Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

thực trạng và giải pháp thu ngân sách địa phương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (229.36 KB, 31 trang )

Câu hỏi (Thầy Tràm) Anh, chị bổ sung thêm thực trạng và giải pháp theo địa phương.Cảm ơn ./.

1.Khái niệm thu ngân sách nhà nước
Thu NSNN phản ánh các quan hệ kinh tế nảy sinh trong quá tŕnh Nhà nước
dùng quyền lực chính trị để thực hiện phân phối các nguồn tài chính dưới hình thức
giá trị nhằm hình thành quỹ tiền tệ của Nhà nước.Như vậy,thu NSNN bao gồm toàn
bộ các khoản tiền được tập trung vào tay nhà nước để hình thành quỹ NSNN đáp
ứng cho các yêu cầu chi tiêu xác định của nhà nước.
Nét nổi bật của việc thu NSNN là: trong bất cứ xă hội nào, cơ cấu các khoản
thu NSNN đều gắn liền với chức năng, nhiệm vụ và quyền lực chính trị của Nhà
nước. Sự ra đời, tồn tại và phát triển của Nhà nước là điều kiện xuất hiện các khoản
thu NSNN. Ngược lại, các khoản thu NSNN là tiền đề vật chất không thể thiếu để
thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước.
Một đặc trưng khác của thu NSNN là luôn luôn gắn chặt với các quá tŕnh kinh tế
và các phạm trù gía trị. Kết quả của quá tŕnh hoạt động kinh tế và hh nh thức, phạm
vi, mức độ vận động của các phạm trù giá trị là tiền đề quan trọng xuất hiện hệ
thống thu NSNN. Nhưng chính hệ thống thu NSNN lại là nhân tố quan trọng có
ảnh hưởng to lớn đến kết quả của quá tŕnh kinh tế cũng như sự vận động của các
phạm trù giá trị.
Thu ngân sách nhà nước trước hết và chủ yếu gắn liền với các hoạt động kinh tế
trong xă hội. Mức độ phát triển kinh tế, tỷ lệ tăng trưởng GDP hàng năm là tiền đề
đồng thời là yếu tố khách quan hh nh thành các khoản thu NSNN và quyết định mức
độ động viên các khoản thu của NSNN.
Thu ngân sách nhà nước ảnh hưởng lớn đến tốc độ, chất lượng và tính bền vững
trong phát triển của một quốc gia. Trong cơ cấu thu, nguồn thu nội địa phải luôn
chiếm tỷ trọng lớn nhất. Không thể nói đến sự phát triển bền vững nếu thu từ ngoài
nước (vay nợ, nhận viện trợ từ nước ngoài) và các khoản thu có liên quan đến yếu
tố bên ngoài (thuế nhập khẩu, tiền bán tài nguyên thiên nhiên ra bên ngoài …)
chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng thu.
Trong cơ cấu thu ngân sách của hầu hết các quốc gia trên thế giới, thuế luôn là
nguồn thu chủ yếu, chiếm tỷ trọng lớn nhất bởi nó được trích xuất chủ yếu từ


những giá trị do nền kinh tế tạo ra và thể hiện rơ nét quyền lực nhà nước. Nền kinh
tế quốc dân càng phát triển với tốc độ cao thh nguồn thu của nhà nước từ thuế chiếm
tỷ trọng càng lớn trong tổng thu NSNN.Thu NSNN bao gồm thuế, các khoản phí,lệ
phí, thu từ các hoạt động kinh tế của nhà nước, thu đóng góp của các tổ chức và cá
nhân, các khoản viện trợ và các khoản thu khác theo quy định của pháp luật
*
Nguyên tắc công khai hoá ngân sách nhà nước
Về mặt chính sách, thu chi ngân sách nhà nước là một chương trình hoạt động của
Chính phủ được cụ thể hoá bằng số liệu. Ngân sách nhà nước phải được quản lý
rành mạch, công khai để mọi người dân có thể biết nếu họ quan tâm. Nguyên tắc
công khai của ngân sách nhà nước được thể hiện trong suốt chu trình ngân sách


nhà nước và phải được áp dụng cho tất cả các cơ quan tham gia vào chu trình ngân
sách nhà nước.
2. Nội dung quản lý thu phí, lệ phí
Thuế là khoản thu chiếm tỷ trọng lớn trong tổng thu NSNN,tuy nhiên nếu chỉ
thu thuế thì chính phủ không đủ nguồn tài trợ cho nhiều hoạt động vốn rất đa dạng
của mình và cũng không thể buộc người dân sử dụng hàng hóa và dịch vụ công
theo cách thức có hiệu quả.Do đó phí,lệ phí đặt ra đối với những tổ chức và cá
nhân sử dụng hàng hóa hay dịch vụ công.
Phí thuộc NSNN là khoản tiền mà các tổ chức và cá nhân phải trả cho một cơ quan
nhà nước khi nhận được dịch vụ do cơ quan này cung cấp. Trong hoạt động xă hội,
nhiều tổ chức thuộc bộ máy công quyền cung cấp ra bên ngoài nhiều dịch vụ.
Chúng cần thiết phải thu tiền của đối tượng thụ hưởng để bù đắp chi phí hoạt động.
Phí chính là số tiền đó.
Lệ phí là khoản tiền mà các tổ chức và cá nhân phải nộp cho cơ quan nhà
nước khi thụ hưởng dịch vụ liên quan đến quản lý hành chính do cơ quan này cung
cấp.Phí, lệ phí không phải là giá cả của dịch vụ công mà chỉ là động viên một phần
thu nhập của người thụ hưởng nhằm thực hiện công bằng trong tiêu thụ dịch vụ

công.
Mọi khoản phí, lệ phí đều phải do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy
định. Theo quy định hiện hành tại Pháp lệnh phí, lệ phí và Nghị định 57/2002/NĐCP của Chính phủ thh chính phủ quy định chi tiết danh mục phí, lệ phí đồng thời với
việc quy định nguyên tắc xác định mức thu phí và lệ phí. Đối với một số khoản
thu phí, lệ phí quan trọng, chính phủ trực tiếp quy định mức thu, chế độ thu,nộp và
chế độ quản lý. HĐND Tỉnh quyết định thu phí, lệ phí được phân cấp. Nghiêm
cấm mọi tổ chức, cá nhân tự đặt ra các loại phí, sửa đổi mức thu phí đă được cơ
quan có thẩm quyền quy định, thu phí trái với quy định của pháp luật.
Đơn vị thu phí,lệ phí là cơ quan thuế và các cơ quan được pháp luật quy định. Các
cơ quan này phải niêm yết công khai tại địa điểm thu về tên gọi, mức thu, phương
thức thu và cơ quan quy định thu. Khi thu phải cấp chứng từ thu theo quy định của
Bộ Tài chính
3. Vai trò của ngân sách nhà nước
NSNN là khâu tài chính tập trung quan trọng nhất, là kế hoạch tài chính cơ bản,
tổng hợp của Nhà nước. Nó giữ vai trò chủ đạo trong hệ thống tài chính và có vai tr
quyết định sự phát triển của nền KT-XH. Vai tr của NSNN được xác lập trên cơ sở
chức năng và nhiệm vụ cụ thể của nó trong từng giai đoạn cụ thể. Phát huy vai trò
của NSNN như thế nào là thước đo đánh giá hiệu quả điều hành, lănh đạo của Nhà
nước.
Trong nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta hiện nay, NSNN có các vai trò chủ
yếu sau:


Thứ nhất, với chức năng phân phối, ngân sách có vai trò huy động nguồn tài
chính để đảm bảo nhu cầu chi tiêu của Nhà nước và thực hiện sự cân đối thu chi tài
chính của Nhà nước. Đó là vai trò truyền thống của NSNN trong mọi mô hh nh kinh
tế. Nó gắn chặt với các chi phí của Nhà nước trong quá tŕnh thực hiện nhiệm vụ
của ḿnh.
Thứ hai, NSNN là công cụ tài chính của Nhà nước góp phần thúc đẩy sự
tăng trưởng của nền kinh tế, điều chỉnh kinh tế vĩ mô. Nhà nước sử dụng NSNN

như là công cụ tài chính để kiềm chế lạm phát, ổn định thị trường, giá cả cũng như
giải quyết các nguy cơ tiềm ẩn về bất ổn định KT-XH. Muốn thực hiện tốt vai trò
này NSNN phải có quy mô đủ lớn để Nhà nước thực hiện các chính sách tài khóa
phù hợp (nới lỏng hay thắt chặt) kích thích sản xuất, kích cầu để góp phần thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế, ổn định xă hội.
Thứ ba, NSNN là công cụ tài chính góp phần bù đắp những khiếm khuyết
của KTTT, đảm bảo công bằng xă hội, bảo vệ môi trường, thúc đẩy phát triển bền
vững. KTTT phân phối nguồn lực theo phương thức riêng của nó, vận hành theo
những quy luật riêng của nó. Mặt trái của nó là phân hóa giàu nghèo ngày càng
tăng trong xă hội, tạo ra sự bất bình đằng trong phân phối thu nhập, tiềm ẩn nguy
cơ bất ổn định xă hội. Bên cạnh đó do mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận nên các chủ sở
hữu nguồn lực thường khai thác tối đa mọi nguồn tài nguyên, môi trường sinh thái
bị hủy hoại, nhiều loại hàng hóa và dịch vụ mà xă hội cần nhưng khu vực tư nhân
không cung cấp như hàng hóa công cộng. Do đó nếu để KTTT tự điều chỉnh mà
không có vai trò của Nhà nước thì sẽ phát triển thiếu bền vững.Vì vậy Nhà nước sử
dụng NSNN thông qua công cụ là chính sách thuế khóa và chi tiêu công để phân
phối lại thu nhập giữa các tầng lớp dân cư trong xă hội, cung cấp hàng hóa dịch vụ
công cho xă hội, chú ư phát triển cân đối giữa các vùng, miền đảm bảo công bằng
xă hội, bảo vệ môi trường sinh thái.
4.THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ THU NGÂN SÁCH CẤP HUYỆN
- Tình hình thu, lập dự toán ngân sách cấp huyện Khánh Vĩnh
+ Tình hình thu ngân sách
Thu ngân sách huyện, trên địa bàn những năm gần đây có nhiều cố gắng, kế
hoạch tỉnh giao luôn hoàn thành và hoàn thành với tỷ lệ cao. Năm 2008 đạt
159,4%, năm 2009 đạt 192,5%, năm 2010 đạt 212,1% kế hoạch; Số thu trong cân
đối vượt kế hoạch cao nhất là năm 2010 đạt 176% kế hoạch và năm thấp nhất là
năm 2008 cũng đạt 113,8%
Tuy nhiên thu trong cân đối của còn eo hẹp, chưa đáp ứng chi thường
xuyên trên địa bàn phải nhờ vào trợ cấp cân đối của tỉnh tương đối lớn;
Năm 2008 trợ cấp cân đối là 118.220 triệu đồng, năm 2009 là 144.872

triệu đồng, năm 2010 là 176.320 triệu đồng; Như vậy gần như chi ngân sách của
huyện Khánh Vĩnh là nhờ vào trợ cấp cân đối của tỉnh
Thu ngân sách trên địa bàn để cân đối chiếm tỉ trọng thấp trong tổng thu Ngân sách
chủ yếu do nền sản xuất kinh doanh, dịch vụ chưa phát triển, quy mô còn nhỏ,việc


này là một khó khăn lâu dài, bởi quỹ đất thì có hạn, dẫn đến tình trạng thu ngân
sách không được bền vững, điều hành ngân sách sẽ bị động, dễ sinh ra hiện tượng
mất cân đối phải điều chỉnh dự toán.
Những hạn chế
Lập dự toán ngân sách
Các xã, thị trấn các đơn vị dự toán thuộc huyện, lập dự toán ngân sách hàng năm
còn chậm, dẫn đến tổng hợp ngân sách còn chậm.
Việc lập dự toán ngân sách huyện hàng năm chưa thật sự xuất phát từ cơ
sở. Nguyên tắc là dự toán ngân sách cấp huyện phải được xây dựng từ dự toán của
các đơn vị trực thuộc gửi lên. Trên thực tế việc xây dựng dự toán ngân sách cấp
huyện chủ yếu là ấn định dựa theo tính toán của cấp trên là chủ yếu; Các đơn vị sử
dụng ngân sách thường xây dựng dự toán chi cao đề nghị bổ sung cân đối, mặt
khác nguồn thu lại có hạn, tỉnh lại khống chế khoản trợ cấp cân đối. Điều này làm
cho dự toán ngân sách được giao chưa sát với đặc điểm tình hình của đơn vị, làm
cho một số đơn vị gặp khó khăn, thiếu hụt trong chi tiêu. Một số xã xây dựng
nguồn thu không sát với thực tế nên có nơi vượt thu nhiều thì thừa cân đối ngân
sách, nơi thu không đạt thì rơi vào tình trạng lúng túng bị động
5.GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CÔNG TÁC QUẢN LÝ THU NGÂN
SÁCH CẤP HUYỆN
Nâng cao chất lượng công tác xây dựng dự toán
Lập dự toán là việc lên kê hoạch thu, chi ngân sách cho năm ngân sách tới,
toàn bộ các dự kiên về các khoản thu, chi ngân sách cho năm ngân sách tới, các dự
kiên về các khoản thu như thuê,phí, lệ phí . . . và các khoản chi thường xuyên, chi
đầu tư phát triên. . .Lập dự toán có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc quản lý

ngân sách cũng như làm cho ngân sách có tính ổn định, an toàn và hiệu quả như
vậy chất lượng của công tác quản lý ngân sách phụ thuộc rất nhiều vào công tác
lập dự toán.
Theo Luật Ngân sách năm 2002 thì lập dự toán ngân sách nhà nước phải căn
cứ vào phương hướng, chủ trương, chính sách, nhiệm vụ phát triên kinh tê - Văn
hoá - Xã hội, an ninh, quốc phòng của địa phương trong năm kê hoạch và những
năm tiêp theo, song với thực trạng trong khâu lập dự toán cấp huyện cần phải hạn
chê ngay tình trạng dự toán của đơn vị trực thuộc xây dựng thiêu căn cứ, thiêu
định mức, xa rời khả năng ngân sách, nộp dự toán chậm.
Cần phân cấp công tác thu ngoài quốc doanh trên địa bàn cho cấp huyện và
cho được hưởng 100% khoản thu này nhằm giảm trợ cấp cân đối ngân sách từ tỉnh
về; Có như vậy mới nâng cao vai trò quản lý nhà nước của cấp huyện trong việc
quản lý các doanh nghiệp và tạo được cơ chế thu hút vốn đầu tư tạo môi trường
thuận lợi để thúc đẩy sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, từ đó sẽ tạo ra
nguồn thu cho địa phương và chủ động trong sử dụng nguồn thu.
Lập dự toán ngân sách nhà nước phải đảm bảo đúng trình tự và thời gian.
Đối với số thu của các doanh nghiệp phải căn cứ vào kế hoạch sản xuất kinh


doanh, các Luật thuế, Pháp lệnh về phí, lệ phí và các chế độ thu ngân sách; Cần dự
kiến số thuế và các khoản phải nộp ngân sách, dự kiến số thuế giá trị gia tăng được
hoàn theo chế độ; Gửi cơ quan thuế và cơ quan được nhà nước giao nhiệm vụ thu
ngân sách. Chi cục thuế cấp huyện lập dự toán thu ngân sách trên địa bàn và cơ sở
tính toán từng nguồn thu, dự kiến số thuế giá trị gia tăng phải hoàn theo chế độ cho
các doanh nghiệp thuộc phạm vị quản lý gửi cục Thuế tỉnh.
phòng Tài chính huyện cần có trách nhiệm tích cực trong việc hướng dẫn
các đơn vị trực thuộc lập dự toán thu, chi ngân sách thuộc phạm vị mình quản lý,
phối hợp với cơ quan thuế đồng cấp lập dự toán thu ngân sách nhà nước, dự kiến
số thuế giá trị gia tăng theo chế độ cho các doanh nghiệp trên địa bàn.
Dự toán ngân sách nhà nước phải được xây dựng trên cơ sở tính đúng, tính

đủ các khoản thu theo quy định của pháp luật và phân tích, dự báo về yếu tố tăng
trưởng kinh tế, thị trường giá cả, lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế. Đồng thời thực
hiện đầy đủ các quy định về khuyến khích sản xuất, kinh doanh, tăng xuất khâu,
mở rộng thị trường, Thực hiện các biện pháp tăng cường quản lý thu, hoàn thuê giá
trị gia tăng, thu hồi số thuê bị chiêm đoạt, chống thất thu, chống buôn lậu và gian
lận thương mại.
Tăng cường kiểm tra kiểm soát các khoản thu ngân sách
+ Đối với các đơn vị sự nghiệp có thu: Cần mở rộng mô hình, mô hình hoạt động
dịch vụ thông qua việc thực hiện tốt Pháp lệnh phí, lệ phí số 38/2001/PLUBTVQH10 ngày 28/8/2001, Nghị định số 57/2002/NĐ-CP ngày 03/6/2002 của
Chính phủ quy định chi tiêt thi hành Pháp lệnh phí và lệ phí; Nghị định số
24/2006/NĐ-CP ngày 06 tháng 03 năm 2006 của Chính phủ “sửa đổi, bổ sung một
số điều của Nghị định số 57/2002/NĐ-CP"; Thông tư 71/2003/TT-BTC ngày
30/7/2003 Của Bộ Tài chính hướng dẫn về phí và lệ phí thuộc thẩm quyền quyết
định của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Tăng cường
mở rộng các hoạt dịch vụ văn hoá, thể thao, dịch vụ tài chính, quản lý môi trường,
Ban quản lý chợ cần tăng cường quản lý, cho thuê mặt bằng, địa điểm kinh doanh,
thu phí trông giữ xe máy xe đạp; Qua đó phấn đấu giảm cấp bù từ ngân sách các
huyện, thành phố, thị xã và từ đó có thể giao cho các đơn vị tự đảm bảo và đảm
bảo một phần kinh phí, tự cấn đối được kinh phí sự nghiệp của mình.
Tăng cường công tác quản lý thu, chú trọng những lĩnh vực còn thất thu lớn,
chủ yếu là thất thu ở các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Thực hiện các biện pháp,
bồi dưỡng các nguồn thu, tăng cường kiểm tra doanh thu, giá cả hàng hoá bán ra;
Chi phí hợp lệ tính thuế, các khoản lương, vận chuyển, tăng cường kiểm tra chống
thất thu về hộ, kiểm tra chặt chẽ các khoản thuế đầu vào trên các bảng kê của các
đối tượng nộp thuế theo phương pháp khuấu trừ, đặc biệt là các đơn vị có số thuế
giá trị gia tăng lớn, phải hoàn thuế.


CẢI CÁCH TÀI CHÍNH CÔNG THỰC TRẠNG
VÀ GIẢI PHÁP

CẤN QUANG TUẤN (*)Văn phong Bộ Nội vụ
Tài chính công là một phạm trù gắn với các hoạt động thu và chi bằng tiền của
nhà nước, phản ánh hệ thống các quan hệ kinh tế dưới hình thức giá trị trong quá trình
hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ của nhà nước nhằm phục vụ việc thực hiện những
chức năng vốn có của nhà nước đối với xã hội (không vì mục tiêu thu lợi nhuận).
Nội dung của tài chính công bao gồm: ngân sách nhà nước (NSNN) từ trung ương
đến địa phương; dự trữ nhà nước; tín dụng nhà nước; ngân hàng nhà nước; tài chính của
các cơ quan hành chính nhà nước; tài chính của các đơn vị sự nghiệp nhà nước; các quỹ
tài chính nhà nước (đối với nước ta). Trong đó, NSNN được xem là bộ phận quan trọng
nhất, chi phối đến các thành tố khác. Trong phạm vi bài viết này, xin đề cập đến 3 thành
tố có quan hệ chặt chẽ với nhau và liên quan trực tiếp tới việc cải cách tài chính công
hiện nay. Đó là: NSNN, các quỹ tài chính nhà nước và tài chính các đơn vị hành chính
sự nghiệp
NSNN là toàn bộ các khoản thu, chi của nhà nước đã được cơ quan nhà nước có
thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để bảo đảm thực hiện các chức
năng, nhiệm vụ của nhà nước. Như vậy, xét về khía cạnh kinh tế, hoạt động thu - chi của
NSNN thể hiện quá trình phân phối và phân phối lại một bộ phận giá trị tổng sản phẩm
xã hội. Quy mô phân phối lại phụ thuộc vào mức độ động viên của NSNN.
Về chức năng, NSNN có 3 chức năng cơ bản. Đó là: công cụ thực hiện việc phân
bổ nguồn lực trong xã hội; thực hiện chức năng tái phân phối thu nhập và chức năng
điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế quốc dân. Với các chức năng đó, NSNN tác động trực tiếp
và gián tiếp tới hầu hết các chủ thể, các đơn vị và các tổ chức trong xã hội. Điều này
cũng giải thích tại sao NSNN lại là thành tố quan trọng nhất của tài chính công.
Các quỹ tài chính nhà nước, về nguyên tắc, NSNN phải được quản lý một cách
toàn diện, nhưng không có nghĩa là tất cả các khoản chi phải được quản lý theo quy trình
thống nhất. Vì vậy, ở nhiều nước, một số khoản chi của Chính phủ đã được quản lý
thông qua các quy trình đặc biệt, mà chủ đạo là các quỹ tài chính nhà nước, tạo nên sự
linh hoạt nhất định trong quyết định chi tiêu của Chính phủ.
Quỹ tài chính nhà nước có nhiều loại hình khác nhau. Nhưng xét về hình thức tổ
chức thường có 2 loại: là một tổ chức tài chính có bộ máy tổ chức, có tư cách pháp nhân

(như Quỹ hỗ trợ phát triển...) hoặc chỉ là nguồn tài chính dành riêng để sử dụng vào
một hoặc một số mục đích nhất định (như Quỹ bình ổn giá cả, Quỹ tích luỹ trả nợ...).
Các quỹ tài chính nhà nước thường có nguồn thu chủ yếu từ NSNN và huy động
đóng góp của các tổ chức, cá nhân. Việc sử dụng quỹ không được hạch toán vào ngân
sách mà được quản lý theo các quy định riêng. Tuy nhiên, cách làm này, bất kể mục đích
gì đều làm nảy sinh một số vấn đề trong việc phân bổ nguồn ngân sách. Thông thường
thì các giao dịch thực hiện từ các quỹ này không được phân loại theo các tiêu chí như


các khoản chi ngân sách, từ đó làm ảnh hưởng đến tính đầy đủ, chính xác của việc phân
tích các chương trình chi tiêu của Chính phủ. Hơn thế nữa, sự hiện diện của quá nhiều
các loại quỹ tài chính nhà nước trong nền kinh tế sẽ làm cho nguồn lực tài chính nhà
nước bị phân tán, tính minh bạch của ngân sách vì thế cũng sẽ bị hạn chế.
Tài chính các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp: các cơ quan hành chính,
đơn vị sự nghiệp thuộc bộ máy nhà nước là những đơn vị có nhiệm vụ cung cấp các dịch
vụ công cộng cho xã hội. Nguồn tài chính cho các đơn vị này hoạt động chủ yếu dựa vào
những khoản cấp phát theo chế độ từ NSNN. Ngoài ra, còn một số khoản thu khác có
nguồn gốc từ NSNN, các khoản thu do đơn vị tự khai thác, hoặc từ quyên góp, tặng, biếu
không phải nộp NSNN.
Giữa NSNN, các quỹ tài chính nhà nước và tài chính các cơ quan hành chính, đơn
vị sự nghiệp luôn có quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó NSNN có vai trò quan trọng và
chi phối các thành tố khác. Một bộ phận rất lớn của chi NSNN được các cơ quan hành
chính, đơn vị sự nghiệp sử dụng trực tiếp, do đó, hiệu quả tài chính của các khu vực này
có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả chi NSNN. Ngược lại, quy mô và hiệu quả của
NSNN cũng sẽ quyết định, chi phối tiềm lực và hiệu quả tài chính các đơn vị hành chính,
sự nghiệp.
Quản lý tài chính công được thực hiện theo 4 nguyên tắc cơ bản sau:
Nguyên tắc hiệu quả: Là nguyên tắc quan trọng hàng đầu trong quản lý tài chính
công. Hiệu quả thể hiện trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế và xã hội. Hiệu quả xã
hội và hiệu quả kinh tế là hai nội dung quan trọng phải được xem xét đồng thời khi hình

thành một quyết định hay một chính sách chi tiêu ngân sách.
Nguyên tắc thống nhất: thống nhất quản lý bằng pháp luật là nguyên tắc không thể
bỏ qua trong quản lý tài chính công. Thực hiện nguyên tắc này sẽ đảm bảo tính bình
đẳng, công bằng, hiệu quả, hạn chế những tiêu cực, nhất là những rủi ro có tính chất chủ
quan khi quyết định các khoản chi tiêu.
Nguyên tắc tập trung dân chủ: tập trung dân chủ đảm bảo cho các nguồn lực của
xã hội được sử dụng tập trung và phân phối hợp lý. Các khoản đóng góp của dân thực sự
phải do dân quyết định chi tiêu nhằm đáp ứng mục tiêu chung của cộng đồng.
Nguyên tắc công khai, minh bạch: thực hiện công khai minh bạch trong quản lý sẽ
tạo điều kiện cho cộng đồng có thể giám sát, kiểm soát các quyết định về thu, chi tài
chính, hạn chế những thất thoát và bảo đảm tính hiệu quả.
Về mối quan hệ giữa cải cách hành chính và cải cách tài chính công, cải cách
hành chính là một quá trình tiến hành những sửa đổi, cải tiến mang tính cơ bản và có hệ
thống đối với hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước. Tuỳ theo điều kiện cụ thể của
mỗi nước và trong từng thời kỳ, nội dung của cải cách hành chính có phạm vi và mức độ
khác nhau Ở nước ta, công cuộc cải cách hành chính bắt đầu được triển khai từ khoảng
giữa những năm 90 thế kỷ XX với sự ra đời của Nghị quyết 38/CP ngày 04/5/1994 của
Chính phủ. Thực tế cho thấy chỉ có thể thực hiện cải cách hành chính thành công khi tiến
hành đồng thời với việc cải cách tài chính công. Mối quan hệ khăng khít giữa cải cách


hành chính và cải cách tài chính công thể hiện ở các mặt sau: việc thực thi hoạt động của
bộ máy nhà nước gắn liền với cơ chế tài chính hỗ trợ cho các hoạt động đó; việc phân
cấp quản lý hành chính phải tương ứng với sự phân cấp quản lý ngân sách nhà nước để
đảm bảo kinh phí cho hoạt động có hiệu quả ở mỗi cấp; các cấp chính quyền trong bộ
máy hành chính đều có trách nhiệm và quyền hạn có ý nghĩa quyết định trong quản lý tài
chính công ở phạm vi quản lý của mình; các thể chế về tài chính công có tác dụng chi
phối hoạt động của các cơ quan nhà nước chủ trương của Chính phủ; tỷ trọng và cơ chế
chi tiêu kinh phí ngân sách để trả lương cho đội ngũ cán bộ, công chức trong bộ máy nhà
nước có tác động quan trọng đến việc phát huy năng lực của cán bộ, công chức trong

công tác; thông qua tài chính công, nhà nước thực hiện giám sát bằng đồng tiền đối với
mọi hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà nước.
Từ những mối quan hệ hữu cơ nói trên, có thể thấy rằng công cuộc cải cách hành
chính không thể tách rời với cải cách tài chính công. Cải cách tài chính công tác động tới
cải cách hành chính nhà nước cả ở phạm vi rộng và phạm vi hẹp. Xét trên phạm vi rộng,
cải cách tài chính công là cải cách các hoạt động thu và chi bằng tiền của nhà nước,
thông qua đó tác động đến toàn bộ hoạt động quản lý nhà nước và cung ứng dịch vụ
công trên các lĩnh vực. Trên phạm vi hẹp, vai trò của tài chính công đối với cải cách
hành chính được xem xét thông qua các tác động trực tiếp của tài chính công tới bản
thân bộ máy hành chính nhà nước, cụ thể tới cách thức tổ chức bộ máy, cơ cấu tổ chức,
quan hệ phân cấp trong bộ máy, cơ chế tài chính bên trong bộ máy, tiền lương công
chức... Những tác động nêu trên gắn liền với các nội dung của cải cách hành chính mà
chúng ta đang tiến hành.
Dưới đây xin được bàn tới sự cần thiết và yêu cầu đặt ra cho cải cách tài
chính công
Trong điều kiện hiện nay ở nước ta, cải cách tài chính công là một đòi hỏi khách
quan và phù hợp với các điều kiện đảm bảo tính khả thi của cải cách. Nó xuất phát từ
thực trạng tài chính công hiện nay và yêu cầu về cải cách hành chính nhà nước trong
những năm tới.
Thứ nhất, đối với thực trạng tài chính công hiện nay, bên cạnh một số kết quả
bước đầu đạt được, tài chính công vẫn đang còn những hạn chế cần sớm khắc phục, đó
là:
Đối với lĩnh vực NSNN: do chưa xây dựng khuôn khổ tài chính trung hạn nên hạn
chế tính chiến lược của ngân sách và không phù hợp với việc quản lý các dự án tài chính
lớn cần thực hiện trong nhiều năm. Bố trí ngân sách còn bị động, co kéo với các mục
tiêu ngắn hạn. Cơ cấu chi ngân sách còn bất hợp lý, vẫn còn những khoản chi mang tính
bao cấp. Phạm vi chi ngân sách chưa được xác định rõ nên khó giảm được gánh nặng chi
ngân sách trong khi quy mô ngân sách còn nhỏ. Mặt khác, việc chi bao cấp, bao biện đã
tạo tư tưởng ỷ lại, làm giảm động lực phát triển và cản trở việc thu hút đầu tư xã hội vào
việc cung cấp dịch vụ công. Việc phân bổ, quản lý và sử dụng ngân sách còn kém hiệu



quả, sử dụng lãng phí. Công tác kiểm soát chi vẫn nặng nề về số lượng, chưa chú ý đúng
mức đến chất lượng, hiệu quả khoản chi...
Đối với tài chính các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp: Định mức, chế độ chi
tiêu lạc hậu, thiếu cụ thể, không đồng bộ. Cơ chế quản lý biên chế, quản lý kinh phí ngân
sách còn bất cập, chưa tạo động lực khuyến khích sử dụng kinh phí tiết kiệm, hiệu quả,
dẫn đến tình trạng lãng phí khá phổ biến.
Thứ hai, xuất phát từ yêu cầu cải cách hành chính nhà nước và những thể chế mới
về NSNN cũng đặt ra yêu cầu về cải cách tài chính công một cách cấp thiết, cụ thể:
Luật NSNN (năm 2002) vừa tạo ra cơ sở pháp lý cho cải cách căn bản về tài chính
công, vừa dẫn đến những yêu cầu về cải cách tài chính công như: cơ cấu lại chi ngân
sách, đổi mới cơ chế phân cấp quản lý tài chính và ngân sách....
Mục tiêu tổng thể về cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010 đã đặt ra
yêu cầu cải cách tài chính công. Đó là: Tạo điều kiện cho chính quyền địa phương chủ
động xử lý các công việc ở địa phương; phân biệt cơ quan hành chính công quyền với tổ
chức sự nghiệp, dịch vụ công; đổi mới cơ chế phân bổ ngân sách, chuyển từ cấp kinh
phí theo biên chế sang cấp kinh phí căn cứ vào kết quả và chất lượng hoạt động, hướng
vào kiểm soát đầu ra, tăng quyền chủ động của đơn vị sử dụng ngân sách...
Yêu cầu về cải cách tài chính công: Những kết quả bước đầu của cải cách tài
chính công ở Việt Nam thời gian gần đây đòi hỏi phải tiếp tục cải cách mạnh mẽ hơn
nữa trong giai đoạn tới. Đồng thời, đó cũng là những bước đi mang tính thử nghiệm, nó
cho phép khẳng định khả năng cải cách tài chính công ở nước ta.
Nhận thấy cải cách tài chính công và cải cách hành chính nhà nước có mối quan
hệ chặt chẽ với nhau, những biến động của bộ phận này luôn tác động kéo theo sự thay
đổi của bộ phận kia. Do vậy, cải cách tài chính công phải đặt trong mối quan hệ tổng thể
của chương trình cải cách hành chính nhà nước, phải đáp ứng được các yêu cầu của cải
cách hành chính và hỗ trợ cho quá trình này. Theo đó, cải cách tài chính công phải đáp
ứng các yêu cầu sau:
* Phải tạo điều kiện tập trung nguồn lực tài chính nhà nước để giải quyết các

nhiệm vụ quan trọng, đúng với chức năng của nhà nước; sử dụng tập trung nguồn lực
cho các ưu tiên chiến lược với chính sách nhất quán, thống nhất và thực tế.
* Phải nâng cao được tính chủ động, quyền hạn và trách nhiệm của các đơn vị
trong việc quản lý, sử dụng kinh phí ngân sách và với vấn đề tài chính của mình.
* Phải nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực tài chính nhà nước, bao gồm hiệu quả
quản lý, hiệu quả sử dụng NSNN trên bình diện vĩ mô và hiệu quả sử dụng kinh phí
ngân sách ở các đơn vị trực tiếp sử dụng ngân sách.
* Phải hướng tới mục tiêu cuả cải cách hành chính nhà nước, đó là: nâng cao hiệu
lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước, nâng cao chất lượng các dịch vụ công được cung
cấp.
Một số giải pháp cải cách tài chính công (chủ yếu bàn về tăng cường quản lý
tài chính công) trong thời gian tới


Thứ nhất, phân cấp rõ ràng về quản lý ngân sách, bảo đảm cho các cấp chính
quyền địa phương có sự chủ động lớn hơn về nguồn thu và thẩm quyền quyết định chi
ngân sách, trên cơ sở đó chủ động bố trí và thực hiện kế hoạch hoạt động quản lý nhà
nước và công tác chuyên môn tại địa phương mình.
Cần tiệm cận việc phân cấp cho từng cấp chính quyền có nguồn thu độc lập tương
đối. Khi có được nguồn thu độc lập, ổn định theo khu vực hành chính của mình, mỗi cấp
sẽ tích cực và chủ động hơn trong việc bồi dưỡng và khai thác nguồn thu. Khoản thu độc
lập, có tính ổn định cao sẽ giúp chính quyền địa phương chủ động bố trí các khoản chi
tiêu cố định của mình, không bị lệ thuộc quá nhiều vào cấp trên.
Việc phân bổ tỷ lệ điều tiết theo từng sắc thuế giữa trung ương và địa phương làm
cho việc tính toán trở nên khá phức tạp và không khuyến khích địa phương thu các sắc
thuế do trung ương được hưởng hoặc có tỷ lệ phân bổ cho địa phương thấp. Vì vậy, có
thể sử dụng một tỷ lệ điều tiết chung giữa trung ương và địa phương tính trên tổng số thu
từ tất cả các loại thuế. Tỷ lệ này có thể được điều chỉnh theo từng vùng để tạo ra sự phân
bổ ngân sách hợp lý giữa các vùng phù hợp với định hướng phát triển của vùng đó. Tỷ lệ
điều tiết ngân sách được quyết định 3 năm một lần để tạo sự chủ động cho địa phương

trong bố trí các khoản chi.
Thứ hai, tăng cường quản lý chu trình ngân sách. Quản lý tốt hơn chu trình ngân
sách giúp cho các cơ quan, đơn vị khớp nối giữa kế hoạch hoạt động với kế hoạch tài
chính, từ đó có đầy đủ và kịp thời các nguồn lực tài chính để chủ động thực thi các
nhiệm vụ. Cần đổi mới các hoạt động từ lập dự toán ngân sách cho đến chấp hành và
quyết toán ngân sách có tính khoa học và phù hợp hơn với thực tế. Cụ thể là cần tiếp tục
đổi mới các căn cứ và quy trình lập dự toán ngân sách, hoàn thiện thủ tục và cơ chế chấp
hành ngân sách, cũng như đổi mới phương thức quyết toán ngân sách. Đặc biệt, cần
chuyển các định mức phân bổ ngân sách cho các lĩnh vực dựa trên đầu vào sang căn cứ
vào kết quả đầu ra.
Thứ ba, hoàn thiện các chế độ, định mức chi tiêu. Các định mức chi tiêu hợp lý
giúp các cơ quan, đơn vị tính toán chính xác hơn các nguồn lực tài chính cần thiết cũng
như có căn cứ khoa học để chi tiêu kinh phí một cách tiết kiệm và thích hợp. Cần tiếp
tục hoàn thiện các định mức chi tiêu cụ thể - đặc biệt trong lĩnh vực hành chính, trên cơ
sở khách quan và sát hợp hơn với thực tế, theo hướng tạo ra sự chủ động cho cơ quan,
đơn vị và khuyến khích tiết kiệm.
Thứ tư, tăng cường tính chủ động về tài chính của các đơn vị hành chính sự
nghiệp trên cơ sở gắn chi tiêu tài chính với việc cải tiến cơ chế quản lý của các đơn vị
này. Việc khoán biên chế và chi phí hành chính đối với các cơ quan hành chính và quyền
tự chủ về tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp có thu cần được hoàn chỉnh và áp dụng
mở rộng trong thời gian tới.
Thứ năm, mở rộng và hoàn thiện kiểm toán ngân sách, góp phần chấn trỉnh kỷ
luật tài chính công, phát hiện và ngăn chặn tình trạng lãng phí, tham nhũng. Tăng cường
cả kiểm toán nội bộ và kiểm toán của cơ quan kiểm toán nhà nước, làm cho kiểm toán


trở thành một hoạt động thường xuyên đối với các cơ quan, đơn vị sử dụng kinh phí từ
ngân sách nhà nước. Hoạt động kiểm toán phải góp phần đánh giá tính kinh tế, hiệu quả
trong sử dụng các nguồn lực tài chính của nhà nước, kịp thời phát hiện và ngăn chặn các
hành vi lãng phí, tham nhũng, từ đó chấn chỉnh kỷ luật tài chính trong các cơ quan, đơn

vị.
Thứ sáu, tăng cường sử dụng ngân sách có hiệu quả, từ đó dành một khoản chi
thoả đáng cho tiền lương trên cơ sở tiếp tục cải cách chính sách tiền lương gắn với kết
quả thực thi nhiệm vụ. Yêu cầu quan trọng bậc nhất trong cải cách tiền lương là xây
dựng được một hệ thống thang bảng lương và cơ chế nâng lương hợp lý có tác dụng
khuyến khích những người làm việc có hiệu quả.
Thực hiện tốt những cải cách trên đây về tài chính công sẽ tác động trực tiếp đến
hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước, làm tăng tính tự chủ của các đơn vị gắn với
sự chủ động về tài chính; tạo ra cơ chế tài chính khuyến khích các đơn vị chi tiêu có hiệu
quả, hướng vào kết quả đầu ra và tiết kiệm ngân sách, trên cơ sở đó tăng cường thu nhập
cho người lao động. Đó chính là những động lực thúc đẩy các cơ quan trong bộ máy nhà
nước đổi mới về tổ chức, phương thức hoạt động và nâng cao năng lực của đội ngũ
CB,CC, làm cho bộ máy nhà nước hoạt động có hiệu lực và hiệu quả hơn.
Cải cách tài chính công là một trong 4 nội dung cơ bản của Chương trình tổng thể
cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010. Cải cách tài chính công không chỉ
mang lại lợi ích cho nhà nước, cho các bộ, ngành, địa phương, đơn vị trực tiếp sử dụng
các nguồn lực tài chính công mà còn mang lại lợi ích cho mọi tầng lớp nhân dân, những
người có quyền giám sát việc sử dụng các nguồn lực tài chính công, đồng thời là người
thụ hưởng dịch vụ công được cung cấp bởi những nguồn lực tài chính công. Tuy nhiên,
cải cách tài chính công là vấn đề nhạy cảm, luôn tiềm ẩn những khó khăn, thách thức, vì
vậy, cần phải được quan tâm chỉ đạo và có biện pháp thực hiện một cách thường xuyên,
có chương trình, kế hoạch cho từng giai đoạn, với những biện pháp cụ thể. Có thể nói,
đó là những công việc đầy khó khăn nhưng phải vượt qua để góp phần quan trọng vào
quá trình cải cách hành chính nhà nước, để tài chính công xứng đáng với vai trò, vị trí
của nó trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước trong thời kỳ mới.
CẢI CÁCH TÀI CHÍNH CÔNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
TS. TRẦN VĂN GIAO
Cải cách tài chính công là nhiệm vụ quan trọng của đất nước có liên quan
mật thiết với yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Do vậy, vấn đề đánh giá thực trạng
công cuộc cải cách tài chính công ở Việt Nam hiện nay và xác định những vấn đề có

tính nguyên tắc trong việc xây dựng phương hướng, chính sách và giải pháp trong
thời gian tới là nhiệm vụ cấp thiết.
1 – Những kết quả đạt được


Việt Nam thực hiện cải cách tài chính công chưa được bao lâu, nhưng những kết
quả đạt được trong cải cách là rất cơ bản.
Hệ thống thuế: Sau gần 8 năm thực hiện cải cách, chính sách thuế đã được đổi
mới theo hướng thích ứng dần với cơ chế thị trường và phù hợp với thông lệ quốc tế.
Thuế đã bảo đảm nguồn tài chính chủ yếu để thực hiện tốt các nhiệm vụ phát triển kinh
tế – xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng. Trong hệ thống chính sách thuế đã từng bước
giảm dần sự phân biệt giữa các thành phần kinh tế, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi
để các doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh, đẩy
mạnh xuất khẩu; thủ tục hành chính trong thu nộp thuế được đơn giản hóa, công tác
quản lý thuế được đổi mới và dần được hiện đại hóa.
Chính sách thuế tiếp tục được sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện theo hướng áp dụng
thống nhất đối với các loại hình doanh nghiệp và bước đầu phù hợp với thông lệ quốc tế,
góp phần khuyến khích đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh.
Ngân sách nhà nước: Ngân sách này đã được cơ cấu lại theo hướng giảm các
khoản chi bao cấp, tăng dần tỷ lệ chi cho đầu tư phát triển, tập trung ưu tiên chi cho
những nhiệm vụ phát triển kinh tế- xã hội quan trọng và giải quyết những vấn đề xã hội
bức xúc. Công tác quản lý và phân cấp ngân sách đã có những đổi mới cơ bản, nâng cao
quyền chủ động và trách nhiệm của các đơn vị, các địa phương và các ngành sử dụng
ngân sách; giảm được nhiều khâu, thủ tục không cần thiết trong cấp phát ngân sách, tập
trung vào công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát tài chính. Bội chi ngân sách nhà nước
được xử lý theo hướng tích cực và được kiềm chế trong giới hạn cho phép. Giải quyết
thành công cơ cấu lại nợ nước ngoài, tỷ lệ nợ nước ngoài được khống chế ở mức an toàn
theo thông lệ quốc tế, tạo điều kiện giữ vững an ninh tài chính quốc gia. Hội nhập quốc
tế trong lĩnh vực tài chính bước đầu đã thu được kết quả tích cực.
Cơ chế tài chính đối với đơn vị hành chính sự nghiệp: Trên cơ sở phân định rõ

các đơn vị hành chính với đơn vị sự nghiệp, tiến hành áp dụng cơ chế quản lý tài chính
đối với cơ quan hành chính, Nhà nước đã ban hành Nghị định số 130/2005/NĐ – CP,
ngày 17-10-2005 "Quy định chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và
kinh phí quản lý hành chính đối với cơ quan nhà nước" và Nghị định số 43/2006/NĐ –
CP, ngày 25-4-2006 "Quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ
tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập". Tóm lại, cơ
chế tài chính đối với khu vực hành chính sự nghiệp được đổi mới về cơ bản theo hướng
tiết kiệm và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực tài chính. Cơ chế tài chính trong việc
cung cấp dịch vụ công theo hướng khuyến khích các tổ chức kinh tế và nhân dân đầu tư
để thực hiện và cung cấp một số dịch vụ công, đẩy mạnh xã hội hóa một số lĩnh vực sự
nghiệp, thu hút được nguồn nội lực đáng kể cho phát triển sự nghiệp.
Cơ chế tài chính trong lĩnh vực quản lý tài sản công: Cơ chế này đã được hoàn
thiện nhằm tăng cường huy động các nguồn lực tài chính cho phát triển kinh tế – xã hội.
Bước đầu đã hình thành hệ thống các văn bản pháp quy trong lĩnh vực quản lý tài sản
nhà nước, bao gồm các chế độ, định mức, tiêu chuẩn, vừa tạo thuận lợi cho đơn vị sử


dụng, vừa có tác dụng nâng cao kỷ luật, kỷ cương tài chính, tăng cường trách nhiệm các
cấp, các ngành, các đơn vị trong quản lý và sử dụng tiết kiệm và hiệu quả tài sản nhà
nước, từng bước xác lập chủ sở hữu đích thực về tài sản nhà nước. Hình thành thống
nhất tổ chức quản lý tài sản nhà nước từ trung ương đến địa phương.
Huy động và sử dụng nguồn vốn ODA: Nguồn vốn ODA đã được sử dụng để
khôi phục, nâng cấp và xây dựng mới hàng loạt các dự án quốc gia quy mô lớn trong các
lĩnh vực giao thông, điện, thủy lợi, cấp thoát nước, y tế, giáo dục và đào tạo. Đồng thời,
vốn ODA cũng được chú trọng hơn vào lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn,
thủy sản, sản xuất và chế biến hàng xuất khẩu, lĩnh vực du lịch và dịch vụ, góp phần
thúc đẩy sự gia tăng giá trị sản lượng nông nghiệp và tạo ra nguồn thu ngoại tệ để trả nợ
nước ngoài. Nhờ vậy, nguồn vốn ODA đã đóng góp tích cực phát triển kinh tế – xã hội
của đất nước, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng CNH, HĐH, giải quyết các vấn đề xã hội và xóa đói giảm nghèo. Nguồn vốn

ODA cho vay lại đối với các doanh nghiệp đã đáp ứng nhu cầu cấp bách về vốn để thực
hiện các mục tiêu đầu tư cho các doanh nghiệp, thực hiện đổi mới công nghệ nhằm nâng
cao năng lực cạnh tranh và nâng cao đời sống cho người lao động.
Thu hút vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài: Việc gia tăng vốn đầu tư thực hiện
thể hiện môi trường đầu tư và kinh doanh ở nước ta đã ngày càng được cải thiện, tạo
điều kiện để các dự án sau khi được cấp phép triển khai có hiệu quả. Trong 2 năm gần
đây, cơ cấu đầu tư nước ngoài có chuyển biến tích vượt bậc, đặc biệt là việc gia tăng tỷ
trọng đầu tư vào kết cấu hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật của một số ngành mũi nhọn và
một số lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp.
Quản lý nợ nước ngoài: Đã thực hiện thành công quá trình cơ cấu lại các khoản
nợ trước đây của Việt Nam đối với các chủ nợ nước ngoài, làm giảm đáng kể nghĩa vụ
trả nợ của Việt Nam, tạo điều kiện khai thông quan hệ tài chính – tín dụng với các tổ
chức quốc tế và các chính phủ nước ngoài. Thực hiện thanh toán trả nợ với các khoản
vay mới và các khoản đã cơ cấu lại nợ đã bảo đảm trả nợ đúng như các hiệp định đã ký,
không để phát sinh nợ quá hạn. Đã linh hoạt xử lý theo hướng chuyển đổi một phần nợ
nước ngoài thành các khoản tài trợ cho các dự án đầu tư trong nước; xử lý giảm số nợ
thông qua mua lại nợ, chuyển đổi nợ, giảm nợ… Bổ sung, sửa đổi cơ chế chính sách
quản lý về vay và trả nợ nước ngoài; tăng cường giám sát về nợ nước ngoài, hợp lý và
hiện đại hóa nghiệp vụ quản lý nợ.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, trong quá trình thực hiện cải cách tài chính
công ở Việt Nam còn tiềm ẩn những yếu tố chưa ổn định; chất lượng, hiệu quả và
tính bền vững của sự phát triển còn thấp; nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển lớn,
nhưng mức đáp ứng vốn còn hạn chế, nhiều tiềm năng vốn trong nước và vốn nước
ngoài chưa được khai thác tốt.
Đầu tư của Nhà nước chiếm tỷ trọng cao, nhưng mức đóng góp vào tăng trưởng
thấp, chưa tương xứng. Quy mô tài chính còn nhỏ, cân đối ngân sách nhà nước chưa
thực sự vững chắc, tỷ trọng thuế trực thu còn thấp. Vốn đầu tư thực hiện tăng, nhưng tỷ


trọng vốn đầu tư nước ngoài trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội có xu hướng giảm do tốc

độ tăng vốn đầu tư nước ngoài thực hiện chậm hơn tốc độ tăng vốn đầu tư của các thành
phần kinh tế khác.
Cơ cấu đầu tư nước ngoài còn mất cân đối cả về cơ cấu vùng và ngành. Đầu tư
vào lĩnh vực dịch vụ có xu hướng giảm sút so với các năm trước. Mặc dù, Chính phủ đã
áp dụng chính sách ưu đãi, nhưng đầu tư nước ngoài vào các vùng có điều kiện kinh tế –
xã hội khó khăn chưa đáng kể. Chưa chú ý khai thác vốn thông qua các "kênh" gián tiếp
và thông qua thị trường vốn. Phạm vi đánh thuế còn hạn hẹp, hệ thống thuế chưa bao
quát hết các nguồn thu nhập, bỏ sót nguồn thu và đối tượng nộp thuế.
Tính dàn trải trong chi ngân sách nhà nước chưa được khắc phục, bao cấp chưa
được xóa bỏ triệt để; hiệu quả đầu tư còn thấp; thất thoát, lãng phí trong quản lý và sử
dụng đất đai, quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản và chi tiêu ngân sách còn nghiêm
trọng, chi tiêu hành chính còn nhiều bất hợp lý, chi ngân sách cho một số lĩnh vực nhu
cầu chăm lo phát triển con người như giáo dục, y tế chưa đáp ứng nhu cầu cần thiết.
Trong nông nghiệp còn nặng về đầu tư thủy lợi (chiếm khoảng 70%) chủ yếu phục vụ
trồng lúa; việc đầu tư cho các lĩnh vực khác nhau như nghiên cứu giống cây con, chuyển
giao công nghệ, chế biến để nâng cao khả năng cạnh tranh sản phẩm nông nghiệp còn
hạn chế. Trong công nghiệp và các ngành kinh tế còn quá chú trọng đầu tư để tăng công
suất (số lượng) chưa chú ý đến đầu ra của sản phẩm; công tác quy hoạch ngành còn
nhiều hạn chế. Hệ số ICOR những năm 1991 – 1995 khoảng 3,5 (để tăng được 1 đồng
GDP cần đầu tư 3,5 đồng), những năm 1996 – 2000 hệ số này là 5 và từ năm 2001 –
2007 là 4,58.
Như vậy, trong khi tổng vốn đầu tư toàn xã hội tăng vượt so với mục tiêu Đại hội
X đề ra, tốc độ tăng trưởng kinh tế có tăng, nhưng chưa tương xứng với mức đầu tư bỏ
ra.
Sở dĩ có tồn tại trên là do các nguyên nhân: Thể chế tài chính trong kinh tế thị
trường chậm hình thành, hệ thống chính sách, pháp luật về tài chính thiếu đồng bộ, thiếu
nhất quán, thậm chí còn mâu thuẫn, nên đã cản trở quá trình vận hành theo cơ chế thị
trường, chưa tạo ra hành lang thuận lợi để phát huy hết các tiềm năng và nguồn lực của
nền kinh tế. Trong quá trình hoàn chỉnh hệ thống pháp luật theo hướng tiến tới một mặt
bằng pháp lý chung đã có những thay đổi bất lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài. Chẳng

hạn, việc thi hành Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp đã giảm ưu đãi về thuế, nhất là đối
với các dự án đầu tư vào khu công nghiệp, khu chế xuất tại các trung tâm đô thị lớn và
các dự án thuộc danh mục đặc biệt khuyến khích đầu tư. Việc giảm ưu đãi về thuế thu
nhập doanh nghiệp đối với các dự án đầu tư nước ngoài cũng như chính sách đối với ôtô, xe máy đã làm cho nhiều nhà đầu tư lo ngại về sự thiếu nhất quán của chính sách đầu
tư nước ngoài của nước ta, đồng thời, cản trở việc quyết định đầu tư của một số dự án,
trong đó có những dự án quy mô lớn, sử dụng công nghệ cao.
Nhiều dự án đầu tư vào các lĩnh vực dịch vụ gặp ách tắc do chủ trương chưa rõ
ràng, các vướng mắc trong công tác quy hoạch ngành chưa được tháo gỡ, cản trở các nhà


đầu tư. Việc suy giảm đầu tư vào lĩnh vực dịch vụ đã làm hạn chế kết quả thu hút đầu tư
nước ngoài. Nhận thức về vai trò của tài chính và thị trường vốn trong việc mở đường,
thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội còn hạn chế, nên tư duy trong hoạch định chính
sách tài chính và phát triển thị trường tài chính chậm đổi mới, thiếu tính đột phá trong
hoạch định chính sách. Trong nhận thức còn nặng về tư duy "tài chính phục vụ sản
xuất", "tài chính bảo đảm vốn cho mọi hoạt động" dẫn đến người có thẩm quyền quyết
định đầu tư không gắn với thẩm quyền phân bổ vốn, kết quả là quyết định đầu tư vượt
quá khả năng nguồn vốn đầu tư, làm cho vốn đầu tư dàn trải, nợ xây dựng cơ bản lớn,
đầu tư kém hiệu quả.
Chưa có sự kết hợp chặt chẽ giữa chiến lược phát triển các ngành kinh tế với chiến
lược tài chính, chiến lược thuế… dẫn đến sự chắp vá trong việc hình thành cơ chế, chính
sách; đồng thời làm cho chính sách thường xuyên thay đổi, gây mất ổn định trong môi
trường đầu tư. Công tác phân tích dự báo chưa được coi trọng đúng mức khi nghiên cứu
hoạch định chính sách, dẫn đến thường xuyên phải bổ sung, sửa đổi, tạo ra sự không
đồng bộ, không nhất quán. Tư tưởng bao cấp, tâm lý muốn được Nhà nước bảo hộ còn
nặng nề; thói quen và dấu ấn quản lý theo kiểu cũ vẫn tồn tại và không dễ xóa bỏ đã gây
cản trở không nhỏ cho quá trình đổi mới trong lĩnh vực tài chính.
Các doanh nghiệp còn có tư tưởng trông chờ vào nguồn tín dụng ưu đãi, không
muốn huy động trên thị trường vốn. Trong quản lý còn nặng về tư tưởng "xin – cho".
Chẳng hạn, trong xây dựng cơ bản xuất hiện tình trạng "xin – cho" trong việc bố trí vốn

đầu tư, bổ sung vốn kế hoạch hằng năm, ưu đãi về tín dụng, miễn giảm thuế… ; không
những xin cho về cơ chế, mà còn xin nới lỏng cơ chế (như xin kéo dài, châm chước các
thủ tục đầu tư hoặc xin những "vận dụng" trái nguyên tắc). Chưa kiên quyết trong việc
đẩy nhanh tiến trình sắp xếp, chuyển đổi sở hữu và cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
làm tiến trình cổ phần hóa chậm so với kế hoạch, nhất là các doanh nghiệp nhà nước lớn,
làm ảnh hưởng đến sự phát triển của nhiều lĩnh vực, đặc biệt là làm hạn chế sự phát triển
của thị trường chứng khoán. Chưa kiên quyết trong việc chuyển nhanh các đơn vị sự
nghiệp sang thực hiện cơ chế tự chủ tài chính. Triển khai thực hiện cải cách hành chính
trong ngành tài chính tiến triển chậm, công tác tổ chức, đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán
bộ có năng lực quản lý trong các lĩnh vực tài chính đã được tăng cường, nhưng vẫn chưa
đáp ứng yêu cầu đòi hỏi thực tiễn.
2 – Tiếp tục đẩy mạnh cải cách tài chính công trong thời gian tới
Xu hướng chung hiện nay, các nước trên thế giới đang thúc đẩy một cách mạnh
mẽ cải cách hoạt động tài chính công. Có nhiều lý do, song chủ yếu vẫn là:
Xét ở góc độ vật chất, tài chính công là một phần của cải của xã hội dưới hình
thức giá trị được giao cho khu vực công sử dụng. Trên thực tế hiện nay, đa phần nguồn
của cải đó đang bị khu vực công sử dụng chưa được hiệu quả như mong muốn, trong khi
nguồn lực của đất nước có hạn.
Ở nhiều góc độ, hoạt động của tài chính công có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình
phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Nếu hoạt động của tài chính công được triển


khai theo hướng tích cực, phù hợp với xu thế cải cách hành chính, đáp ứng với những
đòi hỏi hợp lý của các lực lượng thị trường sẽ là động lực thúc đẩy quá trình phát triển
kinh tế – xã hội của đất nước. Ngược lại, nếu hoạt động của tài chính công không hiệu
quả, không thích ứng với bối cảnh kinh tế, xã hội mới, thì sẽ là lực cản cho quá trình
phát triển kinh tế – xã hội.
Cải cách hoạt động tài chính công là xu hướng phổ biến của các nước có liên quan
mật thiết với yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế và là yêu cầu bắt buộc đối với các nước
khi tham gia vào các tổ chức kinh tế, tài chính quốc tế.

Cải cách tài chính công ở nước ta cần phải vừa góp phần vào sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa vừa phù hợp với yêu cầu của quá trình chuyển đổi sang nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Mặc dù đã hơn 20 năm đổi mới, nhưng cơ chế quản lý tập trung, quan liêu, bao
cấp vẫn chưa hoàn toàn bị xóa bỏ. Nhiều hoạt động của nền kinh tế rất có thể "nhân
danh" vì lợi ích chung, vì thực hiện vai trò quản lý của Nhà nước mà tài chính công bị
lợi dụng và lạm dụng. Vì thế, để đổi mới tài chính công có hiệu quả, cần nắm vững quan
điểm của Đảng và Nhà nước trong việc chuyển nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế thị
trường.
Cải cách phải phù hợp với yêu cầu mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế. Mở cửa và
hội nhập nền kinh tế Việt Nam vào nền kinh tế khu vực và quốc tế đòi hỏi Việt Nam
phải tuân thủ những luật chơi chung đã cam kết với các tổ chức khu vực và quốc tế. Điều
đó đòi hỏi phải có những cải cách về mặt hành chính, trong đó có cải cách tài chính công
sao cho phù hợp với những quy định và cam kết quốc tế, bảo đảm nâng cao năng lực
quản lý nhà nước về kinh tế và nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp và
của nền kinh tế là vấn đề có ý nghĩa sống còn.
Trên cơ sở đó, những mục tiêu cần phải đạt được trong thời gian tới là:
- Bảo đảm tiết kiệm và hiệu quả các khoản chi tài chính của khu vực công. Các
khoản chi tài chính của khu vực công đa phần là do ngân sách nhà nước đảm nhận, có
đặc điểm không hoàn trả trực tiếp, không có tính chất ngang giá, lại có phạm vi rộng,
khối lượng chi lớn. Thực tế của các nước cho thấy các khoản chi này hiệu quả thấp, lãng
phí còn lớn. Vì vậy, cần coi trọng và thực hiện bằng được mục tiêu tiết kiệm và hiệu quả
các khoản chi của khu vực công trong quá trình cải cách, đổi mới tài chính công.
- Cải cách, đổi mới tài chính công phải hướng tới mục tiêu thúc đẩy mạnh mẽ
công cuộc cải cách hành chính nhà nước, bảo đảm cho bộ máy hành chính hoạt động
tốt hơn (trung thực, minh bạch, gần dân hơn, không cửa quyền, không tham nhũng)
chuyên nghiệp hơn, điều hành có hiệu quả hơn hoạt động kinh tế – xã hội của đất nước.
Hoạt động của tài chính công không chỉ có tác dụng cung cấp nguồn lực tài chính cho bộ
máy công quyền hoạt động, mà điều quan trọng là phải thông qua hoạt động tài chính
công để có tác động mạnh mẽ đến việc điều chỉnh tổ chức và tính hiệu quả của hoạt

động bộ máy. Vì vậy, gắn việc cải cách đổi mới tài chính công với bộ máy trong sạch


vững mạnh được coi là một trong những mục tiêu quan trọng của cải cách, đổi mới tài
chính công.
- Thông qua cải cách, đổi mới hoạt động tài chính công phải bảo đảm cho việc sản
xuất và cung cấp hàng hóa dịch vụ công cộng công bằng và hiệu quả hơn. Ngày nay,
đa phần các nguồn lực của tài chính công đều được sử dụng cho việc sản xuất và cung
cấp hàng hóa và dịch vụ công cộng. Hầu hết việc sản xuất và cung cấp hàng hóa dịch vụ
công cộng đều do bộ máy công quyền từ trung ương đến địa phương đảm nhận. Nếu bộ
máy công quyền thiếu trung thực, không minh bạch, nạn tham nhũng diễn ra tràn lan, thì
việc sản xuất và cung cấp hàng hóa, dịch vụ công cộng khó đạt được yêu cầu công bằng
và hiệu quả. Do đó, vấn đề đặt ra là việc cải cách, đổi mới hoạt động tài chính công phải
hướng vào mục tiêu bảo đảm công bằng và hiệu quả. Tài chính công có cấu trúc đa dạng
bao gồm nhiều thành phần như đã đề cập ở phần trên. Hoạt động của tài chính công thực
chất là hoạt động của các thành phần của tài chính công. Do đó, nội dung đổi mới, cải
cách tài chính công là đổi mới thu – chi ngân sách nhà nước, đổi mới hoạt động của các
quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách nhà nước, đổi mới tài chính của các cơ quan
công quyền, các đơn vị sự nghiệp công lập…
- Đối với thu – chi ngân sách nhà nước nội dung đổi mới bao gồm đổi mới chính
sách, cơ chế, quy trình làm thay đổi căn bản cách thức thu – chi ngân sách nhà nước, bảo
đảm ngân sách nhà nước thực sự là công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước.
- Đối với hoạt động các quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách, nội dung đổi mới
là gia tăng tỷ trọng huy động các nguồn lực tài chính nhàn rỗi của xã hội trên cơ sở bảo
đảm tính hợp pháp của số lượng các quỹ và sử dụng chúng một cách có hiệu quả.
- Đối với tài chính của các cơ quan công quyền và các đơn vị sự nghiệp công lập,
nội dung đổi mới là tập trung nâng cao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm gắn việc đổi
mới với công cuộc cải cách hành chính và việc cung cấp hàng hóa, dịch vụ công cộng
công bằng và hiệu quả.
Trên cơ sở những mục tiêu trên, nhiệm vụ đặt ra đối với cải cách tài chính công

trong thời gian tới là:
- Tiếp tục cải cách thuế cho phù hợp với tình hình đất nước; yêu cầu của nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; phù hợp với và các cam kết quốc tế. Bổ sung,
hoàn thiện, đơn giản hóa các sắc thuế, từng bước áp dụng hệ thống thuế thống nhất,
không phân biệt doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế nào. Cơ cấu lại nguồn thu, khắc
phục tình trạng hạn hẹp trong phạm vi đánh thuế gây ra bỏ sót nguồn thu và đối tượng
nộp thuế, đáp ứng yêu cầu động viên thu nhập quốc dân vào ngân sách nhà nước. Hiện
đại hóa công tác thu thuế và đổi mới quản lý thu thuế.
- Cần tiếp tục hoàn thiện phân cấp ngân sách bảo đảm tính thống nhất của hệ
thống tài chính quốc gia và vai trò chủ đạo của ngân sách trung ương; đồng thời phát
huy tính chủ động, sáng tạo của địa phương và các ngành trong việc quản lý tài chính và
ngân sách đã được phân cấp.


- Khắc phục tính dàn trải trong chi ngân sách nhà nước và cơ cấu lại hợp lý các
khoản chi ngân sách, bảo đảm tính hiệu quả và công bằng trong chi tiêu ngân sách nhà
nước. Cân đối ngân sách một cách tích cực. Nâng cao hiệu quả đầu tư bằng vốn ngân
sách nhà nước từ xác định chủ trương, lập và duyệt dự án đến thực hiện dự án.
- Tiếp tục thực hiện đổi mới cơ chế tài chính đối với các đơn vị hành chính và sự
nghiệp theo Nghị định số 130/2005/NĐ – CP và Nghị định số 43/2006/NĐ – CP của
Chính phủ đã ban hành.
- Nhà nước cần khẩn trương nghiên cứu để trình Quốc hội thông qua Luật Quản
lý, sử dụng tài sản; nó là một trong những biện pháp quan trọng để thực hiện Luật Thực
hành tiết kiệm, chống lãng phí.
- Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện các nghị quyết, chủ trương của Đảng và Nhà nước
về đổi mới, sắp xếp lại hệ thống doanh nghiệp nhà nước; đặc biệt là cơ chế quản lý vốn,
tách bạch tài chính doanh nghiệp với tài chính nhà nước.
- Nâng cao năng lực và hiệu lực hoạt động của các cơ quan có nhiệm vụ kiểm tra,
giám sát kết quả quản lý và sử dụng tài chính công.
- Quy định rõ ràng trách nhiệm vật chất của những người đứng đầu cơ quan chính

quyền nhà nước mỗi cấp trước kết quả quản lý tài chính công của cấp đó.
- Đổi mới công tác thanh tra, giám sát tài chính trong toàn bộ quá trình quản lý tài
chính công./
THỰC TRẠNG VỀ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH CÔNG TRONG TIẾN TRÌNH
ĐỔI MỚI VÀ THỰC HIỆN CẢI CÁCH NỀN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA HIỆN
NAY
1./ Thực trạng về hệ thống ngân sách nhà nước của Việt Nam hiện nay.
Đối với Việt Nam, ngày 20/3/1996 Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam đã thông qua Luật ngân sách nhà nước, hệ thống ngân sách nhà nước ta bao
gồm 4 cấp : Ngân sách trung ương, ngân sách cấp tỉnh, ngân sách cấp huyện và ngân
sách cấp xã.
Qua đây ta có thể thấy, hệ thống của nhà nước ta còn nhiều bất cập, như bộ máy
còn cồng kềnh, khó có thể kiểm soát được giữa các cấp với nhau…Tuy vậy cũng cần
phải hiểu rằng cơ chế hoạt động của nhà nước ta là tập trung quyền lực vì thế sẽ có
những đặc biệt trong công tác quản lý. Nhưng với xu thế hội nhập ngày nay thì nhà nước
cần phải có những thay đổi cho phù hợp với xu thế toàn cầu.
2./ Thực trạng về thu chi của ngân sách nhà nước ta hiện nay.
2.1/ Thực trạng về thu của ngân sách nhà nước.
Thu ngân sách nhà nước gắn liền với thực trạng hoạt động của toàn bộ nền
kinh tế và sự vận động của các phạm trù giá trị như các phạm trù giá cả, thu nhập, lãi
xuất... trong đó tổng sản phẩm quốc nội ( GDP) là nhân tố khách quan quyết định sự vận
động của các phạm trù giá trị vừa tác động đến sự tăng giảm mức thu vừa đặt ra yêu cầu
nâng cao tác dụng điều tiết của thu ngân sách nhà nước đối với nền kinh tế. Nguồn tài
chính chủ yếu hình thành nên quỹ ngân sách nhà nước là giá trị sản phẩm thặng dư được


tạo ra trong xã hội. Về GDP của nước ta những năm qua đã liên tục tăng trưởng với mức
cao trong khu vực cũng như trên toàn thế giới.
Trong những năm qua nhà nước ta đã ban hành rất nhiều các chính sách về thu
chi của ngân sách nhà nước để tháo gỡ những vướng mắc khơi dậy nguồn lực trong nhân

dân đầu tư vào phát triển sản xuất, kinh doanh. Tỷ lệ huy động vốn đầu tư trong dân để
tăng nguồn ngân sách nhà nước tăng dần, điều này đã chứng tỏ sự tin tưởng của nhân
dân đối với sự lãnh đạo của nhà nước. Cụ thể như sau: Tỷ lệ huy động vốn đầu tư trong
GDP năm 2001 là 34%, năm 2002 là 34.3%, năm 2003 là 35%. Nguồn vốn trong nước
chiếm 70% tổng vốn đầu tư.
2.2./ Thực trạng về chi của ngân sách nhà nước ta hiện nay.
Ở Việt Nam hàng năm, ngân sách nhà nước đã dành một lượng vốn lớn chi cho
đầu tư phát triển, mặt khác nhà nước còn có những chính sách khuyến khích mạnh mẽ
các hình thức đầu tư phát triển để thực hiện CNH – HĐH đất nước. Trong thời gian tới
để đảm bảo cho nền kinh tế phát triển ổn định và vững chắc, thì vấn đề chi cho đầu tư
phát triển của ngân sách nhà nước ta trong những năm qua được điều chỉnh theo những
định hướng sau đây:
- Đảm bảo chi đầu tư phát triển đạt mức bình quân khoảng 8% GDP trong đó từ
nguồn tích luỹ từ ngân sách nhà nước từ 4-5% GDP. Vay ưu dãi nước ngoài và vay từ
dân là 3-4% GDP.
- Những năm trước mắt ngân sách nhà nước tập trung đầu tư cho xây dựng cơ sở
hạ tầng, khắc phục một bước tình trạng lạc hậu yếu kém về cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội.
- Với các khu vực doanh nghiệp nhà nước tiếp tục hỗ trợ vốn cho các doanh
nghiệp nhà nước có hiệu quả để giũ được vai trò chủ đạo của nền kinh tế nhà nước.
Đồng thời xúc tiến mạnh cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Cụ thể hàng năm từ 1015% tổng mức chi đầu tư của ngân sách nhà nước cho một số ngành mũi nhọn có vai trò
lớn trong việc phát triển kinh tế.
- Tập trung nguồn lực phát triển kinh tế nhà nước trong những ngành, khu vực
trọng yếu như kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, hệ thống tài chính ngân hàng bảo hiểm…
- Rà soát đánh giá lại hiệu quả kinh tế xã hội của các chương trình mục tiêu quốc
gia, kiên quyết cắt giảm các chương trình không có hiệu quả.
Trong những năm qua nhà nước ta liên tục có những thay đổi trong chính sách
thu chi của ngân sách nhà nước nhằm làm cho việc quản lý các nguồn thu chi có hiệu
quả.Theo Luật ngân sách nhà nước điều chỉnh năm 2001 chi đầu tư phát triển bao gồm
các nội dung sau đây:
+ Đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội không có khả

năng thu hồi vốn.
+ Đầu tư và hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp nhà nước, góp vốn cổ phần, liên
doanh vào các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực cần thiết có sự tham gia của nhà nước theo
quy định của pháp luật.


+ Chi cho quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia và các quỹ hỗ trợ phát triển với các chương
trình dự án phát triển kinh tế.
+ Chi dự trữ nhà nước.
+ Cho vay của chính phủ để đầu tư phát triển.
Những năm gần đây nước ta đã có những thành tựu đáng kể trong việc quản lý
các nguồn ngân sách nhà nước, cũng như các kế hoạch thu chi của chính phủ. Nhưng
bên cạnh đó vẫn còn những tồn đọng khá lớn khó có thể giải quyết một cách nhanh
chóng mà cần phải có thời gian dài như: Tổng số nợ xây dựng cơ bản từ nguồn vốn ngân
sách nhà nước khoảng 11000 tỷ đồng, chiếm 18% tổng số vốn đầu tư từ ngân sách nhà
nước và 37% vốn xây dựng cơ bản tập trung. Về thành tựu đạt được như với sự quan
tâm của nhà nước cho vấn đề giáo dục và với sự đầu tư của ngân sách nhà nước như sau:
- Đầu tư cho giáo dục trong tổng vốn đầu tư của ngân sách nhà nước: Năm
2000 là 15%, năm 2001 là 16%, năm 2005 là 19%. Theo tạp chí cộng sản 12/2005.
- Chỉ số phát triển con người HDI năm 2001 của Việt Nam được xếp vào nhóm
có HDI trung bình trên toàn thế giới, xếp hạng 109 trong tông 175 nước được xếp hạng.
Theo báo phát triển con người năm 2003 của UNDP.
- Đến hết năm 2003, đã có 19 tỉnh thành phố đạt tiêu chuẩn phổ cập trung học.
Theo tạp chí cộng sản 3/200
GIẢI PHÁP VỀ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH CÔNG TRONG TIẾN TRÌNH ĐỔI
MỚI VÀ THỰC HIỆN CẢI CÁCH NỀN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA HIỆN NAY
1./ Một số giải pháp đối với nguồn thu của ngân sách nhà nước.
1.1/ Một số giải pháp cho ngành thuế.
- Tiếp tục cải cách, hoàn thiện các sắc luật về thuế theo các tiêu chuẩn cơ
bản và các hướng chính sau đây:

+ Hệ thống thuế phải bao quát hết các nguồn thu và tăng thu- có nghĩa là phải huy
động mọi nguồn thu, tăng thu trên cơ sở mở rộng diện thu với mức thuế suất vừa phải và
đơn giản vì thuế suất cao quá và thấp quá sẽ mất tác dụng của thuế.
+ Xác định và lựa chọn đúng mục tiêu của thuế: một số mục tiêu chủ yêu như là
kích thích, điều tiết kinh tế và tăng thu cho ngân sách nhà nước; không nên đặt ra cho
thuế phải thực hiện một lúc nhiều mục tiêu liên quan đến chính sách xã hội.
+ Thực hiện chính sách thuế bình đẳng đối với các thành phần kinh tế, các tầng
lớp dân cư, chống tình trạng trùng lặp trong thuế, thuế chồng lên thuế.
+ Đơn giản hoá chính sách thuế: đơn giản cả về mặt thuế suất, thủ tục, dễ hiểu, dễ
thực hiện …
+ Chính sách thuế phải có tác dụng tích cực trong quản lý phân phối thu nhập,
điều tiết thu nhập hợp lý, tạo sự công bằng xã hội.
+ Chính sách thuế phải bảo đảm ổn định trong một thời gian dài, tránh tình trạng
thay đổi quá nhiều, gây trở ngại cho hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ.


+ Chính sách thuế phải tạo ra điều kiện cho khả năng kiểm soát được: kiểm soát
của người nộp thuế, người thu thuế và cơ quan quản lý thuế.
+ Thu hẹp phạm vi diện miễn giảm thuế, tập trung vào các yêu cầu cơ bản của các
chính sách kinh tế, nhằm thực hiện mục tiêu chiến lược phất triển kinh tế xã hội.
+ Nâng cao hiệu lực pháp lý và hiệu quả chính sách, áp dụng nghiêm minh hình
thức thưởng phạt trong thuế, loại bỏ các khoản thuế không có hiệu quả do chi phí để thu
được thuế là quá lớn.
- Tuyên truyền phổ biến sâu rộng, thường xuyên trong mọi tổ chức và dân cư về
các luật thuế và các văn bản dưới luật để họ hiểu và nhận thức rõ trách nhiệm và nghĩa
vụ của mình để họ thực hiện tốt. Tạo điều kiện cho dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm
tra đó là một sức mạnh to lớn để thực hiện chính sách chống trốn lậu thuế.
- Tổ chức chỉ đạo công tác kê khai, đăng ký, xét duyệt đăng ký sản xuất kinh
doanh làm cơ sở và căn cứ pháp lý để thu thuế.
- Lập sổ thuế theo từng doanh nghiệp và hộ sản xuất kinh doanh tại xã, phường,

thị trấn. Sổ thuế được lập một lần và sử dụng trong nhiều năm, hàng năm nếu có thay đổi
thì phải kê khai điều chỉnh lại.
- Chỉ đạo tổ chức thu thuế và nộp thuế: Đây là công việc của các cơ quan quản lý
ở từng cấp ban ngành, được cụ thể hoá như sau:
+ Chính phủ tổ chức thực hiện các luật thuế. Các bộ, cơ quan nganh bộ có liên
quan đến các luật thuế phối hợp với bộ tài chính để ra các văn bản hướng dẫn cụ thể.
+ Chủ tịch uỷ ban nhân dân cấp tỉnh tổ chức chỉ đạo công tác thu thuế ở địa
phương, xác định các căn cứ để thu thuế, xét giảm miễn thuế theo đề nghị của cơ quan
hành chính cấp dưới và cơ quan thuế.
+ Chủ tịch uỷ ban nhân dân cấp huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh có nhiệm
vụ chỉ đạo công tác thu thuế ở địa phương.
+ Chủ tịnh uỷ ban nhân cấp xã, phường, thị trấn có trách nhiệm trực tiếp tổ chức
công tác thu thuế ở địa phương mình.
+ Hệ thống cơ quan thuế là cơ quan chuyên trách thực hiện nhiệm vụ kiểm tra,
kiểm soát, tính thuế và thông báo cho các cơ quan cấp trên và xử phạt vi phạm…
- Tổ chức kiểm tra thực hiện các luật thuế.
Đây là công việc cuả các cơ quan thanh tra kiểm tra của nhà nước trong hệ thống
thanh tra nhà nước. Các cơ quan này có quỳên và có trách nhiệm tổ chức công tác thanh
tra về thuế. Các cấp chính quyền có trách nhiệm và quyền kiểm tra việc thi hành luật
thuế đối với cả hai mặt: Kiểm tra những người nộp thuế thi hành nghĩa vụ nộp thuế và
kiểm tra tổ chức thu thuế cán bộ thuế thì hành luật thuế.
- Củng cố và tăng cường cán bộ thuế, tổ chức đào tạo và đào tạo lại cán bộ thuế,
sắp xếp lại đội ngũ cán bộ thuế
để hoàn thiện công tác điều chỉnh cán bộ thúê cần thực hiện theo các hướng sau:
+ Hoàn thiện chế độ đãi ngộ cho cán bộ một cách thoả đáng để họ yên tâm công
tác tận tâm với trách nhiệm của mình.


+ Hoàn thiện hệ thống pháp luật đối với ngành thuế theo hướng gắn trách nhiệm
vật chất với nghĩa vụ quản lý thuế. Luật cần có tính răn đe mạnh điều này cho phép hạn

chế tiêu cực và tham nhũng của ngành thuế.
1.2/ Một số giải pháp cho việc quản lý các nguồn thu từ kinh tế nhà nước.
Trong việc quản lý nguồn thu từ ngân sách nhà nước vào ngân sách nhà nước
điều quan trọng nhất là đổi mới doanh nghiệp nhà nước. ở nước ta việc đổi mới các
doanh nghiệp nhà nước đã được thực hiện ngay từ Đại Hội IX, và bây giờ vẫn đang
trong giai đoạn đổi mới bằng việc cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước. Sau đây là
một số giải pháp mà nhà nước cần phải thực hiện để đổi mới cho phù hợp với tiến trình
cải cách đất nước:
- Tiếp tục sửa đổi bổ sung cơ chế, chính sách đối với doanh nghiệp nhà nước. Cần
phân biệt rõ cơ chế chính sách đối với doanh nghiệp hoạt động công ích và doanh nghiệp
hoạt động kinh doanh. Đồng thời có quy định kiểm soát các doanh nghiệp nhà nước độc
quyền và lợi nhuận do độc quyền mang lại.
- Tiếp tục kiện toàn, nâng cao hiện quả hoạt động của tổng công ty nhà nước. Quá
trình kiện toàn hướng tới các mục tiêu như: Tập trung nguồn lực của nhà nước để chi
phối được những ngành, những lĩnh vực then chốt của nền kinh tế. Cần rà soát lại các
loại hình tổng công ty hiện có để kiện toàn và phát triển đồng thời những tổng công ty
đang hoạt động trong những nganh, lĩnh vực không cần có tổng công ty nhà nước hoặc
tổng công ty không hội đủ những điều kiện và không có khả năng phát triển thì cần phải
sát nhập vào các tổng công ty khác cùng với ngành nghề kinh doanh hoặc là giải thể.
- Tiếp tục đẩy mạnh cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước mà nhà nước không
cần nắm giữ 100% vốn.
- Sáp nhập, quán kinh doanh, cho thuê hoặc giao bán, giải thể, phá sản các doanh
nghiệp nhà nước có quy mô nhỏ, kinh doanh thua lỗ kéo dài không cổ phần hoá được và
nhà nước không cần nắm giữ để sử dụng có hiện quả tài sản nhà nước, bảo đảm việc
làm, thu nhập, quyền lợi hợp pháp cho người lao động.
- Đổi mới và nâng cao hiêu lực quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước
và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý các doanh nghiệp đáp ứng với yêu cầu
đổi mới, phát triển và hội nhập doanh nghiệp nhà nước.
- Xây dựng và thực hiện chiến lược đổi mới công nghệ trong từng ngành, từng
doanh nghiệp, đồng thời nhanh chóng nâng cao hạ tầng cơ sở.

2. Một số giải pháp đối với nguồn chi ngân sách nhà nước.
2.1./ Giải pháp cho chi đầu tư phát triển.
- Những năm trước mắt, ngân sách nhà nước cần phải tập trung đầu tư cho xây
dựng cơ sở hạ tầng, khắc phục tình trạng lạc hậu yếu kém về cơ sở hạ tầng kinh tế xã
hội.
- Với các khu vực doanh nghiệp nhà nước thì ngân sách nhà nước phải tiếp tục hỗ
trợ vốn cho các doanh nghiệp nhà nước có hiệu quả để giữ được vai trò chủ đạo của nền


kinh tế nhà nước. Đồng thời xúc tiến mạnh cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Cụ thể
hàng năm từ 10-15% tổng mức chi đầu tư của ngân sách nhà nước cho một số ngành mũi
nhọn có vai trò lớn trong việc phát triển kinh tế.
- Nhà nước khuyến khích các hình thức tín dụng nhà nước theo phương châm lấy
tín dụng nuôi tín dụng để tạo thành vốn lớn hơn cho đầu tư. Nguồn vốn đầu tư tập trung
của nhà nước qua ngân sách phải được bố trí có trọng tâm, trọng điểm, quản lý chặt chẽ
phù hợp với khả năng về nguồn vốn, bảo đảm sử dụng có hiệu quả.
- Tập trung nguồn lực phát triển kinh tế nhà nước trong những ngành, khu vực
trọng yếu như kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, hệ thống tài chính ngân hàng bảo hiểm…
- Rà soát đánh giá lại hiệu quả kinh tế xã hội của các chương trình mục tiêu quốc
gia, kiên quyết cắt giảm các chương trình không có hiệu quả.
2.1./ Giải pháp cho chi thường xuyên và chi khác.
- Chi thường xuyên của ngân sách nhà nước rất đa dạng và quy mô rộng, vì vậy
cần phải thực hiện đúng nguyên tắc:
+ Mọi nhu cầu chi thường xuyên dự kiến cho năm kế hoạch phải được xác định
trong dự toán kinh phí và phải được xet duyệt của các cơ quan quyền lực từ thấp đến
cao. Các ngành các cấp, các đơn vị phải có trách nhiệm chấp hành nghiêm chỉnh các chỉ
tiêu.
+ Dự toán chi cho các khoản các mục phải được hạch toán theo đúng mục lục
ngân sách nhà nước đã quy định.
+ Định kỳ theo chế độ quyết toán kinh phí đã quy định các ngành các cấp, các đơn

vị khi phân tích đánh gía kết quả thực hiện của kỳ báo cáo phải lấy dự toán làm căn cứ
đối chiếu so sánh.
+ Nguồn lực cho chi thường xuyên là có giới hạn vì vậy khi chi thường xuyên cần
phải nghiêm chỉnh chấp hành nguyên tắc tiết kiệm, đây là nguyên tắc hàng đầu trong
quản lý tài chính.
- Khi chi thường xuyên cũng như chi khác cũng vậy cần phải xây dựng định mức
chi, và dựa vào đó để chi cho có hiệu quả chánh lãng phí nguồn lực. Xây dựng định mức
chi phải xác định dõ phương pháp và định mức chi tổng hợp, lập kế hoạch chi theo đúng
trình tự…
3./ Một số giải pháp đối với hệ thống công cụ quản lý tài chính công.
+ Hệ thống pháp luật. Nó bao gồm các văn bản pháp luật liên quan đến tài chính
công. Nó quy định các điều kiện chuẩn mực pháp lý cho hoạt động tài chính công. Hệ
thống pháp luật cần được đổi mới thường xuyên cho phù hợp với điều kiện phát triển
của nền kinh tế xã hội đất nước trong từng giai đoạn.
+ Công tác kế hoạch hoá. Công cụ kế hoạch hoá có vị trí quan trọng đặc biệt trong
quản lý tài chính công. Vì vậy cần phải xác định đúng và cụ thể từng công việc của kế
hoạch hoá, xây dựng công tác kế hoạch hoá trong từng giai đoạn cụ thể của đất nước và
phải hợp với quy luật cũng như quy định và thông lệ trong khu vực cũng như trên toàn
thế giới.


+ Hệ thống các chính sách kinh tế vĩ mô nhằm kích thích việc khai thác nguồn thu
đồng thời bảo đảm chi được thực hiện một cách tiết kiệm.
+ Hệ thống thanh tra, kiểm tra, kế toán, kiểm toán. Hệ thống này cho phếp chủ
động ngăn ngừa tiêu cực …
+ Hệ thống tổ chức bộ máy quản lý tài chính công. Tổ chức và con người bao giờ
cũng là công cụ quan trọng trong quản lý. Hệ thống mà chặt chẽ gọn gàng sẽ cho phép
phối hợp nhip nhàng trong quản lý, năng lực cán bộ là yếu tố quyết định trong quản lý
nói chung cũng như trong quản lý tài chính công.
4.THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ THU NGÂN SÁCH CẤP HUYỆN

- Tình hình thu, lập dự toán ngân sách cấp huyện Khánh Vĩnh
+ Tình hình thu ngân sách
Thu ngân sách huyện, trên địa bàn những năm gần đây có nhiều cố gắng, kế
hoạch tỉnh giao luôn hoàn thành và hoàn thành với tỷ lệ cao. Năm 2008 đạt 159,4%,
năm 2009 đạt 192,5%, năm 2010 đạt 212,1% kế hoạch; Số thu trong cân đối vượt kế
hoạch cao nhất là năm 2010 đạt 176% kế hoạch và năm thấp nhất là năm 2008 cũng đạt
113,8%
Tuy nhiên thu trong cân đối của còn eo hẹp, chưa đáp ứng chi thường xuyên trên
địa bàn phải nhờ vào trợ cấp cân đối của tỉnh tương đối lớn;
Năm 2008 trợ cấp cân đối là 118.220 triệu đồng, năm 2009 là 144.872 triệu
đồng, năm 2010 là 176.320 triệu đồng; Như vậy gần như chi ngân sách của huyện
Khánh Vĩnh là nhờ vào trợ cấp cân đối của tỉnh
Thu ngân sách trên địa bàn để cân đối chiếm tỉ trọng thấp trong tổng thu Ngân
sách chủ yếu do nền sản xuất kinh doanh, dịch vụ chưa phát triển, quy mô còn nhỏ,việc
này là một khó khăn lâu dài, bởi quỹ đất thì có hạn, dẫn đến tình trạng thu ngân sách
không được bền vững, điều hành ngân sách sẽ bị động, dễ sinh ra hiện tượng mất cân đối
phải điều chỉnh dự toán.
Những hạn chế
Lập dự toán ngân sách
Các xã, thị trấn các đơn vị dự toán thuộc huyện, lập dự toán ngân sách hàng năm
còn chậm, dẫn đến tổng hợp ngân sách còn chậm.
Việc lập dự toán ngân sách huyện hàng năm chưa thật sự xuất phát từ cơ sở.
Nguyên tắc là dự toán ngân sách cấp huyện phải được xây dựng từ dự toán của các đơn
vị trực thuộc gửi lên. Trên thực tế việc xây dựng dự toán ngân sách cấp huyện chủ yếu
là ấn định dựa theo tính toán của cấp trên là chủ yếu; Các đơn vị sử dụng ngân sách
thường xây dựng dự toán chi cao đề nghị bổ sung cân đối, mặt khác nguồn thu lại có
hạn, tỉnh lại khống chế khoản trợ cấp cân đối. Điều này làm cho dự toán ngân sách được
giao chưa sát với đặc điểm tình hình của đơn vị, làm cho một số đơn vị gặp khó khăn,
thiếu hụt trong chi tiêu. Một số xã xây dựng nguồn thu không sát với thực tế nên có nơi
vượt thu nhiều thì thừa cân đối ngân sách, nơi thu không đạt thì rơi vào tình trạng lúng

túng bị động.


GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CÔNG TÁC QUẢN LÝ THU NGÂN
SÁCH CẤP HUYỆN
Nâng cao chất lượng công tác xây dựng dự toán
Lập dự toán là việc lên kê hoạch thu, chi ngân sách cho năm ngân sách tới, toàn
bộ các dự kiên về các khoản thu, chi ngân sách cho năm ngân sách tới, các dự kiên về
các khoản thu như thuê,phí, lệ phí . . . và các khoản chi thường xuyên, chi đầu tư phát
triên. .
Lập dự toán có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc quản lý ngân sách cũng như
làm cho ngân sách có tính ổn định, an toàn và hiệu quả như vậy chất lượng của công tác
quản lý ngân sách phụ thuộc rất nhiều vào công tác lập dự toán.
Theo Luật Ngân sách năm 2002 thì lập dự toán ngân sách nhà nước phải căn cứ
vào phương hướng, chủ trương, chính sách, nhiệm vụ phát triên kinh tê - Văn hoá - Xã
hội, an ninh, quốc phòng của địa phương trong năm kê hoạch và những năm tiêp theo,
song với thực trạng trong khâu lập dự toán cấp huyện cần phải hạn chê ngay tình trạng
dự toán của đơn vị trực thuộc xây dựng thiêu căn cứ, thiêu định mức, xa rời khả năng
ngân sách, nộp dự toán chậm.
Cần phân cấp công tác thu ngoài quốc doanh trên địa bàn cho cấp huyện và cho
được hưởng 100% khoản thu này nhằm giảm trợ cấp cân đối ngân sách từ tỉnh về; Có
như vậy mới nâng cao vai trò quản lý nhà nước của cấp huyện trong việc quản lý các
doanh nghiệp và tạo được cơ chế thu hút vốn đầu tư tạo môi trường thuận lợi để thúc
đẩy sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, từ đó sẽ tạo ra nguồn thu cho địa phương
và chủ động trong sử dụng nguồn thu.
Lập dự toán ngân sách nhà nước phải đảm bảo đúng trình tự và thời gian. Đối với
số thu của các doanh nghiệp phải căn cứ vào kế hoạch sản xuất kinh doanh, các Luật
thuế, Pháp lệnh về phí, lệ phí và các chế độ thu ngân sách; Cần dự kiến số thuế và các
khoản phải nộp ngân sách, dự kiến số thuế giá trị gia tăng được hoàn theo chế độ; Gửi
cơ quan thuế và cơ quan được nhà nước giao nhiệm vụ thu ngân sách. Chi cục thuế cấp

huyện lập dự toán thu ngân sách trên địa bàn và cơ sở tính toán từng nguồn thu, dự kiến
số thuế giá trị gia tăng phải hoàn theo chế độ cho các doanh nghiệp thuộc phạm vị quản
lý gửi cục Thuế tỉnh.
Phòng Tài chính huyện cần có trách nhiệm tích cực trong việc hướng dẫn các đơn
vị trực thuộc lập dự toán thu, chi ngân sách thuộc phạm vị mình quản lý, phối hợp với
cơ quan thuế đồng cấp lập dự toán thu ngân sách nhà nước, dự kiến số thuế giá trị gia
tăng theo chế độ cho các doanh nghiệp trên địa bàn.
Dự toán ngân sách nhà nước phải được xây dựng trên cơ sở tính đúng, tính đủ các
khoản thu theo quy định của pháp luật và phân tích, dự báo về yếu tố tăng trưởng kinh
tế, thị trường giá cả, lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế. Đồng thời thực hiện đầy đủ các
quy định về khuyến khích sản xuất, kinh doanh, tăng xuất khâu, mở rộng thị trường,
Thực hiện các biện pháp tăng cường quản lý thu, hoàn thuê giá trị gia tăng, thu hồi số


×