Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

THUYẾT MINH ĐỒ ÁN TỐP NGHIỆP NGÀNH KIẾN TRÚC CÔNG TRÌNH VƯỜN TĨNH TÂM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.31 MB, 36 trang )

Trường Đại học Khoa học - Huế

Khoa Kiến Trúc - Lớp K28
BỘ XÂY DỰNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC - HUẾ
BỘ MÔN KIẾN TRÚC
HỒ SƠ THUYẾT MINH ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP
KHÓA 2004 - 2009
ĐỀ TÀI TỐT NGHIỆP
VƯỜN TĨNH TÂM
Giáo viên hướng dẫn kiến trúc: GS-TS-KTS TÔN ĐẠI
Giáo viên hướng dẫn nội thất:ThS-KTS NGUYỄN NGỌC TÙNG
Giáo viên hướng dẫn kết cấu: KS. LÊ THANH BÌNH
Sinh viên thực hiện: TRẦN THỊ HOÀNG ANH
Lớp: KIẾN TRÚC K28

Huế, 06/2009

GVHD: GS-TS-KTS TÔN ĐẠI

1

SVTH: TRẦN THỊ HOÀNG ANH


Trường Đại học Khoa học - Huế

Khoa Kiến Trúc - Lớp K28

Lời Cảm Ơn
Khoảng thời gian ngồi trên ghế giảng đường Đại học là một khoảng thời gian dài mà mỗi sinh viên phải học tập, rèn luyện vất vã. Đó


cũng là thời gian thật ý nghĩa trong hành trang của một sinh viên. Được sự giảng dạy, chỉ dẫn nhiệt tình và đầy tâm huyết của các thầy cô giáo,
sự động viên của gia đình và bạn bè, trong 5 năm học em đã tiếp thu được nhiều kiến thức, kinh nghiệm quý báu... Những điều mà sau này dù
có bôn ba trong cuộc sống vẫn luôn khắc ghi trong lòng. Đó là hành trang không thể thiếu được cho cuộc đời cũng như nghề nghiệp về sau.
Với lòng biết ơn chân thành, em xin thành kính cảm ơn toàn thể cán bộ giảng viên của trường Đại học Khoa học, cũng như các giảng viên
của Bộ môn Kiến trúc Huế và các thầy cô giáo thỉnh giảng của trường Đại học Kiến trúc Hà Nội đã tham gia giảng dạy trong suốt quá trình học
tập và tu dưỡng đạo đức tại trường. Đặc biệt em muốn gửi lời cảm ơn đến các thầy:
GS-TS-KTS TÔN ĐẠI

(Giáo viên hướng dẫn kiến trúc)

ThS-KTS. NGUYỄN NGỌC TÙNG (Giáo viên hướng dẫn nội thất)
KS.LÊ THANH BÌNH

(Giáo viên hướng dẫn kết cấu)

đã hướng dẫn cho em hoàn thành Đồ án tốt nghiệp này.Em xin chân thành gửi lời cảm ơn đến các cơ quan, đoàn thể đã giúp em trong việc
cung cấp những tư liệu, tài liệu cần thiét, hỗ trợ trong quá trình hoàn thành đồ án.
Xin gửi lời cảm ơn đến gia đình và bạn bè đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho em hoàn thành Đồ án này.

Huế, tháng 06 năm 2009
Sinh viên:TRẦN THỊ HOÀNG ANH – Kiến trúc K28

GVHD: GS-TS-KTS TÔN ĐẠI

2

SVTH: TRẦN THỊ HOÀNG ANH


Trường Đại học Khoa học - Huế


Khoa Kiến Trúc - Lớp K28

PHẦN A: Theo ý hiểu của em về tĩnh tâm:
Trong ta có: Tâm + Trí.
- Trí là ý thức, là suy nghĩ, là tư duy.
- Tâm bao gồm tiềm thức và vô thức.
Tiềm thức là những gì con người ta đã trải nghiệm qua cuộc sống rồi trở thành những phản xạ có điều kiện trong tư duy.
Vô thức thuộc về bản năng gốc, con người từ khi sinh ra đã có và ai cũng như ai đó là: ăn, ngủ, bầy đàn, yêu thương ...
Loạn tâm là loạn phần tiềm thức. Tĩnh tâm là khi bản năng gốc được lộ diện, và định hướng nhận thức, hành vi. Khi đó, ta sẽ luôn ở trạng
thái cân bằng và yên bình nhất dù có ở trong cơn lốc hay tâm bão. Đó gọi là tĩnh tâm. Thiền mang lại sự tĩnh tâm và sức khỏe cho con
người


3. Ðức Phật Và Giáo Lý Giải Thoát

Ðức Phật đản sinh vào 566 năm trước Tây Lịch và nhập Niết Bàn vào năm 468 trước Tây
Lịch. Nước Ấn Ðộ lúc bây giờ theo Bà La Môn Giáo (Brahmanism) chủ trương Thần Phạm
Thiên (Brahman, còn dược gọi là Ðại Ngã hay Thượng Ðế) là ngưồn gốc của mọi sự vật. Mỗi
sinh thể, như con người, đều có một Tiểu Ngã (Atman). Ðại Ngã và Tiểu Ngã là cùng bản
tánh. Tiểu Ngã tu tập để trở thành trong sạch hầu trở về với Ðại Ngã (Brahnan), tùy theo
mức độ tâm linh mà mỗi người khi sinh ra thuộc vào các giai cấp khác nhau: giai cấp Bà La
Môn, quý tộc hay võ tướng, thương gia hay cùng đinh. Trên nguyên tắc, xã hội Ấn Ðộ chia
con người ra thành bốn giai cấp. Trên thực tế, mỗi giai cấp lại phân chia thành hàng chục
giai cấp nhỏ hơn. Sự liên hệ mật thiết của những người khác giai cấp với nhau, tạo nên sự
ích kỷ, áp bức, kỳ thị của các nhóm giai cấp trên đối với các giai cấp bị xem là thấp kém. Sự
ác độc của sự kỳ thị sai lầm này tại Ấn Ðộ được chính thức ghi thành luật lệ sau này như
nếu một người thuộc giai cấp hạ tiện tình cờ nghe lời tụng đọc các thánh thư Bà La Môn
giáo thì người đó bị đổ chì nóng chảy vào tai để trừng phạt.
Trong hoàn cảnh bế tắc của hệ thống tư tưởng và tổ chức xã hội cứng ngắc ấy, có nhiều chủ trương phải tìm lối thoát khỏi sự nhàm chán

của đời sống bằng cách tận hưởng các dục lạc. Có kẻ khác lại cho cuộc sống trên thế gian này thật là vô vọng, ghê tởm đời sống của cả thân
xác mình, tìm cách tu khổ hạnh, ép xác hay hành hạ thân xác để mong sau khi chết có thể được sinh về chốn thiên đàng an vui. Ðó là hai chủ
trương cực đoan trong nhiều chủ trương khác nhau lúc bấy giờ.

GVHD: GS-TS-KTS TÔN ĐẠI

3

SVTH: TRẦN THỊ HOÀNG ANH


Trường Đại học Khoa học - Huế

Khoa Kiến Trúc - Lớp K28

I.Trí Tuệ Hay Sự Thấy Biết Chân Thật
Ðức Phật thấy rõ hoàn cảnh xã hội và tâm linh bế tắc đó. Ngài muốn tìm lời giải đáp chân thật không dựa trên sự suy luận, cảm xúc hay
niềm tin không căn cứ. Do đó, sau sáu năm tu tập trong rừng và bốn mươi chín ngày thiền định dưới cội bồ đề, Ngài đã đại ngộ, nhìn thấu rõ
mọi sự vật (vạn pháp) trong vũ trụ như sau:
 Sự thấy biết mọi sự kiện trong vũ trụ và đời sống con người một cách chân thật (như thực tri kiến) xuất hiện tự nhiên khi ta không còn
dính mắc với các ý tưởng đối nghịch, mâu thuẩn làm khơi dậy lòng ham muốn, giận dữ, thù hận, v.v.. đưa đến xáo trộn và khổ đau.
 Chủ trương tận hưởng dục lạc hay sống đời khổ hạnh, hành hạ thân xác mình, chỉ là hai cực đoan của sự trốn chạy cuộc sống. Sống là
sống hạnh phúc vì hạnh phúc vốn là tánh tự nhiên, chân thật hay là Phật tánh có sẵn nơi mỗi chúng ta. Khi ta sống tỉnh thức với sự chú tâm tự
nhiên, với sự thấy biết trực tiếp không lựa chọn (trực thức vô trạch) mọi sự kiện, thì mọi sự vật đều hiện ra một cách chân thật, trong sáng, tràn
đầỵ Các sự xáo trộn, mâu thuẩn, xung đột do sự thấy biết sai lầm tan biến. Tâm ta quay về với sự trong sáng tự nhiên của nó, với niềm hạnh
phúc bao la tràn đầy.
Thực hành lối sống an lành và hạnh phúc đó là sống Trung Ðạo, đi ở giữa, tránh hai cái cực đoan sai lầm nói trên. Ðó cũng chính là sống
đời giải thoát hay giác ngộ.
 Do đó, con người không cần phải hy sinh cho một ước mơ được sung sướng trong thiên đàng mai sau mà quên đi cuộc sống hiện tại,
nhưng cũng không đắm mình vào khoái lạc vật chất để tìm kiếm sự thỏa mãn dục lạc mãi không ngừng. Sự khổ hạnh, ép xác để mong lên

thiên đàng cùng sự hưởng thụ vật chất theo chủ nghĩa khoái lạc đều làm cho tâm trí mê mờ và thân xác mệt mõi. Người thực hành đạo giác
ngộ sống hạnh phúc nơi Trung Ðạo, tức là ở giữa hai cái cực đoan sai lầm của chủ trương khổ hạnh hoặc hưởng lạc nói trên và sống an vui
thoải mái với sự hiểu biết chân thật trong đời sống hàng ngàỵ
 Sự hiểu biết chân thật đó không qua lý luận viễn vông mà qua kinh nghiệm tâm linh: tánh tự nhiên của mỗi chúng ta là chân tâm hay Phật
tánh. Tánh ấy vốn không có bắt đầu và tận cùng (bất sanh bất diệt), rộng lớn bao la, trong sáng an vui, tràn đầy tình thương yêu (từ bi) và sự
hiểu biết chân thật (trí huệ). Chân tâm hay Phật tánh nơi mỗi chúng ta luôn luôn rỗng lặng, tinh sạch, trong sáng, linh động, tràn đầy đồng thời
rộng lớn bao la nên không có một cái gì gọi là Tiểu Ngã (Atman), một cái tôi nhỏ bé cần phải thanh lọc dần dần trở về với Ðại Ngã (Brahman
hay là Thượng Ðế)
 Sống đời an vui giác ngộ ngay trong cuộc đời này là chúng ta sống với tâm hiểu biết chân thật: thấy biết rõ ràng mọi thứ, mọi hiện tượng
nhưng tâm buông xả, không dính mắc vào các ý tưởng phân biệt như hay dở, tốt xấu, làm khơi dậy các tình cảm như vui buồn, thương ghét,
thân thù thì tâm luôn luôn tĩnh lặng. Cái tôi (ngã) mà lâu nay ta luôn luôn bảo vệ, đề cao chẳng qua là sự tiếp nối không ngừng của các ý tưởng
và cảm xúc đó. Các ý tưởng và cảm xúc giờ đây lắng dịu thì cái tôi nhỏ bé (ngã) cũng tan biến nên ta trực nhận cái tôi ấy (ngã) vốn rỗng lặng
(không) hay vô ngã. Các ý tưởng và cảm xúc thường là các đám mây che mờ chân tâm, Phật tánh luôn luôn tỏa sáng nơi ta. Mây tan đi thì mặt
trời chiếu sáng, sự mê mờ (vô minh) tan đi thì chân tâm, Phật tánh, niềm hạnh phúc trong sáng bao la tràn đầy nơi ta.

GVHD: GS-TS-KTS TÔN ĐẠI

4

SVTH: TRẦN THỊ HOÀNG ANH


Trường Đại học Khoa học - Huế

Khoa Kiến Trúc - Lớp K28

 Tánh cách vô ngã hiện hữu nơi mọi sự vật. Mọi sự vật hiện hữu do nhiều thứ họp lại. Chúng ta có thể lấy ví dụ như một chiếc xe hơi do
sự kết hợp của sườn, mui, máy, bình xăng, dây điện, cảng xe, việc làm người thợ, dự án của kỹ sư, quyết định sản xuất của các chủ hảng, các
vật liệu do các hảng khác cung cấp, v.v… Chiếc xe có mặt là do nhiều thứ trên hợp lại mà thành. Nó không tự có mặt và không có cá tánh riêng
biệt. Nếu các yếu tố hợp lại thành chiếc xe thay đổi thì nó thay đổi theo. Như mỗi năm hảng sản xuất thay đổi hình dáng, máy móc, mầu sơn để

hấp dẫn khách hàng thì mỗi năm xe (cùng một hiệu) đổi mới liên tục. Cùng một hiệu xe như Mercedes, Ford hay Toyota Celica nhưng tùy theo
các yếu tố hợp lại thành chiếc xe theo năm sản xuất, chúng hoàn toàn khác nhau về màu sắc, hình dáng, máy móc, sự bền bĩ. Cùng một tên
gọi nhưng chúng hoàn toàn khác nhau về phẫm chất cũng như hình dáng. Tuy nhiên, chúng ta có thói quen thường gán cho (hay yên chí) là
mọi sự vật có tánh riêng biệt và không thay đổi trong khi mọi sự vật đều thay đổi. Sự thay đổi không ngừng đó gọi là vô thường.
 Sự thay đổi đó xảy ra từng giây phút một. Lấy lại ví dụ chiếc xe, như khi nói đến chiếc xe của ta thì ta có một hình ảnh cố định về chiếc
xe ấỵ Kể từ khi mua xe cho đến nay, ta đã thay các bánh xe mới, bộ thắng mới, bình điện mới, bình lọc dầu mới, ống lọc xăng mới, nước sơn
không còn bóng như trước và khung xe đã bắt đầu có chỗ rỉ sét.
Các bộ phận kết hợp thành chiếc xe (sinh), chiếc xe tồn tại một thời gian (trụ), chiếc xe biến đổi, hư hao (dị), và cuối cùng nó bị tan rã (diệt).
Chiếc xe phế thải được kéo vào nghĩa địa xe, người cần các bộ phận đến mua xe về ráp lại vào xe khác. Cuối cùng người ta ép dẹp phần còn
lại, chuyển đến các nhà nấu thép, đúc thành các bộ phận xe mới và ráp thành chiếc xe khác.
 Tính cách sinh diệt, diệt sinh đó là tính cách vô thường của mọi sự vật. Vô thường là các sự vật không tồn tại mãi mãi và luôn luôn biến
đổi. Chiếc xe đạp tồn tại độ 10 năm, xe hơi trên 20 chục năm, con người dưới 100 năm, mặt trời độ 10 tỷ năm. Từ một vật thật nhỏ như tế bào
trong cơ thể đến một vật lớn như mặt trời luôn luôn chuyển biến qua bốn giai đoạn nhiều vật kết hợp lại thành (sinh), tồn tại một thời gian (trụ),
biến đổi và hư hao (dị) cuối cùng là tan rã (diệt), và rồi lại kết hợp để thành các sự vật khác mãi mãi không ngừng. Tính cách vô thường ấy diễn
ra mọi nơi mọi chốn, bên trong và bên ngoài chúng ta.
 Khi đã hiểu rõ tính cách vô thường, vô ngã của các sự vật, chúng ta không còn sợ hãi trước các sự thay đổi, chuyển biến và lòng chúng
ta trở nên thoải mái, tâm chúng ta trở nên tỉnh thức hơn trong mối tương quan với người và vật. Ta không nhìn sự vật hay con người theo thói
quen máy móc mà ta đã có sẵn ý nghĩ hay hình ảnh về người hay vật đó. Thói quen ấy ngăn cản ta tiếp xúc với thực tại, những gì đang thực
sự có mặt trong đời sống.
Trong mỗi giây phút, mỗi cành lá, đám mây, chiếc hoa, cánh bướm, giòng sông, điệu nhạc, người đàn ông, đàn bà, trẻ em, cục đá, chiếc xe
đều hiện hữu hoàn toàn, như thế ấỵ Tất cả đều không dính dáng gì đến các ý tưởng khen chê, phê phán cùng các cảm xúc dấy lên từ sự phê
phán ấy làm ta vui, buồn, thương, ghét. Nếu có dịp nhìn sâu vào lòng mình (quán chiếu nội tâm) thì chúng ta sẽ thấy các ý tưởng và các tâm tư
lập đi lập lại mãi theo thói quen như sau: điều gì ta nghĩ là hay, tốt thì ta ưa thích, ca ngợi, điều gì ta cho là dở, xấu thì ta ghét bỏ, thù hận hay
phỉ báng. Có điều, cái mà ta cho là tốt hay xấu ấy lại thay đổi không ngừng. Hôm nay ta nghĩ nó là tốt thì ngày mai ta có thể chê là xấu, hôm
nay ta cho là đúng ngày mai thành ra sai. Do đó mà các vui, buồn, thương, ghét, thân, thù luôn luôn chỗi dậy như các luồn sống mãi mãi nối
tiếp trên mặt biển, làm ta chịu nhiều áp lực do sự xung đột bên trong và sự đụng chạm bên ngoài.
“Thể mọi pháp đều không.

GVHD: GS-TS-KTS TÔN ĐẠI


5

SVTH: TRẦN THỊ HOÀNG ANH


Trường Đại học Khoa học - Huế

Khoa Kiến Trúc - Lớp K28

Không sanh cũng không diệt.”
Mỗi sự vật đều có mặt tròn đầy
trong sự rỗng lặng trong ánh sáng của nó.
 Nếu ta thực hành sự tỉnh thức, sự thấy biết chân thật thì tâm tự buông xả, không để mình dính mắc vào các ý tưởng đối nghịch, các phê
phán, các phân biệt luôn luôn kéo đến thì tâm ta an dịu dần như biển không còn gió thổi thì trở nên yên tĩnh. Ðó là sự tỉnh thức đã có mặt nơi
ta. Với tâm tỉnh thức ấy ta nhìn mọi sự vật thì chúng đều hiện rõ tánh chân thật của mình: trong sáng, rỗng lặng, tươi mát tràn đầy. Ðó là tánh
chân thật tự nhiên, tánh rỗng lặng hay là tánh không của vạn pháp. Thấy biết như thế gọi là sự thấy biết chân thật hay trí tuệ. Như thế, khi tâm
ta thanh tịnh thì mọi sự vật (vạn pháp) trở nên thanh tịnh. Khi ta khởi lên sự phân biệt ưa ghét thì lập tức ta phân chia mọi thứ thành hai phía
đối ngịch: thân thù, cao thấp, quý tiện, sang hèn, thân sơ, từ đó nổi lên các cảm xúc thương yêu - thù hận, thích thú - sợ hải, thân tình - xa lạ,
sung sướng - khổ đau, ưa muốn - ghét bỏ …
 Sự phân biệt ấy là một thói quen do ta bị điều kiện hóa (conditioned) từ lúc chúng ta sinh ra cho đến nay, làm chúng ta phản ứng như một
người máy, một máy đìện toán (computer) đã được qui định cách giải quyết các vấn đề (program) theo một lề lối nhất định. Sự lập đi lập lại các
thương ghét, vui buồn ấy dần dần trở thành một thói quen mà ta nhầm tưởng đó là con người thật sự của mình. Sự tỉnh thức, sự chú tâm thoải
mái tự nhiên đưa tâm ta trở về với sự tươi mát, linh động, rỗng lặng, tinh sạch, rộng lớn tự nhiên của nó. Từ đó ta nhìn thấy rõ ràng mọi sự vật,
thoát ra khỏi mọi sự lôi kéo, ràng buộc, mê hoặc của các ý tưởng, cảm xúc nơi ta hay những người quanh ta. Chúng ta thoát ra được thói quen
phản ứng theo điều kiện quy định như cái máy điện tử nói trên.
 Sống tỉnh thức như thế thì sự hiểu biết chân thật (trí tuệ) tự hiển bày, tự biểu lộ (manifest). Tâm ta tự nó quay về với sự an ổn, thoải mái,
trong sáng, rộng lớn, và rỗng lặng của chính nó. Từ chốn ấy, tình thương yêu bao la, nồng ấm (từ bi) bừng dậy. Mọi sự vật trở thành linh động,
tươi sáng, yên ổn, tươi mát, khi ta nhìn chúng với con mắt thương yêu: hoa lá rực rỡ, cảnh vật vui tươi, mây trời trong sáng, người vật nhộn
nhịp.
Khi tình thưong yêu bừng dậy thì nguồn hạnh phúc chảy tụ lại thành biển lớn, đưa ta đến chốn an lạc vô cùng.

Từ đó ta kinh nghiệm được, hiểu biết được một cách cụ thể và trực tiếp là sự hiểu biết chân thật (trí tuệ), tình thương yêu rộng lớn (từ bi) và
nguồn hạnh phúc trong sáng, bao la là ba khía cạnh của chân tâm, Phật tánh. Hể một thứ xuất hiện thì hai thứ kia cũng xuất hiện như một bó
đuốc lớn cháy rực rỡ không thể tách lìa thành ba ngọn lửa khác nhau.
Như mặt trời tỏa ra ánh sáng cùng khắp, ánh sáng ấy cũng là năng lượng có sự ấm áp. Ta không thể tách rời ánh sáng và sự ấm áp đó
được. Cũng như thế, tình thương yêu bao la, sự hiểu biết chân thật và nguồn hạnh phúc nồng ấm vốn là một, không thể tách lìa. Một thứ có
mặt thì hai thứ kia cũng có mặt.
 Khi tâm quay về với tánh tự nhiên rộng lớn an lạc của nó thì ta trực nhận, thấy biết một cách rõ ràng, cụ thể và chân thật: khổ đau không
có thật. Khổ đau là một xa xí phẩm không cần thiết cho đời ta. Khổ đau chẳng khác gì các cay đắng ta thêm vào đời sống ta mà vì mê mờ (vô
minh) ta thấy quá buồn chán và tẻ nhạt.

GVHD: GS-TS-KTS TÔN ĐẠI

6

SVTH: TRẦN THỊ HOÀNG ANH


Trường Đại học Khoa học - Huế

Khoa Kiến Trúc - Lớp K28

 Tình thương yêu nồng ấm, trong sáng, bao la (Từ Bi) luôn luôn tỏa sáng rực rỡ nơi ta. Do đó, ta làm các điều tốt đẹp cho đời: giúp đỡ
người bị nạn, đói khổ, chăm sóc những kẻ không may. Ðó cũng là sự hiểu biết chân thật (Trí Tuệ), hay biết rõ ràng mọi sự vật vốn vô thường,
vô ngã, nên thấy rõ mỗi sự vật đều hiện hữu một cách chân thật tràn đầy, trong sáng và rỗng lặng. Từ bi và trí tuệ cũng chính là suối nguồn
hạnh phúc nồng ấm bao la (chân lạc) luôn luôn tỏa đầy, chiếu sáng và có mặt nơi ta.

 Tình thương yêu rộng lớn, sự thấy biết chân thật và nguồn
hạnh phúc trong sáng tràn đầy là tánh tự nhiên có sẳn nơi chúng ta, đó là tánh chân thật tự nó hiện hữu, đó là chân tâm, là Phật tánh, mãi mãi
có mặt (chân thường), không chút đổi thay từ giây phút này qua giây phút khác (chân ngã) không có gì làm cho nó trở thành nhơ bẩn, sức mẻ
hay mê mờ (chân tánh). Tánh chân thật tự nhiên đó là nguồn an vui kỳ diệu, thâm sâu, tươi mát, linh động, tràn đầy, bất tận (chân lạc). Vì ta vô

tình lãng quên nên không nhận biết, không sống với niềm an lạc kỳ diệu có sẳn nơi ta mà thôi.
Khi tâm con người lo lắng, phiền giận, tư duy không được chính xác và có thể đi đến những quyết định mà sau này họ phải hối tiếc. Thiền giúp
con người nuôi dưỡng, trị liệu, chuyển hóa, đối trị với sự căng thẳng, lo lắng, đem lại niềm vui sống và sức khỏe cho con người.
Vậy:


Thiền là gì?



Thiền cần thiết như thế nào?

Những lợi ích của việc luyện tập thiền mang lại là gì?
Thiền là gì ?
Chữ Thiền hay Thiền na , tiếng Trung Quốc gọi là Chán , hay là Chánna (thiền na), người Nhật gọi là Zen . Chữ
này vốn viết theo âm của chữ sanskrit là Dhyāna, người ta thường dịch là suy tưởng, suy ngẫm (méditation).
Ðây là một thuật ngữ được nhiều tông phái sử dụng để chỉ những phương pháp tu tập khác nhau , nhưng với một
mục đích duy nhất là để giải thoát , giác ngộ. Theo truyền thống của Thiền , Phật có truyền một loại bài giảng không có
văn bản , riêng cho một môn sinh nào đó và môn sinh ấy lại truyền riêng cho một môn sinh của mình . Những trường phái
tu tập theo lối nầy coi như là mật giáo ( esoteric) , có nghĩa là tu tập để tự đạt kinh nghiệm tỉnh giác, không để ý đến
những hình thức bên ngoài, có thể gọi là "bí truyền" — các vị tổ sư đã nghiên cứu và phát triển những con đường khác
nhau thích hợp với cá tính, căn cơ của từng người để đạt đến kinh nghiệm quý báu nói trên.
Một cách tổng quát , Thiền là sự hướng dẫn con người đạt được một tâm trạng tập trung, lắng đọng, như một hồ nước mà người ta chỉ
có thể nhìn thấu đến đáy nếu mặt nước không bị xao động. Tâm trạng bình yên, lắng đọng này có thể đạt được qua nhiều cách khác nhau như
luyện tập uốn nắn thân thể theo Hathayoga , sự tập trung vào một tấm tranh như Thangka , hoặc âm thanh như Mantra, một công án...
Tu tập thiền sẽ dẫn thiền giả đến một tâm trạng Bất nhị, nơi mà những ý nghĩ nhị nguyên chia sự vật ra làm hai phần biệt lập như tốt
-xấu , phải-quấy , lành-dữ v.v...được chuyển hóa ; thiền giả đạt sự thống nhất với cái "Một", cái "Tuyệt đối", những khái niệm về không gian và
thời gian đều được chuyển biến thành cái "hiện tại thường hằng", thiền giả chứng ngộ được sự đồng nhất của thế giới hiện hữu và bản tính.

GVHD: GS-TS-KTS TÔN ĐẠI


7

SVTH: TRẦN THỊ HOÀNG ANH


Trường Đại học Khoa học - Huế

Khoa Kiến Trúc - Lớp K28

Nếu kinh nghiệm này được trau dồi thâm sâu và thiền giả áp dụng nó vào những hành động của cuộc sống hằng ngày thì đó chính là trạng thái
mà tất cả những tông phái đều gọi chung là "Giải thoát".
Thiền sư người Anh David Fontana viết : "Thiền không có nghĩa là ngủ gục; để tâm chìm lặng vào cõi hôn mê; trốn tránh, xa lìa thế gian;
vị kỷ, chỉ nghĩ tới mình; làm một việc gì không tự nhiên; để rơi mình vào vọng tưởng; quên mình ở đâu. Thiền là giữ tâm tỉnh táo, linh động; chú
tâm, tập trung; nhìn thế giới hiện hữu rõ ràng như nó là; trau dồi tấm lòng nhân đạo; biết mình là ai, ở đâu."
Ở Trung Quốc , Thiền có nghĩa rộng hơn , bao gồm các phép tu như quán niệm hơi thở Nhập tức xuất tức niệm, Tứ niệm xứ ... với mục
đích nhiếp tâm và làm tâm tỉnh giác. Từ phép Thiền do Bồ-đề-đạt-ma truyền, Thiền Trung Quốc đã phát triển rất mạnh thành phái Thiền tông.
Trong nghĩa rộng hơn , Thiền là một trạng thái tâm thức không thể định nghĩa, không thể miêu tả và phải do mỗi người tự nếm trải.
Trong nghĩa này thì Thiền không nhất thiết phải liên hệ với một tôn giáo nào cả — kể cả Phật giáo. Trạng thái tâm thức nầy được các triết gia
xưa nay ở mọi thời đại và văn hoá khác nhau trực nhận và miêu tả bằng nhiều cách để giúp con người khám phá bản thể thật sự của mình
đang mỗi lúc hiện diện.
Ngày nay , Thiền còn là một liều thuốc chữa nhiều thứ bệnh , là một nghệ thuật sống : sống tự nhiên , đơn giản , bình dị , hài hòa với
thiên nhiên . Thiền cũng ảnh hưởng đến văn học , nghệ thuật : vườn thiền, thơ thiền, trà đạo , cung đạo , võ đạo , dưỡng sinh...
Tóm lại , theo Suzuki , Thiền khai phóng tất cả những năng lực nội tại và tự nhiên tích tụ trong mỗi người chúng ta để con người có một
nguồn năng lực vô biên nơi chính mình , thoát vòng kiềm tỏa của ngoại cảnh và của tha nhân để sống một cuộc đời tự do, thảnh thơi và thoải
mái .
.
Sự cần thiết của thiền
Việc tập thiền giúp con người giảm bớt được sư đè nén và căng thẳng trong cuộc sống. Từ đó con người sẽ vươn đến những khát vọng vô
hạn: khám phá chân lý, nhận thức được đấng tối cao, đạt đến cuộc sống vĩnh hằng.

Giảm đè nén và căng thẳng: Thế giới ngày nay có nhiều những đè nén căng thẳng về tâm trí, con người luôn cảm thấy tất bật với công việc,
căng thẳng đầu óc và làm tổn hại đến thần kinh.Muốn thoát khỏi tình trạng đó con người phải hiểu biết sâu xa, kiểm soát được trí óc của mình.
Trí óc là trung khu của mọi suy nghĩ và cảm giác, nó cũng là một bộ phận bị tác động nhiều nhất bởi những điều kiện của môi trường sống.Con
người phải tự biết điều chỉnh và chế ngự được ý thức của mình
Khát vọng cái vô hạn: Tôn giáo bắt nguồn từ khát vọng của con người là muốn vượt lên trên cuộc sống vật chất và tâm trí để bước vào thế giới
"cõi tâm linh". Những làn sóng thức tỉnh mới về tôn giáo và tâm linh đã sống dậy từ những đổ nát của các tôn giáo lạc hậu, nhấn mạnh kinh
nghiệm và nhận thức về Chân lý. Yoga và Thiền bắt nguồn từ phương Đông, ngày càng được phương Tây quan tâm bởi tính thực tiễn và khoa
học của nó.Thiền nhấn mạnh khía cạnh thực tiễn của con đường tâm linh: không có vẻ hào nhoáng bên ngoài, không lễ nghi hay kinh điển nào.
Người ta có thể thuộc bất cứ đức tin nào (hoặc không có đức tin nào cả) mà vẫn tham gia vào Yoga và Thiền, không có sự tranh chấp giữa
thiền và các tín điều tôn giáo. Thường xuyên luyện tập Thiền giúp cho con người được sáng suốt hơn trong tín điều của mình (hoặc không có
tín điều nào) vì chân trời tâm trí dần dần mở rộng và con người sẽ dễ tiếp nhận trạng thái thăng hoa của nhận thức.
Lợi ích của thiền

GVHD: GS-TS-KTS TÔN ĐẠI

8

SVTH: TRẦN THỊ HOÀNG ANH


Trường Đại học Khoa học - Huế

Khoa Kiến Trúc - Lớp K28

Các chứng bệnh của con người đều sinh ra do tâm lý căng thẳng, mệt mỏi, lo âu, phiền não,.. và các chứng bệnh tâm lý này sẽ dần chuyển
hóa thành những bệnh trong cơ thể. Việc luyện tập Thiền không chỉ mang lại sự tĩnh tâm, thanh thản mà còn cải thiện sức khỏe, giúp con
người thêm yêu cuộc sống và công việc. Lợi ích mà việc luyện tập Thiền mang lại là:
 Giải toả căng thẳng và mệt mỏi, cải thiện giấc ngủ;
 Tăng cường sự hoạt bát của cơ thể;
 Tăng cường hệ thống miễn dịch, điều trị các bệnh quá nhậy cảm;

 Phát triển trí tuệ;
 Tăng cường ý chí, sự tự tin;
 Đạt được sự tĩnh tâm;
 Phát triển một lối sống lạc quan, hài hòa với môi trường xung quanh;
 Phát triển trực giác.
Thiền và yoga
Thiền là một trong năm nguyên tắc cơ bản của yoga. Đó là một phương pháp giúp hình thành thói quen tập trung tư tưởng để duy trì ý chí và
tinh thần. Thiền không chỉ giúp bạn giảm stress, tăng cường sự minh mẫn sảng khoái cho tinh thần, tập trung trí não mà còn khiến cơ thể bạn
trẻ hơn.

4. Thiền Và Hoa Ðạo
Hoa đã xuất hiện hàng triệu năm trước khi có loài người, tô điểm cho cảnh vật với muôn màu sắc. Và cũng từ lâu hoa có mặt trong cuộc
sống loài người: hoa ngoài đồng nội, hoa chưng trên bàn, hoa dâng cúng nơi bàn thờ, hoa ngoài nghĩa trang khi ta thăm viếng người quá cố …
Khi vui lúc buồn, khi yêu lúc giận, ăn uống tiệc tùng, lễ lạc tiếp đón, lúc sống cũng như khi qua đời, chúng ta lúc nào cũng thấy mình gắn liền
với các đóa hoa tươi thắm.
Tuy vậy, đã biết bao lần chúng ta hững hờ quên lãng, không nhìn thấy vẻ rực rỡ hay sự tinh khiết của đóa hoa chưng trong nhà hay vừa hé
nở ở ngoài vườn. Cuộc sống quanh ta chứa rất nhiều sự kỳ diệu: một đoá hoa hồng trong ánh sáng ban mai rực rỡ, bãi lau sậy im lặng soi
mình trên mặt nước hồ thu, những bong tuyết trắng xoá nhẹ nhàng phủ lên cảnh vật. Và nếu chúng ta có tí thì giờ ngắm nhìn thì ta có thể hạ
bút viết bài thơ Hài Cú như một vị thiền sư trong ngày tuyết đổ ngập trời:
“Hàng vạn hạt tuyết rơi
Nhưng mỗi hạt tuyết
Ðều có nơi an trú.”

GVHD: GS-TS-KTS TÔN ĐẠI

9

SVTH: TRẦN THỊ HOÀNG ANH



Trường Đại học Khoa học - Huế

Khoa Kiến Trúc - Lớp K28

Hàng muôn triệu cánh hoa với dáng vóc, màu sắc, hương thơm, thời gian hiện hữu khác nhau đã xuất hiện nơi chốn đồng bằng, trong rừng
rậm, ven sông, trên những cành cây cao hay nơi mặt ao hồ. Mỗi cành hoa hiện hữu tự nó đầy đủ, thoải mái, an nhiên, tự tại, tỏa ánh sáng
những màu sắc kỳ diệu. Ðó là Pháp Giới, thế giới chân thật mà kinh Hoa Nghiêm đã mô tả: hàng muôn triệu thứ hiện hữu trong vũ trụ bao la
mà mỗi loại, dù nhỏ như hạt nguyên tử hay lớn hơn như giải Ngân Hà gồm triệu triệu ngôi sao đều sinh động, chuyển biến qua các giai đoạn
sinh (nhiều thứ hợp lại thành ra một vật), trụ (tồn tại và phát triển), dị, (chuyển biến, hư hoại), rồi cuối cùng đi đến diệt (tan rả) để rồi kết hợp lại
mà thành vật khác, mãi mãi không ngừng. Muôn triệu thứ cùng hiện hữu bên nhau như một chiếc lưới vĩ đại mà mỗi thứ là một viên ngọc chói
sáng lấp lánh, phản chiếu ánh sáng và hình ảnh của tất cả viên ngọc khác. Muôn triệu thứ trong vũ trụ luôn luôn ảnh hưởng lẫn nhau, tác động
lẫn nhau, phản chiếu lẫn nhau, trộn lẫn vào nhau mà đồng thời vẫn riêng biệt, vẫn an nhiên tự tại, vẫn hiện hữu tràn đầy riêng biệt giữa muôn
sự ồn ào, náo nhiệt, chuyển biến, đổi thay mà kinh Hoa Nghiêm gọi là sự vô ngại Pháp Giới.
II. Ðoá Hoa Mầu Nhiệm
Mổi con người là một đóa hoa có hương thơm, màu sắc, dáng vóc, tâm tư, ước muốn, nhận biết riêng biệt nhưng luôn hòa mình với hàng
triệu triệu đời sống khác trên quả đất nàỵ Thế giới rộng lớn chuyển động như một bản hòa tấu với những vận chuyển, sản xuất, tiêu thụ qua
muôn ngàn hình thái như xe cộ, nhà cửa, ăn uống, nghỉ ngơi, du lịch, chiến tranh, xây dựng, tàn phá, thương yêu, giết chóc … Không một lúc
nào trên quả đất này không có hàng triệu người đang làm việc, ăn uống, nghỉ ngơi, đọc sách, phá hoại hay xây dựng. Nếu nhìn quả đất từ xa
khi nửa phần quả đất từ từ chìm vào bóng tối thì ánh đèn trong nhà và ngoài đường tỏa sáng hết lớp này đến lớp khác theo sự vần xoay của
mặt địa cầu hướng về phương đông, cảnh vật lại tràn ngập trong ánh sáng ban mai, sự sống chổi dậy ồn ào náo nhiệt. Và cùng với muôn loài
đón mừng bình minh, hàng triệu triệu đóa hoa đón nhận nguồn sống từ ánh thái dương.
Chúng ta thích ngắm đóa hoa vì nó tỏa ra sự mầu nhiệu của dòng sống: Mọi đóa hoa tự nó vốn thanh tịnh, rỗng lặng, tỏa chiếu, trong sáng
và tươi mát. Dù đóa hoa ấy mọc riêng rẽ trên cánh đồng cỏ xanh, trong một khu rừng rậm rạp hay trên một cánh đồng hoa rực rỡ. Trong đám
nhân loại hàng tỷ người hiện nay, đời sống của mỗi chúng ta cũng vậy: tự nó là trong sáng, an vui, rộng lớn, thoải mái, tươi mát, tràn đầy tình
thương yêu và sự hiểu biết chân thật, tràn đầy nguồn hạnh phúc trong lành. Niềm an vui đó tự nó hiện hữu, không có bắt đầu và tận cùng như
vũ trụ bao la quanh ta. Như một đóa tươi thắm trong một khóm hoa dày đặc, mỗi người chúng ta hiện hữu tràn đầy, riêng biệt, tự tại dù đang
hòa lẫn với muôn ngàn đời sống khác trong một xã hội luôn luôn biến đổi.
Chưng một bình hoa với tâm tĩnh lặng, với lòng an vui giúp cho chúng ta tiếp xúc được, sống với sự mầu nhiệm của cuộc đời. Sự mầu
nhiệm của cuộc đời chính là sự mầu nhiệm nơi tâm ta: Một thế giới rộng lớn, an vui, trong sáng, rực rỡ kỳ diệu, nồng ấm và hạnh phúc vô
cùng:

“Một đóa hoa mai vừa nở
Cả thế giới bừng dậy
Một tiếng nhạc ngân lên
Rung chuyển cõi ba ngàn
Một cánh hạc vỗ nhẹ
Kết hợp không thời gian

GVHD: GS-TS-KTS TÔN ĐẠI

10

SVTH: TRẦN THỊ HOÀNG ANH


Trường Đại học Khoa học - Huế

Khoa Kiến Trúc - Lớp K28

Nơi khuôn mặt nghìn đời
Nụ cười thoáng hiện
Một thân thể nhỏ bé
Tràn ngập không thời gian.”
Sự mầu nhiệm an vui, rộng lớn, trong sáng vốn luôn luôn hiện hữu nơi mỗi chúng ta, đã giúp cho ta buông xả cái tôi nhỏ bé để trở thành một
với vũ trụ bao la, trầm lặng, bất biến, nhưng đồng thời luôn luôn chuyển động, muôn màu muôn sắc, linh động và thay đổi. Phật Giáo chú trọng
đến niềm an vui nội tâm. Khi tâm an bình thì tự nó thành trong sáng như tấm gương rộng lớn phản chiếu mọi hoa lá, cỏ cây, người và vật. Tâm
trong sáng, an vui đó được gọi là đất sạch (Tịnh Ðộ). Chốn tịnh độ ấy được mô tả đầy cả hương hoa rực rỡ, chim thú kỳ diệu, cảnh vật trang
nghiêm. Các bộ kinh lớn của Phật Giáo như Diệu Pháp Liên hoa, Hoa Ng Một bình hoa có đưọc sự thăng bằng và sinh động nhờ các yếu tố
hòa hợp. Trong thế giới mê vọng mọi thứ đều phân chia thành hai trạng thái đối nghịch như mạnh yếu, cao thấp, già trẻ, sống chết, … mà Ðông
Phương đã dùng hai điễm Âm Dương trong hình thái cực để tượng trưng cho hai sức mạnh đối nghịch ấỵ Âm và Dương là hai sức mạnh
chống đối nhau nhưng lại thu hút, hấp dẩn lẫn nhau tạo nên một trong các sức mạnh làm chuyển động bộ máy vũ trụ.

Trong nghệ thuật chưng hoa khái niệm âm dương được chú trọng đến nhiều. Khi chưng một bình hoa con người đã thuận theo sự chuyển
biến của âm (Ðất) và Dương (Trời) để bày tỏ niềm hy vọng, sự sống hướng về tương lai.
hiêm cũng lấy tên loài hoa quý như hoa sen (Liên Hoa) và Tràng Hoa Ðẹp (Hoa Nghiêm) để chỉ cho cái tâm mầu nhiệm, an vui, rộng lớn,
thanh tịnh có sẳn nơi mỗi chúng ta.
Nguyên tắc ba điểm chính ấy bắt nguồn từ giáo lý Phật Giáo nói về Tam Thân: Ba thân là Pháp Thân, Báo Thân, Ứng Thân của chư Phật
tuy ba nhưng lại là một. Pháp Thân là thân rộng lớn khắp giáp vũ trụ, không bị ngăn ngại. Báo thân là thân tướng đẹp đẽ, cực kỳ an vui. Ứng
thân là thân hóa hiện thành con người sống nơi cõi thế gian nàỵ Ba Thân này vốn là một, luôn luôn hòa hợp và cùng hiện hữu nơi một vị Phật.
Còn mỗi chúng sanh như chúng ta khi sống tỉnh thức thì kinh nghiệm được chúng ta vừa là con người nhỏ bé, vừa là vũ trụ bao la, vừa đang
sống nơi chốn trần ai đầy não loạn mà lại vừa có thể hưởng được nguồn hạnh phúc trong sáng vô biên ngay chính trong cuộc đời nàỵ
Nói một cách giản dị hơn, khi tâm ta ở trạng thái buông xả, thoải mái thì các ý tưởng, các cảm xúc vui buồn dần dần lắng dịu. Cái tôi (ngã)
chỉ là sự tiếp nối liên tục của các ý tưởng và tâm tư cũng dần dần lắng dịu và tan biến. Khi bức tường tự ngã (cái tôi) tan biến thì ta và vũ trụ
không còn bị chia cách mà trở thành cái Một bao la. Lúc đó ta trực tiếp có kinh nghiệm về Pháp Thân rộng lớn vô cùng của chính mình: tỏa
chiếu trong yên tĩnh và bao trùm mọi chốn. Trong chốn không gian rộng lớn ấy tình thương yêu tràn dâng và sự hiểu biết chân thật hiển bày,
đưa ta về vói nguồn hạnh phúc tràn đầỵ Nguồn an vui hạnh phúc ấy không nương tựa, không lệ thuộc vào gì cả, nó chính là con suối trong mát
hiện hữu ngay từ đầu nguồn. Ðó chính là Báo Thân tự hiển lộ noi ta. Nhưng chúng ta vẫn dẫm chân trên mặt đất đầy bụi bặm này mà làm các
công việc hàng ngày: nấu cơm, rửa chén, chùi nhà, làm việc, học hành, chăm sóc gia đình, phát triển nghề nghiệp. Chúng ta hiện hữu trong
cuộc sống rất bình thường và giản dị này dưới nhiều hình thái khác nhau: con cái, cha mẹ, anh em, bạn bè, đàn ông, đàn bà, công tư chức …
Nhưng dù trong hình tướng nào, trong Ứng Thân nào ta cũng có thể kinh nghiệm trực tiếp tánh rỗng lặng rộng lớn vô biên và niềm an lạc vô
cùng. Nói một cách khác, Phật tính có trong mỗi người chúng ta. Phật tính ấy biểu lộ, bày bỏ trong trạng thái tâm linh cao vút tuyệt vời, an vui

GVHD: GS-TS-KTS TÔN ĐẠI

11

SVTH: TRẦN THỊ HOÀNG ANH


Trường Đại học Khoa học - Huế

Khoa Kiến Trúc - Lớp K28


sâu thẳm qua mọi sinh hoạt tôn nghiêm hay thế tục. Ba cành hoa Thiên, Ðịa và Nhân biễu lộ sự hòa hợp tuyệt đối đó. Và khi chúng ta quay về
với sự tĩnh lặng bên trong khi chưng một bình hoa thì điều kỳ diệu có cơ duyên xuất hiện.

5. Thiền Và Trà Ðạo
Khi nghe nói đến Trà Ðạo, có lẽ chúng ta muốn biết ngay Trà Ðạo là gì. Lợi Hưu (Rikyu, 1522 – 1591), người đã đưa nghệ thuật uống trà trở
thành Trà Ðạo, trả lời rất giản dị: “Trà Ðạo là cách làm cho ta hết khát”.
Chúng ta khát nước khi uống nước không đủ, và chúng ta thường khao khát niềm an vui và muốn hòa nhập với sự sâu thẳm của tánh tự
nhiên sẵn có nơi mình. Tánh đó vốn rộng lớn bao la, trong sạch vô cùng, an vui vô hạn và tĩnh lặng nhiệm mầu. Chúng ta gọi tánh ấy là tánh
chân thật, tâm chân thật (chân tánh hay chân tâm) hay Phật tánh.
Trà Ðạo là nghệ thuật pha và uống trà, đưa ta tiếp xúc thẳng với cội nguồn tâm linh ấỵ Nguyên tắc của Trà Ðạo nằm sẳn trong nguyên tắc
sống thiền: hoà hợp, trang trọng, tinh sạch và tĩnh lặng. Thiền cũng chỉ là một tông phái của Phật giáo nên các nguyên tắc trên vốn là sự bất
khả phân giữa hiện tượng bên ngoài và thế giới bên trong. Sự hoà hợp, trang trọng, tinh sạch và tĩnh lặng của trà thất, của trà chủ (người mời)
và trà khách (người được mời) vốn là sự hợp nhất của tâm và cảnh, của thế giới bên ngoài và thế giới bên trong nơi mỗi chúng ta.

GVHD: GS-TS-KTS TÔN ĐẠI

12

SVTH: TRẦN THỊ HOÀNG ANH


Trường Đại học Khoa học - Huế

Khoa Kiến Trúc - Lớp K28

Trà Ðạo không phải chỉ là cách pha trà và uống trà. Trà Ðạo là sống trọn vẹn với sự tỉnh thức, trọn vẹn với thế giới hiện tại: Bây giờ và nơi
đây. Chủ và khách cúi chào nhau, bưng chén trà hay trà cụ với các ngón tay không được tách rời, lúc uống trà phải từ tốn và chú tâm. Mỗi động
tác là một hành vi tuyệt đối, không thiếu không thừa, chính xác nhưng khả ái, có chủ đích rõ rệt nhưng tự do tuyệt đối. Khi múc nước lạnh, trà
chủ múc nước ở phía giữa lu vì chất cặn nằm phía đáy lu. Trái lại, khi múc nước sôi, phải múc ở phía dưới nồi vì chất không tinh khiết nổi lên

trên. Mỗi trà cụ là một cái tuyệt đối, vượt lên giá cả, tánh chất tốt xấu của các vật liệu làm ra chúng.

Trà đạo bắt nguồn từ thiền, cho nên khách và chủ đều biểu lộ tâm trong sáng và linh động, không vướng mắc vào các ý tưởng hay tâm tư
thường ngày (tạp niệm). Ðó là trạng thái thân và tâm tỉnh thức và buông xả, là ở trong trạng thái tự do tuyệt đối, với các hoạt động thoải mái,
đúng mức một cách tự nhiên, là từng nét đẹp tiếp tục xuất hiện ngưng đọng trong giây phút vĩnh cửu của thời gian trôi chảy không ngừng. Sự
hoà hợp giữa chủ và khách, tâm và vật, không gian và thời gian, vũ trụ bao la và chén trà nhỏ bé, thời gian vô tận và thoáng chốc trôi nhanh,

GVHD: GS-TS-KTS TÔN ĐẠI

13

SVTH: TRẦN THỊ HOÀNG ANH


Trường Đại học Khoa học - Huế

Khoa Kiến Trúc - Lớp K28

giữa tĩnh và động, màu sắc và sự rỗng lặng mênh mông đã được sự cảm nhận đầy đủ nơi đây. Ðể gia tăng sự hòa hợp và chuẩn bị tâm thức
cho người uống trà, các ngành nghệ thuật về vườn cảnh, kiến trúc, hội họa, chưng hoa, ẩm thực, đồ sứ cùng cung cách (quy định cho chủ và
khách) được phối hợp tối đa.
III. Sức Mạnh Của Chén Trà
Các trường phái chưng hoa hiện nay cố gắng phát triển các kỹ thuật chưng hoa hướng đến sự giản dị vì đời sống con nguời càng lúc càng
bận bịu ở sở cũng như ở nhà. Các trường phái Trà Ðạo cũng nhận thấy điều ấỵ Nếu muốn cho Trà Ðạo tồn tại và phổ biến ở nhiều quốc gia,
người ta cố gắng chú trọng những điều chính, bỏ bớt những thứ không cần thiết khác. Do đó, khi Trà Ðạo đến với các nước Tây Phương,
chúng ta thấy họ giảm thiểu các nghi lễ, bỏ bớt bữa ăn kéo dài cùng các lời nói xã giao, chú trọng đến sự pha trà, uống trà và dùng bánh ngọt
và nói chuyện thân mật.
Trong nhiều thế kỷ qua ở Nhật Bản Trà Ðạo ảnh hưởng đến mọi ngành sinh hoạt. Người Tây Phương thường nói “bão tố trong một chén
trà” khi phẩm bình về những lời bàn luận, những cuộc đàm luận sôi nổi nhưng phù phiếm quanh những ly cà phê hay những chén trà vào
những lúc trà dư tửu hậu. Cách uống trà trang trọng, thoải mái quả thật đã tạo nên những cơn bão tố không phải trong chén trà mà trong đời

sống người dân Trung Hoa và Nhật Bản. Nói khác đi, trà nhân là những người đã tạo ra những cơn bão ngầm cố sức mạnh làm thay đổi toàn
diện những sinh hoạt của giới quý tộc cũng như bình dân thời trước.
Trà thất, túp liều tranh đon giản, phát xuất từ ý của kinh Duy Ma (Vimalakirti Sutra). Ngài Duy Ma đón tiếp Ngài Xá Lợi Phất trong một căn
nhà nhỏ bé. Ngài Xá Lợi Phất lo ngại căn nhà nhỏ bé này không đủ chỗ ngồi cho các Bồ tát và hàng Ðại đệ tử đến viếng ngài Duy Ma. Ngài
Duy Ma thi triển thần thông và trong chớp mắt nơi nhỏ bé ấy biến thành chốn rộng lớn vô biên: Khi tâm quay về với tánh rỗng lặng tự nhiên thì
ta thấy trong mọi sự vật dù nhỏ như hạt bụi, đều chứa đựng cái vô cùng. Ðó là chủ ý của những buổi uống trà trong tĩnh lặng.

Thuật chưng hoa, cách làm đồ gốm, cách nấu và dọn những thức ăn, cách ăn mặt trang nhã, cách chào hỏi và biểu lộ sự kính trọng lẫn
nhau, nghệ thuật kiến trúc, trang trí trong nhà và tạo lập vườn cảnh, cách tiếp xúc với đời sống tâm linh, và ngay cả trong lãnh vực chính trị,
cách làm cho nền hoà bình kéo dài qua sự quân bình giữa quân sự và hành chánh, đâu đâu người ta cũng thấy ảnh hưởng của trà nhân.
. Thiền Và Vườn Cảnh
Thiền là nghệ thuật sống với niềm an vui sâu thẳm của tánh trong sáng rộng lớn, tự nhiên vốn sẳn có nơi mỗi chúng ta. Vườn thiền là khung
cảnh tạo dựng lên bằng cây, cỏ, đá, rêu phối hợp với cảnh trí thiên nhiên để giúp chúng ta tiếp xúc với sự sâu thẳm nội tâm ấy. Vườn đó cũng
được gọi là vườn đông phương.
Vườn đông phương và vườn tây phương khác nhau rõ rệt: Một bên trồng thật nhiều bông hoa rực rỡ, một bên chú trọng đến nét trầm lặng,
cô liêu, trống vắng, sâu thẳm và an bình. Sự khác nhau căn bản đó bắt nguồn từ hai nền văn hóa khác biệt. Ðông phương xem đời sống là một
toàn thể, con người sống hòa hợp và thoải mái với thiên nhiên.. Tây phương chú trọng đến việc chinh phục và chế ngự thiên nhiên. Ðông
phương qua ảnh hưởng của Phật giáo, nhất là Thiền tông thấy rõ nét thiên thu trong những giây phút ngắn ngủi nối tiếp bất tận, thấy rõ chính

GVHD: GS-TS-KTS TÔN ĐẠI

14

SVTH: TRẦN THỊ HOÀNG ANH


Trường Đại học Khoa học - Huế

Khoa Kiến Trúc - Lớp K28


nơi thế giới thường ngày chúng ta đang sống vốn là Thực Tại, vốn là sự Chân Thật, vốn là Chốn Thiên Ðàng, là Cảnh Thiên Thu Bất Biến trong
sự biến chuyển không ngừng. Vườn đông phương đưa ta vào thế giới trầm lặng, sâu thẳm, bí mật của những gì ở phía bên kia thuộc vùng vô
thức, vườn tây phương khích động thị giác chúng ta với những nét rực rỡ muôn màu muôn sắc của chốn bên này, của vùng ý thức. Vườn đông
phương vương vấn nơi tâm thức chúng ta, theo chúng ta về đến II. Cái Có Là Cái Không
Lời Kinh Bát Nhã nói về sự thấy biết rõ ràng chân thật khi chúng ta buông xả mọi thứ ràng buộc, mọi sự bám vúi vào những ý tưởng so đo,
những cảm xúc vốn cứ cột chặt lòng mình. Khi lòng mình thoãi mái, tâm mình an bình, trí mình tươi mát, linh động, bén nhạy thì vạn vật hiện ra
một cách chân thật: Chúng hiện hữu, có mặt tràn đầy với những hình dáng và màu sắc nhưng rỗng lặng, yên tĩnh và riêng biệt tuyệt đối. Khi đi
vào một khu vườn tây phương chúng ta chỉ thấy cái đó, cái hữu bao quanh mình bốn phía. Khi đi vào khu vườn đông phương cái không hiển
bày làm ta tiếp xúc được với không gian không bờ mé và thời gian vĩnh cữu:
“Có thì có tự mảy may
Không thì cả thế gian này cũng không
Kìa xem bóng nguyệt dòng sông
Ai hay không có, có không là gì.
(Nhất Hạnh dịch)
Dĩ nhiên, khu vườn đông phương không phải chỉ là cái trống rỗng không có gì cả. Trong đó cũng có cây cỏ, hoa lá, những tảng đá, những
ao hồ hay những con suối, những mô đất cao cùng những bãi cát trắng hay vàng có những đường chạy song song như những đợt sóng biển
nối tiếp chạy đến những hoang đả
Theo quyển Vườn Nhật Bản, người ta phân ra làm bốn loại vườn chúng ta thường thấy ở các chùa chiền, nơi thiền viện hay những tư gia:
Vườn có ao đồi, vườn đá cát và vườn có các bậc đá xếp thành lối đi và vườn ngoạn cảnh.
Vườn ao đồi là những khu vườn rộng người ta đắp những đồi đất tượng trưng cho núi và đào những chiếc ao hay hồ tượng trưng cho biển.
Những cây cối trồng nơi đây được tỉa cắt cẩn thận để chúng đừng lớn quá và luôn luôn hòa hợp với khung cảnh xung quanh, tạo thành một
cảnh đồi núi hùng vĩ với những cây tùng, cây bách ghi dấu thời gian đang lặng lẽ trôi qua. Khu vườn là một vũ trụ mênh mông trong một khu
đất giới hạn về không gian lẫn thời gian.
Vưòn đá cát là những vườn khô, không cây cỏ, chỉ có cát và đá. Vườn mà không có cây cối, hoa lá, chỉ những tảng đá rêu phong cùng bãi
cát trắng cùng bức tường tạo thành một vũ trụ riêng biệt. Ở nhiều thiền viện, những vườn đá cát được tạo nên để giúp chúng ta nhìn thấy cái
trống vắng của thế giới bên trong cũng như bên ngoài, cái bao la trên một vùng nhỏ bé. Trên khu đất hình chữ nhật, người ta trãi cát. Các hòn
đá được sắp xếp theo quy luật tương xứng và liên hệ hỗ tương để biểu lộ sự hòa hợp tự nhiên. Các hòn đá này rải rác nhiều nơi trên thảm cát.
Những tảng đá lớn là chính, những hòn nhỏ hơn được thêm vào theo các con số 1, 3, 5, 7, 9, 11, 13, 15. Các hòn đá được sắp xếp gần nhau
theo số lẻ để tạo nét hòa hợp tự nhiên. Có lúc hai tảng đá nằm kế cận thì một lớn (Chủ) và một nhỏ (Bạn) đối xứng và hỗ trợ cho nhau.
Những vườn đá thường do các vị tu sĩ Phật giáo thực hiện vào các thế kỹ trước đây và những vườn này bày tỏ chất thiền một cách cụ thể

nhất qua hình thù và màu sắc. Những tảng đá tuy được sắp xếp theo một quy luật nào đó, với những hình thù và khối lượng khác nhau để tạo

GVHD: GS-TS-KTS TÔN ĐẠI

15

SVTH: TRẦN THỊ HOÀNG ANH


Trường Đại học Khoa học - Huế

Khoa Kiến Trúc - Lớp K28

ra sự hòa hợp và cân đối nhưng đó không phải là mục đích chính của tác giả. Các ngôi chùa và các thiền viện đều tụng bài Bát Nhã Tâm Kinh
nói về sự rốt ráo của tâm giải thoát:
“…sắc tức là không
Không tức là sắc …”
Các hình thù, màu sắc, khối lượng là không. Không ở đây không phải là cái trống vắng của một cái gì đã có trước rồi nay lại biến đi. Không
cũng không là ngược lại với có hay là sự trống rỗng. Không ở đây là tính chân thật của vạn pháp, của mọi sự vật: Là cái rỗng lặng trong cái
tràn đầy, là cái tĩnh lặng của cái sống động, là cái bất động trong sự chuyển động náo nhiệt, là cái thiên thu bất biến trong cái chuyển biến liên
tục, là cái thường hằng vĩnh cữu trong cái vô thường của dòng thời gian lăn trôi.
Nếu chúng ta đứng yên nhìn vườn đá, chúng ta sẽ thấy đá cát tự chúng biểu lộ tánh chân thật tự nhiên của mình, không liên quan gì đến
những điều ta gán thêm cho chúng về ý nghĩa của cách sắp xếp, về giá trị thẩm mỹ, về những lời trầm trồ khen ngợi hay chê bai:
“Thể các pháp đều không
Không sanh cũng không diệt
Không nhơ cũng không sạch
Không thêm cũng không bớt
Cho nên trong tánh không
Không có sắc…”
Bát Nhã Tâm Kinh

Tánh không hay tánh chân thật, còn được gọi là Phật tánh, đều có ở mọi thứ. Khi tâm trong sáng và tỉnh thức thì ta thấy rõ điều kỳ diệu ấỵ
Cái biết về tánh không đó không nằm nơi chữ nghĩa mà phát xuất từ trực giác. Không do lời giảng giải hay so sánh mà do sự hay biết trực tiếp
khi nhìn thấy sự vật trước mắt. Và đó là sức hấp dẩn của loại vườn đá cát.
Tuy thế, xin đừng bận tâm về cái sắc sắc không không (Có có không không) nói trên vì chúng ta đến đây để mà ngắm nhìn một khu vườn
tức là một sự vật hiện rõ ràng trước mắt. Chúng ta hãy thưởng ngoạn những nét đặc thù của các viên đá lớn nhỏ rải rác trên thảm cát trắng.
Thật ra, đó không phải là cát mà là những hạt sỏi nhỏ màu vàng nhạt dưới ánh mặt trời chuyển thành màu trắng mà ở xa ta thấy như là thảm
cát. “Thảm cát” là biển lớn trên đó thiền sinh thường dùng cào tre để kéo những đường cong hay thẳng tượng trưng cho sóng biển chạy mãi
đến vô biên. Có nhiều loại sóng biển khác nhau tùy theo biển bình lặng hay bảo tố, các nét vạch lên cát có đường nét khác nhau để diển tả thời
tiết khác nhau trên vùng biển lớn. Chúng ta không đi vào những vườn đá cát mà chỉ đứng hay ngồi ở bên ngoài mà ngắm nhìn ở những góc độ
khác nhau. Và như nhìn vào vũ trụ, mỗi lần nhìn vườn đá cát là mỗi lần chúng ta thấy điều mới mẻ xuất hiện. Tại sao thế? À! Ðó là sự kỳ diệu
của chân tâm, Phật tánh nơi mỗi chúng ta và cũng là tài hoa của nhà nghệ sĩ tạo dựng khung cảnh nàỵ Chúng ta hãy nghe vị Tam Tổ Tăng Xán
của Thiền tông giải thích về điều ấy:
“Tâm là tâm của cảnh
Cảnh là cảnh của tâm

GVHD: GS-TS-KTS TÔN ĐẠI

16

SVTH: TRẦN THỊ HOÀNG ANH


Trường Đại học Khoa học - Huế

Khoa Kiến Trúc - Lớp K28

Ví biết hai chẳng dứt
Rồi cũng chỉ một không
Một không, hai mà một
Bao gồm hết muôn sai

Chẳng thấy trong thấy đục
Lấy gì mà lệch sai”
(Trúc Thiên dịch)

Loại vưòn thứ ba là khu vườn với những bậc đá đưa đến trà thất. Trà thất là căn lều nhỏ bé chỉ đủ chổ cho hai hoặc ba người ngồi uống trà
trong tỉnh thức mà chúng ta thường gọi là trà đạo. Ðến trà thất như vượt qua những ngọn đồi để đến vùng yên tĩnh. Con đường lên đồi thường
có những bậc cấp quanh co. Những phiến đá bằng, không đều cạnh thường được sắp xếp để tạo nên ấn tượng của cuộc hành trình đặc biệt
ấy. Khi chúng ta bước qua cổng, chân đặt trên những phiến đá trên vùng rêu xanh mà cây cỏ đều tỏa nét u tịch, an bình và hòa hợp tự nhiên
lòng mình bỗng dịu lại trong niềm an bình trống vắng như một chiếc lá vàng đang êm đềm yên nghỉ trên phiến rêu xanh.
Loại vườn thứ tư là vườn mà chúng ta đi vào để ngoạn cảnh. Các loại vườn trước đây người ta chú tâm đến nét tĩnh, loại vườn này lại chú
trọng tính cách động: chúng ta dạo quanh vườn, khi ở cạnh hồ, lúc ở dốc núi, khi dưới tàng cây, lúc trên chiếc cầu. Mỗi nơi ta nhìn đều bày tỏ,
biểu lộ cái Riêng Biệt trong cái Toàn Thể cũng như biểu lộ cái Toàn Thể trong cái Riêng Biệt. Ðiều kỳ diệu nhất là chúng ta không tách lìa,
không ở ngoài những thứ ấy: Chúng ta vừa là cái Riêng Biệt chuyển động trong cái Toàn Thể bao la bất động.
Ðạo là cái rộng lớn bao la, yên tĩnh tuyệt vời, an vui kỳ diệu. Sống đạo là trở thành, là biết rõ, là an trú trong niềm hạnh phúc bao la sâu
thẳm của kiếp nhân sinh tuy ngắn ngủi trong thời gian và nhỏ bé trong không gian nhưng vốn rộng lớn vô biên và mãi mãi không cùng. Ðó
chính là niềm bí mật luôn luôn mời gọi, luôn luôn thì thầm, luôn luôn thúc bách chúng ta hãy khám phá những gì mình đang có mà chưa biết
đến.
Chúng ta chỉ có một cuộc đời để sống, chúng ta đang có niềm an vui rộng lớn vô cùng để an hưởng. Xin hãy tặng cho mình điều quý báu ấy.
Xin hãy khoan thai bước đến vườn thiền, hãy để lòng an bình và trí buông xả, bước những bước đi trong tỉnh thức để cảm nhận được gió mát
đang chổi dậy, để nhận ra những đóa hoa sen đang nở ra trong chốn bình thản và rộng lớn vô biên:
“Ý về muôn vạn nẻo
Thiền lộ tâm an nhiên
Từng bước gió mát dạy
Từng bước hoa sen nở.”
tận nhà sau khi chúng ta rời khỏi chốn ấy từ lâu. Ngược lại, vườn tây phương biến mất khi chúng ta bước ra khỏi cổng, khi mắt ta không
còn đối diện với hoa lá muôn màu muôn vẽ.

GVHD: GS-TS-KTS TÔN ĐẠI

17


SVTH: TRẦN THỊ HOÀNG ANH


Trường Đại học Khoa học - Huế

Khoa Kiến Trúc - Lớp K28

Nghệ thuật Trà Đạo - Chado

Nói đến Trà đạo, người ta thường nghĩ ngay đến Trung Quốc và Nhật Bản, hai đất nước còn lưu giữ được nhiều giá trị cổ xưa. Thực ra, người
Trung Quốc thích gọi nghệ thuật uống trà của họ là “kung-fu trà” hơn, còn cách gọi “Trà đạo Trung Hoa” tuy không sai nhưng nội hàm không
hoàn toàn đồng nhất với cách gọi trước. Con người đến với chén trà bởi hai lý do: thứ nhất, thưởng thức một loại đồ uống ngon và bổ dưỡng;
thứ hai, tự chiêm nghiệm bản thân qua chén trà và cách uống trà. Có thể nói, trong hai đất nước nổi tiếng về nghệ thuật uống trà, Trung Quốc
nghiêng nhiều về lý do thứ nhất, Nhật Bản nghiêng nhiều về lý do thứ hai. Chính vì thế, nghệ thuật uống trà của người Trung Hoa thích hợp với
cách gọi “kung-fu trà” trong khi nghệ thuật uống trà của người Nhật Bản phù hợp với hai chữ “trà đạo”. Bài viết này sử dụng thuật ngữ “Trà đạo”
(người Nhật thường gọi là Chadou, Sadou hoặc Chanoyu) để chỉ nghệ thuật uống trà của người Nhật.
Như đã nói, người Nhật, cũng như mọi dân tộc khác, đến với chén trà bởi hai lý do: vừa thưởng thức vị ngon của trà, vừa chiêm nghiệm bản
thân qua chén trà. Điều khác biệt là, nếu như phần lớn những “trà si” (người say mê uống trà) trên toàn thế giới chỉ coi trà như một thức uống,
một thú vui, một thú chơi, hoặc cao lắm là một nét văn hóa thì những “trà nhân” Nhật Bản còn nâng uống trà lên thành một nghệ thuật, gửi gắm
vào đó triết lý sống, lý tưởng sống, đạo sống của mình.
Văn hóa Trà đạo được hình thành và phát triển trong đời sống của người dân Nhật đến nay đã trải qua gần chín trăm năm. Sức hấp dẫn của nó
vẫn, lặng thầm nhưng mạnh mẽ, lan tỏa trong đời sống và tâm linh Nhật, tạo nên bản sắc độc đáo, quyến rũ của đất nước Mặt trời.
TRÀ ĐẠO LÀ GÌ ?
Với người Nhật, trà đạolà một hình thức uống trà để giải trí trong một bầu không gian tĩnh lặng, mà cả người chủ lẫn khách đều hướng đến sự
thư giãn tinh thần và sự hòa hợp với thiên nhiên. Trà đạo bao gồm tất cả các yếu tố mang tính triết học Nhật Bản, nét thẩm mỹ, và sự đan xen
giữa bốn nguyên tắc cơ bản: wa-sự hài hòa (giữa con người và thiên nhiên), kei-sự tôn kính (đối với người khác), sei-sự tinh khiết (của tâm

GVHD: GS-TS-KTS TÔN ĐẠI


18

SVTH: TRẦN THỊ HOÀNG ANH


Trường Đại học Khoa học - Huế

Khoa Kiến Trúc - Lớp K28

hồn) và jaku-sự yên tĩnh. Thường những buổi tiệc trà được tổ chức để nghênh tiếp những vị khách quý, hoặc trong những dịp đặc biệt như:
Hanami (ngắm hoa anh đào nở), thưởng ngoạn những đêm trăng rằm… song đôi khi chỉ đơn giản chỉ là dịp để họp mặt bạn bè người thân.
LỊCH SỬ TRÀ ĐẠO
Xét về lịch sử, trà đạo bắt nguồn từ việc uống matcha, một loại bột trà xanh được một số tu sĩ Nhật Bản đi du học và mang về từ Trung Quốc
vào khoảng thế kỷ thứ tám. Lúc đầu matcha chỉ được dùng như một loại thuốc nhưng sau đó trở thành một loại thức uống. Tuy nhiên trong
khoảng thời gian từ thế kỷ tám đến thế kỷ mười bốn, matcha là loại thức uống xa hoa mà chỉ giới thượng lưu mới được thưởng thức. Khi đã trở
thành một thức uống chủ yếu trong các buổi họp mặt của giới thượng lưu, dần dà người ta quan tâm đến việc thống nhất cách thức để tổ chức
một buổi tiệc trà. Chính vì thế, vào khoảng đầu thế kỷ mười bốn, giới võ sĩ (samurai), giai cấp thống trị xã hội Nhật Bản lúc bấy giờ, đã quy định
một số quy tắc cho một buổi tiệc trà. Ngoài ra, họ còn tổ chức những cuộc thi đoán tên trà, trà đạo Nhật Bản dần dà có màu sắc của một nghệ
thuật.
Tuy nhiên, công lao biến uống trà thành một nghệ thuật thuộc về các nhà sư, những người không coi đó là một thú chơi xa xỉ mà tìm ra vẻ đẹp
giản dị trong văn hóa trà, đưa vào đó những triết lý nhân sinh cao cả. Họ đã kết hợp thú uống trà với tính Thiền của Phật giáo để nâng cao
nghệ thuật thưởng thức và phát triển thành trà đạo. Nhà sư nổi tiếng nhất thời đó là sư Eisai (một số sách dịch tên ông là Trà Tây, 1141-1215).
Theo sử sách Nhật, vào khoảng cuối thế kỷ mười hai, vị cao tăng này đã sang Trung Hoa để tham vấn đạo học. Khi về nước, ngài mang theo
một số hạt trà trồng trong sân chùa. Sau này chính Eisai này đã sáng tác cuốn "Khiết Trà Dưỡng Sinh Ký" (Kissa Yojoki), nội dung ghi lại mọi
chuyện liên quan tới thú uống trà. Ai đọc cuốn sách này đều nhận thấy Thiền sư Eisai đã coi việc uống matcha như là một thú tiêu khiển để làm
tinh khiết tâm hồn, hòa nhập với thiên nhiên. Ngoài ra cũng có thể kể đến tên tuổi các thiền sư Murata Juko, Takeno Jyoo...
Sang thế kỷ mười sáu, nhà sư Senno Rikyu (1522 - 1591), một trong những thương gia giàu có nhất thời đó đã kế thừa, sáng lập và hoàn thiện
lễ nghi của một buổi tiệc trà.
Ông mới là người đưa ra bước ngoặt quan trọng, tạo nên một nền văn hóa trà đạo trong giới võ sĩ (samurai). Senno Rikyu đã là thày dạy trà
đạo cho Oda Nobunaga (Shogun - người đứng đầu giới võ sĩ) của thời Azuchi. Sau khi Oda Nobunaga chết, Toyotomi Hideyoshi lên (thời

Momoyama) thì Senno Rikyu tiếp tục dạy cho ông này. Như vậy, hoạt động của Senno Rikyu khá phổ biến và có ảnh hưởng sâu rộng trong
tầng lớp võ sĩ, ảnh hưởng mạnh đến chính trị thời đó.
Cùng thời với Senno Rikyu, còn có Yabunnouchi Jyochi, cũng là học trò của Takeno Jyoo. Yabunouchi Jyochi là trà sư của chùa Honganji, ngôi
chùa lớn nhất ở Nhật Bản. Yabunouchi chú trọng vào việc thực hành Trà đạo ở chính bản thân mỗi người.
Honganji ngôi chùa lớn nhất Nhật Bản
Đến cuối thời Edo (1603 - 1868) thưởng thức trà đạo là đặc quyền của nam giới. Cho đến đầu thời Meiji (1868 - 1912) thì phụ nữ mới chính
thức được tham dự tiệc trà.
Ngoài ra còn có nhiều trà nhân khác nữa. Mỗi trà nhân đều pha trà theo cách riêng của mình. Nếu các phái khác nhau cũng chỉ khác nhau ở

GVHD: GS-TS-KTS TÔN ĐẠI

19

SVTH: TRẦN THỊ HOÀNG ANH


Trường Đại học Khoa học - Huế

Khoa Kiến Trúc - Lớp K28

trên bề mặt nghi thức pha trà, còn đạo là duy nhất.
Trải qua bao thời đại nhưng trà đạo vẫn luôn luôn giữ được những nét đặc trưng của nó. Hiện nay ở Nhật có nhiều trường dạy trà đạo, tuy
nhiên nổi tiếng nhất vẫn là các trường thuộc ba nhánh của dòng họ Sen là Ura, Omote và Mushanoko
ĐỨC TÍNH VÀ QUY TẮC TRONG NGHỆ THUẬT TRÀ ĐẠO
Nghệ thuật Trà Đạo có 4 đức tính cao quý là: “Hòa, Kính, Thanh, Tịch”
+ Hòa: Hòa là hòa đồng, hòa điệu và hòa nhã. Đến với nghệ thuật Trà Đạo cần thể hiện sự hòa nhã, lễ độ, trong buổi uống trà nên cùng nhau
hòa điệu để chia sẻ cảm thông với nhau, đối với cảnh vật xung quanh chúng ta nên hòa đồng.
+ Kính: Đức tính “Kính” trong Trà Đạo thể hiện qua hành vi kính trọng, lễ kính. Nó sẽ làm con người biết nhún nhường nhau, từ đó nết hạnh sẽ
nảy nở trong lòng mọi người.
+ Thanh: Thanh trong Trà Đạo được hiểu là trong sạch. Một ly nước cáu bẩn nhiều để lâu ngày chất bẩn lắng xuống, nó sẽ trong sạch. Điều

này cũng giống như con người nếu lắng tâm yên tĩnh nhiều ngày, tâm hồn sẽ trở nên thanh tịnh.
+ Tịch: Tịch có nghĩa là sự vắng lặng, tĩnh lặng. Chính sự tĩnh lặng mới khiến tâm trong sáng (“Thanh”) từ đó là động cơ để phát khởi 2 đức
tính:”Kính” và Hòa”
Nghệ thuật Trà Đạo còn có 7 quy tắc:
+ Trà cần đậm nhạt vừa miệng
+ Lửa to nhỏ vừa phải
+ Tùy theo thời tiết bốn mùa mà để cho độ nóng của trà thích ứng theo
+ Hoa cắm trong phòng phải tươi mới
+ Người đến thưởng trà phải đến sớm ( thông thường là khoảng 20-30 phút so với thời gian được mời)
+ Bất luận trời mưa hay nắng cũng phải mang áo mưa theo
+ Quan tâm chu đáo đến khách, kể cả khách của khách
Từ lúc bắt đầu đến lúc kết thúc, xuyên suốt cả buổi lễ là một tinh thần đầm ấm hòa hoãn và thân mật, đem lễ nghi để đãi khách, đó là phong
cách của dân tộc Nhật Bản.
TRIẾT LÝ TRONG TRÀ ĐẠO
Nói một cách ngắn gọn, triết lý trong Trà đạo là triết lý Thiền của Phật giáo. Đó là: vận dụng tâm nhẫn nại, tâm lặng lẽ, tâm tĩnh giác, để mỗi
người tự thông đạt đại đạo và có sự cộng thông giữa con người với thế giới xung quanh.
Trà đạo xuất phát từ cái duyên của các vị Thiền sư với chén trà rồi mượn chén trà làm phương tiện giảng pháp cho người đời sau học. Chính vì
nguyên nhân này, triết lý trong Trà đạo là triết lý Thiền.
Hiểu đơn giản, Trà đạo có nghĩa là uống trà để đạt đạo. Theo người Nhật, cầm tách trà lên uống là một cách thiền, một phương thức làm thanh

GVHD: GS-TS-KTS TÔN ĐẠI

20

SVTH: TRẦN THỊ HOÀNG ANH


Trường Đại học Khoa học - Huế

Khoa Kiến Trúc - Lớp K28


khiết tâm hồn, giúp con người hòa quyện với thiên nhiên và trở nên trong sạch hơn. Từ đó, con người mong muốn thấu đạt được cái tâm như
các vị Thiền sư, tức là đến với "cái chỗ không thể đến", cũng có nghĩa là tìm đến với "cái tâm không thể dùng ý thức mà tìm được" của chính
mỗi người.
Nói cách khác, Trà Đạo - nghệ thuật pha trà và uống trà theo tinh thần Thiền tông là một trong những cách thể hiện sống Thiền.
- Khi pha trà, mọi động tác đều được làm một cách đầy ý thức, vừa làm vừa biết mình đang làm gì, tất cả tâm trí đều tập trung vào việc pha trà.
Khi pha trà thì chỉ nghĩ đến pha trà, làm như pha trà không phải là để có trà mà uống: pha trà chỉ là để pha trà. Động tác pha trà được coi là
quan trọng hơn là kết quả việc pha trà (có một bình nước trà ngon). Khi pha trà, ta quán chiếu tâm mình, ta chính định, ta chính niệm, ta sống
trọn vẹn với công việc pha trà, ta hưởng trọn vẹn cái giây phút an lạc, thanh thản, cái vui thú của việc pha trà. Ta cảm nghiệm ngay chính lúc ấy
cái tâm linh ta đang điều động công việc pha trà.
- Khi uống trà cũng thế, uống một cách đầy ý thức, hưởng trọn vẹn cái hương vị thơm tho của trà, tâm linh tập trung trọn vẹn vào đó, thưởng
thức cái thú vị đến với mình lúc đó mà không so sánh với cái vị trà mà mình uống hôm trước. Sống trọn vẹn giây phút hiện tại đến độ dường
như lúc đó chỉ biết duy nhất có một việc, chỉ làm duy nhất có một việc là uống trà. Đó là những giây phút siêu thoát, trong đó ta cảm thấy mình
hoàn toàn không bị ràng buộc bởi một điều gì khác. Điều quan trọng là ta không để việc pha trà hay cái vị ngon của trà cuốn hút ta ra khỏi ý
thức của ta, khiến ta miên man suy nghĩ chạy theo ngoại vật mà quên mất chính ta, quên mất tâm của ta, khiến ta bị vong thân ngay lúc đó.
Phải hoàn toàn làm chủ ý thức mình, một cách tự nhiên không cần cố gắng: đó là kết quả của nhiều năm tu tập.
Tóm lại, Trà đạo giúp con người nhận ra những bất an và ổn định trạng thái bất an một cách nhanh nhất. Ngồi vào bàn trà mà tâm nôn nóng,
vội vàng, nghĩ tưởng lăng xăng sẽ khó mà cảm nhận trọn vẹn hương vị của trà.
Mới nhìn thì thủ tục và cung cách trong lễ nghi Trà đạo rất là hình thức, tuy vậy nội hàm Trà đạo vẫn mang nội dung có ý nghĩa hoàn toàn
ngược lại. Cái vỏ hình thức đó phải được quy chuẩn, lặp đi lặp lại một cách nghiêm ngặt trong thời gian rèn luyện kéo dài, trở thành phản xạ có
điều kiện và được thực hiện một cách vô thức. Nghĩa là từ trong cốt lõi, nó đã tự tách mình và loại dần hình thức đến tận cùng, dẫn đến triệt
tiêu hình thức mà không chối bỏ hình thức. Hoa đạo (nghệ thuật cắm hoa) của Thiền tông cũng tương tự như thế. Một khi đã pha trà hay cắm
hoa đúng nghệ thuật, đúng tinh thần Thiền tông như thế, thì tất cả những công việc khác trong ngày cũng phải được thực hiện theo gương mẫu
đó: quét nhà, lau bụi, xếp sách, ăn uống, viết lách… Tất cả mọi việc, “đi đứng nằm ngồi gì cũng đều là Thiền hết” (Huệ Năng). Thời gian đầu
mới tu tập Thiền, người ta chỉ làm được trong ngày một vài việc đầy tinh thần Thiền như thế thôi. Nhưng dần dần số công việc làm được như
thế tăng dần lên theo thời gian tu tập. Và kết quả sẽ là những chứng nghiệm tâm linh siêu việt mà người bình thường không bao giờ cảm
nghiệm được. Đó là cửa ngõ để bước qua một cách hiện hữu mới, một hiện hữu thần bí, hiện hữu của một tâm linh nở hoa.
Đó chính là ý nghĩa của triết lý Thiền trong Trà đạo mà người viết xin được lặp lại ở đây: “vận dụng tâm nhẫn nại, tâm lặng lẽ, tâm tĩnh giác, để
mỗi người tự thông đạt đại đạo và có sự cộng thông giữa con người với thế giới xung quanh”.
Ngay khi vừa xuất hiện, Trà đạo đã khắc họa lên nền cuộc sống cái tính tinh khiết và hài hòa, cái tính kín đáo của lòng trắc ẩn, và cả tính lãng


GVHD: GS-TS-KTS TÔN ĐẠI

21

SVTH: TRẦN THỊ HOÀNG ANH


Trường Đại học Khoa học - Huế

Khoa Kiến Trúc - Lớp K28

mạn của trật tự xã hội. Những đức tính hoàn thiện một cách tinh tế này đã được người Nhật sùng bái tôn thờ và họ xem như là một sự cố gắng
nhẹ nhàng để hoàn thiện cuộc sống vốn không hoàn thiện.
Trà Việt
Việt Nam nằm trong cái nôi cổ nhất của trà. Truyền thống dùng trà cũng có từ rất lâu đời. Tuy vậy, sau khi Trung Quốc biết đến trà từ phương
nam thì trà phát triển rất rực rỡ và ảnh hưởng ngược lại. Sau quá trình giao lưu, Việt Nam hình thành nên 3 cách uống trà chính: Trà Sen, Trà
Mạn và Trà Tươi.
Trà Sen vốn là loại trà ướp hương đặc trưng nhất của người Việt Nam trước khi hàm nghĩa văn hóa trà Việt Nam như ngày nay. Trà Sen
được dùng phổ biến nhất trong 3 loại trà
Trà mạn san tuyết Hà Giang là chọn lựa tốt nhất để bắt đầu ướp trà. Gạo bông sen được lấy để ướp trà, cứ 1 lớp trà tới 1 lớp sen. Sau đó
là công đoạn sấy khô. Làm lại nhiều lần đến khi trà có được mùi hương ưng ý
Một nơi thưởng Trà Sen kinh điển là một mái hiên. Người ngồi bằng trên sập gỗ, trông ra hồ sen xanh ngát mênh mang gió. Một chiếc cầu
nhỏ cong cong với con thuyền lặng lẽ chờ các thiếu nữ đi hái sen mỗi sớm mỗi chiều. Uống trà, ngắm cảnh, làm thơ, hàn huyên tâm sự cõi mơ
thiên đường.
Uống trà thì đắng nên thường dùng chung với đồ ngọt là mứt sen trần, loại mứt làm từ hạt sen. Trong ẩm thực truyền thống, mứt là loại quà
đặc biệt ngày Tết. Ngoài ra ngày xưa còn có một ống thuốc lào và một khay trầu
Năm loài hoa bắt hương nhất là Cúc, Lài, Sói, Sen và Ngâu. Mỗi loài hoa đều có thể ướp thành một loại trà. Tuy nhiên, khi nói đến Trà Ngũ
Hương là nói đến cách thưởng trà vào những dịp đặc biệt như Lễ Tết. Một khay trà với 5 chỗ trũng đặt 5 loài hoa. Chiếc ly nóng úp lên hoa sau
3 phút được lấy ra rót trà thưởng thức. Hương thơm đang còn quện trong lòng chén trà, thoảng rất tự nhiên. Trà Ngũ Hương thường đi với việc

ngắm cảnh Mai, Đào nở rộ ngày Tết
Nếu Trà Sen là vị Nữ Hoàng của Văn hóa Trà Việt Nam thì Trà Hoa Sứ là nàng công chúa vô cùng kiều diễm. Là ngôn sứ của tình yêu và
sự lãng mạn, kiêu sa và mong manh, nồng nàn và trong sáng. Hoa sứ không thể ướp trực tiếp vào trà mà chỉ có thể dùng một chén trà được
làm nóng úp lên hoa cho đượm hương, rồi dùng ly đó để thưởng trà.
Trà Mạn là loại trà không ướp hương, ảnh hưởng nhiều từ trà Kungfu của Trung Quốc. Trà Mạn hướng đến sự tinh tế, hoàn mỹ với những
quy định khá kỹ lưỡng về nước, trà , cách pha, ấm chén, mang tính u nhã, tĩnh mịch. Nó cũng có một nhánh con khác là Thiền Trà, mang nặng
tính thiền và hướng đến tĩnh tâm và thư giãn tinh thần.
Cách uống trà tươi là cách uống cổ xưa nhất, và không chịu ảnh hưởng của bất kỳ nước nào. Nấu lá trà tươi trong ấm lớn và uống bằng
bát. Rất phổ biến tại các vùng thôn quê, mang tính giải khát và tình làng xóm. Trà Tươi đôi khi được tổ chức thành những tối uống trà cho cả
xóm, con nít nô đùa còn người lớn nói chuyện mùa màng.
Nghệ thuật gồm có những lĩnh vực như thơ, họa, âm nhạc, kiến trúc... Nghệ thuật hòa điệu với tâm hồn của con người. Nếu cuộc sống không
có nghệ thuật thì tất cả đều khô cằn như gỗ đá. Nghệ thuật thể hiện cảm hứng của tâm hồn. Cánh đào rơi trước ngọn gió xuân sẽ trở thành một

GVHD: GS-TS-KTS TÔN ĐẠI

22

SVTH: TRẦN THỊ HOÀNG ANH


Trường Đại học Khoa học - Huế

Khoa Kiến Trúc - Lớp K28

bức tranh dưới cái nhìn của một họa sĩ... Đối với Thiền, nghệ thuật là phương tiện để nói lên những sự hiện hữu mầu nhiệm và những pháp
hành siêu việt. Những bài thơ Thiền làm thức tỉnh lòng người đang mê muội. Những bức tranh Thiền đưa con người trở về với cội nguồn tâm
linh trong hiện tại. Lối kiến trúc trong Thiền môn làm cho con người có cảm giác thanh thoát nhẹ nhàng hơn sau những ngày bôn ba giữa phồn
hoa phố thị.

Thiền Học Trong Nghệ Thuật và Kiến Trúc

Thích Thái Không
Nghệ thuật và kiến trúc thể hiện nếp sống và hệ thống tư tưởng của từng thời đại. Bởi vậy, muốn tìm hiểu về các nền văn hóa, Tôn giáo và
phong tục trong nhân gian thì nghệ thuật và kiến trúc đóng vai trò rất quan trọng.
Nghệ thuật gồm có những lĩnh vực như thơ, họa, âm nhạc, kiến trúc... Nghệ thuật hòa điệu với tâm hồn của con người. Nếu cuộc sống không
có nghệ thuật thì tất cả đều khô cằn như gỗ đá. Nghệ thuật thể hiện cảm hứng của tâm hồn. Cánh đào rơi trước ngọn gió xuân sẽ trở thành một
bức tranh dưới cái nhìn của một họa sĩ... Đối với Thiền, nghệ thuật là phương tiện để nói lên những sự hiện hữu mầu nhiệm và những pháp
hành siêu việt. Những bài thơ Thiền làm thức tỉnh lòng người đang mê muội. Những bức tranh Thiền đưa con người trở về với cội nguồn tâm
linh trong hiện tại. Lối kiến trúc trong Thiền môn làm cho con người có cảm giác thanh thoát nhẹ nhàng hơn sau những ngày bôn ba giữa phồn
hoa phố thị. Mỗi bức tranh Thiền có mỗi ý nghĩa rất sâu sắc, trong đó có thể là một nhân vật như hình ảnh của Ngài Đạt Ma Tổ Sư, Ngài Huệ
Năng, hoặc là một cảnh tượng đơn giản, hoặc chỉ là một vài chữ... nhưng nét bút đã thể hiện tính cách, tư tưởng và hành động của đối tượng
và chủ ý tác giả.
Bất cứ ai trong giới Thiền gia đều xem hình Bồ Đạt Lạt Ma là một biểu tượng hùng tráng, với đôi mắt trợn trừng nhìn thế sự, hàm én kiêu hãnh
thể hiện nét phong trần, đôi chân không đạp trên sóng đời cuồn cuộn chảy. Hoặc là bức tranh Cửu niên diện bích là một bài học lớn về pháp
Thiền Đại Thừa Bích Quán. Nghĩa Bích Quán là thế giới tuyệt đối của tâm, tất cả đã để lại sau lưng để trở về với thế giới tĩnh mặc. Bên bức
tranh đề bốn chữ Đại Thừa Bích Quán không phải là điều đơn giản mà ai cũng có thể lãnh hội được. Đây là một Thiền án cho tất cả các hành
giả đang thực tập Thiền. Nếu hiểu bức tranh Bích Quán là ngó vào vách thì thật là vô nghĩa. Qua bức tranh đã nói lên một pháp hành, Bích
Quán là Tâm Quán, không phải nhìn vào vách như những người thường nhìn mà chính là nhìn vào tâm để thấy được điểm tận cùng của tâm,
đó là lối về bất nhị. Ngài Đạt Ma đã dạy Nhị Tổ Huệ Khả về phép Bích Quán như sau:
Ngoài dứt chư duyên
Trong không toan tính
Tâm như tường vách
Mới là nhập đạo.

GVHD: GS-TS-KTS TÔN ĐẠI

23

SVTH: TRẦN THỊ HOÀNG ANH



Trường Đại học Khoa học - Huế

Khoa Kiến Trúc - Lớp K28

Pháp hành Thiền quán được thể hiện qua bức tranh. Tất cả yếu chỉ của Thiền được cô đọng trên từng nét chấm phá, như hình ảnh Ngài Huệ
Năng đốt sách là những lời nhắc nhở cho những ai ôm lấy kiến thức để nhốt mình trong chấp ngã.
Trong Thiền tông còn có bộ tranh Thập Mục Ngưu Đồ được phổ biến rộng rãi qua các Thiền viện và cũng là kim chỉ nam cho những hành giả
đang thực hành Thiền quán.
Thiền học còn có mặt trong lãnh vực kiến trúc Á Đông. Mỗi Thiền viện đều có một lối kiến trúc ôn hòa, khác hẳn với lối kiến trúc La Hy của các
Nhà thờ Thiên Chúa giáo hay lối kiến trúc Trung Đông của các nhà thờ Hồi giáo. Kiến trúc của các Thiền viện thể hiện nếp sống trầm tĩnh thanh
u nhưng vẫn mang dáng vẻ oai nghiêm của các nơi thờ tự và mang đậm màu sắc Tôn giáo.
Khi bước vào Thiền viện Phật giáo, đầu tiên chúng ta phải vào cổng Tam Quan. Không phải ngẫu nhiên mà làm cổng Tam Quan, ngoài nghệ
thuật kiến trúc còn có ý nghĩa triết lý rất lớn trong Thiền học, Tam Quan là Tam Giải Thoát Môn, là Tam Pháp Ấn, là “Không” - “Vô Tướng” - “Vô
Tác”.
Trong Thiền Viện Phật giáo, kiến trúc và thiên nhiên hòa điệu với nhau bởi vậy khi bước vào Thiền viện chúng ta có cảm giác thi vị và thanh
toát. Vì có một cuộc sống ồn ào náo nhiệt như ở phồn hoa phố thị, mà phải là một đời sống thanh đạm về vật chất và có một tâm hồn thanh
thoát.
Các Thiền viện ở Á Đông từ xưa đa số được vua quan xây dựng nên phảng phất đường nét của kiến trúc cung đình, sự trình bày trang trí nội
thất cũng tương tự như các phủ đệ, nhưng bên cạnh đó Thiền viện vẫn mang tính cách kiến trúc của nhân gian tương tự như đình làng miếu vũ
cho nên không phải là xa lạ đối với dân chúng. Từ đó, kiến trúc của Thiền viện mang nét ôn hòa, khiêm tốn ẩn hiện dưới những vườn đồi... Trải
qua bao nhiêu thăng trầm của lịch sử nhưng những nét tiêu sơ của Thiền viện vẫn giữ nguyên như cũ. Ở Trung Hoa, thời đại lục quốc qua phân
đã biến Trung Hoa thành nhiều mảnh, đất nước này phải chịu ảnh hưởng của nhiều nền văn minh trên thế giới như Nga, Anh, Pháp, Bồ Đào
Nha, Nhật, Mỹ và có thay đổi rất nhiều trong kiến trúc, nhưng các Thiền viện ở đây vẫn tồn tại và giữ được Thiền phong. Ở Việt Nam cũng vậy,
trải qua những thời kỳ chiến tranh và trở thành thuộc địa của nhiều nước nhưng những Thiền viện ở đây vẫn còn nét cổ kính và mang phong
thái của Thiền.
Chùa chiền, Thiền viện mang tính nghệ thuật kiến trúc và tính văn hóa Phật giáo và văn hóa dân gian. Ở Á Châu, đặc biệt là Trung Hoa và Việt
Nam, luôn luôn lấy tứ linh là Long, Lân, Quy, Phụng để trang trí ở các nơi tôn nghiêm như cung đình, đền thờ miếu vũ và các Thiền viện... Về
mặt kiến trúc, khi gắn những hình rồng, phượng... trên mái nhà là để cho cân đối nghệ thuật, về mặt triết lý thì những hình tượng này còn có
những ý nghĩa tùy theo bối cảnh. Hình ảnh con Rồng làm để tượng trưng cho sự hưng thịnh, thăng hóa và bền vững. Lân tượng trưng cho sự
hùng mạnh, uy vũ. Phụng tượng trưng cho người quân tử, có dáng tao nhã, đời sống thanh cao. Quy tượng trưng cho đức nhẫn nhục, nhu hòa

và sự trường cửu. Từ văn hóa nhân gian, những biểu tượng này cũng được các Thiền viện sử dụng để trang trí đồng thời cũng có những ý
nghĩa Tôn giáo riêng, thể hiện những đức tính trong sự tu tập như tinh tấn, vô úy, thanh tịnh, nhẫn nhục...
Lại nữa, có một hình ảnh trong kiến trúc rất đặc biệt ở Á Đông mà chúng ta thường thấy ở các nơi mang màu sắc văn hóa như cung đình, miếu
thờ, hoặc chùa chiền, đó là hình Long Mã. Ở trường Quốc Học - Huế, có bình phong Long Mã, đó là tượng trưng cho sự phát triển một nền văn

GVHD: GS-TS-KTS TÔN ĐẠI

24

SVTH: TRẦN THỊ HOÀNG ANH


Trường Đại học Khoa học - Huế

Khoa Kiến Trúc - Lớp K28

hóa của đất nước. Chúng ta cũng thấy hình Long Mã trên bức phù điêu của Tổ Đình Từ Hiếu - Huế, nhưng hình ảnh Long Mã ở đây, ngoài nét
nghệ thuật tiêu biểu cho thời đại còn có ý nghĩa rất lớn, đó là sự tu tập, đầu rồng tượng trưng cho trí tuệ, đôi chân tuấn mã tượng trưng cho sự
tinh tấn, trên lưng tuấn mã chở một hòm thư, đó là tượng trưng cho những pháp hành. Một người tu tập phải như con long mã, phải có sự suy
xét đúng đắn theo Chánh đạo, phải có sự kiên trì bền chí như đôi chân tuấn mã và phải có một pháp hành nhất định và xem pháp hành đó là
tính mệnh của mình.
Kiến trúc Phật giáo cũng như các công trình kiến trúc ở Trung Hoa hay Việt Nam từ thế kỷ 20 trở về đều mang màu sắc tương tự. Nền kiến trúc
này hoàn toàn mang tính độc lập, không ảnh hưởng kiến trúc ngoại lai, đến bây giờ vẫn còn gần như nguyên vẹn. Hình hoa sen được dùng để
trang trí trong các chùa chiền và cung đình. Các biểu tượng và cách xây dựng cũng theo quy luật âm dương, các cổng chùa bên ngoài thường
là có hình vuông góc tượng trưng cho tánh âm, nhưng vòm cổng bên trong lại có hình tròn móng ngựa tượng trưng cho tánh dương. Các cột trụ
trong cung, hoặc trong chùa chiền và các lăng tẩm đều được trang trí hoa sen nở phía dưới và búp sen ở phía trên tượng trưng cho sự thanh
cao.
Các mái chùa cong vút ẩn mình dưới những tàng cây, tiếng chuông chùa u trầm vọng lên làm thanh thản lòng người. Kiến trúc các Thiền viện
mang tính cách oai hùng của cung đình làm nơi nương tựa tinh thần cho những người dân Á Đông, đồng thời cũng có nét dân dã để hòa mình
với quần chúng. Cho nên, hình ảnh chùa làng, đình miếu đã dễ dàng đi sâu vào lòng của người dân.

Trong nền kiến trúc Á Đông có một điều đáng chú ý nhất là kiến trúc lăng tẩm và tháp. Đối với quan niệm Lão - Nho, cho rằng “Sanh viết ký nhi
Tử viết quy”, cuộc sống này là giả tạm, chỉ có chết mới thực sự là trở về. Từ quan niệm đó cho nên, lăng tẩm của những người quyền quý ở Á
Đông là những công trình kiến trúc lớn và mang tính văn hóa. Trong Phật giáo, khác với quan niệm trên, các tháp thờ tượng Phật hoặc Xá Lợi
của Phật, là để cho các Phật tử đến chiêm bái. Hoặc khi các vị Tổ sư viên tịch, các đệ tử và tín đồ xây dựng tháp là để thể hiện lòng tôn kính và
tưởng nhớ công đức của vị đó. Cho nên, các tháp thờ Phật và tháp Tổ trong Phật giáo đều có một ý nghĩa riêng. Các tháp thờ Phật đa số đều
được xây bảy tầng, trong đó tôn trí bảy tượng Phật, tượng trưng cho bảy đời các Đức Phật, và số bảy trong Phật giáo là tượng trưng cho trung
đạo, một ngôi tháp xây bảy tầng không cao cũng không thấp. Các tháp Tổ, thường được xây ngay trên mộ phần của các vị Tổ. Hoặc có những
nơi xây những tháp vọng, do những vùng có vị Tổ đó đến giáo hóa, nhưng khi viên tịch thì ở chỗ khác và hài cốt được tôn trí ở một nơi khác,
nên các đệ tử và tín đồ đã ghi nhớ công đức và xây dựng tháp thờ vọng. Tháp các vị Tổ thường là năm tầng, tượng trưng cho Ngũ đức sư, đó
là năm phẩm tính tạo nên một vị Hòa thượng: Không thiên ái; Không sợ hãi; Không sân si; Giáo hóa đúng thời, đúng nơi và đúng đối tượng;
Dùng Pháp thích hợp để giáo hóa. Tháp những vị A Xà Lê thường được xây ba tầng, tượng trưng cho Tam vô lậu học, là Văn - Tư - Tu. Trên
đỉnh tháp có hoa sen hoặc bầu hồ lô, hoa sen tượng trưng cho sự thanh tịnh, hồ lô tượng trưng cho sự hòa hợp âm dương và kết tinh của trời
đất.

Chơi chim là một thú đam mê của rất nhiều người. Không kể giàu nghèo, không phân biệt nam nữ, bất kì những ai yêu thích chim chóc đều tìm
thấy cho mình một loài chim làm bạn. Có người mê tiếng hót du dương của chim họa mi, sơn ca, có người yêu vẻ đẹp của những chú chòe
lửa, chòe than. Lại có người ưa tiếng lích cha lích chích của chim vành khuyên, nhỏ nhắn trong bộ lông màu xanh nhạt. Người thành phố thích

GVHD: GS-TS-KTS TÔN ĐẠI

25

SVTH: TRẦN THỊ HOÀNG ANH


×