Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

phân công phối hợp và kiểm soát giữa Quốc hội và Chính phủ trong thực hiện quyền lập pháp và hành pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (126.97 KB, 8 trang )

Mở đầu
Hiến pháp năm 2013 đã thể chế hóa quan điểm của Đảng về chủ quyền nhân dân,
phát huy dân chủ XHCN và bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân;
chỉ rõ nguồn gốc, bản chất, mục đích, sức mạnh của quyền lực nhà nước ta là ở
nhân dân, thuộc về nhân dân, nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước.
Quan điểm quyền lực nhà nước là thống nhất và tập trung ở nhân dân là chủ thể
tối cao và duy nhất của quyền lực nhà nước, có ý nghĩa chỉ đạo tổ chức quyền lực
nhà nước trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân. Để đạt được chất lượng và hiệu quả quản lý, đòi hỏi bộ máy
nhà nước phải được tổ chức, phân công quyền lực một cách chặt chẽ, khoa học,
chuyên môn hóa trong thực hiện công việc của Nhà nước, có cơ chế kiểm soát,
nhận xét, đánh giá chất lượng và hiệu quả hoạt động của các quyền từ bên trong tổ
chức quyền lực nhà nước cũng như từ xã hội. Hiến pháp 1992 (sửa đổi 2001)
khẳng định: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa
các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp” (Điều 2).
Tìm hiểu cách tổ chức phân công quyền lực giữa các cơ quan Nhà nước giúp ta có
thể hiểu sâu hơn về bộ máy nhà nước. Chính vì vậy em xin được tìm hiểu đề tài.
“Phân tích quy định hiện hành về sự phân công phối hợp và kiểm soát giữa
Quốc hội và Chính phủ trong thực hiện quyền lập pháp và hành pháp” để hiểu
hơn về Nhà nước Việt Nam, có cái nhìn sâu rộng hơn về hoạt động của bộ máy
Nhà nước Việt Nam hiện nay. Từ đó có thể thấy sự tiến bộ trong tổ chức hoạt động
của bộ máy nhà nước sau khi Hiến Pháp 2013 được ban hành.

Nội dung
Chương I: Một số khái niệm cơ bản.
+Quốc hội: là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực cao
nhất của nước Cộng Hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội được cấu thành bởi
các đại biểu Quốc hội.
-Đại biểu Quốc hội là những công dân ưu tú trong các lĩnh vực hoạt động của
nhà nước và xã hội được nhân dân cả nước tín nhiệm bầu ra bằng tổng tuyển cử tự


do. Đó là những đại biểu chân chính của nhân dân. Đại biểu Quốc hội là người đại
diện cho ý chí nguyện vọng của Nhân dân ở đơn vị bầu cử ra mình và của Nhân


dân cả nước.
+Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc
hội. Chính phủ gồm Thủ tướng Chính phủ, các Phó Thủ tướng Chính phủ, các Bộ
trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang bộ. Cơ cấu, số lượng thành viên Chính phủ
do Quốc hội quyết định.
-Thủ tướng Chính phủ là đại biểu Quốc hội, do Quốc hội bầu theo đề nghị của
chủ tịch nước. Thut tướng Chính phủ là người đứng đầu Chính phủ, chịu trách
nhiệm trước Quốc hội về hoạt động của Chính phủ và những nhiệm vụ được giao;
báo cáo công tác của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trước Quốc hội, Ủy ban
thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước.
-Phó Thủ tướng Chính phủ giúp Thủ tướng Chính phủ làm nhiệm vụ theo sự phân
công của Thủ tướng Chính phủ và chịu trách nhiệm trước Thủ tướng Chính phủ về
nhiệm vụ được phân công. Khi Thủ tướng Chính phủ vắng mặt, một Phó Thủ
tướng Chính phủ được Thủ tướng Chính phủ ủy nhiệm thay mặt Thủ tướng Chính
phủ lãnh đạo công tác của Chính phủ.
-Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ chịu trách nhiệm cá nhân trước Thủ
tướng Chính phủ, Chính phủ và Quốc hội về ngành, lĩnh vực được phân công phụ
trách, cùng các thành viên khác của Chính phủ chịu trách nhiệm tập thể về hoạt
động của Chính phủ.
+ Quyền lập pháp: là quyền ban hành pháp luật, là quyền đồng ý hoặc không
đồng ý thông qua một chính sách hoặc một dự luật nào đó, quyền thông qua các dự
án luật, tạo nên những chuẩn mực buộc các chủ thể trong xã hội phải thực hiện.
+ Quyền hành pháp: là quyền thực thi các đạo luật, là quyền quản lí hành chính
nhà nước về mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, giáo dục, quốc phòng,
an ninh, đối ngoại… trên phạm vi toàn lãnh thổ quốc gia.


Chương II: Sự phân công phối hợp giữa Quốc hội và Chính phủ trong thực thi
quyền lập pháp và hành pháp.
Khoản 3 điều 2 Hiến Pháp năm 2013 quy định “Quyền lực nhà nước là thống
nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”
2.1 Vai trò, nhiệm vụ của Quốc hội trong thực thi quyền lập pháp.


Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam; thực hành quyền lập hiến, lập pháp; ban hành ra các quy chuẩn,
chuẩn mực xã hội, bắt buộc mọi chủ thể trong quốc gia phải tuân theo.
Căn cứ pháp lí về thực hiện quyền lập hiến, lập pháp của Quốc hội được quy định
tại điều 69, 70 của Hiến Pháp 2013 và điều 4, 5 trong luật tổ chức Quốc hội.
Điều 69 quy định: “Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, lập pháp”.
Khoản 1 điều 70 quy định: “Quốc hội có nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: Làm
Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp; làm luật và sửa đổi luật”
Điều 4 luật tổ chức Quốc hội quy định:
“1. Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ hoặc ít nhất một phần ba tổng số đại biểu
Quốc hội có quyền đề nghị Quốc hội xem xét, quyết định việc làm Hiến pháp hoặc sửa đổi Hiến pháp.
Quốc hội quyết định làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp khi có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc
hội biểu quyết tán thành.
2. Quốc hội thành lập Ủy ban dự thảo Hiến pháp. Thành phần, số lượng thành viên, nhiệm vụ và quyền
hạn của Ủy ban dự thảo Hiến pháp do Quốc hội quyết định theo đề nghị của Ủy ban thường vụ Quốc
hội.
3. Ủy ban dự thảo Hiến pháp soạn thảo, tổ chức lấy ý kiến Nhân dân và trình Quốc hội dự thảo Hiến
pháp.
4. Hiến pháp được Quốc hội thông qua khi có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết
tán thành. Quốc hội quyết định trưng cầu ý dân về Hiến pháp trong các trường hợp quy định tại khoản 1
Điều 19 của Luật này.”


Điều 5 luật tổ chức quốc hội quy định:
“1. Quốc hội quyết định chương trình xây dựng luật, pháp lệnh theo đề nghị của Ủy ban thường vụ Quốc
hội.
2. Các dự án luật trước khi trình Quốc hội phải được Hội đồng dân tộc hoặc Ủy ban của Quốc hội thẩm
tra, Ủy ban thường vụ Quốc hội cho ý kiến.
3. Quốc hội thảo luận, xem xét, thông qua dự án luật tại một hoặc nhiều kỳ họp Quốc hội căn cứ vào nội
dung của dự án luật.”

Bên cạnh quyền thông qua, ban hành Hiến pháp và các bộ luật thì quyền lập pháp
của Quốc hội còn được thể hiện ở việc bãi bỏ các văn bản trái với Hiến pháp, luật,
nghị quyết của Quốc hội. điều này được quy định ở điều 15 luật Tổ Chức Quốc
Hội.
Như vậy quyền thực hiện quyền lập pháp của Quốc hội được quy định rất rõ ràng.
Từ quyền hạn đến trình tự đều được quy định trong các điều khoản của các bộ luật.
Đặc biệt quyền lập hiến và lập pháp của Quốc hội được quy định tại Hiến Pháp- bộ
luật có hiệu lực pháp lí cao nhất. Điều đó làm cho quyền lập pháp của Quốc Hội
được đảm bảo một cách nghiêm túc nhất.


2.2 Nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ trong việc thực thi quyền hành pháp.
Chính phủ là cơ quan thực hiệ quyền hành pháp. Chính phủ chấp hành Hiến pháp,
các bộ luật; áp dụng các bộ luật để tổ chức quản lí hành chính nhà nước về mọi
lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, giáo dục, quốc phòng, an ninh, đối
ngoại… trên phạm vi toàn lãnh thổ quốc gia.
Căn cứ pháp lí về quyền hành pháp của chính phủ đuuợc quy định ở điều 94 và
96 Hiến Pháp 2013.
Khoản 1 điều 94 quy định: “Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của
Quốc hội”


Đây là lần đầu tiên Hiến pháp quy định rõ Chính phủ thực hiện quyền hành pháp.
Quy định này nhằm xây dựng một Chính phủ hành pháp mạnh, một hệ thống hành
chính nhà nước thông suốt, được phân công rành mạch, có đủ quyền năng và công
cụ hiến định để thực hiện quyền hành pháp.
Điều 96 Hiến pháp quy định:
“Chính phủ có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
1. Tổ chức thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban
thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước;
3. Thống nhất quản lý về kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế, khoa học, công nghệ, môi
trường, thông tin, truyền thông, đối ngoại, quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội;
thi hành lệnh tổng động viên hoặc động viên cục bộ, lệnh ban bố tình trạng khẩn cấp và các biện
pháp cần thiết khác để bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm tính mạng, tài sản của Nhân dân;
4. Trình Quốc hội quyết định thành lập, bãi bỏ bộ, cơ quan ngang bộ; thành lập, giải thể, nhập,
chia, điều chỉnh địa giới hành chính tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, đơn vị hành chính kinh tế đặc biệt; trình Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định thành lập, giải thể, nhập, chia, điều
chỉnh địa giới đơn vị hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
5. Thống nhất quản lý nền hành chính quốc gia; thực hiện quản lý về cán bộ, công chức, viên
chức và công vụ trong các cơ quan nhà nước; tổ chức công tác thanh tra, kiểm tra, giải quyết
khiếu nại, tố cáo, phòng, chống quan liêu, tham nhũng trong bộ máy nhà nước; lãnh đạo công tác
của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp; hướng dẫn,
kiểm tra Hội đồng nhân dân trong việc thực hiện văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên; tạo
điều kiện để Hội đồng nhân dân thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn do luật định;
6. Bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà nước và xã hội, quyền con người, quyền công dân; bảo đảm
trật tự, an toàn xã hội;
7. Tổ chức đàm phán, ký điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước theo ủy quyền của Chủ tịch
nước; quyết định việc ký, gia nhập, phê duyệt hoặc chấm dứt hiệu lựcđiều ước quốc tế nhân danh
Chính phủ, trừ điều ước quốc tế trình Quốc hội phê chuẩn quy định tại khoản 14 Điều 70; bảo vệ
lợi ích của Nhà nước, lợi ích chính đáng của tổ chức và công dân Việt Nam ở nước ngoài;
8. Phối hợp với Ủy ban trung ươngMặt trận Tổ quốc Việt Nam và cơ quan trung ương của tổ
chức chính trị - xã hội trong việcthực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình.”



Để làm rõ hơn các quy định trong điều 96 hiến pháp thì các điều 6 đến 27 của
luật tổ chức Chính phủ đã nói rõ thêm về nhiệm vụ quyền hạn của Chính phủ. Các
điều luật này đều nhằm xây dựng một Chính phủ hành pháp mạnh, thông suốt.
Cũng giống như quyền lập pháp của Quốc hội, quyền hành pháp của Chính phủ
được quy định tại Hiến Pháp- văn bản luật có hiệu lực cao nhất để đảm bảo việc
thực hiện quyền hành pháp có hiệu quả cao nhất.
2.3 Sự phối hợp giữa Quốc hội và Chính phủ trong thực hiện quyền lập pháp và
tư pháp.
Như vậy, xuất phát từ đặc điểm của quyền lực nhà nước, việc phân định thành ba
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp là một nhu cầu khách quan. Ngày nay, xu
hướng phân định rành mạch ba quyền đó ngày càng được coi trọng trong tổ chức
quyền lực nhà nước. Bởi vì, xã hội càng phát triển, phân công lao động càng phải
chuyên môn hóa cao để phát huy hiệu quả. Đồng thời, thực tiễn xây dựng nhà nước
pháp quyền XHCN ở nước ta chỉ ra rằng việc phân định mạch lạc ba quyền là cách
thức tốt nhất để phát huy vai trò của nhà nước trong công cuộc xây dựng và phát
triển đất nước.
Tuy nhiên, trong nhà nước ta quyền lực nhà nước là thống nhất. Đó là sự thống
nhất về mục tiêu chính trị chung. Vì vậy, việc phân định quyền lực nhà nước không
chứa đựng và bao quát việc phân lập mục tiêu chính trị chung của quyền lực nhà
nước. Do vậy, mặc dù có sự phân định ba quyền nhưng cả ba quyền lập pháp, hành
pháp và tư pháp không hoàn toàn tách biệt nhau, mà “ràng buộc lẫn nhau”, cả ba
quyền đều phải phối hợp với nhau, phải hoạt động một cách nhịp nhàng trên cơ sở
làm đúng, làm đủ nhiệm vụ và quyền hạn mà Nhân dân giao.
Không chỉ mình Chính phủ mà cả Quốc hội cũng thực hiện quyền hành pháp
thông qua việc quyết định mục tiêu, chỉ tiêu chính sách nhiệm vụ cơ bản phát triển
kinh tế-xã hội của đất nước (khoản 3 điều 70 hiến pháp 2013); hay việc thực hiện
quyền giám sát tối cao đối với hoạt động của chính phủ (khỏan 2 điều 70 Hiến
pháp năm 2013).

Chính phủ cũng thực hiện quyền lập pháp. Chính phủ thực hiện quyền hành pháp
nên hiểu được điều gì phù hợp với hoàn cảnh thực tiễn. Chính phủ đề xuất, xây
dựng chính sách trình lên Quốc hội, trình các dự án luật lên ủy ban thường vụ
Quốc hội (khoản 2 điều 96 Hiến Pháp năm 2013). Chính phủ đã chủ trì soạn thảo,
trình Quốc hội xem xét, ban hành trên 95% các dự án luật. một con số không hề
nhỏ chút nào.
Như vậy giữa quyền lập pháp và tư pháp luôn có sự phối hợp nhịp nhàng giữa
Quốc hội và Chính phủ để đảm bảo quyền lực nhà nước được thống nhất, để nhiệm
vụ nhân dân giao phó được hoàn thành.


Chương III: Kiểm soát giữa Quốc hội và Chính phủ trong thực thi quyền lập
pháp và quyền hành pháp.
Quyền lực nhà nước là vấn đề vô cùng quan trọng, nhưng cũng rất phức tạp.
Việc nắm giữ, tổ chức và sử dụng quyền lực nhà nước có hiệu quả sẽ là điều kiện
để thực hiện được những mục đích đã đề ra, mang lại hạnh phúc và nhiều lợi ích
nhất cho nhân dân, đất nước. Tuy nhiên, trong quá trình nắm giữ, tổ chức và thực
hiện quyền lực nhà nước thường tiềm ẩn rất nhiều những nguy cơ khác nhau như
tham nhũng, lãng phí, lạm quyền…có thể dẫn tới tác động tiêu cực cho sự phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước. Và không chỉ dừng lại ở nguy cơ tiềm ẩn mà
nhiều nguy cơ trong quá trình cầm quyền đã phát sinh thành những tai họa, tệ nạn
tiêu cực trên thực tế làm giảm hiệu quả của bộ máy nhà nước, gây hậu quả xấu đến
công cuộc quản lý và xây dựng đất nước, lợi ích và đời sống nhân dân…Vì vậy,
vấn đề kiểm soát và cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước là một nhiệm vụ cấp
bách trong quản lý nhà nước ở nước ta hiện nay.
3.1 Quan niệm về kiểm soát quyền lực nhà nước.
Chúng ta đều biết, trong quá trình thực hiện quyền lực nhà nước luôn phải tiến
hành các hoạt động “giám sát”. Thông thường, giám sát là hoạt động theo dõi, xem
xét, đánh giá có tính bao quát của chủ thể bên ngoài hệ thống đối với khách thể
thuộc hệ thống. Trong bộ máy nhà nước, giám sát thường thể hiện chức năng của

các cơ quan quyền lực nhà nước đối với hoạt động của bộ máy nhà nước hoặc của
Tòa án nhân dân; các tổ chức xã hội và công dân đối với hoạt động quản lý nhằm
bảo đảm sự tuân thủ pháp luật, kỷ luật trong quản lý nhà nước.
Ở Việt Nam kiểm soát quyền lực nhà nước là toàn bộ những hoạt động xem xét,
theo dõi, đánh giá, những biện pháp mà thông qua đó có thể ngăn ngừa, loại bỏ
những nguy cơ, những việc làm sai trái của cơ quan, nhân viên nhà nước trong việc
tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước, bảo đảm cho quyền lực nhà nước được tổ
chức và thực hiện đúng mục đích mong muốn và đạt được hiệu quả cao.
Trong tổ chức quyền lực nhà nước ở các nước theo nguyên tắc phân quyền mềm
dẻo thì kiểm soát quyền lực nhà nước giữa các quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp, chủ yếu là kiểm soát của lập pháp và tư pháp đối với hành pháp
3.2 Kiểm soát giữa Quốc hội và Chính phủ trong thực thi quyền lập pháp và
quyền hành pháp.
Để thực hiện chức năn kiểm soát của mình, Quốc hội có nhiệm vụ và quyền hạn
giám sát tối cao. Điều này được quy định trong các khoản 2,7,8 điều 70 Hiến Pháp
năm 2013 và điều 6 luật tổ chức Quốc hội. theo đó Quốc hội có nhiệm vụ và quyền
hạn sau:


“Thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội;
xét báo cáo công tác của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân
dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán nhà nước và
cơ quan khác do Quốc hội thành lập”
“Quốc hội giám sát tối cao hoạt động của Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính
phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm
toán nhà nước và cơ quan khác do Quốc hội thành lập.”

Như vậy Quốc hội giám sát các cơ quan nhà nước khác, đặc biệt là chính phủ.
Đảm bảo cho hoạt động của chính phủ tuân theo Hiến Pháp và luật pháp, không để
cho quyền lực nhà nước bị lạm dụng, sử dụng sai mục đích dẫn đến hậu quả

nghiêm trọng.
Quốc hội còn có quyền:
“Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Phó Chủ
tịch Quốc hội, Ủy viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng dân tộc, Chủ nhiệm Ủy
ban của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân tối cao, Chủ tịch Hội đồng bầu cử quốc gia, Tổng Kiểm toán nhà nước, người
đứng đầu cơ quan khác do Quốc hội thành lập; phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách
chức Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và thành viên khác của Chính phủ, Thẩm phán Tòa
án nhân dân tối cao; phê chuẩn danh sách thành viên Hội đồng quốc phòng và an ninh, Hội đồng
bầu cử quốc gia”.
“Bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn”.

Như vậy Quốc hội có quyền lấy phiếu và bỏ phiếu tín nhiệm với các chức vụ,
chức danh trong cơ quan nhà nước để xem xét sự tín nhiệm của mọi người đối với
cơ quan, chức danh đó; người đó có hoàn thành tốt nhiệm vụ mà nhân dân, nhà
nước giao phó hay không. Nếu như không hoàn thành hoặc làm không tốt nhiệm
vụ mà Nhân dân, Quốc hội giao phó thì Quốc hội có quyền bãi miễn chức vụ đó.
Quốc hội giám sát Chính phủ trong việc thực thi quyền hành pháp. Ngược lại
Chính phủ cũng giám sát Quốc hội trong thực thi quyền lập pháp. Thông qua việc
đệ trình lên Quốc hội các dự thảo luật, chính sách phù hợp với đời sống thực tiễn.
Điều này được quy định trong khoản 2 điều 96 của Hiến Pháp năm 2013 “Đề xuất,
xây dựng chính sách trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định hoặc quyết định
theo thẩm quyền để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại Điều này; trình dự án luật, dự án
ngân sách nhà nước và các dự án khác trước Quốc hội; trình dự án pháp lệnh trước Ủy ban
thường vụ Quốc hội”

Có một điều không thể phủ nhận rằng Quốc hội thực hiện quyền lập pháp là
thông qua, ban hành các luật. Và các luật ấy phải phù hợp với thực tế đời sống, các
quy tắc ứng xử phải chuẩn mực với đời sống xã hội. Quốc hội không phải là người
“đẻ” ra luật, vì vậy không thể tùy tiện ban hành luật. Bên cạnh đó Chính Phủ là cơ

quan chấp tiếp xúc gần nhất với thực tiễn, là cơ quan đưa luật từ lí thuyết vào thực


tế đời sống. Chính vì vậy Chính phủ sẽ biết điều gì không hợp lí ở luật, biết luật sai
ở đâu mà sửa; biết thực tế cần những gì. Vì vậy trong hiến pháp đã quy định cho
Chính phủ đề xuất, đệ trình lên Quốc hội thông qua các luật, để có thể giám sát
quyền lập pháp của Quốc hội, để luật phù hợp với thực tiễn hơn.

Kết luận
Như vậy quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm
soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và
tư pháp. Đặc biệt là giữ hai cơ quan Quốc hội và Chính phủ trong việc thực thi
quyền lập pháp và quyền hành pháp.
Quyền hạn và nhiệm vụ của Quốc hội trong thực hiện quyền lập pháp và Chính
phủ trong thực hiện quyền Hành pháp đều đã được quy định rõ ràng trong Hiến
Pháp và các luật liên quan. Bên cạnh đó Quốc hội và Chính phủ cũng phối hợp
nhịp nhàng với nhau để thực hiện hai quyền ấy một cách hiệu quả nhất.
Quyền lực nhà nước là thông nhất. Vì vậy việc phân công nhiệm vụ của Quốc
hội và Chính phủ là để cho chuyên môn hóa của các cơ quan cao hơn chứ không hề
nhằm mục đích gì khác. Và để quyền lực nhà nước được thống nhất và có hiệu quả
cao nhất thì cần có sự kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước với nhau. Quốc hội
kiểm soát Chính phủ trong quyền hành pháp và ngược lại Chính phủ cũng giám sát
Quốc hội trong thực hiện quyền lập pháp.
Tất cả những điểm tiến bộ trong việc tổ chức bộ máy nhà nước ấy đều đã được
thể hiện trong Hiến Pháp năm 2013- văn bản có hiệu lực pháp lí cao nhất.



×