MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Giao tiếp là nhu cầu cơ bản trong đời sống tinh thần của con người. Nhờ giao
tiếp, mỗi người gia nhập vào các mối quan hệ xã hội , tổng hoà các quan hệ
xã hội tạo thành bản chất con người, lĩnh hội nền văn hoá xã hội tạo thành
tâm lí, ý thức, nhân cách. Dân gian có câu: Đi một ngày đàng, học một sàng
khôn. Càng tích cực tham gia vào các mối quan hệ xã hội, quan hệ giao tiếp
phong phú bao nhiêu con người càng tiếp thu được những giá trị vật chất, tinh
thần to lớn bấy nhiêu.
Đối với trẻ em, giao tiếp có vai trò quan trọng giúp trẻ có thêm những
kiến thức về thế giới xung quanh, phong tục, tập quán, văn hoá của dân tộc.
Từ đó trẻ sẽ áp dụng vào cuộc sống một cách có hiệu quả, phù hợp với các
chuẩn mực xã hội. Có rất nhiều con đường rèn luyện, hình thành và phát triển
kỹ năng giao tiếp cho trẻ nhưng con đường gần nhất đó là thông qua hoạt
động vui chơi. Có thể nói trò chơi và tuổi thơ chính là hai người bạn thân thiết
không thể tách rời nhau được. Chơi là hoạt động tự nhiên trong cuộc sống của
mỗi người, nó là một thiên tính của tuổi thơ nên nó đặc biệt quan trọng đối
với sự phát triển của trẻ em. Không chơi trẻ chỉ tồn tại chứ không phải là đang
sống, không chơi trẻ không thể phát triển.. Nhà văn hào lỗi lạc người Nga
Maxim Gorki đã từng nói: “Trò chơi là con đường dẫn trẻ em đến chỗ nhận
thức được cái thế giới mà ở trong đó các em đang sống, cái thế giới mà các
em có sứ mệnh phải cải tạo”.
Trò chơi giúp trẻ phát triển kỹ năng giao tiếp, hình thành nhân cách, trí lực để
trẻ hòa nhập vào cuộc sống với mọi người xung quanh.Thông qua trò chơi
giúp trẻ phát triển các giác quan, hoàn thiện chức năng tâm sinh lý hình thành
nhân cách.
Thực tiễn hiện nay, việc hình thành kỹ năng giao tiếp cho trẻ 5 - 6 tuổi
vẫn còn nhiều hạn chế; giáo viên chưa có nhiều biện pháp giáo dục phù hợp,
các hình thức tổ chức chưa thực sự phong phú. Mặt khác, hiện nay chưa có
1
nhiều công trình nghiên cứu sâu sắc về việc hình thành kỹ năng giao tiếp
thông qua hoạt động vui chơi của trẻ, đặc biệt là trẻ 5 – 6 tuổi.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi chọn nghiên cứu đề tài: “Thực trạng
hình thành kỹ năng giao tiếp cho trẻ 5 - 6 tuổi thông qua hoạt động vui chơi
ở Trường Mầm non Đồng Sơn, thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình”.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng hình thành kỹ năng giao
tiếp cho trẻ 5 - 6 tuổi thông qua hoạt động vui chơi ở trường Mầm non Đồng
Sơn, thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình, từ đó đề xuất một số biện pháp
góp phần nâng cao hiệu quả hình thành kỹ năng giao tiếp cho trẻ.
3. Đối tƣợng và khách thể nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Thực trạng hình thành kỹ năng giao tiếp cho trẻ 5 - 6 tuổi ở Trường
Mầm non Đồng Sơn, thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình thông qua hoạt
động vui chơi.
3.2. Khách thể nghiên cứu
- Giáo viên Trường Mầm non Đồng Sơn, thành phố Đồng Hới, tỉnh
Quảng Bình.
- Trẻ 5 – 6 tuổi Trường Mầm Non Đồng Sơn, thành phố Đồng Hới, tỉnh
Quảng Bình.
4. Giả thuyết khoa học
Nếu tổ chức các hoạt động vui chơi phù hợp với đặc điểm của trẻ 5 - 6
tuổi thì sẽ giúp trẻ có cơ hội để hình thành và rèn luyện các kỹ năng giao tiếp,
tạo điều kiện thuận lợi để hình thành và phát triển nhân cách của trẻ.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu 3 nhiệm vụ chính:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận liên quan đến việc hình thành kỹ năng giao
tiếp cho trẻ 5 - 6 tuổi thông qua hoạt động vui chơi.
- Khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng việc hình thành kỹ năng giao
tiếp cho trẻ 5 - 6 tuổi ở Trường Mầm non Đồng Sơn, thành phố Đồng Hới,
2
tỉnh Quảng Bình. Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến việc hình thành kỹ năng
giao tiếp cho trẻ.
- Đề xuất một số biện pháp tác động góp phần hình thành kỹ năng giao
tiếp cho trẻ 5 - 6 tuổi thông qua hoạt động vui chơi.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
6.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận
Xây dựng hệ thống khái niệm làm cơ sở lý luận cho đề tài, bao gồm
phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, hệ thống hóa và khái quát hóa vấn
đề lý luận về việc hình thành kỹ năng giao tiếp cho trẻ 5 – 6 tuổi.
6.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
6.2.1. Phương pháp điều tra bằng phiếu trưng cầu ý kiến
Khảo sát, đánh giá nhận thức của giáo viên về thực trạng hình thành kỹ
năng giao tiếp cho trẻ 5 – 6 tuổi trong hoạt động vui chơi ở trường mầm non.
Những yếu tố ảnh hưởng và các biện pháp mà giáo viên đã sử dụng để hình
thành kỹ năng giao tiếp cho trẻ 5 – 6 tuổi.
6.2.2. Phương pháp quan sát
Trực tiếp quan sát các hoạt động của trẻ và giáo viên tại địa bàn khảo
sát. Sử dụng phiếu quan sát để thu thập những thông tin phục vụ mục đích
nghiên cứu của đề tài.
6.2.3. Phương pháp đàm thoại
Trực tiếp trao đổi với giáo viên và trẻ nhằm chính xác hóa những thông
tin thu được từ các phương pháp nghiên cứu khác.
6.2.4. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm
Nhằm thu thập ý kiến đóng góp của các nhà chuyên môn có kinh nghiệm
trong lĩnh vực nghiên cứu.
6.3. Nhóm phương pháp thống kê toán học
Thông qua các số liệu, thông tin thu thập được, tiến hành xử lý số liệu
qua đó rút ra những kết luận để đánh giá các giả thuyết, nhận định về việc
3
hình thành kỹ năng giao tiếp cho trẻ 5 – 6 tuổi và nhằm khẳng định độ tin cậy,
tính thuyết phục của đề tài.
7. Phạm vi và thời gian nghiên cứu
* Phạm vi nghiên cứu: Trường Mầm non Đồng Sơn, thành phố Đồng
Hới, tỉnh Quảng Bình
+ Giáo viên: 25 giáo viên.
+ Nhóm trẻ 5 - 6 tuổi: 40 trẻ
* Thời gian nghiên cứu: Bắt đầu nghiên cứu từ tháng 12/2015 đến
tháng 4/2016.
8. Đóng góp của đề tài
Đề tài góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận và làm rõ thực trạng hình
thành kỹ năng giao tiếp của trẻ 5 – 6 tuổi thông qua hoạt động vui chơi, xây
dựng một số biện pháp nâng cao hiệu quả giáo dục hình thành kỹ năng giao
tiếp cho trẻ.
9. Cấu trúc của đề tài
Đề tài gồm có 3 chương không kể mở đầu, kiến nghị và kết luận, danh mục
tài liệu tham khảo.
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về kỹ năng giao tiếp của trẻ mẫu giáo
thông qua hoạt động vui chơi.
Chương 2: Thực trạng việc hình thành kỹ năng giao tiếp cho trẻ 5 – 6 tuổi ở
Trường Mầm non Đồng Sơn, thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình
Chương 3: Một số biện pháp nâng cao hiệu quả hình thành kỹ năng giao tiếp
cho trẻ 5 – 6 tuổi thông qua hoạt động vui chơi.
4
Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KỸ NĂNG GIAO TIẾP
CỦA TRẺ MẪU GIÁO THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG VUI CHƠI
1.1. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
1.1.1. Ở nước ngoài
Từ lâu, vấn đề giao tiếp được các nhà triết học, tâm lý học, xã hội học
quan tâm.
Giữa thế kỉ XIX, trong bản thảo Kinh tế - Triết học 1884, Các Mác
(1818 - 1883) khi bàn về nhu cầu xã hội giữa người với người trong hoạt động
xã hội và tiêu dùng, xã hội loài người phải giao tiếp thực sự với nhau. Các
Mác viết: "Cảm giác và sự hưởng thụ của những người khác cũng trở thành
sở hữu của bản thân tôi. Cho nên ngoài vũ khí quan trực tiếp ấy hình thành
những khí quan xã hội, dưới hình thức xã hội. Chẳng hạn như giao tiếp với
người khác đã trở thành khí quan biểu hiện sinh hoạt của tôi và một trong
những phương thức chiếm hữu sinh hoạt của con người. Hơn thế nữa thông
qua giao tiếp với người khác mà có thái độ với chính bản thân mình, mỗi
người tự soi mình". Mác chỉ ra rằng, trong sản xuất vật chất và tái xuất con
người, buộc con người phải giao tiếp trực tiếp với nhau. Con người chỉ trở
thành người khi có những quan hệ hiện thực với những người khác, và giao
tiếp trực tiếp với những người khác.
Đến thế kỉ XX, Gmít (1863-1931) đã đưa ra thuyết qua lại tượng trưng,
ông khẳng định vai trò của giao tiếp đối với sự tồn tại của con người, hay như
ta thường nói, con người chỉ tồn tại trong xã hội là người trong cộng đồng
người.
Những công trình nghiên cứu về giao tiếp của trẻ như: M.I. Lixina với
“Nguồn gốc của những hình thức giao tiếp của trẻ em”, A.V. Daparogiet và M.I.
Lixina nghiên cứu “Sự phát triển giao tiếp của trẻ mẫu giáo”, A.Ruskaia với
“Phát triển giao tiếp của trẻ với người lớn và bạn cùng tuổi”….
5
1.1.2. Ở Việt Nam
Ở Việt Nam, vấn đề giao tiếp mới được nghiên cứu từ cuối những năm
1970 đến những năm 1980. Phạm Minh Hạc định nghĩa: “Giao tiếp là quá
trình xác lập và vận hành các quan hệ xã hội giữa người ta với nhau”
Nhóm các công trình nghiên cứu kỹ năng giao tiếp sư phạm có thể kể
tới là: Hoàng Anh “Kỹ năng giao tiếp sư phạm của sinh viên”, Nguyễn Thạc
- Hoàng Anh với cuốn “Luyện giao tiếp sư phạm” - Đại học Sư phạm - 1998,
Ngô Công Hoàn - Hoàng Anh “Giao tiếp sư phạm”, Trần Duy Hưng đã bàn tới
kỹ năng giao tiếp sư phạm của sinh viên, Ứng xử sư phạm (Trịnh Trúc Lâm).
Một số công trình nghiên cứu về giao tiếp cho trẻ mầm non cụ thể như:
TS Hoàng Thị Phương “Nghiên cứu về hành vi giao tiếp của trẻ 5 – 6 tuổi”,
Trần Trọng Thủy “Giao tiếp và sự phát triển nhân cách của trẻ”, Ngô Công
Hoan “Giao tiếp và ứng xử giữa cô giáo với trẻ”, Nguyễn Văn Lũy – Trần Thị
Tuyết Hoa với “Giao tiếp với trẻ em”,Vũ Thị Ngân – Lê Xuân Hồng (biên dịch)
“Những vấn đề giao tiếp của trẻ ở trường mầm non” …..
Như vậy qua một số công trình nghiên cứu của các tác giả trong và
ngoài nước, chúng ta có thể khẳng định được sự cần thiết của việc hình thành kỹ
năng giao tiếp cho trẻ 5 - 6 tuổi ở trường Mầm non thông qua hoạt động vui chơi.
1.2. Một số vấn đề lý luận về kỹ năng giao tiếp của trẻ mẫu giáo
1.2.1. Khái niệm giao tiếp
Có rất nhiều những khái niệm về giao tiếp .
Giao tiếp là một quá trình tác động qua lại giữa các nhân cách cụ thể.
Giao tiếp chỉ được thực hiện trong môi trường xã hội. Trong giao tiếp con
người bộc lộ thái độ với người khác và chính mình. Nhờ đó các nhà trị liệu
tâm lý mới chuẩn đoán được các bệnh nhân một cách khác nhau rồi kết hợp
với các phương pháp khác để trị liệu. (V.N. Miaxixev, 1960).
Giao tiếp là hoạt động xác lập, vận hành quan hệ giữa người với người
để hiện thực hóa các quan hệ xã hội giữa người với nhau (TS. Phạm Minh
Hạc, 1998).
6
Theo từ điển tiếng việt, giao tiếp là trao đổi, tiếp xúc với nhau. Ngôn
ngữ là công cụ giao tiếp.
Nhưng chúng tôi đồng tình với quan điểm theo Tâm lý học : giao tiếp
là sự tiếp xúc tâm lí giữa người và người, thông qua đó con người trao đổi với
nhau về thông tin, về cảm xúc, tri giác lẫn nhau và ảnh hưởng tác động qua
lại lẫn nhau. Hay nói khác đi giao tiếp là sự xác lập và vận hành các quan hệ
người - người, hiện thực hoá các quan hệ xã hội giữa chủ thể này và chủ thể
khác.
1.2.2. Vai trò giao tiếp đối với quá trình phát triển tâm lý của trẻ
Nhờ có giao tiếp mà trẻ tham gia vào các mối quan hệ xã hội, tiếp thu
những kinh nghiệm xã hội – lịch sử chuyển thành những kinh ngiệm của bản
thân.
Thông qua giao tiếp trẻ đối chiếu, so sánh hành vi, thái độ của mình, từ
đó có phương pháp điều chỉnh phù hợp.
1.2.3. Kỹ năng giao tiếp
1.2.3.1. Khái niệm kỹ năng giao tiếp
Có nhiều trường phái định nghĩa khác nhau về kỹ năng giao tiếp, trong
đó Tâm lý học định nghĩa: Kỹ năng giao tiếp là khả năng nhận thức nhanh
chóng những biểu hiện bên ngoài và những biểu hiện tâm lý bên trong của đối
tượng và bản thân của chủ thể giao tiếp, là khả năng sử dụng hợp lý các
phương tiện ngôn ngữ và phi ngôn ngữ, biết cách tổ chức, điều chỉnh quá
trình giao tiếp nhằm đạt mục đích giao tiếp.
Kỹ năng giao tiếp của cá nhân với đối tượng giao tiếp là sự thể hiện các
thao tác, cử chỉ, điệu bộ, hành vi, thông qua ngôn ngữ hoặc phi ngôn ngữ.
1.2.3.2. Các nhóm kỹ năng giao tiếp
Bao gồm có 3 nhóm:
Nhóm kỹ năng định hướng giao tiếp: Được biểu hiện ở khả năng dựa
vào sự biểu cảm, ngữ điệu, thanh điệu của ngôn ngữ, cử chỉ, động tác, thời
7
điểm và không gian giao tiếp để phán đoán chính xác về nhân cách cũng như
mối quan hệ giữa chủ thể và đối tượng giao tiếp.
Nhóm kỹ năng này còn được phân chia nhỏ hơn thành những kỹ năng
sau: Đọc trên nét mặt, cử chỉ, hành động, lời nói; kỹ năng chuyển từ tri giác
bên ngoài vào nhận biết bản chất bên trong của nhân cách và kỹ năng định
hướng (gồm định hướng trước khi tiếp xúc và định hướng trong quá trình tiếp
xúc với đối tượng giao tiếp).
Kỹ năng định vị: Thực chất đó là khả năng xây dựng mô hình tâm lý,
phác thảo chân dung nhân cách đối tượng giao tiếp đạt mức độ chính xác và
tương đối ổn định dựa trên hoạt động nhận thức tích cực.
Kỹ năng định vị là khả năng biết xác định vị trí trong giao tiếp, biết đặt
vị trí của mình vào vị trí của đối tượng để có thể vui, buồn với niềm vui, nỗi
buồn của họ và biết tạo ra điều kiện để đối tượng chủ động giao tiếp với mình.
Nhóm kỹ năng điều chỉnh, điều khiển quá trình giao tiếp: Việc điều
chỉnh, điều khiển quá trình giao tiếp diễn ra rất phức tạp, sinh động, bởi lẽ có
rất nhiều thành phần tâm lý tham gia, trước hết là hoạt động nhận thức, tiếp
theo là thái độ rồi đến hành vi ứng xử. Sự phối hợp hoạt động của ba thành
phần này cần phải nhịp nhàng, hợp lý. Để điều khiển, điều chỉnh mình và đối
tượng giao tiếp, trước hết phải có khả năng tìm ra đề tài giao tiếp, duy trì nó,
xác định được nguyện vọng, hứng thú của đối tượng, chủ thể giao tiếp có khả
năng làm chủ trạng thái cảm xúc của bản thân, biết sử dụng toàn bộ các
phương tiện giao tiếp.
1.2.3.3. Kỹ năng giao tiếp của trẻ mẫu giáo
* Khái niệm kỹ năng giao tiếp của trẻ mẫu giáo
Kỹ năng giao tiếp của trẻ mẫu giáo là khả năng trẻ sử dụng các phương
tiện ngôn ngữ và phi ngôn ngữ (ánh mắt, nụ cười...) là sự thể hiện các thao
tác, cử chỉ, điệu bộ, hành vi, thông qua ngôn ngữ hoặc phi ngôn ngữ.
* Con đường hình thành kỹ năng giao tiếp
8
Theo tâm lý học hoạt động, tâm lý người có bản chất là hoạt động. Nói
cách khác, tâm lý, ý thức (trong đó có kỹ năng) được nảy sinh, hình thành và
phát triển trong quá trình chủ thể tiến hành hoạt động. Vì vậy, quan niệm về
kỹ năng giao tiếp phải coi chúng như là “các đặc điểm của hành động” và có
quan hệ với hành động, hoạt động của con người.
Khi xem xét giao tiếp dưới dạng hoạt động giao tiếp thì việc hình thành
kỹ năng giao tiếp sẽ chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố như: đặc điểm khí chất
với chức năng của hệ thần kinh não bộ; sự hoạt động tích cực của cá nhân và
môi trường, trong đó môi trường nhà trường có vai trò kích thích sự hứng thú
sinh viên tích cực tham gia các hình thức hoạt động khác nhau nhằm phát huy
và hình thành kỹ năng giao tiếp. Những yếu tố này tác động qua lại đến việc
hình thành kỹ năng giao tiếp tốt hơn.
Để có kỹ năng giao tiếp thì chủ thể phải có những hành động giao tiếp.
Trong quá trình hành động, chủ thể tham gia các quá trình giao tiếp, các mối
quan hệ, thực hiện những hành động nhằm giải quyết các vấn đề của mình.
1.2.4. Đặc điểm tâm lý của trẻ 5 – 6 tuổi
1.2.4.1. Hoạt động nhận thức
Do sự tăng trưởng đáng kể về thể chất, sự phong phú về đời sống xã hội
cũng như hoạt động, trẻ mẫu giáo lớn (5 – 6 tuổi) đã đạt được mức độ phát triển
phong phú về nhiều mặt của các chức năng tâm lý như: cảm giác, tri giác, tư
duy, tưởng tượng, chú ý, trí nhớ, ngôn ngữ, ý chí, xúc cảm, tình cảm…
* Cảm giác, tri giác
Những thuộc tính và quan hệ bên ngoài của sự vật hiện tượng được trẻ
tiếp nhận chính xác hơn, giúp cho việc định hướng vào thế giới xung quanh
thuận lợi hơn. Đối với trẻ mẫu giáo lớn, trẻ có thể phân phối chú ý vào 2 – 3
đối tượng cùng một lúc. Tuy nhiên, thời gian phân phối chú ý chưa bền vững.
Sự phân tán chú ý của trẻ trong giai đoạn này còn thể hiện mạnh mẽ.
Nhiều khi trẻ không tự chủ được. Do đó giáo viên cần thay đổi đồ chơi, trò
9
chơi hấp dẫn hơn. Cần tập luyện các phẩm chất chú ý cho trẻ em qua các trò
chơi và các tiết học.
* Tư duy
Để đáp ứng nhu cầu nhận thức đang phát triển mạnh mẽ ở trẻ mẫu giáo
lớn cho nên bên cạnh việc phát triển tư duy trực quan hình tượng mới đó là tư
duy trực quan – sơ đồ. Tư duy trực quan – sơ đồ là yếu tố đầu tiên làm bước
đệm để phát triển tư duy cao hơn.
* Tưởng tượng
Các hoạt động tưởng tượng đã dần dần tách khỏi đồ vật hiện có, nội
dung tưởng tượng nhiều hơn so với trẻ mẫu giáo nhỡ vì trẻ đã có sự tiếp xúc nhiều
hơn với thế giới bên ngoài.
Cuối tuổi mẫu giáo trí tưởng tượng sáng tạo của trẻ được phát triển khá
mạnh với sự hỗ trợ đắc lực của tri giác. Nếu trẻ có khả năng quan sát tốt sự
vật và hiện tượng xung quanh thì quá trình tưởng tượng nhất là tưởng tượng
sáng tạo như: vẽ, nặn, chơi xây dựng... sẽ phát triển thuận lợi, bởi tri giác là
nguồn cung cấp chất liệu cho hoạt động của trí tưởng tượng sáng tạo.
* Chú ý
Chú ý không chủ định chiếm ưu thế. Chú ý có chủ định đang được phát
triển do trẻ đã xác định đối tượng cần chú ý, biết đặt ra mục đích cho sự chú ý
của mình, biết hướng ý thức của mình vào đối tượng để phục vụ cho mục đích
của hoạt động. Khả năng phân phối, sức tập trung, sự di chuyển… của chú ý
đều tăng lên đặc biệt là đối với những đối tượng hấp dẫn, sinh động.
* Trí nhớ
Đặc trưng trí nhớ của trẻ mẫu giáo là tính trực quan, máy móc và không
chủ định. Tuy nhiên, vào cuối tuổi mẫu giáo, trí nhớ của trẻ có một bước biến
đổi về chất đó là trí nhớ có chủ định xuất hiện và phát triển. Ngôn ngữ đóng vai
trò đặc biệt quan trọng trong sự phát triển trí nhớ chủ định của trẻ 5 – 6 tuổi, nhờ
đó mà trẻ nắm được tên và hiểu được ý nghĩa của sự vật, hiện tượng cần nhớ,
mục đích và tìm phương tiện giúp ghi nhớ và nhớ lại những điều cần nhớ.
10
* Ngôn ngữ
Ở giai đoạn lứa tuổi này sự phát triển ngôn ngữ diễn ra với tốc độ
nhanh cả về ngữ âm, ngữ pháp, ngữ điệu, vốn từ, cấu trúc ngữ pháp… Hầu
hết, trẻ đã biết sử dụng thành thạo tiếng mẹ đẻ trong sinh hoạt hằng ngày để
giao tiếp. Khả năng ngôn ngữ của trẻ liên quan chặt chẽ với sự phát triển trí
tuệ và những trải nghiệm của trẻ. Vốn từ của trẻ phong phú, ngôn ngữ mạch
lạc là phương tiện làm cho tư duy của trẻ phát triển lên một bước mới, đó là
sự nảy sinh các yếu tố của tư duy lôgic, nhờ đó mà toàn bộ sự phát triển tâm
lý nói chung và tư duy của trẻ nói riêng được nâng lên một trình độ mới cao
hơn.
Tuy nhiên, khả năng ngôn ngữ của từng cá nhân ở độ tuổi này vẫn còn
có sự khác biệt lớn về mức độ phong phú của từ, về cách diễn đạt lệch lạc, nói
đúng ngữ pháp và thể hiện lời nói đúng với hoàn cảnh giao tiếp. Vì vậy cô
giáo cần chú ý cung cấp vốn từ và tích cực hóa vốn từ cho trẻ.
* Ý chí
Do có khả năng làm chủ được nhiều hành vi và được người lớn giao
cho nhiều việc nhỏ, vì vậy mà trẻ đã xác định được mục đích của hành động,
dần dần tách động cơ ra khỏi mục đích với sự cố gắng hoàn thành nhiệm vụ.
Khả năng kiểm soát, điều khiển, điều chỉnh hành vi của trẻ tốt hơn so với lứa
tuổi trước. Tính kế hoạch cũng bắt đầu xuất hiện, tinh thần trách nhiệm, bổn
phận… được hình thành và trẻ được ý thức từng bước một.
* Xúc cảm, tình cảm
Đối với trẻ 5 - 6 tuổi thì xúc cảm, tình cảm khá đa dạng, phong phú, ổn
định và sâu sắc hơn: Các sắc thái tình cảm được biểu hiện đa dạng hơn với
nhiều đối tượng khác nhau theo mức độ phong phú, phức tạp tăng dần của các
mối quan hệ giao tiếp (với người thân, người lạ, cô giáo…). Tuy, tình cảm có
ổn định hơn so với trẻ 4 – 5 tuổi nhưng đặc tính chung vẫn là dễ hình thành,
dễ thay đổi, dễ giao động và mang tính tình huống. Các loại tình cảm cấp cao
(tình cảm trí tuệ, tình cảm đạo đức, tình cảm thẩm mỹ…) đều phát triển.
11
1.2.5. Đặc điểm giao tiếp của trẻ 5 – 6 tuổi
Đối với trẻ từ 5 - 6 tuổi, trẻ đã biểu hiện rõ tính độc lập tự chủ các hoạt
động vui chơi và giao tiếp với mọi người. Do vậy, trong giao tiếp với bạn bè,
nhất là với trẻ nhỏ hơn mình, trẻ đã biết giúp đỡ, nhường nhịn thậm chí còn
chăm sóc em bé khi người lớn giao việc.
Trẻ có thể vận dụng ngôn ngữ để biểu lộ tình cảm, thái độ, mong muốn
hoặc diễn đạt cách nghĩ của mình.
Trẻ thích giao tiếp với các bạn khác, và tham gia các hoạt động tập thể.
Trong quá trình giao tiếp, chúng thường biểu lộ nhu cầu tự khẳng định và có
năng lực ảnh hưởng đến bạn. Ví dụ như: có thể chủ động phân vai cho bạn, có
thể giải thích rõ ràng luật chơi…
Trẻ biết lắng nghe người khác nói chuyện, có khả năng hiểu được nội
dung giao tiếp.
Trẻ dễ dàng thiết lập quan hệ giao tiếp với mọi người không phân biệt
tuổi tác, địa vị xã hội, kinh tế (thiết lập quan hệ giao tiếp rất hồn nhiên, vô tư
không để ý đến xuất thân của đối tượng giao tiếp)
Trẻ chủ động trong giao tiếp, chủ động gợi chuyện, đặt ra các câu hỏi,
tích cực tham gia vào đàm thoại.
Trẻ có mong muốn hiểu biết về người lớn, muốn chia sẻ cảm thông với
người lớn (đặt ra các câu hỏi về hoạt động và mối quan hệ của người lớn, thay
đổi ý kiến để mong nhận được sự hài lòng của người lớn) sẵn sàng giúp đỡ
người lớn và bạn khi được đề nghị hoặc chủ động đề nghị để được giúp đỡ.
Trẻ cố gắng cư xử tốt với người, biết nhường nhịn lẫn nhau (cố gắng
không tranh giành đồ chơi, nhường nhịn khi tranh luận), có lòng vị tha, độ
lượng với bạn (sẵn sàng tha thứ cho bạn khi bạn đã biết nhận lỗi)…
Khi có lỗi, trẻ biết thật thà nhận lỗi; không nói dối, biết giữ lời hứa
với người lớn và bạn.
Mặc dù có những hạn chế của độ tuổi nhưng các kỹ năng giao tiếp đã
được hình thành ở trẻ. Điều này thể hiện như sau:
12
- Kỹ năng cư xử lịch sự trong giao tiếp được thể hiện qua cách sử dụng
các phương tiện giao tiếp ở trẻ: Biết nói câu đầy đủ, nói theo mô hình câu
thông dụng kiểu “Chủ ngữ - Vị ngữ - Bổ ngữ”; biết sử dụng một số danh từ
chỉ quan hệ theo tuổi tác để xưng hô: Mẹ - con, bà – cháu, anh – em, cô –
cháu, tôi – bạn; biết sử dụng một số từ lễ độ trong giao tiếp: “cảm ơn”, “xin
lỗi”, “xin phép”, “thưa”, “vâng”, “ạ”…; biết phát âm đúng, rõ ràng nhưng
cách phát âm chưa thật ổn định và chính xác, nhất là khi sử dụng các nguyên
âm đôi, các thành điệu “ngã”, “sắc”; bước đầu biết sử dụng các kiểu ngữ điệu
(tường thuật, nghi vấn, cảm thán) để diễn đạt mục đích giao tiếp; để sử dụng
các cử chỉ điệu bộ và tư thế để thể hiện, mục đích, nội dung giao tiếp.
- Kỹ năng cư xử khéo léo: Để ý đến các quy tắc giao tiếp xã hội: biết
khởi đầu, đón nhận, kết thúc giao tiếp, biết tính chất lần lượt trong giao tiếp;
Chú ý đến mức độ quan hệ trong giao tiếp: quan hệ theo tuổi tác, quan hệ theo
họ hàng.
- Kỹ năng nhận biết: Bước đầu có khả năng nhận biết tình cảm, thái độ
của đối tượng giao tiếp qua các phương tiện biểu cảm như giọng điệu, ánh
mắt, nét mặt, cử động của tay… để thể hiện thái độ tình cảm của bản thân.
1.3. Lí luận về hoạt động vui chơi của trẻ 5 – 6 tuổi
1.3.1. Khái niệm về hoạt động vui chơi
Vui chơi là một thiên tính, một bản năng, một nhu cầu tự nhiên của con
người như hít thở không khí, ăn cơm, uống nước...
Hoạt động vui chơi là một hoạt động trong các loại hình hoạt động cơ
bản của trẻ ở trường mầm non - là hoạt động mà động cơ của nó nằm trong
quá trình chơi chứ không nằm trong kết quả của hoạt động. Khi chơi đứa trẻ
không chủ tâm vào một lợi ích thiết thực nào cả. Trong trò chơi các loại mối
quan hệ giữa con người tự nhiên và xã hội được mô phỏng lại, chơi mang lại
cho trẻ một trạng thái tinh thần vui vẻ, phấn chấn, dễ chịu.Chơi được người
lớn tổ chức hướng dẫn nhằm giúp trẻ thỏa mãn các nhu cầu vui chơi và nhận
13
thức, đồng thời giáo dục và phát triển toàn diện nhân cách của trẻ lứa tuổi
nào.
1.3.2. Đặc điểm hoạt động vui chơi của trẻ 5 – 6 tuổi
Hoạt động vui chơi của trẻ mang tính vô tư, trẻ chơi không chủ tâm
nhằm vào một lợi ích thiết thực, mang tính thực dụng nào cả mà nguyên cớ
thúc đẩy trẻ tham gia vào trò chơi chính là sự hấp dẫn của bản thân quá trình
chơi. Động cơ chơi nằm trong quá trình chơi chứ không nằm trong kết quả
của hoạt động chơi. Trẻ chơi chỉ cốt cho vui và đã chơi là phải vui.
Hoạt động vui chơi của trẻ là sự mô phỏng hoạt động của người lớn;
những mối quan hệ giữa con người với tự nhiên và giữa con người với xã hội.
Do đó, hoạt động này mang tính tượng trưng, khi chơi trẻ có thể dùng các vật
thay thế để tượng trưng cho người thật, việc thật.
Hoạt động vui chơi của trẻ mang tính tự do. Tính tự do trong hoạt động
vui chơi của trẻ em thể hiện ở tính tự nguyện khi tham gia vào trò chơi, hành
động chơi của trẻ hoàn toàn xuất phát từ hứng thú cá nhân, chứ không do một
sự áp đặt nào từ phía bên ngoài.
Hoạt động vui chơi của trẻ em là một hoạt động độc lập và tự điều
khiển. Chơi là một hoạt động độc lập và tự chủ đầu tiên của trẻ em. Trong khi
chơi, trẻ cố làm lấy mọi việc (tự chọn đồ chơi, đồ chơi, bạn chơi), cố gắng suy
nghĩ để khắc phục trở ngại xuất hiện trong quá trình chơi.
Hoạt động vui chơi của trẻ mang màu sắc xúc cảm chân thực mạnh mẽ.
Trò chơi tác động mạnh mẽ và toàn diện đến trẻ em chính là vì nó thâm nhập
một cách dễ dàng hơn cả vào thế giới tình cảm, mà tình cảm đối với trẻ em lại
là động cơ thúc đẩy hành động mạnh mẽ nhất.
1.3.3. Các loại trò chơi của trẻ mẫu giáo
Ở nước ta, trong những năm 60, trò chơi của trẻ mẫu giáo được phân
thành hai nhóm:
+ Nhóm 1: Trò chơi phản ánh sinh hoạt.
+ Nhóm 2: Trò chơi vận động
14
Trong những năm 70, sự phân loại trò chơi của trẻ mẫu giáo chưa được
thống nhất. Các nhà giáo dục được học và tiếp cận với qua điểm phân loại của
nước nào thì đứng về quan điểm phân loại của nước đó.
Từ những năm 80 trở lại đây, trong các trường mầm non ở nước ta vận
dụng cách phân loại trò chơi theo quan điểm Liên Xô (cũ). Theo quan điểm
này, trò chơi của trẻ mẫu giáo được phân thành hai nhóm chính:
+ Nhóm 1: Nhóm trò chơi sáng tạo bao gồm:
Trò chơi đóng vai theo chủ đề
Trò chơi lắp ghép – xây dựng
Trò chơi đóng kịch
+ Nhóm trò chơi có luật bao gồm:
Trò chơi học tập
Trò chơi lao động
Với đề tài nghiên cứu thì chúng tôi đi sâu tìm hiểu bốn loại trò chơi sau:
* Trò chơi theo chủ đề.
Trò chơi theo chủ đề bao gồm:
- Trò chơi sắm vai: Trẻ em bắt chước người lớn, lặp lại trong trò chơi
những hành động của người lớn. Hoặc bắt chước động vật và lặp lại những
hành động của động vật đã được nhân cách hóa. Trong khi chơi trẻ em có thể
sử dụng hoặc không sử dụng đồ chơi. Nhờ có trò chơi sắm vai, trẻ em được
nhập vai các nhân vật khác nhau với các mối quan hệ khác nhau. Nhờ vậy các
em có thể:
+ Dần dần làm quen với những sinh hoạt, những hoạt động lao động của
người lớn mà sau này các em sẽ tham gia khi trưởng thành.
+ Bồi dưỡng được nhiều phẩm chất, phản ánh quan hệ ứng xữ đúng đắn
với những người xung quanh (ứng xữ của cha mẹ với con cái, ứng xữ của bác
sĩ với bệnh nhân…).
+ Bồi dưỡng được hứng thú và có thể hình thành những ước mơ muốn
trở thành những người làm nghề gì đó trong tương lai…
15
- Trò chơi đạo diễn: Trẻ em không sắm vai nhưng tiến hành chơi với những
trò chơi theo chủ đề nhất định trong đó, các em đóng vai trò “đạo diễn” chỉ
đạo, điều khiển các trò chơi với tư cách là các “nhân vật”. Trò chơi “đạo
diễn” được tổ chức thường thường theo nhóm. Mỗi trẻ em điều khiển những
đồ chơi nào đó nhưng cùng thống nhất theo chủ đề chung.
Trò chơi này có tác dụng giúp trẻ phát triển óc tưởng tượng.
* Trò chơi đóng kịch: Trẻ em đóng kịch dựa trên một tác phẩm văn học
nào đó.
Qua đóng kịch các em sẽ có cơ hội:
+ Phát triển ngôn ngữ hình tượng.
+ Phát triển óc thẩm mĩ.
+ Thể nghiệm được những thái độ, hành vi đẹp một cách sâu sắc qua
nhập vai thành công.
* Trò chơi vận động:
Trò chơi vận động đôi khi còn được gọi là trò chơi thể thao vận động.
Trong trò chơi vận động, trẻ em bắt chước sự vận động của người lớn, của
tàu, xe… tiến hành chạy, nhảy…
Trò chơi vận động nếu được tổ chức một cách khoa học thì giúp cho các
em:
+ Phát triển thể lực.
+ Rèn luyện ý chí, tính kiên trì, nhẫn nại, tính quả quyết.
+ Tinh thần đồng đội.
* Trò chơi học tập. Trò chơi học tập là một trong những phương tiện
giáo dục trí tuệ cho trẻ em. Nó giúp cho trẻ:
+ Phát triển những kĩ năng về thị giác, thính giác, xúc giác…
+ Chính xác hóa những hiểu biết về các sự vật, hiện tượng xung quanh.
+ Phát triển trí thông minh, sự nhanh trí, ngôn ngữ…
1.3.4. Ý nghĩa hoạt động vui chơi đối với sự phát triển của trẻ
1.3.4.1. Chơi là phương tiện giáo dục toàn diện cho trẻ em
16
* Chơi là phương tiện giáo dục phát triển trí tuệ cho trẻ em
Chơi là phương tiện mở rộng, củng cố chính xác hóa những biểu tượng,
phản ánh của trẻ về cuộc sống xung quanh. Tất cả những điều trẻ lĩnh hội
được trước lúc chơi dưới nhiều hình thức hoạt động khác nhau sẽ được chính
xác hơn, phong phú hơn. Ví dụ: Trẻ có biểu tượng chính xác hơn về chức
năng sử dụng một số đồ dùng sinh hoạt quen thuộc: cái thìa để xúc cơm; cái
cốc để uống nước; bế em phải bế như thế nào...
Chơi là phương tiện giúp trẻ lĩnh hội tri thức mới. Khi tham gia chơi,
dưới sự hướng dẫn của người lớn, trẻ khám phá ra nhiều điều mới lạ, thú vị ở
thế giới xung quanh. Trong quá trình thực hiện các hành động chơi, thao tác chơi,
trẻ nhận ra được một vài thuộc tính, mối quan hệ nào đó của sự vật hiện tượng.
Trò chơi là phương tiện phát triển các quá trình tâm lý nhận thức của
trẻ. Chơi không chỉ là phương tiện củng cố, mở rộng, chính xác hóa các biểu
tượng đã có, cung cấp tri thức mới cho trẻ mà còn là phương tiện phát triển
các quá trình tâm lý, nhận thức cho trẻ như: cảm giác, tri giác, trí nhớ, tư duy,
tưởng tượng và ngôn ngữ.
Khi tham gia vào trò chơi, trí tưởng tượng của trẻ được phát triển mạnh
mẽ. Trong quá trình chơi, trẻ học thay thế đồ vật này bằng đồ vật khác; nhận
đóng vai này vai kia; nảy sinh hoàn cảnh tưởng tượng;… để thực hiện hành
động chơi, nội dung chơi. Đó là cơ sở quan trọng để nảy sinh và phát triển trí
tưởng tượng của trẻ.
Vui chơi còn là phương tiện phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Trước hết khi
tham gia vào trò chơi, trẻ sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp với bạn, trao đổi ý
kiến với nhau để đi đến thỏa thuận trong khi chơi; sử dụng ngôn ngữ để suy
nghĩ về thao tác, hành động chơi, thực hiện hành động chơi, giao lưu với
nhau, đánh giá lẫn nhau… Qua đó ngôn ngữ của trẻ phát triển vốn từ phong
phú, kỹ năng giao tiếp được phát triển...
* Chơi là phương tiện giáo dục đạo đức cho trẻ em
17
Trò chơi đặc biệt là trò chơi đóng vai theo chủ đề ảnh hưởng mạnh mẽ
đến nhận thức, thái độ và hành vi đạo đức của trẻ. Khi tham gia vào trò chơi, đứa
trẻ trải nghiệm được những thái độ, tình cảm đạo đức và tập được hành vi ứng xử
với người xung quanh bằng cách nhập vai của mình, qua đó trẻ học làm người.
Cũng trong hoạt động vui chơi, đặc biệt là thông qua trò chơi đóng vai
theo chủ đề, dưới sự hướng dẫn của cô giáo, một số phẩm chất cao quý được
hình thành ở trẻ như sự thật thà, dũng cảm, tính chủ động, tính kiên trì, lịch sự
với người lớn, quan tâm chăm sóc người thân, nghe lời cô.
Có thể nói rằng, chơi như là một mắt xích nối liền giữa trẻ với các quy
tắc, chuẩn mực đạo đức xã hội, nó giúp cho quá trình hình thành các phẩm
chất đạo đức diễn ra tự nhiên, hiệu quả mặc dù chơi chỉ là giả vờ nhưng hiệu
quả giáo dục lại thật và lớn lao.
* Chơi là phương tiện giáo dục thể chất cho trẻ em
Chơi mang lại niềm vui cho trẻ, làm cho tinh thần của trẻ được sảng
khoái – một yếu tố quan trọng để phát triển thể chất cho trẻ, vì tinh thần sảng
khoái, thỏa mãn sẽ làm cho thể lực trẻ được phát triển tốt hơn.
Khi tham gia vào trò chơi, các cơ quan trong cơ thể được vận động một
cách tích cực, thúc đẩy sự trao đổi chất, tăng cường hô hấp và tuần hoàn
máu… góp phần tăng cường sức khỏe cho trẻ.
* Chơi là phương tiện giáo dục thẩm mỹ cho trẻ
Chơi là hoạt động phản ánh cuộc sống của xã hội. Khi tham gia trò
chơi, trẻ cảm nhận được cái đẹp ở sự phong phú, đa dạng về màu sắc, hình
dạng, kích thước, âm thanh của đồ vật, đồ chơi.
Trò chơi không những giúp trẻ cảm nhận được cái đẹp của đồ dùng, đồ
chơi, của hành động chơi, của các hành vi giao tiếp giữa người với người,
giữa con người với hiện thực; mà còn hình thành ở trẻ nhu cầu sống theo cái
đẹp, bảo vệ cái đẹp và làm ra cái đẹp.
* Chơi là phương tiện giáo dục lao động cho trẻ em
18
Khi tham gia trò chơi, trẻ tái tạo lại những hành động lao động và
những mối quan hệ giữa những người lớn với nhau; qua đó, thu nhận được
những biểu tượng về lao động, ý nghĩa xã hội và tính hợp tác của nó. Đồng
thời, không những tái tạo những hành động lao động của người lớn trong trò
chơi mà góp phần hình thành ở trẻ một số kỹ năng lao động đơn giản như kỹ
năng lao động tự phục vụ, kỹ năng lao động trực nhật...
Cũng trong quá trình chơi, dưới sự hướng dẫn của cô giáo, trẻ được
giáo dục một số phẩm chất đạo đức cần thiết cho người lao động tương lai:
tính mục đích, tính sáng tạo, lòng yêu lao động và thích lao động…
Như vậy có thể nói, chơi là phương tiện giáo dục toàn diện cho trẻ. Đối
với trẻ thơ, chơi là cuộc sống của trẻ. Tổ chức cho trẻ chơi là mang lại hạnh phúc
cho tuổi thơ, tạo điều kiện cho trẻ phát triển một cách tự nhiên nhất.
1.3.4.2. Chơi là hình thức tổ chức đời sống của trẻ ở trường mầm non
Chơi chính là cuộc sống của trẻ thơ, tổ chức cho trẻ chơi chính là tổ
chức cuộc sống của trẻ, bởi vì:
Chơi là hoạt động đặc trưng của trẻ và có mặt trong các hoạt động khác
của trẻ như hoạt động học tập, hoạt động lao động, trong giao tiếp và sinh hoạt hằng
ngày của trẻ, nó có mặt trong các hoạt động khác của trẻ. Do vậy, việc tổ chức cho
trẻ chơi vừa là nhiệm vụ, vừa là con đường giáo dục có hiệu quả cho trẻ em.
Chơi là phương thức thỏa mãn nhu cầu được sống và được làm việc
như người lớn. Trong một giờ chơi, mỗi trò chơi phản ánh một mảng của hiện
thực đời sống xã hội: bệnh viện, trường học, cửa hàng, công viên… mỗi trẻ có
vị trí nhất định trong nhóm chơi. Trong giờ chơi, trẻ không chỉ phối hợp với
nhau trong nhóm chơi mà còn phối hợp giữa các nhóm chơi, chính sự phối
hợp giữa trẻ như vậy đã hình thành một “xã hội trẻ em”. Trong xã hội ấy, trẻ
thỏa sức hành động, được sống trong xã hội của người lớn thu nhỏ, được làm
việc, được nó năng như người lớn…vì thế trẻ luôn là chủ thể tích cực. Ở đây,
trẻ không những tìm thấy vị trí của mình trong nhóm bạn bè mà còn làm cho
trẻ cảm thấy mình được tự do thoải mái và tự tin vào bản thân mình hơn,
19
chính vì vậy có thể nói “xã hội trẻ em” là hình thức đầu tiên giúp trẻ được
sống và làm việc cùng nhau, được sống cuộc sống của người lớn.
1.3.5. Vai trò của hoạt động vui chơi trong việc hình thành kỹ năng
giao tiếp cho trẻ mẫu giáo
Trong hầu hết các trò chơi, trẻ đều cần có bạn chơi, có thể là một, hai
hay nhiều trẻ cùng chơi đùa với nhau. Điều này sẽ giúp trẻ phát huy được tính
tương tác xã hội, đồng thời cũng giúp cho bé trở nên độc lập hơn, trẻ sẽ có
khả năng giải quyết vấn đề, phát huy tính tập trung và trí tưởng tượng. Trò
chơi còn giúp cho trẻ phát triển các kỹ năng cơ bản cần thiết cho cuộc sống và
cho quá trình học tập ở nhà trường.
Trò chơi là nguyên cớ thúc đẩy trẻ tìm đến nhau tập hợp lại thành
những nhóm chơi, tuy còn lỏng lẻo, lúc hợp lúc tan, phức tạp. Chính vì vậy,
dưới sự quan tâm hướng của người lớn cho trẻ biết tổ chức nhóm chơi của
mình một cách ổn thỏa, đảm bảo bầu không khí vui vẻ, để trò chơi phát triển
thuận lợi, từ đó hình thành “xã hội trẻ em” tác động đến hình thành nhân cách
của trẻ
Khi chơi trẻ sẽ dần dần ý thức được giá trị bản thân, đây là yếu tố cực
kỳ quan trọng để giúp trẻ hình thành nhân cách.
Khi trẻ chơi đùa sẽ có sự thay đổi của sóng thần kinh trong não, các cơ
quan thần kinh của trẻ sẽ được kích thích để tiếp nhận, xử lí và gửi đi các tín
hiệu. Các hoạt động này sẽ giúp cho hình thành và cố định nhiều hơn các kết
nối thần kinh, giúp gia tăng việc dẫn truyền các tín hiệu thần kinh. Do đó, khi
trẻ chơi các đồ chơi thì đó không đơn thuần chỉ là sự giải trí mà còn giúp cho
việc gia tăng trí thông minh và sức khỏe cho trẻ, trẻ sẽ có khả năng học hỏi từ
những tác động của môi trường xung quanh.
Khi tham gia vào hoạt động vui chơi tức là bản thân trẻ đang hoạt động,
tham gia vào quá trình giao tiếp. Qua đó, giáo viên rèn luyện các kỹ năng giao
tiếp cho trẻ như: Rèn luyện năng lực tự chủ các hành vi và cảm xúc; rèn luyện
năng lực mạnh dạn, chủ động trong các tình huống giao tiếp; rèn luyện khả
20
năng lắng nghe và hiểu nội dung giao tiếp; rèn luyện khả năng diễn đạt cụ thể,
dễ hiểu; rèn luyện kỹ năng nói và phát âm cho trẻ; khắc phục tính rụt rè trong
giao tiếp và rèn luyện kỹ năng lựa chọn từ ngữ trong giao tiếp.
Chuyên gia tâm lý tâm lý trường Đại học Yale – Tiến sĩ Dorothy G.Singer
cho rằng các yếu tố môi trường có những tác động nhất định lên trẻ. Việc trẻ
tương tác với người lớn tác động qua các trò chơi, cũng như việc chơi với các
bạn cùng trang lứa thông qua các trò chơi là rất quan trọng trong việc phát
triển các kỹ năng giao tiếp cho trẻ.
21
Chƣơng 2
THỰC TRẠNG HÌNH THÀNH KỸ NĂNG GIAO TIẾP CHO
TRẺ 5 – 6 TUỔI QUA HOẠT ĐỘNG VUI CHƠI Ở TRƢỜNG MẦM
NON ĐỒNG SƠN, THÀNH PHỐ ĐỒNG HỚI, TỈNH QUẢNG BÌNH
2.1. Khái quát quá trình nghiên cứu
2.1.1. Vài nét về khách thể và địa bàn nghiên cứu
Trường Mầm non Đồng Sơn được thành lập và nhận được sự chỉ đạo
trực tiếp của phòng GD & ĐT Đồng Hới; sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng ủy,
Hội đồng Nhân dân, Hội đồng giáo dục xã, sự quan tâm tạo điều kiện của Uỷ
ban Nhân dân, sự phối hợp các tổ chức đoàn thể địa phương, sự đồng thuận
của lực lượng phụ huynh.
Tập thể cán bộ, giáo viên, nhân viên trong trường đoàn kết, có tinh thần
trách nhiệm cao với công việc được giao, có ý thức học tập, bồi dưỡng năng
lực sư phạm; biết khắc phục khó khăn về cơ sở vật chất trường lớp.
Trường tập trung tại 01 điểm trường, Nhà trường tích cực tham mưu
với các cấp, các ngành và các lực lượng xã hội cũng như làm tốt công tác xã
hội hóa Giáo dục.
+ Lực lượng phụ huynh có con gửi ở trường đa số làm nghề nông, đời
sống gặp khó khăn, kinh tế phụ thuộc vào mùa vụ.
- Chất lượng
+ Nhà trường thực hiện tốt chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục
trẻ. Không có tình trạng ngộ độc thực phẩm xảy ra tại trường.
+ 100% trẻ được đảm bảo an toàn tuyệt đối, không có trường hợp trẻ bị
tai nạn thương tích cũng như ngộ độc thực phẩm xảy ra trong trường mầm
non.
+Tỷ lệ trẻ ăn bán trú đạt: 100% với mức ăn của trẻ 13.000đ và 1 ly sữa
4.000/cháu/ngày.
+100% trẻ được theo dõi sức khỏe bằng biểu đồ phát triển, Tỷ lệ trẻ
suy dinh dưỡng giảm dưới 8% so với đầu năm.
22
- Các điều kiện
+ Đội ngũ: Tổng số cán bộ, giáo viên, nhân viên: 38đ/c (Biên chế: 29;
HĐ: 9đ/c kể cả nhân viên nấu ăn). Chất lượng đội ngũ: Trình độ đạt chuẩn:
38/38,
Đạt: 100% trên chuẩn. 38/38 CB-GV-NV được đào tạo và cấp chứng
chỉ tin học, ngoại ngữ;
+ Cơ sở vật chất: : Trường có đầy đủ phòng học và các phòng chức
năng, điều kiện và trang thiết bị phục vụ cho công tác chăm sóc, giáo dục đầy
đủ theo đúng quy định, hệ thống sân, vườn được thiết kế hợp lý, tạo môi
trường “Xanh - Sạch - Đẹp” , môi trường “Giáo dục an toàn” thân thiện cho
trẻ hoạt động.
- Các tổ chức đoàn thể trong nhà trường: Có đầy đủ các tổ chức, đoàn
thể trong nhà trường.
+ Chi bộ Đảng với tổng số 16 Đảng viên.
+ Công Đoàn có tổng số 38 đoàn viên lao động.
+ Chi đoàn TNCS Hồ Chí Minh 23 đoàn viên.
+ Chi hội chữ thập đỏ có 38 hội viên.
+ Chi hội khuyến học có 38 hội viên.
+ Có các ban đại diện cha mẹ học sinh của lớp, của trường.
- Quy mô trường lớp: Trường thực hiện đa dạng hóa các loại hình trường, lớp:
Trường có 10 nhóm lớp.
Trong đó, lớp Mẫu giáo Lớn: 02 lớp, Nhỡ: 03 lớp,
Bé: 03 lớp, nhà trẻ 02 lớp.
- Phong trào thi đua
+ Cuộc vận động “ Học tập và theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh”, cuộc vận động “ Hai không” với 4 nội dung, cuộc vận động “ Mỗi
thầy giáo, cô giáo là một tấm gương đạo đức tự học và sáng tạo”.
+ Phong trào thi đua “ Xây dựng trường học thân thiện, học sinh
tích cực” phong trào “ Nghìn sáng kiến đổi mới”; Với 2 phong trào này 100%
CB, GV, NV đăng ký đề tài sáng kiến, cuối năm học được sơ kết, đánh giá,
khen thưởng cho từng cá nhân đạt thành tích trong phong trào.
+ Tham gia đầy đủ các phong trào thi đua của ngành, địa phương,
các hoạt động từ thiện, nhân đạo.
23
2.1.2. Nội dung khảo sát
- Khảo sát thực trạng hình thành kỹ năng giao tiếp cho trẻ 5 – 6 tuổi
thông qua hoạt động vui chơi ở Trường Mầm non Đồng Sơn, thành phố Đồng
Hới, tỉnh Quảng Bình.
- Bằng các phương pháp quan sát, trò chuyện tiếp xúc với trẻ.
- Bằng cách quan sát hoạt động của giáo viên và trẻ tại lớp để nắm
được cách giao tiếp của trẻ với nhau, của trẻ với cô giáo.
- Quan sát, tổ chức các hoạt động vui chơi để biết được việc hình thành
kỹ năng giao tiếp cho trẻ thông qua các trò chơi.
2.1.3. Đối tượng khảo sát
* Nhóm trẻ 5 – 6 tuổi
Để đánh giá được thực trạng hình thành kỹ năng giao tiếp cho trẻ 5 – 6
tuổi thông qua hoạt động vui chơi, chúng tôi đã tiến hành quan sát nghiên cứu
trên 40 trẻ lớp mẫu giáo lớn B của Trường Mầm non Đồng Sơn– Đồng Hới.
* Giáo viên
Chúng tôi tiến hành điều tra 20 giáo viên, tất cả các giáo viên đều đạt
chuẩn giáo viên Mầm non.
2.1.4. Phương pháp và công cụ khảo sát
2.1.4.1. Phương pháp khảo sát
Phương pháp điều tra: Đây là phương pháp chủ yếu của đề tài: Nhằm
tìm hiểu thực trạng hình thành kỹ năng giao tiếp cho trẻ 5 – 6 tuổi thông qua
hoạt động vui chơi.
Phương pháp quan sát: Chúng tôi trực tiếp quan sát (hoặc gián tiếp qua
giáo viên) vào cách giáo viên tổ chức, hướng dẫn trẻ tham gia vào các hoạt
động vui chơi; các hoạt động của trẻ khi tham gia chơi... nhằm quan sát, thu
thập để bổ sung và chính xác hóa các thông tin điều tra khác.
Phương pháp đàm thoại: Chúng tôi đã tiến hành trao đổi với giáo viên
về nội dung cần khảo sát. Nội dung trò chuyện được chuẩn bị từ trước phù
hợp với mục tiêu đã đề ra.
24
2.1.4.2. Công cụ khảo sát
Công cụ điều tra thực trạng hình thành kỹ năng giao tiếp cho trẻ 5 – 6
tuổi thông qua hoạt động vui chơi.
Phiếu điều tra gồm 12 câu hỏi dành cho giáo viên. Câu hỏi được trình
bày dưới dạng “đóng” và “mở” nhằm giúp giáo viên trả lời một cách dễ dàng,
không mất nhiều thời gian và các câu hỏi được tập trung để dễ xử lý. Nội
dung tìm hiểu mục tiêu, nội dung, hình thức tổ chức các hoạt động vui chơi để
hình thành kỹ năng giao tiếp cho trẻ 5 – 6 tuổi thông qua hoạt động vui chơi
tại Trường Mầm non Đồng Sơn.
2.1.5.Tiêu chí đánh giá về chuẩn kỹ năng giao tiếp của trẻ
Trên cơ sở nghiên cứu về thực trạng hình thành kỹ năng giao tiếp cho
trẻ 5 - 6 tuổi thông qua hoạt động vui chơi ở trường mầm non, chúng tôi
đánh giá việc hình thành kỹ năng giao tiếp cho trẻ thông qua hoạt động
vui chơi qua các tiêu chí sau:
Tiêu chí đánh giá:
Tiêu chí 1: Trẻ nghe hiểu lời nói
Tiêu chí 2: Trẻ biết sử dụng lời nói để giao tếp
Tiêu chí 3: Trẻ thực hiện một số quy tắc thông thường trong giao tiếp
Tiêu chí 1 : Trẻ nghe hiểu lời nói
- Nhận ra sắc thái biểu cảm của lời nói khi vui buồn, tức, giận, ngạc
nhiên, sợ hãi.
- Hiểu nghĩa một số từ khái quát chỉ sự vật, hiện tượng đơn giản, gẫn gũi.
- Nghe hiểu nội dung câu chuyện.
Tiêu chí 2: Trẻ biết sử dụng lời nói để giao tiếp
- Nói rõ ràng.
- Sử dụng các từ chỉ tên gọi, hành động, tính chất và từ biểu cảm trong
sinh hoạt hằng ngày.
- Sử dụng lời nói để trao đổi và chỉ dẫn bạn bè trong hoạt động
Tiêu chí 3: Trẻ thực hiện một số quy tắc thông thường trong giao tiếp
25