiệm vụ chiến đấu và đặc điểm
của từng địa bàn địa phương, nên lực lượng dân quân du kích đã thực sự là lực
lượng đánh địch rộng khắp, làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc và bảo vệ các khu
giải phóng và căn cứ địa cách mạng, sẵn sàng đánh địch bất cứ lúc nào, bằng mọi
thứ vũ khí có trong tay, với nhiều hình thức hoạt động thích hợp, mang lại hiệu suất
chiến đấu cao, góp phần quan trọng vào chiến thắng chung của cả nước.
Ngày nay, kẻ địch đang thực hiện chiến lược "diễn biến hoà bình", bạo loạn
lật đổ nhằm xoá bỏ chế độ XHCN và xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng ta. Bằng
mọi thủ đoạn, kẻ thù đang tìm cách móc nối, cài cắm, dụ dỗ, mua chuộc, lôi kéo
những phần tử xấu, những phần tử thoái hoá, biến chất trong các tổ chức xã hội và
trong nhân dân để chống lại Đảng, chống lại chế độ ta. Trước tình hình đó, lực
lượng DQ,TV là lực lượng chủ yếu phối hợp với các lực lượng an ninh bảo vệ các
tổ chức đảng và chính quyền ở cơ sở; tham gia bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội, xây dựng cơ sở, xây dựng địa phương vững mạnh, sẵn sàng chiến đấu
và chiến đấu bảo vệ quê hương khi có chiến tranh.
* Lực lượng DQ, TV ở thành phố Cần Thơ


16

Dân quân, tư vệ thành phố Cần Thơ là một bộ phận trong LLVT thành phố
Cần Thơ, một bộ phận của LLVT Quân khu 9, bao gồm các thanh niên đã đ−ợc
đăng ký, quản lý, sắp xếp vào các đơn vị DQ,TV thuộc các xã, phường, thị trấn, các
cơ quan, tổ chức và các doanh nghiệp, đ−ợc huấn luyện theo quy định, cùng với
LLVT trên địa bàn, bảo vệ vững chắc địa ph−ơng trong mọi tình huống.
Đặc điểm về tổ chức, biên chế
Dân quân, tự vệ ở thành phố Cần Thơ là LLVT quần chúng không
thoát ly sản xuất và công tác trên địa bàn thành phố, được tổ chức theo
đúng quy định Pháp lệnh DQ, TV. Đây là lực lượng không tập trung thường
xuyên và chỉ tổ chức ở cơ sở. Các xã, phường, thị trấn, khu vực, ấp tổ chức
ra dân quân; các cơ quan hành chính sự nghiệp trong hệ thống chính trị, các
tổ chức kinh tế trên địa bàn (gọi chung là cơ quan, tổ chức) tổ chức ra tự vệ.
Thực hiện Chỉ thị số 16 CT/TW ngày 05/10/2002 của Ban bí thư Trung
ương Đảng (khoá IX) Bộ CHQS thành phố Cần Thơ đã tham m−u giúp
Thành uỷ Cần Thơ ban hành công văn số 250 CV/TU chỉ đạo triển khai thực
hiện Chỉ thị 16; đồng thời tham mưu cho Uỷ ban nhân dân thành phố Cần
Thơ triển khai kế hoạch số 14/KH-UB ngày 23/07/2004 về việc triển khai
Pháp lệnh có hiệu lực thi hành; tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 45 CT/BQP
ngày 14/03/2006 về xây dựng lực lượng dân quân cơ động.
Đối với cấp uỷ, chính quyền địa phương cơ sở xã, phường, thị trấn là cấp
quản lý trực tiếp lực lượng dân quân, tiến hành đăng ký, phân loại, xét duyệt,
tuyển chọn và giải ngạch số dân quân hết hạn tuổi phục vụ chuyển sang đăng ký
quản lý. Đến nay, mỗi xã, phường, trị trấn thành lập được 01 trung đội dân quân
cơ động; 01 tiểu đội dân quân thường trực; 01 tiểu đội dân quân tại chỗ ở ấp
(khu vực); Lực lượng dân quân binh chủng 01 tổ dân quân Phòng không, Pháo
binh, Thông tin, Công binh, Trinh sát. Cấp quận, huyện quản lý: đã tiến hành
xây dựng được 10 trung đội súng máy phòng không 12,7mm. Cấp thành phố
quản lý: đã tiến xây dựng được 01 đại đội súng máy phòng không 37mm. Quân



17
số và vũ khí đủ theo tổ chức biên chế do Quân khu 9 qui định [53, tr.20]. Ngoài
ra Bộ CHQS thành phố Cần Thơ đã tham mưu cho Thành uỷ và Uỷ ban nhân
dân lập đề án xây dựng lực lượng DQ,TV giai đoạn 2007-2010 được Bộ Tư lệnh
Quân khu 9 phê duyệt, hiện đã và đang triển khai xây dựng.
Thực hiện Hướng dẫn số 1107 HD/TM ngày 25/07/2005 về việc thành lập
ban chỉ huy quân sự cơ quan, tổ chức trực thuộc cấp thành phố, quận huyện, Bộ
CHQS thành phố Cần Thơ tham mưu cho Uỷ ban nhân dân thành phố ra Chỉ thị số
13 CT/UBND ngày 13/10/2006 về việc thành lập ban chỉ huy quân sự cơ quan, tổ
chức. Đồng thời, chủ động lập kế hoạch và hướng dẫn các sở, ban. ngành phối hợp
thực hiện; giao chỉ tiêu kế hoạch, quy mô, loại hình tổ chức, số l−ợng các đơn vị
DQ,TV, đồng thời chỉ đạo các cơ quan QSĐP các cấp triển khai thực hiện theo kế
hoạch đã được phê duyệt. Đến nay, toàn thành phố đã thành lập được 87 ban chỉ
huy quân sự cơ quan, tổ chức (cấp trung ương 08; cấp thành phố 59; cấp quận,
huyện 20).
Dân quân, tự vệ trên địa bàn thành phố Cần Thơ được tổ chức rộng
khắp trong rất nhiều đầu mối. Toàn thành phố hiện có 85 đầu mối từ cấp xã,
phường, thị trấn và có 87 ban chỉ huy quân sự cơ quan, tổ chức. Lực lượng
DQ,TV của thành phố Cần Thơ đạt tỷ lệ 1,46% dân số [53, tr.20]. Lực lượng
này có sự phong phú về độ tuổi, dân tộc, thành phần xuất thân, ngành nghề,
chuyên nghiệp quân sự; có cả dân quân cơ động, dân quân tại chỗ, dân quân
các binh chủng, pháo binh, trinh sát, quân nhân xuất ngũ về địa ph−ơng mà
không biên chế phục vụ ở ngạch dự bị động viên.
Trình độ mọi mặt, các mối quan hệ của DQ, TV cũng rất đa dạng, phức
tạp. Theo qui định của pháp luật tham gia DQ,TV tất cả các thành phần,
không phân biệt trình độ, nghề nghiệp, dân tộc, tôn giáo, giới tính...từ các
xã, phường, thị trấn, các cơ quan, ban, ngành trong hệ thống chính trị; trong
các doanh nghiệp, hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp, cơ sở sản xuất kinh
doanh; trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội. Do nghề nghiệp,



18
nơi c− trú của DQ,TV đa dạng, không ổn định và đ−ợc bổ sung, biên chế từ
nhiều nguồn khác nhau nên trình độ mọi mặt của DQ,TV cả về giác ngộ
chính trị của DQ,TV cũng như trình độ học vấn không đồng đều. Đại bộ
phận về trình độ văn hoá mới hết trung học cơ sở, một số mới chỉ học qua
tiểu học. Hơn nữa về trình độ nhận thức, thành phần xuất thân, địa bàn, các
mối quan hệ nhân thân, nhất là trong lực lượng tự vệ và giữa lực lượng tự vệ
với dân quân, cũng luôn thể hiện sự phong phú, đa dạng và phức tạp.
Để xây dựng DQ,TV có chất l−ợng, hiệu quả đòi hỏi các chủ thể, các lực
l−ợng tiến hành phải nắm vững những đặc điểm này, thấy rõ thực tiễn tình hình
của địa ph−ơng và đặc điểm của quân DQ,TV của thành phố, để tiến hành công
tác đăng ký, quản lý, tổ chức biên chế sắp xếp, xây dựng lực lượng DQ,TV ở
thành phố Cần Thơ một cách phù hợp.
Xây dựng và hoạt động của DQ, TV ở thành phố Cần Thơ
Xây dựng DQ, TV ở thành phố Cần Thơ
Xây dựng là quá trình tác động có mục đích nhằm tăng thêm năng lực hoặc
phẩm chất nào đó của con người và tổ chức trong xã hội. Theo đó, xây dựng lực
lượng DQ,TV là hoạt động có tổ chức, là quá trình vận dụng tổng hợp các biện
pháp, cách thức của chủ thể dựa trên nguyên tắc, nội dung phù hợp với điều kiện,
tình hình cụ thể của địa phương, cơ sở theo mục đích, nhiệm vụ xác định, nhằm
đáp ứng yêu cầu công tác quân sự, quốc phòng trong công tác xây dựng lực
lượng, tích trữ tiềm lực quốc phòng và tác chiến khu vực phòng thủ ở địa phương.
Xây dựng DQ, TV ở thành phố Cần Thơ lμ tổng thể các chủ tr−ơng, biện
pháp từ tạo nguồn, tổ chức biên chế, trang bị, quản lý, huấn luyện đến thực hiện
các mặt công tác bảo đảm đối với DQ,TV của cấp uỷ, chính quyền các cấp, các
ngành và nhân dân địa phương, nhằm tạo ra các đơn vị, đội ngũ cán bộ, chiến sỹ
DQ, TV có số l−ợng phù hợp, chất l−ợng cao, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
Mục đích xây dựng theo đúng quy định của Bộ Quốc phòng vμ chỉ tiêu của
Quân khu 9 giao; bảo đảm đủ các chuyên ngμnh quân sự, tính cân đối hợp lý giữa



19
các đơn vị DQ,TV. Quá trình xây dựng gồm nhiều khâu, b−ớc, theo đúng quy
định của pháp luật, bao gồm:
Lập kế hoạch: căn cứ vμo chỉ tiêu trên giao, tiêu chuẩn đã đ−ợc quy định
trong Pháp lệnh; nhiệm vụ QS, QP của thành phố vμ tình hình DQ,TV để xây
dựng. Kế hoạch đó phải đáp ứng nhiệm vụ QS, QPĐP cả tr−ớc mắt vμ lâu
dμi. Thực hiện theo đúng quy định trong Nghị định số 184 NĐ/CP ngμy 02
tháng 11 năm 2004 của Chính phủ.
Đăng ký quản lý nguồn: chủ yếu dựa vμo số thanh niên địa phương và
quân nhân hết hạn phục vụ tại ngũ mà không biên chế phục vụ trong ngạch dự
bị; đ−ợc tổ chức thực hiện theo chế độ đăng ký thực hiện nghĩa vụ dân quân;
sẵn sàng đáp ứng yêu cầu khi có tình huống khẩn cấp hoặc chiến tranh xảy ra.
Tổ chức xây dựng các đơn vị DQ,TV trên địa bàn thành phố, theo các
loại hình: các đơn vị dân quân tại chỗ, cơ động, binh chủng và đơn vị tự vệ
trong các cơ quan hành chính, sự nghiệp và các doanh nghiệp.
Quản lý, tổ chức huấn luyện, diễn tập, kiểm tra đơn vị DQ,TV: lực lượng
DQ,TV đã đ−ợc xếp trong đơn vị DQ,TV có trách nhiệm chấp hμnh các quy
định về đăng ký, kiểm tra sức khoẻ, lệnh tập trung huấn luyện, diễn tập sẵn
sμng huy động. Hμng năm, căn cứ vμo quyết định giao chỉ tiêu số l−ợng cho
các tỉnh, thành, bộ, ngμnh. Bộ tr−ởng Bộ Quốc phòng phân bổ chỉ tiêu huấn
luyện, diễn tập, kiểm tra theo từng đơn vị DQ,TV. Đối với cơ quan quân sự
địa ph−ơng, căn cứ vμo chỉ tiêu Quân khu giao, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân
thành phố, quận, huyện, vμ Chỉ huy tr−ởng cơ quan quân sự có thẩm quyền,
có trách nhiệm gọi DQ,TV tập trung huấn luyện theo phạm vi quyền hạn của
từng cấp.
Xây dựng lực lượng DQ,TV lμ một nội dung, một nhiệm vụ quan trọng
của công tác quân sự địa phương, một trong các vấn đề cốt lõi của công cuộc
xây dựng nền QPTD vμ xây dựng LLVT nhân dân của Đảng. Xây dựng lực

lượng DQ,TV vững mạnh, rộng khắp, lấy chất lượng làm chính, đ−ợc huấn


20
luyện vμ quản lý tốt, bảo đảm khi cần thiết có thể tập trung nhanh chóng, sẵn
sàng ứng phó kịp thời mọi tình huống có thể xảy ra trên từng địa bàn, cơ sở.
Hoạt động của dân quân, tự vệ ở thành phố Cần Thơ.
Hoạt động của DQ,TV trên địa bàn thành phố Cần Thơ gắn liền với quá trình sản
xuất, công tác và thực hiện các nhiệm vụ chính trị của địa phương. Họ vừa là “dân”,
vừa là “quân”, khi tổ chức tập trung huấn luyện, sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ chiến
đấu và các nhiệm vụ khác được giao thì sinh hoạt theo tổ chức đơn vị DQ,TV; lúc bình
thường, thì sinh hoạt theo tổ chức sản xuất, đoàn thể, trong các địa bàn dân cư. Hoạt
động quân sự của DQ,TV đều liên quan mật thiết tới hoạt động sản xuất, hoạt động
kinh tế, văn hoá, xã hội…ở địa phương, cơ sở và luôn có sự kết hợp chặt chẽ yêu cầu
sản xuất với yêu cầu chiến đấu; yêu cầu kinh tế với yêu cầu quốc phòng của thành phố.
Hoạt động của lực lượng DQ,TV bao gồm các mặt: sẵn sàng chiến đấu, chiến
đấu, phục vụ chiến đấu, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, phòng chống
thiên tai, dịch hoạ, cứu hộ, cứu nạn…đặt dưới sự lãnh đạo của cấp uỷ đảng và sự
điều hành của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các cấp, sự chỉ đạo, chỉ huy trực tiếp của
xã đội, ban chỉ huy quân sự cơ quan, tổ chức và của cơ quan quân sự cấp trên. Khi
DQ,TV đi làm nhiệm vụ ở ngoài địa bàn cơ sở, địa phương thì do chỉ huy trưởng cơ
quan quân sự của thành phố điều động theo đúng quy định của Chính phủ.
Trong chiến đấu, lực lượng DQ,TV ở thành phố Cần Thơ chủ yếu dựa theo
phương án tác chiến phân tán, lối đánh du kích, bám dân, bám đất, đánh địch
ngay ở cơ sở sản xuất, địa bàn của mình, nhằm tiêu hao, tiêu diệt từng bộ phận
nhỏ lực lượng của địch, trực tiếp giữ gìn và bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân
dân, tài sản của Nhà nước ở địa phương, cơ sở theo yêu cầu nhiệm vụ tác chiến
của khu vực phòng thủ của thành phố.
1.1.2. Những vấn đề cơ bản về công tác đảng, công tác chính trị trong xây
dựng và hoạt động của lực lượng dân quân, tự vệ ở thành phố Cần Thơ

V.I. Lênin, ng−ời đặt nền móng CTĐ, CTCT trong xây dựng quân đội kiểu mới
của giai cấp công nhân, đã khẳng định: “ Ở đâu có công tác đảng, công tác chính trị


21
trong quân đội, công tác của các chính uỷ làm đ−ợc chu đáo nhất thì ở đó
không hề có tình trạng lỏng lẻo trong quân đội, quân đội giữ đ−ợc trật tự tốt
hơn và tinh thần của họ cũng cao hơn, ở đấy thu đ−ợc nhiều thắng lợi hơn”[30, tr.66].
Trung thành, vận dụng sáng tạo trong xây dựng LLVT cách mạng ở một nước vốn là
thuộc địa và nửa phong kiến, Đảng ta khẳng định:“ Tiến hành CTĐ, CTCT là một
nguyên tắc trong công cuộc xây dựng LLVT cách mạng của Đảng” [5, tr.7].
Dân quân, tự vệ là một bộ phận của của LLVT nhân dân của nước cộng hoà
XHCN Việt Nam. Tiến hành CTĐ, CTCT trong DQ,TV là một nội dung quan
trọng, th−ờng xuyên của CTĐ, CTCT trong LLVT, đồng thời là một trong những
hoạt động lãnh đạo của Đảng mà trực tiếp là của cấp uỷ địa ph−ơng đối với
DQ,TV, nhằm phát huy hiệu lực cơ chế lãnh đạo của Đảng trong xây dựng và hoạt
động của DQ,TV; làm cho mọi hoạt động của DQ,TV theo đúng đ−ờng lối, quan
điểm của Đảng, lực lượng DQ,TV vững mạnh, rộng khắp, có số l−ợng phù hợp,
chất l−ợng cao, sẵn sàng thực hiện mọi nhiệm vụ.
* Quan niệm về CTĐ, CTCT trong xây dựng và hoạt động của lực lượng DQ,
TV ở thành phố Cần Thơ
Công tác đảng, công tác chính trị trong xây dựng và hoạt động của lực lượng
DQ,TV ở thành phố Cần Thơ đ−ợc tiến hành ở mọi cấp, mọi ngành, mọi đối t−ợng
trên địa bàn thành phố, nội dung chủ yếu là vận động và tổ chức thực hiện nhiệm vụ
xây dựng và đảm bảo các mặt hoạt động lực lượng DQ,TV. Tiến hành CTĐ, CTCT
trong xây dựng và hoạt động của lực lượng DQ,TV là bảo đảm cho cơ chế lãnh đạo
của Đảng đối với công tác QS, QPĐP, được vận dụng cụ thể hoá trong xây dựng và
hoạt động của DQ,TV bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ của cấp uỷ, chính
quyền địa phương, cơ sở sự chỉ huy thống nhất của cơ quan quân sự địa phương
phát huy trách nhiệm của các ban, ngành, đoàn thể địa ph−ơng, trách nhiệm của cơ

quan chính trị, của chính uỷ, chính trị viên và đội ngũ cán bộ chính trị thuộc cơ
quan quân sự địa phương các cấp, phát huy sức mạnh tổng hợp của địa ph−ơng, tập


22
trung xây dựng lực lượng DQ,TV có số l−ợng phù hợp, chất l−ợng cao, đáp ứng
đ−ợc yêu cầu tập trung theo kế hoạch hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.
Từ cách tiếp cận trên có thể quan niệm: CTĐ, CTCT trong xây dựng và hoạt
động của lực lượng DQ, TV là một bộ phận quan trọng của CTĐ, CTCT trong
công tác QS, QPĐP ở thành phố Cần Thơ, bao gồm các mặt công tác t− t−ởng,
tổ chức và chính sách nhằm giữ vững và tăng c−ờng sự lãnh đạo, chỉ đạo, quản
lý, điều hành của hệ thống cấp uỷ, ĐUQS, chính quyền các cấp ở thành phố đối
với DQ, TV; sự chỉ đạo, h−ớng dẫn của chính uỷ, chính trị viên, cơ quan chính trị
cấp trên, sự chỉ huy thống nhất của người chỉ huy cơ quan quân sự địa phương và
ban chỉ huy quân sự cơ sở, phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị,
LLVT và nhân dân địa ph−ơng đối với việc xây dựng lực lượng DQ, TV vững
mạnh, rộng khắp, có số l−ợng phù hợp, chất l−ợng cao, sẵn sàng thực hiện thắng
lợi nhiệm vụ được giao, bảo vệ vững chắc địa ph−ơng trong mọi tình huống,
hoàn cảnh.
Quan niệm trên chỉ ra những vấn đề cơ bản sau:
Mục đích tiến hμnh CTĐ, CTCT trong xây dựng và hoạt động của lực
lượng DQ,TV ở thành phố Cần Thơ lμ nhằm giữ vững vμ tăng c−ờng sự lãnh
đạo của hệ thống các cấp uỷ đảng từ Thành uỷ, ĐUQS thành phố, đến các tổ
chức đảng ở cơ sở, sự chỉ đạo, quản lý điều hμnh của chính quyền địa ph−ơng
các cấp trong xây dựng và hoạt động của lực lượng DQ,TV theo đúng đ−ờng
lối, Nghị quyết của Đảng và các quy định của pháp luật; xây dựng lực lượng
DQ,TV đủ chỉ tiêu, đúng tiêu chuẩn, bí mật, an toμn vμ đ−ợc quản lý chặt
chẽ, sẵn sμng thực hiện mọi nhiệm vụ khi có yêu cầu.
Chủ thể tiến hành CTĐ, CTCT trong xây dựng và hoạt động của lực
lượng DQ,TV ở thành phố Cần Thơ là hệ thống các cấp uỷ đảng, ĐUQS ,

chính quyền, các cơ quan ban, ngành, đoàn thể của địa ph−ơng, đội ngũ cán
bộ, cơ quan QSĐP và ban chỉ huy quân sự cơ sở là ng−ời tổ chức thực hiện


23
nghị quyết của cấp uỷ các cấp, đồng thời trực tiếp chỉ đạo, tiến hành CTĐ,
CTCT trong xây dựng và hoạt động của lực lượng DQ,TV theo phạm vi chức
trách. Trong đó chủ thể trực tiếp là cấp uỷ, ĐUQS địa phương các cấp, là
chính uỷ, chính trị viên, cơ quan chính trị, đội ngũ cán bộ chính trị của địa
phương, các tổ chức đảng, ban chỉ huy quân sự cơ sở, cơ quan hành chính sự
nghiệp, doanh nghiệp trên địa bàn và đội ngũ cán bộ, đảng viên trong các đơn
vị DQ,TV của thành phố.
Đối t−ợng CTĐ, CTCT lμ mọi tổ chức, mọi cán bộ, chiến sĩ trong các đơn vị
DQ,TV vμ tất cả các lực l−ợng tham gia xây dựng lực lượng DQ,TV.
CTĐ, CTCT phải lμm cho mọi lực l−ợng không ngừng nâng cao trình độ giác
ngộ chính trị, thấu suốt đ−ờng lối quan điểm của Đảng, nhiệm vụ của các cấp các
ngμnh mỗi tổ chức vμ mỗi lực lượng trong nhiệm vụ xây dựng và hoạt động của
DQ,TV. xây dựng các tổ chức đảng, tổ chức chỉ huy, tổ chức quần chúng vμ đội ngũ
cán bộ, đảng viên lμm cho mọi người, mọi tổ chức quán triệt, tin tưởng và quyết tâm
thực hiện thắng lợi đường lối chủ trương chính sách của Đảng, thực hiện thắng lợi
nghị quyết của Đảng uỷ Quân khu 9, của Thành uỷ và ĐUQS thành phố Cần Thơ về
công tác QS, QPĐP cũng như các nhiệm vụ khác được giao.
Nội dung, biện pháp CTĐ, CTCT thể hiện toàn diện, trong suốt quá trình
xây dựng và hoạt động của lực lượng DQ,TV ở thành phố Cần Thơ, bao gồm
các nội dung chính sau:
Một là, thường xuyên tiến hành công tác tuyên truyền, giáo dục nhằm nâng
cao nhận thức và trách nhiệm của các tổ chức, lực lượng và nhân dân thành phố
đối với nhiệm vụ xây dựng lực lượng DQ, TV ở từng địa bàn, cơ sở. Xây dựng lực
lượng DQ,TV vững mạnh, rộng khắp là trách nhiệm của tất cả các tổ chức, các cấp,
các ngành và nhân dân địa phương; phải làm cho mọi người nhất trí cao với đường

lối xây dựng LLVT nhân dân, vị trí vai trò của DQ,TV và yêu cầu xây dựng
DQ,TV trong tình hình mới ở cơ sở, địa phương. Nâng cao nhận thức, trách nhiệm
lãnh đạo của tổ chức đảng, trách nhiệm quản lý điều hành của chính quyền địa


24
phương, cơ sở đối với nhiệm vụ xây dựng và chỉ đạo DQ,TV hoạt động; thực hiện
tốt phương châm: dân bàn, dân cử, dân chăm lo. Đấu tranh khắc phục những nhận
thức lệch lạc của các tổ chức, lực lượng cho rằng xây dựng lực lượng DQ,TV là
trách nhiệm của cấp trên, của Đảng và của cơ quan quân sự ở địa phương.
Hai là, phối hợp chặt chẽ giữa các cấp, các ngành thường xuyên quan tâm xây
dựng DQ, TV về chính trị, tư tưởng. DQ,TV là một bộ phận của LLVT nhân dân ở
địa phương do Đảng Cộng sản Việt nam sáng lập, tổ chức đặt dưới sự lãnh đạo trực
tiếp của cấp uỷ, sự quản lý điều hành của chính quyền địa phương. Trong xây dựng
lực lượng DQ,TV, Đảng ta luôn kiên trì và vận dụng sáng tạo vấn đề có tính
nguyên tắc: lấy xây dựng chính trị làm cơ sở, yếu tố quan trọng hàng đầu để nâng
cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu của DQ,TV. Để xây dựng DQ,TV
vững mạnh về chính trị, làm tốt một số biện pháp cơ bản như: nâng cao chất lượng
giáo dục chính trị tư tưởng; tăng cường số lượng, chất lượng đội ngũ nòng cốt trong
lực lượng DQ,TV; làm tốt công tác quản lý nội bộ DQ,TV; gắn xây dựng DQ,TV
với xây dựng cơ sở, địa phương vững mạnh toàn diện.
Chỉ thị 58 (năm 1993) của Thủ tướng Chính phủ về “Tăng cường chỉ đạo
xây dựng cơ sở vững mạnh toàn diện” đã nhấn mạnh: “Xây dựng cơ sở địa
phương vững mạnh có ý nghĩa chiến lược trong tình hình hiện nay” và chỉ rõ:
“Để góp phần thực hiện tốt vấn đề đó yêu cầu phải chăm lo xây dựng lực
lượng DQ,TV trong sạch, vững mạnh. Có số lượng phù hợp, bảo đảm độ tin
cậy về chính trị, xứng đáng là công cụ có hiệu lực để bảo vệ nhân dân, bảo vệ
Đảng, bảo vệ chính quyền ở cơ sở, địa phương”.
Ba là, chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ DQ,TV vững mạnh. Đội ngũ cán
bộ DQ,TV là những đồng chí giữ các cương vị chỉ huy các đơn vị DQ,TV,

các chính trị viên, cán bộ ban chỉ huy quân sự ở cơ sở, địa phương. Đội ngũ cán
bộ DQ,TV không chỉ là những người tham gia đề xuất góp ý kiến làm tham mưu
cho cấp uỷ, chính quyền cơ sở, địa phương xây dựng nghị quyết và chỉ đạo tiến
hành CTĐ, CTCT đối với DQ,TV mà còn là những người trực tiếp tổ chức thực


25
hiện thắng lợi nghị quyết của cấp uỷ, kế hoạch của chính quyền, góp phần bổ
sung hoàn chỉnh chủ trương biện pháp ngày càng đúng đắn, phù hợp với đặc
điểm tình hình nhiệm vụ quân sự, quốc phòng. Hiện nay, xây dựng đội ngũ cán
bộ DQ,TV vững mạnh, cần đáp ứng theo những yêu cầu cơ bản: nắm vững
phương hướng, quan điểm giai cấp và tiêu chuẩn chính trị, thường xuyên chăm
lo kiện toàn xây dựng đội ngũ cán bộ DQ,TV có chất lượng ngày càng cao, có
nguồn dự trữ đáp ứng yêu cầu phát triển lực lượng và bổ sung cho quân đội khi
cần thiết. Chú ý tập trung đào tạo bồi dưỡng cán bộ DQ,TV ở các vùng xung
yếu, địa bàn trọng điểm: vùng dân tộc ít người, các doanh nghiệp liên doanh.
Bốn là, lãnh đạo, chỉ đạo lực lượng DQ, TV thực hiện tốt các nhiệm vụ.
Sự lãnh đạo trực tiếp của cấp uỷ, sự quản lý điều hành của Chủ tịch Uỷ ban
nhân dân, sự chỉ đạo, chỉ huy của ban chỉ huy quân sự cơ sở và cơ quan quân
sự cấp trên trong các hoạt động của DQ,TV là những nhân tố cơ bản, quan trọng,
quyết định đến khả năng cơ động sẵn sàng chiến đấu, sức mạnh chiến đấu, chất
lượng tổng hợp của DQ,TV làm cho mọi hoạt động của DQ,TV đạt hiệu quả cao.
Yêu cầu tăng cường sự lãnh đạo của các tổ chức đảng, quán triệt sâu sắc quy định của
Pháp lệnh DQ,TV; thông qua hoạt động lãnh đạo, điều hành DQ,TV để tổng kết, rút
kinh nghiệm và xây dựng qui trình hoạt động của cấp uỷ, chính quyền. Khắc phục sự
buông lỏng lãnh đạo, chỉ đạo, khoán trắng, thiếu chủ động trong quá trình xây dựng
và hoạt động của DQ,TV.
Năm là, lãnh đạo, chỉ đạo tốt công tác chính sách đối với lực lượng DQ, TV
trong quá trình xây dựng và thực hiện nhiệm vụ. Cấp uỷ, chính quyền các cấp chú
trọng quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt các chế độ chính sách, bảo đảm kinh

phí và chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho lực lượng DQ,TV trong thành phố;
chỉ đạo các ngành chức năng có kế hoạch đào tạo nghề và giải quyết công ăn việc
làm ổn định đời sống cho lực lượng; đầu tư xây dựng trụ sở làm việc của cơ quan
quân sự xã, phường, thị trấn và mua sắm trang, thiết bị cần thiết cho nhu cầu làm
việc, sinh hoạt và mọi hoạt động; tạo mọi điều kiện cho lực lượng DQ,TV tăng gia


26
cải thiện đời sống. Thực hiện tốt Chỉ thị số 176/2006/CT- BQP ngày 25/10/2006 của
Bộ trưởng Bộ Quốc phòng “Về thực hiện chế độ, chính sách đối với lực lượng
DQ,TV”, tiếp tục động viên các đoàn thể chính trị, các tổ chức kinh tế – xã hội và
nhân dân tích cực đóng góp quỹ quốc phòng – an ninh để hỗ trợ, tạo điều kiện cho
lực lượng DQ,TV hoạt động có hiệu quả góp phần giữ vững ổn định chính trị và trật
tự, an toàn ở địa phương, cơ sở.
Sáu là, thường xuyên làm tốt công tác sơ, tổng kết quá trình xây dựng và hoạt
động của lực lượng DQ, TV. Cơ quan quân sự các cấp từ thành phố đến cơ sở, phát
huy tốt vai trò làm tham mưu cho Cấp uỷ, Uỷ ban nhân dân các cấp, phối hợp chặt
chẽ với các ngành, các cấp, tạo sự thống nhất trong lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực
hiện theo qui định của pháp luật. Thường xuyên theo dõi, kiểm tra, đôn đốc, nắm kết
quả thực hiện nghị quyết lãnh đạo của cấp uỷ về công tác xây dựng và hoạt động của
lực lượng DQ,TV trên địa bàn thành phố Cần Thơ, định kỳ sơ, tổng kết, kịp thời phát
hiện và uốn nắn, tháo gỡ những vướng mắc, bất cập, rút kinh nghiệm lãnh đạo, chỉ
đạo đạt được kết quả tốt hơn trong các cơ quan, tổ chức.
* Vai trò CTĐ, CTCT trong xây dựng và hoạt động của lực lượng DQ,TV ở
thành phố Cần Thơ.
Xây dựng lực lượng DQ,TV của thành phố Cần Thơ lμ một bộ phận quan
trọng trong xây dựng LLVT thành phố. Vì vậy, tiến hμnh CTĐ, CTCT trong xây
dựng và hoạt động của lực lượng DQ,TV ở thành phố Cần Thơ lμ nhiệm vụ cơ bản
thường xuyên vμ có ý nghĩa quan trọng, thể hiện trên những nội dung chủ yếu sau:
Một lμ, CTĐ, CTCT trực tiếp tăng c−ờng sự lãnh đạo, chỉ đạo, điều hμnh

của các cấp uỷ đảng, chính quyền thành phố Cần Thơ trong xây dựng và hoạt động
của DQ, TV. Xây dựng lực lượng DQ,TV của thành phố Cần Thơ lμ nội dung cơ
bản của công tác QS, QPĐP; lμ trách nhiệm của các cấp uỷ đảng, chính quyền, cơ
quan quân sự địa phương các cấp và các ban, ngμnh, đoμn thể của thành phố, chính
thông qua hoạt động CTĐ, CTCT mμ cơ chế lãnh đạo của Đảng đ−ợc quán triệt,
vận hμnh đồng bộ, lμm cho các tổ chức, các ngμnh, các cấp của thành phố Cần


27
Thơ nhận thức đúng vị trí, vai trò, chức năng của mình, có sự thống nhất, phối hợp
chặt chẽ nhịp nhμng trong lãnh đạo, quản lý, điều hành và tổ chức thực hiện thắng
lợi nhiệm vụ QS, QPĐP, trong đó có nhiệm vụ xây dựng và hoạt động của DQ,TV.
Hai lμ, CTĐ, CTCT góp phần quan trọng vào việc quán triệt đường lối
QPTD, xây dựng LLVT nhân dân của Đảng, tuyên truyền vận động nhân dân tích
cực tham gia xây dựng lực lượng DQ, TV trên các địa bàn, cơ sở ở thành phố
Cần Thơ. Thông qua công tác tuyên truyền giáo dục, đặc biệt là công tác giáo dục
quốc phòng - an ninh, góp phần nâng cao nhận thức bồi d−ỡng kiến thức QS, QP
cho các đối tượng. Trang bị cho toμn dân, nhất lμ lực lượng thanh niên trong độ
tuổi thực hiện luật nghĩa vụ quân sự những quan điểm, t− t−ởng cơ bản của chủ
nghĩa Mác - Lênin, t− t−ởng Hồ Chí Minh vμ của Đảng ta về bảo vệ Tổ quốc
XHCN, về xây dựng nền QPTD, thế trận chiến tranh nhân dân, về quan điểm kết
hợp kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế. Trang bị cho nhân dân am
hiểu về Hiến pháp, pháp luật của Nhμ n−ớc, quy định của thành phố Cần Thơ liên
quan đến quốc phòng - an ninh vμ nhiệm vụ xây dựng lực lượng DQ,TV của
thành phố; giáo dục truyền thống cha ông ta đánh giặc; truyền thống cách mạng
của quân đội; truyền thống anh hùng của quân và dân Cần Thơ; những âm m−u
thủ đoạn của kẻ thù. Trên cơ sở đó, xây dựng những phẩm chất chính trị, đạo đức,
lối sống vμ truyền thống cách mạng, lμm cho mọi công dân có trách nhiệm, tự
giác thực hiện nghĩa vụ quân sự trong lực l−ợng th−ờng trực của quân đội, hoặc
sau khi hết hạn phục vụ trong quân đội thì tự giác tham gia xây dựng lực lượng

DQ,TV, dự bị động viên của địa phương.
Ba lμ, CTĐ, CTCT giữ vai trò trực tiếp xây dựng lực lượng DQ, TV ở thành
phố Cần Thơ vững mạnh về chính trị. Thông qua hoạt động CTĐ, CTCT mà xây
dựng lực lượng DQ,TV có phẩm chất, bản lĩnh chính trị kiên định, vững vμng, trung
thμnh tuyệt đối với mục tiêu, lý t−ởng của Đảng, với chế độ, trước hết là bảo vệ cấp
uỷ, chính quyền, hệ thống chính trị cũng như tính mạng và tài sản của nhân dân ở địa


×