Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

câu hoi on tap cuoi ki triet hoc cao hoc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.24 KB, 12 trang )

1.

Những hình thức lịch sử của phép biện chứng. Nội dung cơ bản của phép biện chứng duy
vật và những yêu cầu có tính nguyên tắc mà phép biện chứng duy vật đòi hỏi.
1.2. Những hình thức lịch sử của phép biện chứng
1.2.1. Biện chứng là gì?
“Biện chứng” là khái niệm dùng để chỉ các mối liên hệ, sự vận động và phát triển của các
sự vật, hiện tượng.
Phương pháp biện chứng là phương pháp:
- Nhận thức đối tượng trong các mối liên hệ với những sự vật hiện tượng khác;
- Nhận thức đối tượng trong trạng thái động nằm trong khuynh hướng chung là phát triển.
1.2.2. Phép biện chứng là gì?
Phép biện chứng là học thuyết về các mối liên hệ, về sự vận động và phát triển.
Với tư cách là học thuyết, phép biện chứng thể hiện tri thức của con người về các mối liên
hệ, về sự vận động và phát triển.
Phép biện chứng vừa là lý luận, vừa là phương pháp.
- Là lý luận vì phép biện chứng là học thuyết về các mối liên hệ, học thuyết về sự vận
động và phát triển.
- Là phương pháp vì phép biện chứng là hệ thống những nguyên tắc, những yêu cầu đòi
hỏi con người phải nhận thức đối tượng trong các mối liên hệ, trong sự vận động của quá trình
phát sinh, phát triển và diệt vong của nó.
1.2.3. Những hình thức lịch sử của phép biện chứng
Học thuyết thể hiện nhận thức của con người, là sản phẩm của quá trình nhận thức, mà sự
hiểu biết và nhận thức của con người không cố định nên nội dung của phép biện chứng luôn thay
đổi, vận động theo thời gian. Căn cứ vào sự vận động, thay đổi của phép biện chứng, người ta
chia lịch sử của phép biện chứng thành 3 hình thức cơ bản: Phép biện chứng chất phác, Phép
biện chứng duy tâm, Phép biện chứng duy vật.
1.2.1.1. Phép biện chứng chất phác
Học thuyết về các mối liên hệ, về trạng thái vận động và phát triển dựa trên trực quan,
nặng tính ngây thơ, chất phác.
- Biểu hiện rõ nét ở thời cổ đại. Tiêu biểu cho phép biện chứng chất phác thời cổ đại ở


phương Đông là quan điểm về Dịch, về Âm Dương, Ngũ hành ở Trung Quốc. Tiêu biểu cho phép
biện chứng chất phác thời cổ đại ở phương Tây là quan điểm của Hêraclit ở Hy Lạp.
- Thời kì này con người thừa nhận trong vũ trụ có mối liên hệ, có sự vận động và phát
triển. Nhưng người ta chưa hiểu sâu về các mối liên hệ, về sự vận động và phát triển nên học
thuyết về mối liên hệ, về sự vận động và phát triển mang tính chất ngây thơ, chất phác. Do trình
độ còn thấp kém vè khoa học, nên phép biện chứng cổ đại mới chỉ là những quan điểm biện
chứng mộc mạc, mang tính suy luận, phỏng đoán trên cơ sở những kinh nghiệm trực giác mà
chưa được minh chứng bằng các tri thức khoa học.
Cho dù còn nhiều hạn chế, nhưng nhìn chung, phép biện chứng cổ đại đã coi thế giới là
chỉnh thể thống nhất; giữa các bộ phận của thế giới có mối liên hệ qua lại, thâm nhập, tác động
và quyết định lẫn nhau; thế giới không ngừng vận động, biến đổi. Những nội dung tu tưởng cơ
bản của phép biện chứng Hy Lạp cổ đại là cơ sở để phép biện chứng phát triển lên cách hình
thức cao hơn, “triết học hiện đại chỉ tiếp tục cái công việc do Heraclit và Arixtốt đã mở đầu mà
thôi”.


1.2.1.2. Phép biện chứng duy tâm
Học thuyết về các mối liên hệ, về sự vận động và phát triển của các nhà triết học duy tâm.
Phép biện chứng duy tâm đạt đến đỉnh cao trong triết học Heghen ở Đức vào thời kì XIX.
Lần đầu tiên trong lịch sử Hêghen đã trình bày những nội dung cơ bản của phép biện
chứng dưới dạng học thuyết chặt chẽ thông qua hệ thống các nguyên lý, các quy luật, các cặp
phạm trù. Nhưng hạn chế lớn nhất của Hêghen là ông theo chủ nghĩa duy tâm cho nên phép biện
chứng của Hê ghen là phép biện chứng duy tâm, nghĩa là Hê ghen quan niệm các mối liên hệ, sự
vận động và phát triển này tồn tại ở trong thế giới tinh thần trước rồi mới chuyển hóa thành mối
liên hệ, sự vận động và phát triển trong thế giới vật chất.
Theo Lênin, cống hiến lớn nhất của phép biện chứng duy tâm trong triết học cổ điển Đức,
đặc biệt là Hêghen đã trở thành phép biện chứng, coi nó như một phương pháp xem xét đối lập
với phương pháp siêu hình của thời kì XVII, XVIII. Nếu phép biện chứng cổ đại chủ yếu được
đúc rút từ kinh nghiệm cuộc sống thì phép biện chứng duy tâm trong triết học cổ điển Đức đã trở
thành một hệ thống lý luận tương đối hoàn chỉnh và trong một chừng mực nhất định, đã trở thành

một phương pháp tư duy triết học phổ biến. Tuy nhiên, với những hạn chế của phép biện chứng
duy tâm trong triết học cổ điển Đức, khi khoa học tự nhiên phát triển sang giai đoạn tổng quát,
nghiên cứu quá trình phát sinh, phát triển của sự vật, hiện tượng trên quan điểm duy vật, thì tất
yếu nó sẽ bị phủ định và thay thế bằng phép biện chứng duy vật.
1.2.1.3. Phép biện chứng duy vật
Phép biện chứng duy vật được thể hiện trong triết học do Mác và Ăng ghen xây dựng vào
giữa thế kỉ XIX, trên cơ sở kế thừa những nội dung hợp lý trong phép biện chứng của Hêghen.
Đặc trưng cơ bản của phép biện chứng duy vật:
- Phép biện chứng duy vật được xây dựng trên nền tảng của thế giới quan duy vật khoa
học.
- Phép biện chứng duy vật không chỉ giải thích các mối liên hệ, trạng thái vận động và
phát triển của thế giới mà nó còn là công cụ để nhận thức và cải tạo thế giới.
1.3. Nội dung cơ bản của phép biện chứng duy vật
Sự phong phú và đa dạng của các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội, tư duy quy định
nội dung phép biện chứng duy vật. Nội dung của các phép biện chứng duy vật bao gồm nguyên
lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển. 2 nguyên lý được cụ thể hoá qua các
quy luật. Các mối liên hệ phổ biến giữa các sự vật, hiện tượng được phép biện chứng duy vật
khái quát thành các phạm trù cơ bản như cái riêng, cái chung, cái đơn nhất; tất nhiên và ngẫu
nhiên; bản chất và hiện tượng; nguyên nhân và kết quả, khả năng và hiện tượng; nội dung và
hình thức… Bên cạnh các cặp phạm trù, phép biện chứng duy vật còn bao hàm ba quy luật phổ
biến về sự vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy. Đó là quy luật chuyển hóa từ
những sự thay đổi về lượng dẫn đến những sự thay đổi về chất và ngược lại, quy luật thống nhất
và đấu tranh giữa các mặt đối lập, quy luật phủ định của phủ định.
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến:
“Mối liên hệ” là khái niệm dùng để chỉ sự tác động qua lại lẫn nhau, ràng buộc nhau, góp
phần quy định sự tồn tại của nhau, chuyển hoá nhau của các sự vật, hiện tượng.
Trong phép biện chứng duy vật, mối liên hệ phổ biến dùng để khái quát: không có sự vật,
hiện tượng nào tồn tại cô lập, tách rời khỏi những sự vật, hiện tượng khác mà chúng luôn nằm
trong những mối liên hệ với nhau.
Các mối liên hệ có nhiều tính chất; song có 3 tính chất cơ bản, là:

1). Tính khách quan. Các mối liên hệ tồn tại ngoài ý thức, không phụ thuộc vào ý thức
của con người


2). Tính phổ biến. Bất kỳ sự vật nào, hiện tượng nào cũng có mối liên hệ; ở đâu (về
không gian) cũng có mối liên hệ; lúc nào (về thời gian) cũng có mối liên hệ.
3). Tính đa dạng, phong phú. Sự vật khác nhau, không gian khác nhau, thời gian khác
nhau thì các mối liên hệ khác nhau.
Ý nghĩa phương pháp luận
Nếu các mối liên hệ có tính khách quan, tính phổ biến thì trong hoạt động của mình, con
người phải tôn trọng quan điểm toàn diện, đồng thời phải chống quan điểm phiến diện,
một chiều.
Nếu các mối liên hệ có tính đa dạng, phong phú thì trong hoạt động của mình, con người
phải tôn trọng quan điểm lịch sử – cụ thể, đồng thời phải chống tư tưởng chung chung, đại khái.
Nguyên lý về sự phát triển:
“Vận động” là khái niệm chỉ mọi sự biến đổi; đây là sự biến đổi chưa xác định chiều
hướng.
“Phát triển” là quá trình vận động theo hướng từ trình độ thấp đến trình độ cao, từ chưa
hoàn thiện cho đến hoàn thiện.
Trong phép biện chứng duy vật, phát triển dùng để khái quát: Mọi sự vật không ngừng vận
động trong khuynh hướng chung là phát triển. Nguồn gốc của sự vận động và phát triển là mâu
thuẫn của sự vật; cách thức của sự vận động và phát triển là lượng của sự vật đổi dẫn đến chất
của sự vật đổi và ngược lại; khuynh hướng của sự vận động và phát triển diễn ra quanh co, phức
tạp được thể hiện bằng đường xoáy ốc đi lên; đây là quá trình phủ định của phủ định mà hết mỗi
một chu kỳ sự vật lặp lại dường như cái ban đầu nhưng ở cấp độ cao hơn.
Phát triển có 3 tính chất cơ bản :
1). Tính khách quan.
2). Tính phổ biến.
3). Tính đa dạng, phong phú.
Ý nghĩa phương pháp luận

Nếu phát triển có tính khách quan, tính phổ biến, tính đa dạng phong phú thì trong cuộc
sống, con người phải tôn trọng quan điểm phát triển.
Quan điểm phát triển đòi hỏi: Khi nhận thức một đối tượng nào đó phải nhận thức đối
tượng đó ở trạng thái động nằm trong khuynh hướng chung là phát triển; phải tìm ra nguồn gốc,
cách thức, khuynh hướng cụ thể của sự phát triển đó; đồng thời phải chống lại tư tưởng bảo thủ,
trì trệ.
1.4. Những yêu cầu có tính nguyên tắc mà phép biện chứng duy vật đòi hỏi.
1.4.1. Nguyên tắc toàn diện
Khi nhận thức một đối tượng nào đó phải nhận thức nó với tư cách là một chỉnh thể với tất
cả những yếu tố cấu thành và những mối liên hệ của nó; phải chống tư tưởng phiến diện, một
chiều, chiết trung, ngụy biện.
Trong nhận thức, nguyên tắc toàn diện là yêu cầu tất yếu của phương pháp tiếp cận khoa
học, cho phép tính đến mọi khả năng của sự vận động, phát triển có thể có của sự vật, hiện tượng
trong một chỉnh thể thống nhất với tất cả các mặt, các bộ phận, các yếu tố, các thuộc tính, cùng
các mối liên hệ của chúng.
Nguyên tắc toàn diện còn đòi hỏi, để nhận thức được sự vật, hiện tượng chúng ta cần xem
xét nó trong mối liên hệ với nhu cầu thực tiễn của con người. Mối liên hệ giữa sự vật, hiện tượng
với nhu cầu của con người rất đa dạng, trong mỗi hoàn cảnh nhất định, con người chỉ phản ánh
một số mối liên hệ nào đó của sự vật, hiện tượng phù hợp với nhu cầu nhất định của mình, nên
nhận thức của con người về sự vật, hiện tượng mang tính chất tương đối, không đầy đủ trọn vẹn.


Nắm được điều đó sẽ tránh tuyệt đối hóa những tri thức đã có về sự vật, hiện tượng và tránh coi
những tri thức đã có là tri thức bất biến, tuyệt đối cuối cùng về sự vật, hiện tượng mà không bổ
sung phát triển. Bởi vậy, khi xem xét toàn diện tất cả các mặt của những mối quan hệ của sự vật,
hiện tượng phải chú ý đến sự phát triển cụ thể của các quan hệ đó.
Logic của quá trình hình thành quan điểm toàn diện trong nhận thức, xem xét sự vật, hiện
tượng sẽ phải trải qua nhiều giai đoạn, cơ bản là đi từ quan niệm ban đầu về cái toàn thể đến
nhận thức mỗi mặt, mỗi mối liên hệ cụ thể của sự vật, hiện tượng rồi đến nhận thức nhiều mặt,
nhiều mối liên hệ của sự vật, hiện tượng đó và cuối cùng đi tới khái quát những tri thức phong

phú đó để rút ra tri thức bản chất xuar sự vật, hiện tượng.
Trong thực tiễn, muốn cải tạo sự vật, hiện tượng phải áp dụng đồng bộ một hệ thống các
biện pháp, các phương tiện khác nhau để tác động làm thay đổi các mặt, mối liên hệ tương ứng
của các sự vật, hiện tượng. Song trong từng bước, từng giai đoạn phải nắm đúng khâu trọng tâm,
then chốt để tập trung lực lượng giải quyết.
1.4.2. Nguyên tắc lịch sử - cụ thể
Khi nhận thức một đối tượng nào đó phải nhận thức nó trong những môi trường cụ thể,
điều kiện cụ thể, không gian – thời gian cụ thể, những mối liên hệ cụ thể cũng như vị trí, vai trò
cụ thể của nó; đồng thời phải chống thái độ hời hợt, tư tưởng qua loa, đại khái.
Nghiên cứu sự vật, hiện tượng trong sự vận động và phát triển trong từng giai đoạn cụ thể
của nó; biết phân tích mỗi tính hình cụ thể trong hoạt động nhận thức và thực tiễn là yếu tố quan
trọng nhất trong các yếu tố của nội dung nguyên tắc lịch sử - cụ thể.
Nguyên tắc lịch sử - cụ thể không chỉ yêu cầu phải nhận thức được vận động có tính phổ
biến, nhận thức những sự thay đổi diễn ra trong sự vật, hiện tượng, nhận thức những trạng thái
chất lượng thay tế cho nhau, mà còn yêu cầu chỉ ra được cái quy luật khách quan quy định sự vận
động, phát triển của sự vật, hiện tượng, quy định sự tồn tại hiện thời và khả năng chuyển hóa
thành sự vật, hiện tượng mới thông qua sự phủ định…
Nguyên tắc lịch sử - cụ thể còn đòi hỏi phải xem xét các sự vật, hiện tượng trong các mối
liên hệ cụ thể của chúng. Nhận thức sự vật, hiện tượng theo nguyên tắc lịch sử - cụ thể là cần
thấy các mối liên hệ, sự biến đổi của chúng theo thời gian, cũng như trong không gian tồn tại
khác nhau của mỗi mặt, mỗi thuộc tính, đặc trưng của sự vật, hiện tượng; tránh khuynh hướng
giáo điều, chung chung, trừu tượng không cụ thể. Mặt khác cũng cần đề phòng khuynh hướng
tuyệt đối hóa tính cụ thể, không thấy sự vật, hiện tượng trong cả quá trình vận động, biến đổi.
Trong hoạt động nhận thức, chủ thể phải tìm hiểu quá trình hình thành, tồn tại và phát triển
cụ thể của những sự vật cụ thể trong những điều kiện, hoàn cảnh, quan hệ cụ thể.
Trong hoạt động thực tiễn, chủ thể phải xây dựng được những đối sách cụ thể, áp dụng cho
những sự vật, hiện tượng cụ thể đang tồn tại trong những điều kiện, hoàn cảnh, quan hệ cụ thể
mà không nên áp dụng những khuôn mẫu chung chung cho bất cứ sự vật, hiện tượng nào, trong
bất cứ điều kiện, hoàn cảnh, quan hệ nào.
1.4.3. Nguyên tắc phát triển

Khi nhận thức một đối tượng nào đó phải nhận thức nó trong trạng thái vận động, nằm
trong khuynh hướng chung là phát triển; phải tìm ra nguồn gốc, cách thức, khuynh hướng của sự
vận động và phát triển ấy; đồng thời phải ủng hộ cái mới – cái phù hợp với quy luật của phát
triển và chống tư tưởng bảo thủ, trì trệ.
Người ta phát triển yêu cầu, khi xem xét sự vật, hiện tượng, phải đặt nó trong trạng thái
vận động, biến đổi, chuyển hóa để không chỉ nhận thức sự vật, hiện tượng trong trạng thái hiện
tại, mà còn phải thấy được khuynh hướng phát triển của nó trong tương lai, nghĩa là phải phân


tích để làm rõ những biến đổi của sự vật, hiện tượng, khái quát những hình thức biểu hiện của sự
biến đổi đó để tìm ra khuynh hướng biến đổi chính của nó.
Nguyên tắc phát triển yêu cầu, phải nhận thức sự phát triển là quá trình trải qua nước giai
đoạn, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Mỗi giai
đoạn phát triển lại có những đặc điểm, tính chất, hình thức khác nhau; bởi vậy, phải có sự phân
tích cụ thể để tìm ra những hình thức tác động phù hợp hoặc thúc đẩy, hoặc hạn chế sự phát triển
đó.
Nguyên tắc phát triển đòi hỏi trong quá trình hoạt động nhận thức và thực tiễn phải nhạy
cảm với cái mới, sớm phát hiện ra cái mới, ủng hộ cái mới hợp quy luật, tạo điều kiện cho cái
mới phát triển thay thế cái cũ; phải chống lại quan điểm bảo thủ, trì trệ…

2.

Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận với thực tiễn.
1.2. KHÁI NIỆM “THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VỚI THỰC TIỄN”
Thống nhất giữa lý luận với thực tiễn là lý luận và thực tiễn phải gắn bó hữu cơ với nhau;
trong đó, thực tiễn phải có lý luận dẫn đường, còn lý luận phải lấy thực tiễn làm cơ sở, làm động
lực, là mục đích và là nơi kiểm tra mình đúng hay sai.
2.2. THỰC TIỄN VÀ NHỮNG HÌNH THỨC CƠ BẢN CỦA THỰC TIỄN
2.2.1. Khái niệm “thực tiễn”
Thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất mang tính lịch sử - xã hội của con người nhằm cải

tạo hiện thực.
Đề cập đến thực tiễn người ta đề cập đến hoạt động vật chất. HĐVC là hoạt động con
người sử dụng lực lượng vật chất, công cụ vật chất tác động vào những đối tượng vật chất nhằm
cải tạo chúng theo nhu cầu của mình. Con người sử dụng các phương tiện để tác động vào đối
tượng theo những hình thức và mức độ khác nhau tùy thuộc vào mục đích của con người. Kết
quả của quá trình hoạt động thực tiễn là những sản phẩm thỏa mãn nhu cầu vật chất và nhu cầu
tinh thần của cá nhân và cộng đồng.
HDVC là hoạt động mang tính LS – XH: Mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau con người tiến
hành những hoạt động này khác nhau; Xã hội quy định mục đích, lực lượng, công cụ, v.v. của
hoạt động.
Mỗi hoạt động của con người diễn ra trong một giai đoạn nhất định nào đó. Nó có quá
trình hình thành, phát triển và kết thúc hoặc chuyển hóa sang giai đoạn khác; không có hoạt
động thực tiễn nào tồn tại vĩnh viễn. Mặt khác, hoạt động thực tiễn chịu sự chi phối của mỗi giai
đoạn lịch sử cả về đối tượng, phương tiện cũng như mục đích hoạt động.
Hoạt động thực tiễn mặc dầu phải thông qua từng cá thể, từng nhóm người, nhưng hoạt
động của từng cá thể, từng nhóm người lại không thể tách rời các quan hệ xã hội. xã hội quy
định mục đích, đối tượng, phương tiện và lực lượng trong hoạt động thực tiễn. Do đó, hoạt động
thực tiễn của con người mang tính xã hội sâu sắc, được thực hiện trong cộng đồng, vì cộng
đồng, do cộng đồng.
Mục đích của các hoạt động thực tiễn là cải tạo xã hội, giới tự nhiên và chính bản thân con
người cho phù hợp với quá trình phát triển.
2.2.2. Những hình thức cơ bản của thực tiễn
Thực tiễn rất đa dạng nhưng được biểu hiện dưới 3 hình thức cơ bản: hoạt động SX VC,
hoạt động chính trị - XH và hoạt động thực nghiệm khoa học.
Hoạt động sản xuất vật chất là hoạt động trực tiếp tác động vào tự nhiên, cải tạo tự nhiên
nhằm tạo ra của cải vật chất cho sự tồn tại và phát triển của xã hội.


Hoạt động chính trị - xã hội là hoạt động của con người trực tiếp tác động vào xã hội, cải
biến các quan hệ xã hội theo hướng tiến bộ.

Hoạt động thực nghiệm khoa học là hoạt động của các nhà khoa học tác động làm cải biến
những đối tượng nhất định, trong một điều kiện nhất định, theo một mục đích nghiên cứu nhất
định.
2.2.3. Mối quan hệ giữa các hình thức của thực tiễn
Các hình thức hoạt động thực tiễn tuy có sự khác nhau tương đối nhưng chúng thống nhất,
có chung chủ thể hoạt động, cùng mục đích; chúng hỗ trợ, ảnh hưởng lẫn nhau. Hoạt động sản
xuất vật chất không thể không hoạt động trong cộng đồng xã hội, không thẻ không có vai trò của
thực nghiệm khoa học. Mặc dù hoạt động chính trị - xã hội trực tiếp đến những vấn đề của đời
sống chính trị - tinh thần, nhưng kết quả hoạt động của lĩnh vực này lại tác động tích cực đến sự
phát triển sản xuất, phát triển kinh tế - xã hội, cũng như những vấn đề có tính quy luật mà hoạt
động thực nghiệm khoa học đang quan tâm. Cũng nhu vậy, hoạt động thực nghiệm khoa học
không thể không lấy mục đích phục vụ kinh tế - xã hội.
Trong các hình thức của hoạt động thực tiễn thì hoạt động sản xuất vật chất là hoạt động cơ
bản nhất. Các hoạt động thực tiễn khác suy cho đến cùng đều phục vụ cho hoạt động sản xuất vật
chất. Hoạt động sản xuất vật chất tác động sâu sắc, toàn diện đến các hoạt động khác, nó là hoạt
động trung tâm, chủ yếu của con người.
2.3. Lý luận và cấp độ của lý luận trong quá trình nhận thức
2.3.1. Khái niệm “lý luận”
Lý luận là hệ thống tri thức phản ánh những mối liên hệ bản chất của các sự vật, hiện
tượng.
2.3.2. Quá trình hình thành lý luận trong hoạt động nhận thức
Tri thức là kết quả của quá trình nhận thức của con người. Quá trình nhận thức đem lại cho
con người hai cấp độ của tri thức: tri thức kinh nghiệm (kinh nghiệm), tri thức lý luận (lý luận).
KN là kết quả của quá trình quan sát sự lặp đi lặp lại diễn biến của các sự vật, hiện tượng.
Mặt tích cực của tri thức kinh nghiệm là có thể hình thành ở tất cả mọi người một cách tự nhiên
trong cuộc sống và đem lại cho con người hiệu quả cao khi điều kiện không đổi. Mặt hạn chế của
tri thức kinh nghiệm là loại tri thức nông cạn chỉ phản ánh được cái bề ngoài mà chưa đi vào bản
chất của đối tượng. Tri thức kinh nghiệm sẽ rất ít tác dụng hay không còn tác dụng khi điều kiện
thay đổi. Ví dụ: một người cả đời ở trên vùng cao trồng trọt trên mảnh đất của mình có kinh
nghiệm về các loại cây trồng ở vùng cao nhưng khi người đó xuống miền ven biển thì những

kinh nghiệm ở vùng cao về các loại cây trồng không còn áp dụng được cho những loại cây trồng
ở vùng đất ngập mặn ven biển.
Ở cấp độ cao hơn, tri thức lý luận hình thành một cách tự giác bằng những hoạt động tích
cực. LL là hệ thống tri thức được rút ra từ quá trình tổng kết, đúc kết KN; của quá trình học tập,
nghiên cứu nghiêm túc trên nền tảng của một vốn kiến thức nhất định, một năng lực tư duy nhất
định. LL đem lại tri thức về nội dung, bản chất; về những quy luật chi phối quá trình hình thành
phát sinh, phát triển của đối tượng; vì vậy, nó đem lại hiệu quả cho hoạt động của con người
ngay cả khi điều kiện đã hoàn toàn thay đổi. Nhưng bản thân lý luận cũng có những hạn chế,
giữa lý luận và hiện thực bao giờ cũng có khoảng cách, bởi lý luận là cái khái quát hóa, cái
chung nên không thể trùng lặp với cái cụ thể nào. Lý luận chuyên ngành thì gần với hiện thực
hơn vì đối tượng nghiên cứu sát với thực tế, lý luận ngành thì xa hiện thực hơn, còn lý luận
chung nhất (triết học) xa hiện thực nhất. Khi vừa ra đời tự bản thân lý luận chứa đựng hai khả
năng có thể đúng hoặc không đúng, bởi lý luận do con người nhận thức khái quát hóa, mà con
người trong quá trình nhận thức thì bị ảnh hưởng bởi trình độ tri thức, nhận thức của mỗi người.


2.4. VAI TRÒ CỦA THỰC TIỄN ĐỐI VỚI LÝ LUẬN
Với tư cách là toàn bộ những hoạt động vật chất mang tính lịch sử - xã hội của con người
nhằm cải tạo hiện thực thì thực tiễn có vai trò rất to lớn đối với kết quả nhận thức của con người,
đặc biệt ở cấp độ cao là lý luận.
Thực tiễn là cơ sở của LL nói riêng, của nhận thức nói chung. Thực tiễn là nền tảng, mà
trên nền tảng ấy nhận thức được thực hiện, lý luận ra đời. Thông qua kết quả hoạt động thực tiễn,
kể cả thành công cũng như thất bại, con người phân tích cấu trúc, tính chất và các mối quan hệ
của các yếu tố, các điều kiện trong các hình thức thực tiễn để hình thành lý luận. Quá trình hoạt
động thực tiễn còn là cơ sở để bổ sung và điều chỉnh những lý luận đã được khái quát.
Thực tiễn là động lực của LL nói riêng, của nhận thức nói chung. Chính quá trình sản xuất
ra của cải vật chất, quá trình hoạt động chính trị - xã hội, thực nghiệm khoa học đã thúc đẩy nhận
thức phát triển. Quá trình hoạt động thực tiễn của con người làm nảy sinh những vấn đề mới đòi
hỏi quá trình nhận thức phải tìm tòi giải quyết. Thông qua đó, lý luận được bổ sung, mở rộng.
Khi con người giải quyết được vấn đề thì nhận thức, lý luận của con người được nâng lên một

bậc.
Là mục đích của LL nói riêng, của nhận thức nói chung. Suy cho đến cùng toàn bộ quá
trình học tập, nghiên cứu, nhận thức… của con người phải làm cho cuộc sống giàu có hơn, đời
sống tinh thần phong phú hơn và quan hệ giữa người với người tốt đẹp hơn. Tự thân lý luận
không thể tạo nên những sản phẩm đáp ứng nhu cầu của con người. Nhu cầu đó chỉ được thực
hiện trong hoạt động thực tiễn.
Là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý. Tính chân lý của lý luận chính là sự phù hợp của lý luận
với hiện thực khách quan và được thực tiễn kiểm nghiệm. Tự bản thân lý luận khi mới ra đời
chứa đựng hai khả năng đúng hoặc không đúng. Do đó, mọi lý luận phải thông qua thực tiễn để
kiểm nghiệm. Thông qua thực tiễn, những lý luận đạt đến chân lý sẽ được bổ sung vào kho tàng
tri thức nhân loại; những kết luận chưa phù hợp thực tiễn thì tiếp tục điều chỉnh, bổ sung hoặc
nhận thức lại.
2.5. VAI TRÒ CỦA LÝ LUẬN ĐỐI VỚI THỰC TIỄN
Vì lý luận đem lại tri thức về nội dung, bản chất của đối tượng; về những quy luật chi phối
quá trình hình thành phát sinh, phát triển của đối tượng và đem lại hiệu quả cho hoạt động của
con người ngay cả khi điều kiện đã hoàn toàn thay đổi nên lý luận đóng vai trò định hướng, dẫn
đường cho các hoạt động của thực tiễn.
Lý luận là loại tri thức hệ thống, nó cho con người hiểu được nội dung, bản chất vấn đề,
quy luật vận động. Nên lý luận có khả năng định hướng mục tiêu, xác định lực lượng, phương
pháp, biên pháp thực hiện. Lý luận còn dự báo được khả năng phát triển cũng như các mối quan
hệ của thực tiễn, dự báo được những rủi ro có thể xảy ra, hoạt động. Như vậy, lý luận không chỉ
giúp con người hoạt động hiệu quả mà còn là cơ sở để khắc phục những hạn chế và tăng năng
lực hoạt động của con người. Mặt khác, lý luận còn có vai trò giác ngộ mục tiêu, lý tưởng, liên
kết các cá nhân thành cộng đồng, tạo thành sức mạnh vô cùng to lớn của quần chúng trong cải
tạo tự nhiên và xã hội.
Vai trò định hướng, dẫn đường của lý luận thể hiện:
Lý luận:
- Định hướng mục tiêu;
- Xác định chiến lược, sách lược, đường lối, chủ trương, chính sách;
- Xác định lực lượng, phương pháp, biện pháp thực hiện;

- Dự báo (thành quả, hậu quả, rủi ro, v.v.) để con người chuẩn bị ứng phó;


2.6. Kết luận
Trong cuộc sống, con người muốn đạt kết quả tối ưu thì cần phải thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn, vì chúng bắt nguồn từ mối quan hệ giữa con người và thề giới khách quan. Con người
luôn tác động tích cực vào thế giới khách quan, tự nhiên xh, cải biến thế giới bằng thực tiễn.
Trong quá trình đó, sự phát triển nhận thức của con người và sự biến đổi thế giới khách quan là
hai mặt thống nhất. Vì thế chúng qui định sự thống nhất biện chứng giữa lý luận và thực tiễn
trong hoạt động của cá nhân và cộng đồng.
+ Nếu LL tách khỏi TT: khi đó LL sẽ không có sơ sở, không có động lực, không có mục
đích, không có chuẩn để kiểm tra đúng, sai. Và lúc đó, lý luận chỉ là lý luận suông. Bác nói: “Dù
xem được hàng ngàn hàng vạn quyển lý luận, nếu không biết đem ra thực hành, thì khác nào một
cái hòm đựng sách”.
+ TT tách khỏi LL thì đó là TT mù quáng, vì khi đó không hiểu được bản chất của công
việc mình đang làm.
+ TT thống nhất với TT: khi đó, trong quá trình tiến hành những công việc, con người sẽ
hiểu được bản chất công việc mình đang làm, có thể định hướng, vạch ra được những sách lược
cho tương lai phát triển hơn, tốt đẹp hơn.
Nghiên cứu nguyên tắc thống nhất giữa lý luận với thực tiễn, nhận thức rõ vai trò của lý
luận, vai trò của thực tiễn cho thấy:
- Hoạt động lý luận phải bám sát thực tiễn, phản ánh những nhu cầu của thực tiễn và
phải góp phần giải quyết những nhu cầu đó; đồng thời phải luôn tổng kết, đúc kết thực
tiễn để bản thân lý luận ngày thêm phong phú, sâu sắc.
- Thực tiễn phải lấy lý luận dẫn đường, phải vận dụng lý luận cho phù hợp với từng hoạt
động cụ thể, từng bối cảnh cụ thể.
- Phải chống bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều. Để khắc phục bệnh kinh nghiệm, một
mặt bám sát thực tiễn, tăng cường học tập nâng cao trình độ lý luận, bổ sung và vận
dụng lý luận cho phù hợp với thực tiễn. Mặt khác phải hoàn thiện cơ chế thị trường
định hướng XHCN, kinh tế thị trường đòi hỏi mọi chủ thể kinh tế phải năng động, sáng

tạo, thường xuyên theo sát thị trường để ứng phó, chủ động trong kinh doanh. Còn để
khắc phục bệnh giáo điều hiệu quả, cần quán triệt sâu sắc nguyên tắc thống nhất giữa
LL và TT. LL phải luôn luôn gắn liền với TT, vận dụng sáng tạo vào thực tiễn, kiểm tra
trong thực tiễn, không ngừng phát triển cùng thực tiễn.

3.

Nội dung cơ bản của lý luận Hình thái kinh tế - xã hội và ý nghĩa của lý luận này đối với
sự nghiệp cách mạng Việt Nam giai đoạn hiện nay.
1.2. Nội dung cơ bản của lý luận Hình thái kinh tế - xã hội
Trước khi học thuyết hình thái kinh tế - xã hội ra đời, hầu như tất cả các nhà kinh điển
quan niệm rằng sự hưng thịnh hay suy tàn của một quốc gia, dân tộc do ý muôn đảng, giai cấp
hay cá nhân cầm quyền. Tức là người ta thiên nói về vai trò, trách nhiệm của nhà nước, chính
đảng, lãnh tụ. Đến thời của Marx khi nghiên cứu về xã hội, Marx xuất phát từ cuộc sống của con
người hiện thực. Marx nhận thấy, trong tất cả các hoạt động của con người, hoạt động sản xuất
vật chất giữ vai trò quyết định. Xuất phát từ hoạt động này, Marx phân tích các mối quan hệ giữa
các lĩnh vực trong đời sống và phát hiện ra những quy luật chi phối sự vận động và phát triển của
xã hội. Từ đó, Ông khái quát nên học thuyết Hình thái kinh tế – xã hội.
Hình thái kinh tế – xã hội là phạm trù dùng để chỉ một xã hội trọn vẹn trong từng giai đoạn
lịch sử cụ thể; có những quan hệ sản xuất bị trình độ của lực lượng sản xuất quy định, những


quan hệ sản xuất này tạo nên kết cấu kinh tế (cơ sở hạ tầng) của xã hội và trên nó được xây dựng
nên một kiến trúc thượng tầng.
Loài người đã trải qua bao nhiêu giai đoạn lịch sử cụ thể thì loài người cũng đã trải qua bấy
hiều hình thái kinh tế xã hội, cụ thể là 4 hình thái kinh tế xã hội : công xã nguyên thủy, chiếm
hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa. Khi con người từ hình thái kinh tế xã hội này chuyển
sang hình thái kinh tế xã hội khác là đánh dấu sự phát triển của xã hội loài người. Nếu con người
tìm được nguyên nhân, động lực làm cho hình thái kinh tế xã hội này chuyển sang hình thái kinh
tế xã hội khác là con người đã tìm ra được nguyên nhân, động lực của sự phát triển của xã hội

loài người.
Xã hội có cấu trúc phức tạp song được khái quát thành 3 lĩnh vực cơ bản : quan hệ sản xuất
(Những QHSX này tạo nên kết cấu kinh tế hay cơ sở hạ tầng của xã hội), lực lượng sản xuất,
kiến trúc thượng tầng. Trong đó, LLSX & QHSX cấu thành phương thức sản xuất. Mỗi mặt của
hình thái kinh tế xã hội có vị trí riêng và tác động qua lại lẫn nhau và thống nhất với nhau. Do
đó, cấu trúc để xây dựng nên hình thái kinh tế xã hội là lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất,
kiến trúc thượng tầng và các mối quan hệ của chúng.
Để tìm hiểu về quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất ta tìm hiểu thông qua phương thức
sản xuất. Phương thức sản xuất chính là cách thức sản xuất ra của cải vật chất của con người
trong mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể. Phương thức sản xuất đóng vai trò quyết định trong tất cả các
mặt của đời sống xã hội: kinh tế, chính trị, văn hóa, kinh tế. Mỗi XH được đặc trưng bằng một
PTSX nhất định. Sự thay thế kế tiếp nhau của các phương thức sản xuất trong lịch sử quyết định
sự phát triển của xã hội loài người.
Bất kỳ một PTSX nào cũng gồm LLSX và QHSX.
LLSX là toàn bộ các yếu tố tham gia vào quá trình sản xuất; nó biểu hiện mối quan hệ giữa
người với giới tự nhiên trong quá trình sản xuất. Để tiến hành sản xuất phải có con người cho
nên yếu tố thứ nhất của sản xuất là con người. Con người này là con người tham gia vào quá
trình sản xuất - người lao động. Người lao động phải nằm trong một độ tuổi nhất định, có sức
khỏe và kinh nghiệm nhất định. Yếu tố thứ hai của sản xuất là tự nhiên như đất đai sông ngòi…,
nhưng không phải toàn bộ giới tự nhiên tham gia vào quá trình sản xuất mà chỉ một phần của
giới tự nhiên tham gia. Phần của giới tự nhiên tham gia vào quá trình sản xuất người ta gọi là tư
liệu sản xuất. Tư liệu sản xuất lại được chia thành: tư liệu lao động và đối tượng lao động. Tư
liệu lao động được chia thành công cụ lao động và phương tiện lao động. Công cụ lao động là
những vật trung gian để truyền tải sức của người lao động vào những vật khác trong quá trình lao
động. Còn những vật nhận sự tác động của công cụ lao động được gọi là đối tượng lao động.
Phương tiện lao động là tất cả những vật hỗ trợ con người trong quá trình sản xuất về mặt chuyên
chở, bảo quản như kho tàng, cầu, đường, bến bãi…. Tất cả các yếu tố của lực lượng sản xuất đều
có quan hệ với nhau. Trong các yếu tố cấu thành LLSX thì người lao động giữ vai trò quyết định
vì người lao động là chủ thể của các yếu tố còn lại. Còn công cụ lao động là yếu tố cực kỳ quan
trọng vì CCLĐ quyết định năng suất lao động và biểu hiện khả năng chinh phục giới tự nhiên

của con người. Nhìn một cách tổng quát thì LLSX là thường xuyên biến đổi theo chiều hướng
phát triển nên nó là yếu tố động, mang tính cách mạng. Trong quá trình lao động con người
muốn bỏ ra ít sức lực, của cải nhưng lại muốn sản phẩm thu về được nhưng. Cho nên để giải
quyết mâu thuẫn này thì người lao động không ngừng cải tiến công cụ lao động. Sự phát triển
của lực lượng sản xuất được đánh dấu bằng trình độ của lực lượng sản xuất. Trong thực tế, một
xã hội phát triển thì phải được thể hiện qua sự phát triển trình độ của lực lượng sản xuất, để phát
triển trình độ của lực lượng sản xuất thì phải phát triển trình độ của người lao động, phát triển
công cụ lao động và phương tiện lao động.


QHSX là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất. Quan hệ sản xuất thể hiện
ở ba quan hệ cơ bản: quan hệ về sở hữu tư liệu sản xuất, quan hệ trong quản lý, phân công lao
động, quan hệ trong phân phối sản phẩm. Các quan hệ của QHSX có mối quan hệ mật thiết với
nhau, trong đó quan hệ sở hữu TLSX giữ vai trò quyết định đối với 2 quan hệ còn lại. Người nào
nắm tư liệu sản xuất thì người đó có quyền quản lý, phân công lao động và phân phối sản phẩm.
Nhìn chung, các yếu tố tạo nên quan hệ sản xuất ít thay đổi; nó là yếu tố tĩnh, mang tính bảo thủ.
Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất được thể hiện qua quy luật
“QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX”. Trình độ của LLSX được xét ở: sức khỏe và
trí tuệ của người lao động; hàm lượng khoa học trong CCLĐ & PTLĐ; tính chất hợp lý trong
khai thác ĐTLĐ. Là yếu tố động, mang tính cách mạng, trình độ của LLSX thường xuyên phát
triển; song, khi nó phát triển đến một mức độ nhất định thì QHSX phải thay đổi cho phù hợp với
trình độ mới của LLSX. Khi đó, PTSX mới ra đời. Trong toàn bộ quá trình này, nếu QHSX phù
hợp với trình độ của LLSX thì nó sẽ thúc đẩy LLSX phát triển, SX phát triển, XH phát triển;
nếu không, nó sẽ kìm hãm toàn bộ sự phát triển ấy. Trình độ của LLSX quyết định QHSX, thể
hiện ở chỗ: trình độ của LLSX như thế nào thì QHSX phải như thế vậy, tức là nó phải tương ứng
với trình độ của LLSX; trình độ của LLSX thường xuyên phát triển; khi nó phát triển đến một
mức độ nhất định thì QHSX phải thay đổi theo cho phù hợp với trình độ mới của LLSX. Đến
lượt mình, QHSX tác động trở lại LLSX: nếu QHSX phù hợp với trình độ của LLSX nó sẽ thúc
đẩy LLSX phát triển, SX phát triển; nếu QHSX không phù hợp với trình độ của LLSX nó sẽ kìm
hãm sự phát triển của LLSX, kìm hãm SX.

Trên cơ sở toàn bộ những liên hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tạo nên cơ
cấu kinh tế xã hội, hay còn gọi là cơ sở hạ tầng, từ đó dựng nên kiến trúc thượng tầng.
CSHT là toàn bộ những QHSX tạo nên kết cấu kinh tế của xã hội. Toàn bộ những QHSX
đó gồm: quan hệ sản xuất thống trị, quan hệ sản xuất tàn dư và quan hệ sản xuất mầm mống.
Quan hệ sản xuất thống trị là quan hệ sản xuất của phương thức sản xuất đương thời, của xã hội
đương thời, nó giữ vai trò thống trị, thể hiện ở chỗ quan hệ sản xuất thống trị nào thì chế đô
chính trị của xã hội sẽ thế ấy. Quan hệ sản xuất tàn dư là quan hệ sản xuất của phương thức sản
xuất cũ còn tồn đọng lại. Quan hệ sản xuất mẫm mống là quan hệ sản xuất của phương thức sản
xuất tương lai.
KTTT là hệ tư tưởng của XH và những thiết chế tương ứng với hệ tư tưởng đó. Hệ tư
tưởng được thể hiện qua các học thuyết (học thuyết về chính trị, pháp quyền, tôn giáo, khoa
học…), hệ thống các quan điểm,v.v. Thiết chế tương ứng với hệ tư tưởng là các tổ chức và các
công cụ vật chất mà các tổ chức ấy sử dụng để thực hiện hệ tư tưởng. Ví dụ: thiết chế tương ứng
với chính trị và pháp quyền là nhà nước, nhà nước thực chất là những tổ chức người đang sử
dụng các phương tiện như vô tuyến truyền hình, công sở, tòa án… để quản lý công dân của
mình; thiết chế tương ứng với tôn giáo là các giáo hội, giáo hội sử dụng các phương tiện như nhà
nhờ, chùa chiền, kinh kệ… để truyền bá giáo lý tôn giáo mình; thiết chế tương ứng với khoa học
là các trung tâm, viện nghiên cứu…. sử dụng các phương tiện máy móc, máy tính… phục vụ quá
trình nghiên cứu của mình. Trong mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau, vai trò của các yếu tố trong
KTTT được thể hiện khác nhau. Ví dụ: trong giai đoạn hiện nay, vai trò của nhà nước và khoa
học rất mạnh, và càng ngày vai trò của khoa học càng mạnh. Tuy nhiên, trong lịch sử thời Trung
cổ ở Tây Âu kéo dài khoảng 1500 năm, khoa học trở thành nô lệ của thần học, bàn tay của giáo
hội có thể che lấp mặt trời.
Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là hai mặt của đời sống xã hội, chúng có mối liên
hệ biện chứng cho nhau. Biện chứng giữa CSHT và KTTT thể hiện qua quy luật “Cơ sở hạ tầng
phù hợp với kiến trúc thượng tầng”: CSHT sinh ra KTTT tương ứng và quyết định tính chất của


KTTT; song, KTTT có thể tác động trở lại CSHT với tư cách là động lực thúc đẩy hay kìm hãm
sự phát triển kinh tế, thúc đẩy hay kìm hãm sự phát triển của xã hội. CSHT quyết định KTTT, thể

hiện ở chỗ: mỗi CSHT sinh ra một KTTT tương ứng và quyết định tính chất của KTTT; khi
CSHT thay đổi KTTT cũng phải thay đổi theo. Đến lượt mình, KTTT tác động trở lại CSHT, thể
hiện ở chỗ: KTTT luôn củng cố, bảo vệ CSHT đã sinh ra nó; KTTT thúc đẩy hoặc kìm hãm sự
phát triển kinh tế thông qua tác động của nó đến các QHSX cấu thành CSHT.
Tóm lại, mỗi Hình thái KT-XH là một XH trọn vẹn, có cấu trúc phức tạp song 3 yếu tố cơ
bản là LLSX, QHSX và KTTT. LLSX là yếu tố thường xuyên phát triển, khi nó phát triển đến
một mức độ nhất định thì QHSX phải thay đổi theo. QHSX thay đổi làm CSHT thay đổi, CSHT
thay đổi dẫn đến sự thay đổi của KTTT. Đến đây, tất cả các yếu tố tạo nên một Hình thái KT-XH
đã thay đổi, Hình thái KT-XH này chuyển sang một Hình thái KT-XH khác cao hơn, XH này
chuyển sang một XH khác phát triển hơn.
1.3. Ý nghĩa của lý luận này đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam giai đoạn hiện nay
Học thuyết Hình thái KT-XH cho thấy:
Xã hội là một chỉnh thể có cấu trúc phức tạp, các lĩnh vực của xã hội có vị trí, vai trò khác
nhau song có mối quan hệ mật thiết với nhau, trong đó sản xuất vật chất là cơ sở tồn tại và phát
triển của xã hội; phương thức sản xuất giữ vai trò quyết định đối với toàn bộ đời sống xã hội.
Sự phát triển của các Hình thái KT-XH (cũng là sự phát triển của XH) là quá trình lịch sử –
tự nhiên; tức là sự phát triển này không tuân theo ý muốn chủ quan của con người mà tuân theo
những quy luật khách quan, trong đó, trước hết và quan trọng nhất là quy luật về lục lượng sản
xuất – quan hệ sản xuất, quy luật về cơ sở hạ tầng – kiến trúc thượng tầng. Quá trình lịch sử - tự
nhiên của sự phát triển xã hội chẳng những diễn ra theo con đường phát triển tuần tự, mà còn bao
hàm cả sự bỏ qua, trong những điều kiện nhất định, một hoặc một số hình thái kinh tế - xã hội
nhất định. Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể nước ta, Đảng ta
khẳng định: “Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua
chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến
trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt
được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ để phát triển nhanh lực
lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi về chất của
xã hội trên tất cả các lĩnh vực là rất khó khăn, phức tạp, cho nên phải trải qua một thời kì quá
độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ.”

Vận dụng học thuyết vào hoạt động nhận thức và thực tiễn
- Về nhận thức
Muốn rút ra những kết luận về đời sống xã hội không được xuất phát từ ý tưởng chủ
quan của mình mà phải xuất phát từ hiện thực khách quan, phải tìm nguồn gốc sâu xa của các
hiện tượng xã hội từ quá trình sản xuất vật chất, từ đời sống chất.
- Về thực tiễn
+ Để cải tạo xã hội phải tiến hành cải tạo đồng bộ cả LLSX, QHSX và KTTT.
+ Để xã hội phát triển, trước hết phải đầu tư vào sự phát triển của LLSX, trong đó quan
trọng nhất là đầu tư vào sự phát triển của người lao động, công cụ lao động; phải từng bước hoàn
thiện các quan hệ của QHSX và hoàn thiện các yếu tố cấu thành KTTT
Đối với nước ta hiện nay, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa là cuộc cách mạng về
lực lượng sản xuất. chúng ta xác định sự thành công hay không của sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam được thể hiện trước hết qua sự thành công hay không của sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Về quan hệ sản xuất, chúng ta đang tiến hành những hoạt động


để hoàn thiện những quan hệ sản xuất, bằng cách hoàn thiện các thành phần kinh tế, hoàn thiện
các hoạt động của các thành phần kinh tế. Đảng ta khẳng định: “ phát triển lực lượng sản xuất
hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả ba mặt sở hữu, quản lý và
phân phối”.
Phù hợp với sự phát triển lực lượng sản xuất ở nước ta, Đảng ra chủ trương sử dụng
“nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, nhiều thành phần kinh tế”. Đồng thời, “thực hiện
nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo
cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đó chính là
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Về kiến trúc thượng tầng, chúng ta đang hoàn thiện kiến trúc thượng tầng. Về phương diện
hệ tư tưởng, chúng ta chọn hệ tư tưởng khoa học, cách mạng và nhân văn làm chủ thuyết. Đó là
chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đối với thiết chế tương ứng, chúng ta đang
xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh, để xứng đáng là Đảng cầm quyền và thực hiện được
nhiệm vụ cầm quyền. Đồng thời, chúng ta đang chuẩn hóa đội ngũ viên chức, công chức.

Như vậy, hiện nay chúng ta đang tập trung cải tạo đồng bộ cả LLSX, QHSX và KTTT.



×