Tải bản đầy đủ (.doc) (97 trang)

Đánh giá hiện trạng và đề xuất biện pháp quản lý chất thải rắn y tế tại bệnh viện đa khoa huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (863.58 KB, 97 trang )

HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
KHOA MÔI TRƯỜNG
----------------------------

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
TÊN ĐỀ TÀI:
“ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG VÀ ĐỀ XUẤT BIỆN PHÁP QUẢN
LÝ CHẤT THẢI RẮN Y TẾ TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA HUYỆN
QUỲNH LƯU, TỈNH NGHỆ AN”

Người thực hiện

: NGUYỄN THỊ THU HÀ

Lớp

: MTA

Khóa

: 56

Chuyên ngành

: Khoa học môi trường

Giáo viên hướng dẫn: TS. NGÔ THẾ ÂN

Hà Nội – Năm 2015

1




HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
KHOA MÔI TRƯỜNG
----------------------------

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
TÊN ĐỀ TÀI:
“ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG VÀ ĐỀ XUẤT BIỆN PHÁP QUẢN LÝ
CHẤT THẢI RẮN Y TẾ TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA HUYỆN QUỲNH
LƯU, TỈNH NGHỆ AN”

Người thực hiện

: Nguyễn Thị Thu Hà

Lớp

: MTA

Khóa

: 56

Chuyên ngành

: Khoa học môi trường

Giáo viên hướng dẫn: TS. Ngô Thế Ân
Địa điểm thực tập


: Bệnh viện đa khoa huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An

Hà Nội – Năm 2015

2


NHẬN XÉT CỦA CƠ SỞ THỰC TẬP

3


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện khóa luận tốt nghiệp, ngoài sự nỗ lực của bản
thân, tôi đã nhận được nhiều sự quan tâm giúp đỡ của các cá nhân, tổ chức
trong và ngoài trường.
Trước hết tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo khoa Môi trường
cùng các thầy cô giáo Học viện Nông nghiệp Việt Nam đã truyền đạt cho tôi
những kiến thức và kinh nghiệm quý báu.
Đặc biệt tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất đến TS. Ngô Thế
Ân là người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện
đề tài.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám đốc, Trưởng khoa Kiểm soát nhiễm
khuẩn, Phó phòng Tổ chức – Hành chính cùng toàn bộ cán bộ công nhân viên
của bệnh viện đa khoa huyện Quỳnh Lưu đã tạo điều kiện và giúp đỡ tôi trong
thời gian thực tập tại đây.
Cuối cùng tôi xin gửi lời cảm ơn tới gia đình, người thân và bạn bè đã
luôn động viên, khích lệ tôi trong suốt quá trình học tập cũng như trong thời
gian thực hiện khóa luận tốt nghiệp.

Tôi xin cam đoan khóa luận này là của riêng tôi, các số liệu công bố đã
được sự cho phép của đơn vị thực tập và kết quả nghiên cứu là hoàn toàn
trung thực.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội ngày 5 tháng 5 năm 2015.
Ký tên

Nguyễn Thị Thu Hà

i


ii


MỤC LỤC

DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
BKHCN&MT

Bộ Khoa học công nghệ và Môi trường

BTNMT

Bộ Tài nguyên môi trường

BYT

Bộ Y tế


CT

Chị thị

CTNH

Chất thải nguy hại

CTR

Chất thải rắn

CTRYT

Chất thải rắn y tế

CTYT

Chất thải y tế

PE

Polyetylen

PP

Polypropylen




Quyết định

QCVN

Quy chuẩn Việt Nam

TCVN

Tiêu chuẩn Việt Nam

TT

Thông tư

TTg

Thủ tướng

WHO

Tổ chức Y tế thế giới

iii


DANH MỤC BẢNG

iv



DANH MỤC HÌNH
Hình 2.1: Thành phần CTRYT dựa trên đặc tính lý, hóa, sinh
Hình 2.2: Thành phần CTRYT dựa theo tính chất nguy hại
Hình 2.3: Tình hình xử lý CTR tại một số cơ sở y tế
Hình 4.1: Vị trí địa lý của bệnh viện đa khoa huyện Quỳnh Lưu...................35
Hình 4.2: Sơ đồ cơ cấu tổ chức của bệnh viện................................................41
Hình 4.3: Các nguồn phát sinh CTRYT tại bệnh viện.................................... 44
Hình 4.4: Một số hình ảnh về CTR y tế phát sinh tại bệnh viện.....................45
Hình 4.5: Hệ thống quản lý CTRYT tại bệnh viện......................................... 50
Hình 4.6: Sơ đồ quy trình quản lý CTR y tế tại bệnh viện..............................54
Hình 4.7: Công tác thu gom, phân loại CTR y tế tại bệnh viện...................... 58
Hình 4.8: Công tác vận chuyển CTRYT tại bệnh viện................................... 60
Hình 4.9: Khu lưu trữ rác thải sinh hoạt và nguy hại của bệnh viện...............63
Hình 4.10: Kho lưu trữ rác tái chế của bệnh viện........................................... 63
Hình 4.11: Một số hình ảnh về lò đốt CTR y tế của bệnh viện.......................64

v


vi


Phần 1: ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây, sự gia tăng dân số và phát triển không ngừng
của nền kinh tế - xã hội dẫn đến nhu cầu khám chữa bệnh của người dân tăng
lên. Sự quan tâm đến y tế cũng được chỉ rõ trong chiến lược phát triển kinh
tế xã hội từ năm 2011 – 2020 của Đại hội đảng lần thứ XI, trong đó đã đề
ra mục tiêu phát triển mạnh sự nghiệp y tế, nâng cao chất lượng công tác
chăm sóc sức khỏe nhân dân, tập trung phát triển hệ thống chăm sóc sức

khỏe và nâng cao chất lượng dịch vụ y tế. Định hướng chiến lược này đã
khuyến khích hệ thống khám chữa bệnh trên cả nước, bao gồm bệnh viện
và các cơ sở y tế từ trung ương đến địa phương phát triển cả về số lượng,
chất lượng cũng như quy mô. Tuy nhiên, đi cùng những mặt tích cực thì việc
phát sinh chất thải rắn từ hoạt động của các cơ sở y tế cũng là một nguyên
nhân gây nên tình trạng ô nhiễm môi trường, tác động tiêu cực đến sức khỏe
con người.
Theo ước tính của các chuyên gia môi trường (BTNMT, 2011) lượng
chất thải rắn y tế thải ra môi trường trung bình khoảng 600 tấn/ngày. Chất
thải rắn y tế có chứa các thành phần độc hại, các yếu tố truyền nhiễm gây
ảnh hưởng xấu đến sức khỏe cho những người tiếp xúc. Tuy nhiên, việc
quản lý, xử lý chất thải rắn y tế ở nước ta còn rất nhiều bất cập, chưa thực
sự hiệu quả. Theo thông tin công bố của Cục quản lý Môi trường Y tế (Bộ Y
tế) trong Hội thảo bàn về thực trạng và giải pháp cho rác thải y tế diễn ra tại
TPHCM ngày 19/9/2013: “Hiện mới có 69% bệnh viện, 32% cơ sở y tế dự
phòng thuê xử lý chất thải hoặc tự xử lý. Các cơ sở còn lại đang xử lý nguồn
rác thải y tế bằng cách chôn lấp, đốt thủ công… chủ yếu là những cơ sở ở
vùng sâu vùng xa hoặc các trạm y tế phường xã”.
Bệnh viện đa khoa huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An nằm trên đường
quốc lộ 1A thuộc địa phận xã Quỳnh Thạch, là một bệnh viện tuyến huyện

1


có chất lượng khá cao trong số các bệnh viện của tỉnh, với quy mô 280
giường bệnh, đã và đang trở thành một địa chỉ khám chữa bệnh tin cậy của
người dân trong toàn huyện. Tuy nhiên, cũng nằm trong tình trạng chung
của cả nước, vấn đề môi trường cần giải quyết tại bệnh viện là tình trạng
chất thải rắn y tế (CTRYT) phát sinh với khối lượng lớn trong khi hệ thống
thu gom, quản lý lại còn nhiều hạn chế.

Xuất phát từ vấn đề thực tiễn nói trên, tôi tiến hành thực hiện đề tài:
“Đánh giá hiện trạng và đề xuất biện pháp quản lý chất thải rắn y tế tại
bệnh viện đa khoa huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An”.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Đánh giá hiện trạng công tác thu gom, quản lý và xử lý chất thải rắn
y tế tại bệnh viện đa khoa huyện Quỳnh Lưu.
Đánh giá công tác quản lý chất thải rắn y tế tại bệnh viện.
Đề xuất các giải pháp quản lý rác thải y tế tại bệnh viện đảm bảo an
toàn và vệ sinh môi trường.
1.3. Yêu cầu nghiên cứu
Xác định nguồn gốc phát sinh, khối lượng, thành phần chất thải rắn
y tế tại bệnh viện đa khoa huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An.
Đánh giá được ưu, nhược điểm của công tác quản lý CTRYT tại
bệnh viện.
Các giải pháp được đề xuất phải có tính khả thi trong điều kiện của
bệnh viện.

2


Phần 2: TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Cơ sở lý thuyết về quản lý chất thải rắn y tế
2.1.1.Các khái niệm và thuật ngữ liên quan
- Chất thải: Là vật chất được thải ra từ sản xuất, kinh doanh, dịch vụ,
sinh hoạt hoặc các hoạt động khác (Luật Bảo vệ môi trường, 2014).
- Chất thải nguy hại: là chất thải chứa các yếu tố độc hại, phóng xạ, lây
nhiễm, dễ cháy, dễ nổ, gây ăn mòn, gây ngộ độc hoặc có đặc tính nguy hại
khác (Luật Bảo vệ môi trường, 2014).
Theo định nghĩa của Ngân hàng Thế giới:
- Chất thải y tế:được xác định là chất thải phát sinh trong các cơ sở y tế,

từ các hoạt động khám chữa bệnh, chăm sóc, xét nghiệm, phòng bệnh, nghiên
cứu, đào tạo.
- Chất thải y tế nguy hại:được xác định là chất thải có chứa một trong
các thành phần như máu, dịch cơ thể, chất bài tiết, các bộ phận cơ quan của
cơ thể người, bơm kim tiêm và các vật sắc nhọn, dược phẩm, hóa chất và các
chất phóng xạ được sử dụng trong y tế. Những chất này không được xử lý
đúng cách sẽ gây nguy hại cho môi trường và sức khỏe con người.
Theo điều 3, Chương 1, Quy chế quản lý chất thải y tế năm 2007:
- Chất thải y tế: là vật chất ở thể rắn, lỏng và khí được thải ra từ các cơ
sở y tế bao gồm chất thải y tế nguy hại và chất thải thông thường.
- Chất thải y tế nguy hại: là chất thải y tế chứa các yếu tố nguy hại cho
sức khỏe con người và môi trường như dễ lây nhiễm, gây ngộ độc, phóng xạ,
dễ cháy, dễ nổ, dễ ăn mòn hoặc có đặc tính nguy hại khác nếu những chất thải
này không được tiêu hủy an toàn.
- Quản lý chất thải y tế: là hoạt động quản lý việc phân loại, xử lý ban
đầu, thu gom, vận chuyển, lưu giữ, giảm thiểu, tái sử dụng, tái chế, xử lý, tiêu
hủy chất thải y tế và kiểm tra, giám sát việc thực hiện.
- Giảm thiểu chất thải y tế: là các hoạt động làm hạn chế tối đa sự phát
thải chất thải y tế, bao gồm: giảm lượng chất thải y tế tại nguồn, sử dụng các
3


sản phẩm có thể tái chế, tái sử dụng, quản lý tốt, kiểm soát chặt chẽ quá trình
thực hành và phân loại chất thải chính xác.
2.1.2. Phân loại chất thải y tế
• Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), chất thải y tế được phân thành
những loại chủ yếu sau:
- Chất thải thông thường: Đó là các chất thải không độc hại, về bản
chất tương tự rác thải sinh hoạt.
- Chất thải là bệnh phẩm: Mô, cơ quan, phần bào tử thai người, xác

động vật thí nghiệm, máu, dịch thể.
- Chất thải chứa phóng xạ: Chất thải từ các quá trình chiếu chụp X
quang, phân tích tạo hình cơ quan trong cơ thể, điều trị và khu trị khối u…
- Chất thải hóa học: Có thuộc tính độc hại, ăn mòn, gây cháy hay
nhiễm độc gen hoặc không độc.
- Chất thải nhiễm khuẩn: Gồm các chất thải chứa tác nhân gây bệnh
như vi sinh vật kiểm dịch , bệnh phẩm bệnh nhân bị các ly hoặc máu nhiễm
khuẩn…
- Các vật sắc nhọn: Kim tiêm, lưỡi dao, kéo mổ, chai lọ vỡ…có thể
gây thương tích cho người và vật.
- Dược liệu: Dư thừa, quá hạn sử dụng…
• Theo quy chế quản lý chất thải y tế của Bộ Y tế ban hành (Quyết định
số 43/2007/QĐ – BYT ngày 30/11/2007), căn cứ vào các đặc điểm lý học, hóa
học, sinh học và tính chất nguy hại, chất thải trong các cơ sở y tế được phân
thành 5 nhóm sau:
- Chất thải lây nhiễm.
- Chất thải hóa học nguy hại.
- Chất thải phóng xạ.
- Bình chứa áp suất.
- Chất thải thông thường.
4


*)Nhóm chất thải lây nhiễm
Nhóm chất thải lây nhiễm được Bộ Y tế phân thành 4 phân nhóm chất
thải lây nhiễm theo quyết định số 43/2007/QĐ – BYT ngày 30/11/2007.
Bảng 2.1: Phân loại nhóm chất thải y tế lây nhiễm
Nhóm
chất
thải


Tên phân

Thành phần

nhóm

Là chất thải có thể gây ra các vết cắt hoặc chọc thủng,
A

Chất thải sắc
nhọn

có thể nhiễm khuẩn, bao gồm: bơm kim tiêm, đầu sắc
nhọn của dây truyền, lưỡi dao mổ, đinh mổ, cưa, các
ống tiêm, mảnh thủy tinh vỡ và các vật sắc nhọn khác
sử dụng trong các hoạt động y tế.

Chất thải
B

không sắc
nhọn
Chất thải có

C

D

nguy cơ lây


Là những chất thải bị thấm máu, thấm dịch sinh học
của cơ thể và các chất phát sinh từ buồng bệnh cách ly.
Là quá trình phát sinh trong các phòng xét nghiệm như
bệnh phẩm và dụng cụ đựng, dính bệnh phẩm.

nhiễm cao
Chất thải giải

Bao gồm các mô, cơ quan, bộ phận cơ thể người, các

phẫu

nhau thai, bào thai..
(Nguồn: Quy chế quản lý chất thải y tế – Bộ Y tế, 2007).

*) Chất thải hóa học nguy hại:
Nhóm chất thải hóa học nguy hại được Bộ Y tế phân thành các phân
nhóm chất thải hóa học nguy hại theo quyết định số 43/2007/QĐ – BYT ngày
30/11/2007, trong đó bao gồm:
+ Dược phẩm quá hạn, kém phẩm chất không còn khả năng sử dụng.
+ Các chất hóa học nguy hại sử dụng trong y tế.

5


+ Chất gây độc tế bào, gồm: vỏ các chai thuốc, lọ thuốc, các dụng cụ
dính thuốc gây độc tế bào và các chất tiết ra từ tế bào được điều trị bằng hóa
trị liệu.
+ Chất chứa kim loại nặng: thủy ngân (từ nhiệt kế, huyết áp kế thủy ngân

bị vỡ, chất thải từ hoạt động nha khoa), cadimi (Cd) (từ pin, ắc quy), chì (từ
tấm gỗ bọc chì hoặc vật liệu trắng chì sử dụng trong ngăn tia xạ từ các khoa
chuẩn đoán hình ảnh, xạ trị).
*) Chất thải phóng xạ
Tại các cơ sở y tế, chất thải phóng xạ phát sinh từ các hoạt động chuẩn
đoán, hóa trị liệu và nghiên cứu. Chất thải phóng xạ gồm các chất thải phóng
xạ rắn, lỏng và khí.
Bảng 2.2: Nhóm các chất thải phóng xạ trong bệnh viện.
Tên nhóm
Chất thải phóng xạ rắn

Thành phần
Ống bơm tiêm, kim tiêm, kính bảo hộ, giấy
thấm, gạc sát khuẩn, ống nghiệm, chai lọ

Chất thải phóng xạ lỏng

đựng chất phóng xạ.
Nước tiểu của người bệnh, các chất bài tiết,

Chất thải phóng xạ khí

nước súc rửa các dụng cụ có chứa phóng xạ.
Các khí thoát ra từ kho chứa chất phóng xạ.
(Nguồn: Quy chế quản lý chất thải y tế, Bộ Y tế 2007).

*) Bình chứa áp suất
Bao gồm bình đựng Oxy, CO2, bình ga, bình khí, các bình này dễ cháy
gây nổ khi thiêu đốt.
*) Chất thải thông thường

Chất thải thông thường là chất thải không chứa các yếu tố lây nhiễm, hóa
học nguy hại, phóng xạ, dễ cháy, nổ, bao gồm:
+ Chất thải sinh hoạt phát sinh từ các buồng bệnh (trừ các buồng bệnh
cách ly).

6


+ Chất thải phát sinh từ các hoạt động chuyên môn y tế như các chai lọ,
thủy tinh, chai huyết thanh, các vật liệu nhựa, các loại bó bột trong gãy xương
kín. Những chất thải này không dính máu, dính dịch sinh học và các chất hóa
học nguy hại.
+ Chất thải phát sinh từ công việc hành chính: giấy, báo, tài liệu, vật liệu
đóng gói, thùng các tông, túi nilon, túi đựng phim.
+ Chất thải ngoại cảnh: lá cây và rác từ các khu vực ngoại cảnh.
2.1.3. Một số đặc trưng của chất thải rắn y tế
2.1.3.1. Nguồn gốc phát sinh chất thải rắn y tế
Chất thải y tế phát sinh từ các cơ sở y tế khác nhau, bao gồm: các bệnh
viện, trạm y tế, các cơ sở khám chữa bệnh tư nhân, các trung tâm chăm sóc
sức khỏe, các cơ sở nghiên cứu y dược, y tế dự phòng,…
Các loại chất thải rắn điển hình được tạo thành từ các hoạt động của bệnh
viện bao gồm:
- Các chất thải rắn sinh hoạt.
- Các phế thải trong quá trình phẫu thuật bao gồm các bộ phận cơ thể và
các tổ chức nội tạng.
- Các cặn cống nạo vét từ các hệ thống cống rãnh thoát nước.
- Các bông băng gạc dính máu của bệnh nhân.
- Các vật sắc nhọn và dễ gãy có tiếp xúc với máu mủ trong quá trình mổ
xẻ hoặc giấy thấm đã được sử dụng trong y tế, nha khoa.
- Các loại thuốc quá hạn sử dụng (Nguyễn Thị Kim Thái, 2011).


Bảng 2.3: Các loại chất thải rắn đặc thù phát sinh từ các hoạt động của
bệnh viện.
Loại chất thải rắn
Chất thải sinh hoạt

Nguồn tạo thành
Các chất thải ra từ nhà bếp, các khu hành chính,

các loại bao gói,…
Chất thải chứa các vi Các phế thải từ phẫu thuật, các cơ quan nội tạng
trùng gây bệnh

của người sau khi mổ xẻ và của các động vật sau

7


quá trình xét nghiệm, các gạc bông lẫn máu mủ
Chất thải bị nhiễm bẩn

của bệnh nhân,…
Các thành phần thải ra sau khi dùng cho bệnh

Chất thải đặc biệt

nhân, các chất thải từ quá trình lau cọ sàn nhà,…
Các loại chất thải độc hơn các loại trên, các chất
phóng xạ, hóa chất dược,…
(Nguồn: BTNMT, 2011).


Nguồn phát sinh chất thải bệnh viện rất phong phú và đa dạng. Thành
phần và khối lượng của từng loại chất thải rắn y tế có đặc trưng theo chức
năng và nhiệm vụ của từng bệnh viện. Chúng có nguồn gốc chủ yếu từ các
phòng khám, khoa chức năng, phòng hành chính – tổng hợp và khu dịch vụ
trong bệnh viện. Ví dụ: từ phòng bệnh nhân phát sinh nhiều chất thải rắn sinh
hoạt như hộp cơm, vỏ trái cây,…; các trạm tiêm phát sinh nhiều chất thải sắc
nhọn; trong khi đó các phòng mổ lại phát sinh nhiều chất thải nguy hại, chất
thải lây nhiễm,…
2.1.3.2. Thành phần chất thải rắn y tế
Hầu hết các CTRYT là các chất thải sinh học độc hại và mang tính đặc
thù so với các chất thải rắn (CTR) khác. Thành phần của CTRYT có đặc
trưng theo chức năng và nhiệm vụ chuyên môn của từng bệnh viện. Theo
nghiên cứu khảo sát của Tổ chức Y tế Thế giới tại các nước đang phát triển,
thành phần chất thải rắn từ các hoạt động y tế như sau:
+ 80% là chất thải thông thường có thể xử lý như chất thải sinh hoạt hay
chất thải đô thị.
+ 15% là chất thải lây nhiễm và chất thải giải phẫu.
+ 1% là chất thải sắc nhọn.
+ 3% là chất thải dược, chất thải hóa học.
+ Dưới 1% là các chất thải khác: chất thải phóng xạ, chất gây độc tế bào,
bình chứa áp suất, chất thải chứa kim loại nặng (Nguyễn Thị Kim Thái, 2011).
*) Thành phần CTRYT dựa trên đặc tính lý, hóa, sinh học
• Thành phần vật lý:
+ Giấy: hộp đựng dụng cụ, giấy gói, giấy thải từ nhà vệ sinh,…
+ Đồ bông vải sợi: bông băng gạc, quần áo cũ, khăn lau, vải trải,…
+ Đồ thủy tinh: chai lọ, ống tiêm thủy tinh, ống nghiệm,…
8



+ Bệnh phẩm, máu mủ dính ở băng gạc,…
+ Đồ nhựa: hộp đựng, bơm tiêm. Dây truyền máu, túi đựng hàng,…
+ Rác, lá cây, đất đá,… (Nguyễn Thị Kim Thái, 2009).
• Thành phần hóa học:
+ Những chất vô cơ: kim loại, bột bó, chai lọ thủy tinh, sỏi đá, hóa chất…
+ Những chất hữu cơ: đồ vải sợi, giấy, bộ phận cơ thể, đồ nhựa…
(Nguyễn Thị Kim Thái, 2009).
• Thành phần sinh học:
Gồm máu, các loại dịch tiết, những động vật làm thí nghiệm, bệnh phẩm
và các vi trùng gây bệnh (Nguyễn Thị Kim Thái, 2009).
Dựa trên các đặc tính lý, hóa, sinh học, CTR y tế có tỷ lệ các thành phần
như sau:

Hình 2.1: Thành phần CTRYT dựa trên đặc tính lý hóa sinh
(Nguồn: BTNMT, 2011).

Theo đặc tính lý, hóa, sinh thì thành phần CTRYT chủ yếu là các rác hữu
cơ chiếm 52%, sau đó là đất đá và các loại vật chất khác chiếm 21%, ít nhất là
các bệnh phẩm (0,6 %) và kim loại, các vỏ hộp chiếm (0,9%). Như vậy trong
thành phần CTRYT có lượng lớn chất hữu cơ và thường có độ ẩm tương đối
cao, ngoài ra còn có thành phần chất nhựa chiếm khoảng 10%, vì vậy khi lựa
chọn công nghệ thiêu đốt cần lưu ý đốt triệt để và không phát sinh khí độc hại.
*) Thành phần CTRYT dựa theo tính chất nguy hại.

9


Hình 2.2: Thành phần CTRYT dựa theo tính chất nguy hại
(Nguồn: Nguyễn Xuân Hoàng, 2013).


Dựa theo tính chất nguy hại thì CTR thông thường chiếm tỉ lệ cao nhất
(78%), loại CTR này phát sinh do hoạt động sinh hoạt của bệnh nhân, người
nhà bệnh nhân, các y, bác sĩ, từ các hoạt động khám chữa bệnh. CTR lâm
sàng chiếm 18%, bình áp suất chiếm 3%. Ít nhất là CTR hóa học chiếm 1%.
Như vậy, tuy thành phần nguy hại chỉ chiếm khoảng ¼ tổng lượng
CTRYT nhưng nếu không được quản lý và xử lý tốt thì sẽ gây ô nhiễm môi
trường và ảnh hưởng tới sức khỏe con người.
2.1.4.

Ảnh hưởng của chất thải rắn y tế tới môi trường và sức khỏe

cộng đồng
2.1.4.1. Ảnh hưởng của chất thải rắn y tế tới môi trường
Khi CTRYT không được quản lý và xử lý đúng cách (chôn lấp, thiêu đốt
không đúng quy chế, tiêu chuẩn) thì sẽ dẫn đến ô nhiễm môi trường đất, nước,
không khí. Sự ô nhiễm này có thể gây ra những ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp
đến sức khỏe con người và hệ sinh thái
*) Ảnh hưởng đến môi trường nước.
CTRYT bao gồm cả rác thải sinh hoạt và rác thải y tế nguy hại, 2 loại này
đều có tác động đến môi trường nước ở các mức độ khác nhau. Đặc biệt là chất
thải y tế nguy hại, với đặc tính chứa nhiều mầm bệnh và các chất độc hại nếu
không được quản lý chặt chẽ sẽ lan truyền rất nhanh đến các nguồn nước và gây

10


ô nhiễm nguồn nước mặt. Điều này sẽ gây ra tác động xấu đến cộng đồng khi sử
dụng nguồn nước này (Health Survices Advisory Committee, 1999).
Mặt khác, khi chôn lấp CTRYT không hợp vệ sinh, đặc biệt là chất thải y
tế được chôn lấp chung với chất thải sinh hoạt có thể gây ô nhiễm nguồn nước

ngầm (Trịnh Thị Thanh, 2002).
*) Ảnh hưởng đến môi trường đất
CTYT trước khi thải bỏ vào môi trường nếu không được xử lý đúng cách
thì các vi sinh vật gây bệnh, hóa chất độc hại, các vi khuẩn có thể ngấm vào
môi trường đất gây nhiễm độc cho môi trường sinh thái, các tầng sâu trong
đất, sinh vật kém phát triển,... làm cho việc khắc phục hậu quả phía sau gặp
khó khăn (Trịnh Thị Thanh, 2002).
*) Ảnh hưởng đến môi trường không khí
Chất thải bệnh viện từ khi phát sinh đến khâu xử lý cuối cùng đều gây ra
những tác động xấu đến môi trường không khí. Khi phân loại tại nguồn, thu
gom, vận chuyển chúng phát tán lượng rác, bào tử vi sinh vật gây bệnh, hơi
dung môi, hóa chất vào không khí. Ở khâu xử lý (đốt, chôn lấp) phát sinh ra
các khí độc hại HX, NOx, dioxin, furan,... từ lò đốt và CH4, NH3, H2S từ bãi
chôn lấp. Các khí này nếu không được thu hồi và xử lý sẽ gây ảnh hưởng xấu
đến sức khỏe cộng đồng dân cư xung quanh (Trịnh Thị Thanh, 2002).
2.1.4.2. Ảnh hưởng của chất thải rắn y tế đến sức khỏe con người
*) Đối tượng chịu ảnh hưởng trực tiếp từ CTRYT
Tất cả các cá nhân tiếp xúc với chất thải y tế nguy hại là những người có
nguy cơ bị ảnh hưởng đến sức khỏe cao, bao gồm những người làm việc trong
các cơ sở y tế, những người ở ngoài các cơ sở y tế làm nhiệm vụ vận chuyển
các chất thải y tế và những người trong cộng đồng bị phơi nhiễm với chất thải
do hậu quả của sự sai sót trong khâu quản lý. Dưới đây là những nhóm đối
tượng chính có nguy cơ bị ảnh hưởng tới sức khỏe:
+ Bác sỹ, y tá, hộ lý và các nhân viên hành chính của bệnh viện.
+ Bệnh nhân điều trị nội trú hoặc ngoại trú.
+ Khách tới thăm hoặc người nhà bệnh viện.

11



+ Những công nhân làm việc trong các dịch vụ hỗ trợ phục vụ cho các cơ
sở khám chữa bệnh và điều trị (ví dụ: giặt là, lao công, vận chuyển bệnh
nhân,...).
+ Những người làm việc trong các cơ sở xử lý chất thải y tế (tại các bãi
đổ rác thải, lò đốt rác) và những người bới rác, thu gom rác,... (Trịnh Thị
Thanh, 2002).
*) Tác động từ CTRYT
Tác động đến sức khỏe con người của CTR y tế được gây ra từ nhiều loại
chất thải khác nhau như từ chất thải truyền nhiễm và các vật sắc nhọn, từ chất
thải hóa học và dược phẩm, từ chất thải gây độc tế bào hay từ chất thải
phóng xạ. Nhưng dù là từ nhóm chất thải nào thì ảnh hưởng của nó đối
với con người là rất nguy hiểm và không thể xem nhẹ. Một trong những
mối hiểm họa mà CTR y tế gây ra cho con người là nguy cơ bị nhiễm HIV
từ các vật sắc nhọn như bơm kim tiêm. Không những thế CTR y tế còn có
thể dẫn đến khả năng mắc các bệnh từ vi sinh vật truyền nhiễm có chất
thải như viêm gan B, viêm gan siêu vi B, viêm gan siêu vi C, và các bệnh
về đường hô hấp, viêm da hay có những biểu hiện bất thường như đau
đầu, hoa mắt, chóng mặt, buồn nôn,...
Theo tài liệu của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), trong tổng số 35 triệu
nhân viên y tế trên thế giới, mỗi năm có 2 triệu người tiếp xúc qua da với
bệnh truyền nhiễm. Trong đó khoảng 40% bị phơi nhiễm viêm gan B, 40%
phơi nhiễm viêm gan C, 2,5% phơi nhiễm HIV do tổn thương vì kim đâm.
Cũng theo một cuộc khảo sát của Viên Y học lao động và môi trường ghi
nhận 35% số cán bộ, nhân viên y tế bị thương tích do vật sắc nhọn gây nên và
70% trong số đó bị tổn thương do vật sắc nhọn trong sự nghiệp y tế (Nguyễn
Võ Hinh, 2013).
2.1.5. Quản lý chất thải rắn y tế
Quản lý chất thải y tế bắt đầu ngay từ quá trình sinh ra chất thải đến quá
trình xử lý và khâu cuối cùng là thải bỏ chất thải. Khi phát sinh chất thải cần
12



sử dụng các biện pháp để hạn chế tối đa việc phát thải chất thải nguy hại. Sau
xử lý lượng chất thải thực sự phải thải bỏ cuối cùng cần được giải quyết để
đảm bảo vệ sinh và an toàn.
2.1.5.1. Giảm thiểu tại nguồn
Phương pháp làm giảm thiểu chất thải hiện tại đang được áp dụng là các
hoạt động tái sinh, tái chế cũng như giảm thiểu tại nguồn. Giảm thiểu tại
nguồn là giảm về số lượng hoặc độc tính của bất kỳ một chất thải y tế nào đi
vào dòng thải trước khi tái sinh, xử lý hoặc đưa vào môi trường. Những cải
tiến căn bản trong giảm thiểu tại nguồn là:
- Chọn nhà cung cấp hậu cần cho bệnh viện mà sản phẩm của họ ít phế
thải hay giảm lượng CTRYT nguy hại phải xử lý đặc biệt.
- Sử dụng các biện pháp khử trùng tẩy uế cơ lý học nhiều hơn các biện
pháp hóa học sẽ làm giảm thiểu chất thải nguy hại.
- Giảm thiểu chất thải, nhất là trong công tác khử trùng tẩy uế
(BKHCN&MT, 1998).
2.1.5.2. Quản lý và kiểm soát ở bệnh viện
Việc quản lý và kiểm soát chất thải ở bệnh viện được thực hiện như sau:
- Tập trung quản lý thống nhất các loại thuốc, hóa chất nguy hại.
- Giám sát sự luân chuyển, lưu hành hóa chất, dược chất ngay từ khâu
nhận, nhập kho, sử dụng và tiêu hủy thải bỏ (BKHCN&MT, 1998).
2.1.5.3. Quản lý kho hóa chất, dược phẩm
Việc quản lý kho hóa chất và những dược phẩm cụ thể là:
- Thường xuyên nhập hàng từ lượng nhỏ hơn thay vì nhập quá nhiều một
đợt sẽ dẫn đến thừa hay quá hạn.
- Sử dụng các lô hàng cũ trước, hàng mới dùng sau.
- Sử dụng toàn bộ thuốc, dược chất vật tư trong đợt rồi mới chuyển sang
đợt mới.
- Thường xuyên kiểm tra hạn sử dụng của các loại thuốc, dược chất, vật

tư tiêu hao ngay từ khi nhập hàng và trong quá trình sử dụng (BKHCN&MT,
1998).
2.1.5.4. Thu gom, phân loại và vận chuyển
• Tách, phân loại:
13


Điểm chủ yếu của biện pháp này là phân loại và tách ngay từ đầu một
cách chính xác chất thải y tế nguy hại và chất thải rắn thông thường. Việc tách
và phân loại chính xác chất thải y tế tạo điều kiện thuận lợi cho các quá trình
tiếp theo như quá trình vận chuyển và lưu giữ tại bệnh viện, hay quá trình vận
chuyển đến nơi tiêu hủy và quá trình tiêu hủy.
Việc tách và phân loại CTRYT đòi hỏi phải có thùng chứa, túi lót trong
thùng chứa được buộc chặt, hộp đựng vật sắc nhọn. Yêu cầu màu sắc phải
thống nhất theo quy định để dễ quản lý chất thải y tế đã được phân loại thu
gom trong suốt quá trình lưu thông (BKHCN&MT, 1998).
Bảng 2.4: Bảng quy định màu sắc của túi, thùng đựng và nhãn chỉ chất
thải y tế.
Loại chất thải
Màu và đánh dấu nhãn
Chất thải lây nhiễm cao Vàng, kí hiệu nhiễm
khuẩn cao
Chất thải lây nhiễm, Vàng, có logo nhiễm
bệnh phẩm, giải phẫu
khuẩn
Vật sắc nhọn
Vàng, đề chữ vật sắc nhọn

Loại thùng, túi
Thùng nhựa, túi nhựa

bền chắc chắn
Thùng nhựa, túi nhựa
bền
Túi nhựa bền hoặc
hộp giấy, chai nhựa
Chất thải y tế có đồng Đen, logo có bức xạ theo Hộp chì, kim loại có
vị phóng xạ
quy định
dán nhãn bức xạ
Chất thải y tế thông Xanh, như túi đựng rác Túi nilong, thùng
thường
sinh hoạt
nhựa, kim loại
Chất thải có khả năng Trắng, biểu tượng chất Túi nilong, thùng
tái chế
thải có thể tái chế
nhựa, kim loại
(Nguồn: Quy chế Quản lý chất thải y tế - Bộ Y tế, 2007).

• Thu gom và lưu giữ
Việc thu gom, lưu giữ chất thải tại nguồn trước khi xử lý là một mắt xích
khép kín của chiến lược quản lý chất thải, kể cả việc cung cấp những trang
thiết bị lưu chứa đầy đủ bao gồm: các thùng đựng, nơi chứa, thùng lưới,... tạo
điều kiện quản lý chất thải dễ dàng hơn (Nguyễn Thị Kim Thái, 2011).
Nhân viên y tế phân loại, tách CTYT ngay trong quá trình khám chữa
bệnh như thay băng, tiêm truyền,... Hoạt động này phải duy trì thường xuyên

14



liên tục. Nhân viên chịu trách nhiệm thu gom chất thải y tế từ các khoa chuyên
môn về thùng lưu giữ tập trung sau đó vận chuyển về khu vực lưu giữ chất thải
y tế nguy hại của bệnh viện hàng ngày. Thùng chứa đã chứa đầy chất thải khi
vận chuyển phải có nhãn ghi rõ chất thải từ khoa, bệnh viện, ngày giờ; và phải
có thùng, túi chứa rác đặt ngay vào vị trí khi đã chuyển thùng cũ đi.
Xe vận chuyển chất thải phải đảm bảo các tiêu chuẩn: có thành, có nắp,
có đáy kín, dễ cho chất thải vào, dễ lấy chất thải ra, dễ làm sạch, dễ tẩy uế, dễ
làm khô.
Khu lưu giữ chất thải y tế phải được xây dựng riêng, tách biệt với khu
khám chữa bệnh của bệnh viện. Chất thải y tế nguy hại và chất thải thông
thường phải lưu giữ trong các buồng riêng biệt. Tốt nhất là vận chuyển
CTRYT nguy hại đi xử lý ngay trong ngày. Thời gian lưu giữ chất thải trong
các cơ sở y tế không quá 48 giờ (BKHCN&MT, 1998).
2.2. Cơ sở thực tiễn về quản lý chất thải rắn y tế
2.2.1. Hiện trạng phát sinh, quản lý, xử lý chất thải rắn y tế trên Thế giới
Trong nhiều năm trở lại đây, do lượng phát sinh ngày càng nhiều cùng
với những đặc tính nguy hại của chúng, CTRYT đã trở thành một trong
những đối tượng nghiên cứu của các nhà môi trường. Nghiên cứu về chất thải
y tế đã được tiến hành tại nhiều nước trên thế giới, đặc biệt ở các nước phát
triển như Anh, Mỹ, Nhật, Pháp... Các nghiên cứu đã quan tâm đến nhiều lĩnh
vực như tình hình phát sinh; phân loại CTYT; quản lý CTYT,…
2.2.1.1. Hiện trạng phát sinh CTRYT
Khối lượng CTYT không chỉ thay đổi theo từng khu vực địa lý mà còn
phụ thuộc vào các yếu tố khách quan khác như: cơ cấu bệnh tật bình thường,
dịch bệnh, thảm họa đột xuất; loại và quy mô bệnh viện, phạm vi cứu chữa; số
lượng bệnh nhân khám, chữa bệnh, tỷ lệ bệnh nhân điều trị nội trú và ngoại
trú; điều kiện kinh tế xã hội của khu vực; phương pháp và thói quen chăm của
nhân viên y tế trong việc khám, điều trị và chăm sóc; số lượng người nhà
được phép đến thăm bệnh nhân (Nguyễn Huy Nga, 2004).


15


Khối lượng CTRYT cũng được ước lượng trên cơ sở số giường bệnh và
hệ số phát thải phụ thuộc vào nhiều yếu tố như thay đổi theo mức thu nhập,
theo loại bệnh viện, theo các khoa chuyên môn,...
Bảng 2.5: Lượng chất thải y tế thay đổi theo mức thu nhập của từng
nước.
Đơn vị: Kg/giường bệnh/ngày đêm

Đối tượng

Chất thải bệnh

Chất thải y tế nguy

viện nói chung

hại

Nước thu nhập cao

1,2-12

0,4-5,5

Nước thu nhập trung bình

0,8-6


0,3-0,6

Nước thu nhập thấp

0,5-3

0,3-0,4
(Nguồn: Phạm Ngọc Châu, 2004).

Ở các nước có thu nhập cao, lượng chất thải bệnh viện nói chung và chất
thải y tế nguy hại nói riêng luôn cao hơn từ 2 – 4 lần so với các nước có thu
nhập trung bình và thấp. Sở dĩ có hiện tượng này là bởi vì đối với các nước có
thu nhập cao, nhu cầu cũng như yêu cầu về sức khỏe và các dịch vụ liên quan
đến y tế của họ rất cao, thêm vào đó là sự đầu tư các trang thiết bị y tế hiện
đại để phục vụ nhu cầu khám chữa bệnh của người dân ở đây rất được coi
trọng, vì vậy số lượng người đến các trung tâm y tế để khám chữa bệnh rất
lớn, điều đó dẫn đến lượng chất thải y tế phát sinh nhiều. Còn ở các nước có
thu nhập trung bình và thấp do cơ sở hạ tầng của các cơ sở y tế chưa thật sự
đầy đủ, cùng với trở ngại về kinh tế làm cho số lượng người điều trị ngoại trú
khá cao.
Không những thế, lượng chất thải y tế phát sinh còn phụ thuộc theo
tuyến, quy mô bệnh viện.
Bảng 2.6: Chất thải y tế theo giường bệnh trên thế giới
Đơn vị: Kg/giường bệnh/ngày đêm

Tuyến bệnh viện

Tổng lượng chất thải y Chất thải y tế nguy hại

16



×