Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

TIỂU LUẬN lý LUẬN của các NHÀ KINH điển mác lê NIN và hồ CHÍ MINH về xây DỰNG QUAN hệ sản XUẤT TRONG THỜI kỳ QUÁ độ và sự vận DỤNG của ĐẢNG CỘNG sản VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (198.91 KB, 22 trang )

MỞ ĐẦU
Quan hệ sản xuất là một phạm trù kinh tế có mối quan hệ chặt chẽ với
lực lượng sản xuất, cùng cấu thành hai mặt thống nhất của một phương thức
sản xuất. Trong phương thức sản xuất, mỗi chế độ xã hội đều có kiểu quan hệ
sản xuất riêng và việc xây dựng quan hệ sản xuất đặc trưng đó dù thơng qua
cải tạo hay xây dựng mới đều phải trên cơ sở vận dụng đúng đắn qui luật về
sự sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất. Nghiên cứu vấn đề xây dựng quan hệ sản xuất trong thời kỳ quá độ lên
CNXH ở nước ta, nhằm làm rõ những căn cứ lý‎ luận, thực tiễn để tiếp tục
khẳng định khả năng, trình độ đổi mới tư duy, hiệu quả vận dụng vào thực
tiễn và sự phát triển lý‎ luận Mác - Lênin của Đảng, Nhà nước về xây dựng
quan hệ sản xuất XHCN và sử dụng các TPKT trong quá trình phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta.
Hiện nay, chúng ta xây dựng quan hệ sản xuất mới đã tạo ra được động
lực mạnh mẽ để giải phóng sức sản xuất. Tuy nhiên, trong điều kiện cụ thể
của đất nước và bối cảnh quốc tế hiện nay đang còn rất nhiều vấn đề phức tạp.
Nhiều ý‎ kiến cho rằng chúng ta xây dựng QHSX hiện nay là không đúng theo
lý‎ luận của chủ nghĩa Mác, là đang đi chệch hướng con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội. Với những lý‎ do nêu trên, tác giả chọn vấn đề “Lý luận của các
nhà kinh điển Mác - Lênin và Hồ Chí Minh về xây dựng quan hệ sản
xuất trong thời kỳ quá độ và sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt
Nam” làm tiểu luận môn học.


2

NỘI DUNG
1. Quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin và chủ tịch Hồ
Chí Minh về xây dựng quan hệ sản xuất trong thời kỳ quá độ
* Quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về xây dựng quan hệ sản
xuất trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản


C.Mác và Ph.Ăngghen là những người đầu tiên cho rằng, nền sản xuất
xã hội có hai mặt là lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Quan hệ sản xuất
là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất; là hình thức xã hội
của lực lượng sản xuất; là cơ sở kinh tế, cơ sở sâu xa của đời sống tinh thần.
Xã hội là sản phẩm có sự tác động qua lại lẫn nhau giữa người với người.
Quan hệ giữa người với người tạo nên các quan hệ xã hội, trong đó quan hệ
sản xuất là cơ sở, cơ bản, nền tảng, ban đầu và có ý‎ nghĩa quyết định. Sản
xuất bao gồm sản xuất vật chất, sản xuất tinh thần và sản xuất ra bản thân con
người. Ba q trình này khơng tách rời nhau, trong đó sản xuất vật chất đóng
vai trị là cơ sở của sự tồn tại là phát triển của xã hội. Như vậy, “Trong các
lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, ông đã làm nổi bật riêng lĩnh vực
kinh tế, bằng cách là trong tất cả mọi quan hệ xã hội, ông đã làm nổi bật riêng
những quan hệ sản xuất, coi đó là những quan hệ cơ bản, ban đầu và quyết
định tất cả mọi quan hệ khác”1.
Quan hệ sản xuất bao gồm quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất,
quan hệ tổ chức quản lý‎ và quan hệ phân phối sản phẩm. Ba yếu tố đó liên
quan khăng khít với nhau, thống nhất với nhau tạo nên một hệ thống mang
tính ổn định tương đối so với lực lượng sản xuất, nhưng trong đó yếu tố thứ
nhất đóng vai trị quyết định, nó qui định hai yếu tố sau. Tính chất của quan
hệ sản xuất trước hết được qui định bởi quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản
xuất - biểu hiện thành chế độ sở hữu đặc trưng cơ bản của phương thức sản
xuất, qui định vị trí của từng tập đồn người, từng giai cấp trong hệ thống sản
xuất. Quan hệ tổ chức quản lý‎ qui định trực tiếp qui mô, tốc độ, hiệu quả, xu
hướng của mỗi nền sản xuất. Quan hệ phân phối sản phẩm có tác dụng như
1

V.I.Lênin Toàn tập. Nxb Tiến bộ, Matxcơva, 1974, t.1, tr.159.


3


chất xúc tác, kích thích (kìm hãm), thúc đẩy (hạn chế) tốc độ, nhịp điệu của sản
xuất. Quan hệ sản xuất trong sự vận động và tác động qua lại với lực lượng sản
xuất hình thành phương thức sản xuất. Mối quan hệ tương tác này tác động đến
sự thay đổi và phát triển của phương thức sản xuất, do đó tác động đến sự phát
triển của xã hội. C.Mác và Ph.Ăngghen đã phân tích khoa học phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa và chỉ rõ nhu cầu phát triển của lực lượng sản xuất tất
yếu đòi hỏi phải thay thế quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa bằng quan hệ sản
xuất mới phù hợp để thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Trong lịch sử các tư tưởng kinh tế, lần đầu tiên C.Mác và Ph.Ăngghen

đã

nêu luận điểm về xóa bỏ chế độ sở hữu tư sản và xây dựng chế độ sở hữu xã hội.
Trong các nghiên cứu của mình về chủ nghĩa tư bản, C.Mác cho rằng:
bất cứ ở đâu, giai cấp tư sản giành được chính quyền thì ở đó nó sẽ phá vỡ
được mọi quan hệ và mối liên hệ phức tạp phong kiến lạc hậu, gia trưởng, đập
tan được “tính đa cảm tiểu tư sản xuống dịng nước giá lạnh của tính tốn ích
kỷ” 2. Tính tất yếu của q trình xố bỏ chế độ tư hữu tư sản và thiết lập chế
độ công hữu về tư liệu sản xuất dưới chủ nghĩa xã hội được C.Mác khẳng
định rõ trong bộ “Tư bản”: “Sự độc quyền của tư bản trở thành những xiềng
xích ràng buộc cái phương thức sản xuất đã thịnh vượng lên cùng với độc
quyền đó và dưới độc quyền đó. Sự tập trung tư liệu sản xuất và xã hội hố
lao động đạt tới cái điểm mà chúng khơng cịn thích hợp với cái vỏ tư bản
chủ nghĩa của chúng nữa”3. Chính nó đã mở ra khả năng giải phóng tồn bộ
thế giới khỏi sự thống trị của chủ nghĩa tư bản. Đó là khả năng xóa bỏ sở hữu
tư bản, xóa bỏ chế độ tư hữu tư sản. Vì trong xã hội tư bản, người sở hữu thì
khơng lao động, người lao động thì khơng được quyền sở hữu, xã hội vận
động trong hai cực đối lập ấy, cho nên chỉ có xóa bỏ chế độ sở hữu tư sản thì
mới giải quyết được sự đối lập trong xã hội tư bản. Khi nghiên cứu về đảng

vô sản, C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ rõ, chính đảng vơ sản mang tính giai cấp,
đại diện cho lợi ích giai cấp, có mục đích, nhiệm vụ rõ ràng, đảng phải có lý‎
2
3

C. Mác và Ph. Ăngghen Toàn tập, tập 4, Nxb CTQG, Hà Nội-2006, tr.600.
C. Mác và Ph. Ăngghen Toàn tập, tập 4, Nxb CTQG, Hà Nội-2006, tr.616


4

luận soi đường, “những người cộng sản có thể tóm tắt lý‎ luận của mình thành
một luận điểm duy nhất là: xoá bỏ tư hữu” 4. Theo C.Mác, “sự phủ định một
cách triệt để” đối với chế độ tư hữu chỉ có thể là phủ định một cách tự nhiên,
tức là phủ định bằng chính bản thân sự đối lập của chế độ tư hữu - sự đối lập
giữa bản chất của chế độ tư hữu với chính chế độ ấy, nghĩa là sự đối lập giữa
“lao động đã khách quan hố” (tư bản) với chính bản thân lao động, giữa
“hoạt động của con người” với “chính đối tượng hoạt động của con người”.
Ph.Ăngghen khẳng định rằng: “Chế độ tư hữu cũng phải được thủ tiêu và
phải được thay bằng việc sử dụng tất cả mọi công cụ sản xuất và việc phân
phối sản phẩm theo sự thoả thuận chung, tức là bằng cái mà người ta gọi là
sự cộng đồng về tài sản”5. Tuy vậy, ngay cả khi quan niệm xoá bỏ chế độ tư
hữu và thiết lập chế độ cơng hữu về tư liệu sản xuất “điều hồn tồn cần
thiết” và “có thể thực hiện được”, Ph.Ăngghen vẫn ln nhắc nhở rằng việc
xố bỏ chế độ tư hữu chi có thể thực hiện được khi mà lực lượng sản xuất đã
phát triển ở trình độ cao, khi xã hội đã tạo nên được một khối lượng tư liệu
sản xuất cần thiết. Khi trả lời câu hỏi “Liệu có thể thủ tiêu chế độ tư hữu
ngay lập tức được khơng?” Ph.Ăngghen đã phát biểu dứt khốt rằng
“Khơng, khơng thể được, cũng y như không thể làm cho lực lượng sản xuất
hiện có tăng lên ngay lập tức tới mức cần thiết để xây dựng một nền kinh tế

công hữu. Cho nên, cuộc cách mạng của giai cấp vô sản... sẽ chỉ có thể cải tạo
xã hội một cách dần dần và chỉ khi nào đã tạo nên được một khối lượng tư
liệu sản xuất cần thiết cho việc cải tạo đó thì khi ấy mới thủ tiêu được chế độ
tư hữu”. Luận điểm của Ph.Ăngghen về những biện pháp quá độ để dần đi
đến xoá bỏ chế độ tư hữu và thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất,
trong đó cơng việc đầu tiên mà giai cấp vô sản phải thực hiện là “tạo ra một
chế độ dân chủ”, qua đó thiết lập quyền thống trị chính trị của mình và sử
dụng chế độ dân chủ đó “làm phương tiện để thi hành các biện pháp rộng rãi,
trực tiếp đánh bại chế độ tư hữu”. Ph.Ăngghen đã đưa ra 12 biện pháp chủ
4
5

C. Mác và Ph. Ăngghen Toàn tập, tập 4, Nxb CTQG, Hà Nội-2006, tr.616
Sđd C. Mác và Ph. Ăngghen Toàn tập, tập 4, Nxb CTQG, Hà Nội-2006, tr.616


5

yếu và nhắc nhở rằng phải xuất phát từ điều kiện cụ thể và không thể thi hành
tất cả các biện pháp đó ngay trong một đợt, biện pháp này sẽ dẫn đến biện pháp
khác và đảng vô sản phải có sách lược linh hoạt. Theo đó, nhiệm vụ này của đảng
vô sản sẽ được thực hiện trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa
cộng sản. Đó là thời kỳ mà xã hội cũ đã qua, nhưng xã hội mới chưa đến. Vì vậy,
sau khi giành được chính quyền về tay nhân dân, giai cấp vơ sản dùng chế độ dân
chủ nhân dân của mình làm phương tiện để cải biến kinh tế, xã hội và thủ tiêu các
quan hệ bóc lột của chế độ cũ, từng bước thiết lập quan hệ sở hữu công cộng với
nền sản xuất theo kế hoạch dưới sự điều tiết của nhà nước vô sản. C.Mác viết:
“Việc thay thế những điều kiện kinh tế của sự nô dịch lao động bằng những điều
kiện của lao động tự do và liên hợp, chỉ có thể là một sự nghiệp tiến triển trong
thời gian (đó là việc cải tạo kinh tế)... sau một quá trình phát triển lâu dài.” 6

Luận điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen về xây dựng chế độ quản lý‎ kinh tế
trong thời kỳ quá độ.
Bàn về vai trò của chế độ quản lý‎ kinh tế, C.Mác viết: “Trong tất cả
những cơng việc mà có nhiều người hiệp tác với nhau, thì mối liên hệ chung và
sự thống nhất của quá trình tất phải biểu hiện ra ở trong một chí điều khiển và
trong những chức năng khơng có quan hệ với những công việc bộ phận, mà
quan hệ với tồn bộ hoạt động của cơng xưởng, cũng giống như trường hợp
nhạc trưởng của một dàn nhạc vậy. Đó là một thứ lao động sản xuất cần phải
được tiến hành trong một phương thức sản xuất có tính chất kết hợp.” 7
C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng, để xây dựng chế độ quản lý‎ kinh tế
trong nền kinh tế thời kỳ quá độ, cần phải sử dụng các biện pháp kinh tế, xã
hội để thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất và hình thành quan hệ sản
xuất mới cộng sản chủ nghĩa, củng cố vai trò lãnh đạo, quản lý‎ của giai cấp vô
sản và nhà nước vô sản. C.Mác đã viết: “Muốn biến nền sản xuất xã hội thành
một hệ thống thống nhất, rộng lớn và nhịp nhàng của lao động hợp tác tự do
thì cần phải có sự thay đổi chung của xã hội, những sự thay đổi trong các cơ
6
7

C.Mác và Ph.Ăngghen toàn tập, Nxb, CTQG, H.1994, t.17, tr.724,725.
C.Mác và Ph. Ăngghen toàn tập, Nxb CTQG, H.1994, t.25, p.1, tr. 578.


6

sở của chế độ xã hội”8. Và: “Việc cải tạo kinh tế…khơng những địi hỏi phải
thay đổi sự phân phối mà cịn phải có một tổ chức mới của sản xuất.” 9 Còn
Ph.Ăngghen đã nêu ra các biện pháp kinh tế, xã hội quan trọng mà giai cấp vô
sản phải thực hiện trong xây dựng nền kinh tế như: hạn chế quyền tư hữu; tịch
thu tài sản của những kẻ chạy trốn ra nước ngoài; tổ chức hệ thống ngân hàng

mới của nhà nước; tổ chức lao động mang tính tập thể cho giai cấp vô sản;
nhà nước nắm các phương tiện vận tải lớn; thực hiện giáo dục không mất tiền;
xây dựng nhà ở xã hội; thực hiện vệ sinh môi trường đô thị; thực hiện chế độ
kế thừa tài sản bình đẳng... Đối với quản lý‎ kinh tế tập thể, Ph.Ăngghen
khẳng định trong thời kỳ quá độ nền kinh tế chủ nghĩa cộng sản chưa hoàn
thiện, chúng ta phải áp dụng nền sản xuất hợp tác xã coi như một giai đoạn
trung gian trên quy mô lớn.
Trong xây dựng chế độ quản lý‎ nền kinh tế, việc tăng cường củng cố
nhân sự bộ máy quản lý‎ có tầm quan trọng sống còn đối với phát huy vai trò
của chính quyền cách mạng trong tổ chức nền kinh tế mới. Ph.Ăngghen chỉ
rõ: Muốn không để mất một lần nữa quyền thống trị mà mình vừa giành được,
giai cấp vơ sản, một mặt, phải xóa bỏ tồn bộ bộ máy áp bức cũ từ trước đến
nay vẫn dùng để áp bức mình; mặt khác, lại phải đề phịng những đại biểu,
viên chức của chính mình bằng cách tun bố tất cả những người này khơng
trừ một ai, đều có thể bị bãi miễn bất cứ lúc nào.10
Luận điểm C.Mác và Ph.Ăngghen về xây dựng chế độ phân phối lưu
thông hàng hóa trong nền kinh tế thời kỳ quá độ.
Xây dựng chế độ phân phối khoa học có vị trí quan trọng bảo đảm sự
đồng bộ ba mặt của quan hệ sản xuất, đồng thời bảo đảm tính liên tục và
nâng cao hiệu quả của quá trình tái sản xuất xã hội. Đặc trưng về phân phối
cho tiêu dùng cá nhân, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ ra nguyên tắc chung của
sự phân phối trong xã hội cộng sản là “phân phối sản phẩm theo sự thỏa thuận
C.Mác và Ph.Ăngghen toàn tập, Nxb, CTQG, H. 2005, t.16, tr.264.
C.Mác và Ph.Ăngghen toàn tập, Nxb, CTQG, H.2005, t.17, tr.724.
10 Trong Lời nói đầu viết cho lần xuất bản thứ ba bằng tiếng Đức tác phẩm “Nội chiến ở Pháp”,
8
9


7


chung, tức là bằng cái mà người ta gọi là sự cộng đồng về tài sản.” 11 “Cùng
với sự phát triển toàn diện của các cá nhân, sức sản xuất của họ ngày càng
tăng lên và tất cả các nguồn của cải xã hội đều tuôn ra dồi dào, - chỉ khi đó
người ta mới có thể vượt hẳn ra khỏi giới hạn chật hẹp của pháp quyền tư sản
và xã hội mới có thể ghi trên lá cờ của mình: làm theo năng lực, hưởng theo
nhu cầu.”12 Cịn trong chủ nghĩa xã hội, phân phối cho tiêu dùng cá nhân được
thực hiện theo nguyên tắc phân phối theo lao động. C.Mác và Ph.Ăngghen
cho rằng: “Thời gian lao động cá nhân của mỗi một người sản xuất là cái phần
ngày lao động xã hội mà người đó đã cung cấp, cái phần anh ta đã tham gia
trong đó. Anh ta nhận của xã hội một cái phiếu chứng nhận rằng anh ta đã
cung cấp một số lao động là bao nhiêu đó (sau khi đã khấu trừ số lao động của
anh ta làm cho các quỹ xã hội) và với cái phiếu ấy, anh ta lấy ở kho của xã hội
ra một số lượng vật phẩm tiêu dùng trị giá ngang với một số lượng lao động
như thế.”13 Sự tiến bộ của nguyên tắc phân phối theo lao động là ở chỗ nó
khơng thừa nhận một sự phân biệt giai cấp nào cả, sự cống hiến của mỗi
người được đo bằng hiệu quả lao động và phân phối sản phẩm tiêu dùng theo
số lượng và chất lượng lao động. C.Mác chỉ rõ rằng: “Quyền của người sản
xuất là tỷ lệ với người lao động mà người ấy đã cung cấp; sự ngang nhau là ở
chỗ người ta đo bằng một thước đo như nhau, tức là bằng lao động.” 14 Tuy
nhiên, trong giai đoạn đầu, về phương diện kinh tế, đạo đức, tinh thần còn
mang những dấu vết của xã hội cũ mà nó đã lọt lịng ra, đó là những quan hệ
sản xuất tư bản chủ nghĩa chưa được xóa bỏ hồn tồn ngay lập tức nên quy
luật giá trị vẫn điều tiết lao động và chi phối phân phối sản phẩm lao động xã
hội. Vì vậy, phân phối cịn có “những thiếu sót khơng thể tránh khỏi,” 15 còn
chưa thật “ngang nhau” vẫn còn tạo ra sự phân hóa xã hội nhất định (trong
khn khổ tư sản). C.Mác viết: “Như vậy, với một công việc ngang nhau và do
C.Mác và Ph.Ăngghen toàn tập, Nxb, CTQG, H.1995, t.4, tr.467.
C.Mác và Ph.Ăngghen toàn tập, Nxb, CTQG, H. 1995, t.19, tr.36.
13 C.Mác và Ph.Ăngghen toàn tập, Nxb, CTQG, H. 1995, t.19, tr.34.

14 C.Mác và Ph.Ăngghen toàn tập, Nxb, CTQG, H. 1995, t.19, tr.34-35.
15 C.Mác và Ph.Ăngghen toàn tập, Nxb, CTQG, H. 1995, t.19, tr.35.
11

12


8

đó, với một phần tham dự như nhau vào quỹ tiêu dùng của xã hội thì trên thực
tế, người này vẫn lĩnh nhiều hơn người kia, người này vẫn giàu hơn người
kia.”16 Theo đó, phân phối trong thời kỳ này vẫn chứa đầy mâu thuẫn và còn tồn
tại dấu vết của pháp quyền tư sản lấy bất bình đẳng làm tiền đề. Phải chăng những
luận điểm trên đây của C.Mác và Ph.Ăngghen cho chúng ta những chỉ dẫn xây
dựng chế độ phân phối đa hình thức trong nền kinh tế thị trường.
Phân phối là phạm trù kinh tế rộng gồm phân phối cho tiêu dùng cá
nhân và phân phối cho sản xuất. Ngày nay, khi nói đến lợi ích kinh tế hay
quyền con người, người ta chỉ thường nghĩ đến việc phân phối sản phẩm tiêu
dùng cá nhân hay phân phối kết quả sản xuất nói chung. Song, C.Mác đã chỉ
rõ: “Bất kỳ một sự phân phối nào về tư liệu tiêu dùng cũng chỉ là hậu quả của
sự phân phối chính ngay những điều kiện sản xuất; nhưng sự phân phối những
điều kiện sản xuất lại là một tính chất của chính ngay phương thức sản xuất.
Ví dụ, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa dựa trên tình hình là những
điều kiện vật chất của sản xuất lại nằm ở trong tay những kẻ khơng lao động,
dưới hình thức sở hữu tư bản và sở hữu ruộng đất, còn quần chúng chỉ là kẻ
sở hữu những điều kiện người của sản xuất, tức là sức lao động. Nếu những
yếu tố của sản xuất được phân phối như thế thì việc phân phối hiện nay về tư
liệu tiêu dùng tự nó cũng do đó mà ra. Nếu những điều kiện vật chất của sản
xuất là sở hữu tập thể của bản thân những người lao động thì cũng sẽ có một
sự phân phối những tư liệu tiêu dùng khác với sự phân phối hiện nay” 17. Bài

học ở đây đối với chúng ta là: một mặt, khơng được nóng vội xóa bỏ hay xác
lập một hình thức sở hữu nào đó một cách chủ quan, duy ý‎ chí, khi lực lượng
sản xuất chưa đòi hỏi, mặt khác phải quan tâm không những tới việc phân
phối kết quả sản xuất mà cả việc phân phối quyền sở hữu hay quyền chiếm
hữu các yếu tố đầu vào của sản xuất.
* Quan điểm của V.I.Lênin về xây dựng quan hệ sản xuất trong thời
16

C.Mác và Ph.Ăngghen Toàn tập, Nxb, CTQG, H.1995, t.19, tr.35.

17

C. Mác và Ph.Ăngghen Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, t 19, tr 36 – 37


9

kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
- Quan điểm về sự thủ tiêu chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, chuyển
các tư liệu đó thành sở hữu công cộng.
V.I.Lênin đã bảo vệ những quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về vấn
đề sở hữu đặc biệt là vấn đề xoá bỏ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. V.I.Lênin
chỉ rõ sự cần thiết phải xoá bỏ tư hữu, vai trị của việc xố bỏ này trong q
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Với cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước Nga,
ông là người đã hiện thực hoá những quan niệm về xoá bỏ chế độ tư hữu của
C.Mác và Ph.Ăngghen, đưa nó thành những giải pháp, những bước đi thích
hợp trong bối cảnh của nước Nga lúc bấy giờ. Về mặt lý‎ luận, V.I.Lênin đã kế
thừa và phát triển quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen trên các mặt sau:
Thứ nhất, việc xoá bỏ chế độ tư hữu cũng có nghĩa là thiết lập chế độ
cơng hữu về tư liệu sản xuất, chuyển cả tư liệu sản xuất sang sở hữu tồn dân

chứ khơng phải là sang một hình thức sở hữu trung gian nào khác.
Chủ thể của sở hữu toàn dân dưới chủ nghĩa xã hội là “tất cả những
nguời lao động”, toàn thể xã hội, giai cấp công nhân, tất cả mọi công dân.
Căn cứ vào tình hình của nước Nga lúc bấy giờ, V.I.Lênin đã xem đối tượng
của sở hữu toàn dân mà chủ nghĩa xã hội cần phải tiến hành quốc hữu hố là:
ruộng đất, hầm mỏ, nhà máy, cơng xưởng, kho tàng, hải cảng, đường sắt,
ngân hàng... nói chung là hết thảy mọi tư liệu sản xuất. Thực chất và mục
đích của việc xoá bỏ sở hữu tư nhân là mọi cơng dân có địa vị ngang nhau
đối với tư liệu sản xuất của tồn thể xã hội, có nghĩa là tất cả mọi cơng dân
đều có quyền làm việc ngang nhau đối với tư liệu sản xuất xã hội.
Thứ hai, đối tượng của việc xoá bỏ sở hữu tư nhân là tư liệu sản xuất
chứ không phải tư liệu tiêu dùng, là sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất chứ
không phải sở hữu cá nhân. V.I.Lênin cũng cho rằng chủ nghĩa xã hội cũng
khơng địi hỏi điều gì giống như thế cả... không một người xã hội chủ nghĩa
nào lại đề nghị tịch thu tài sản của hàng chục triệu công dân.
Thứ ba, V.I.Lênin khẳng định bản thân việc xoá bỏ chế độ tư hữu mới


10

chỉ là sự cải tạo xã hội chủ nghĩa, là bước đi đầu tiên để tiến tới xã hội cộng
sản chủ nghĩa. Một xã hội không chỉ giới hạn ở việc tước đoạt các công
xưởng, nhà máy, ruộng đất, và tư liệu sản xuất, không chỉ giới hạn ở việc
kiểm kê, kiểm soát một cách chặt chẽ việc sản xuất và phân phối sản phẩm,
mà còn đi xa hơn nữa. Để thực hiện xã hội hóa tư liệu sản xuất theo chủ
nghĩa xã hội (thiết lập chế độ sở hữu toàn dân) phải áp dụng những biện pháp
và phương pháp khác nhau. V.I.Lênin cho rằng: “Thực hiện triệt để, hoàn
thành việc tước đoạt - hiện đã bắt đầu - bọn địa chủ và giai cấp tư sản, và
việc chuyển giao cho nước Cộng hịa Xơ viết quyền sở hữu tất cả các công
xưởng, nhà máy, đường sắt, ngân hàng, tàu bè và các tư liệu sản xuất và

phương tiện lưu thông khác.” 18 “Bên cạnh việc chuộc lại một phần những tư
liệu sản xuất cơ bản,”19 “sử dụng rộng rãi chủ nghĩa tư bản nhà nước để dần
dần cải tạo chế độ tư hữu của các nhà tư bản hạng trung và hạng nhỏ thành sở
hữu công cộng.”20 Về thiết lập sở hữu tập thể, cần thực hiện phù hợp với đặc
thù phát triển nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, thương nghiệp. Đối với
nông nghiệp, cần: “Sử dụng khối liên minh giữa công nhân thành thị và nông
dân nghèo…chuyển dần dần, nhưng không ngừng, lên chế độ canh tác tập thể
và lên nền nông nghiệp xã hội chủ nghĩa đại quy mô.” 21
- Quan điểm về thực hiện chế độ đa dạng hình thức sở hữu, đa dạng
thành phần kinh tế, kể cả các thành phần phú nông và tư sản thành thị.
Vận dụng sáng tạo tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen vào điều kiện cụ
thể ở nước Nga, V.I.Lênin đã cực lực phê phán những tư tưởng nóng vội
muốn xác lập ngay chế độ công hữu. Người cho rằng, trong điều kiện của một
nước tiểu nơng, ở đó những quan hệ kinh tế tư sản tuy đã hình thành nhưng
chưa đạt đến độ chín muồi để chiến thắng các quan hệ kinh tế cũ. Muốn thực
hiện tư tưởng xố bỏ chế độ tư hữu với tính cách là “chế độ sở hữu cổ truyền”
không thể “tiến công trực diện”, phải có cách làm khác. Cách làm khác mà
V.I.Lênin
V.I.Lênin
20 V.I.Lênin
21 V.I.Lênin
18
19

toàn tập, Nxb CTQG, H.2005, t.36, tr.86.
toàn tập, Nxb CTQG, H.2005, t.36, tr.274.
toàn tập, Nxb CTQG, H.2005, t.36, tr.274.
toàn tập, Nxb CTQG, H. 2005, t.36, tr.86.



11

V.I.Lênin đã chỉ ra cần sử dụng những hình thức “trung gian”, những biện pháp
“quá độ” và cách thức thực hiện chúng, mà điều quan trọng có ý‎ nghĩa lý‎ luận
lớn là: “khẳng định tính thiết yếu của việc thực hiện các hình thức “quá độ gián
tiếp”, những “biện pháp trung gian”, “quá độ đặc biệt” ở một nước tiểu nông
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Chủ trương phát triển nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần, coi sự tồn tại các thành phần kinh tế trong thời kỳ
quá độ là một tất yếu khách quan. Mỗi thành phần kinh tế có vị trí, vai trị,
đặc điểm khác nhau, làm điều kiện và tiền đề cho nhau.
Nền kinh tế nhiều thành phần là nét đặc trưng của thời kỳ q độ.
Chính vì thế, V.I.Lênin khẳng định rằng, đối với nước Nga đầu thế kỷ XX có
năm thành phần kinh tế: “1/ Kinh tế nông dân kiểu gia trưởng, nghĩa là một phần
lớn có tính chất tự nhiên; 2/ Sản xuất hàng hóa nhỏ (trong đó bao gồm đại đa số
nơng dân bán lúa mì); 3/ Chủ nghĩa tư bản tư nhân; 4/ Chủ nghĩa tư bản nhà
nước; 5/ Chủ nghĩa xã hội.” 22
Trong đó, V.I.Lênin đặc biệt nhấn mạnh vai trò, tác dụng của kinh tế tư
bản nhà nước, đó là thứ chủ nghĩa tư bản mà 3/4 là chủ nghĩa xã hội.
V.I.Lênin coi chủ nghĩa tư bản nhà nước là chiếc cầu trung gian để đưa nước
Nga tiểu nông lên chủ nghĩa xã hội. Quan điểm về nền kinh tế nhiều thành
phần, về các hình thức kinh tế quá độ, đặc biệt là vấn đề sử dụng chủ nghĩa tư
bản nhà nước với tư cách là “sự chuẩn bị vật chất đầy đủ nhất cho chủ nghĩa
xã hội, là phòng chờ đi vào chủ nghĩa xã hội”, là “nấc thang lịch sử”, là “bước
tiến lên” chủ nghĩa xã hội. Kinh tế nhiều thành phần, đa dạng hình thức sở
hữu cịn phải phát huy vai trị của các hợp tác xã, V.I.Lênin cho rằng, hợp tác
xã là bộ máy duy nhất do xã hội tư bản tạo ra mà chúng ta nên sử dụng”23.
Luận điểm của V.I. Lênin về phát triển đa dạng các hình thức sở hữu và
thành phần kinh tế đã không được những người kế tục sau này kế thừa và phát
triển, mà lại đưa nền kinh tế phát triển theo mơ hình nền kinh tế chỉ huy.
- Quan điểm về tổ chức quản lý‎ nền sản xuất xã hội theo hướng kinh

22

23

V.I.Lênin Toàn tập, Nxb CTQG, H. 2005, t.36, tr.363.
V.I.Lênin Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, M, 1981, t.37, tr. 491.


12

doanh xã hội chủ nghĩa.
V.I.Lênin là người chủ trương chuyển từ kinh tế kế hoạch hoá tập
trung sang kinh tế thị trường, đây là một sáng tạo lớn và thực tế đã đạt được
những thành tựu rất đáng kể sau một năm thực hiện chính sách kinh tế mới.
Chính V.I.Lênin đã quan niệm về cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội được
phát triển từ kinh tế thị trường khi có những điều kiện chính trị là Nhà nước
của nhân dân. Người coi việc biến tư liệu sản xuất thành sở hữu xã hội để tạo
ra “một nền sản xuất tiến hành theo kế hoạch chung, nhằm phục vụ lợi ích
của hết thảy mọi thành viên trong xã hội” là mục đích và thực chất là vấn đề
trung tâm của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. V.I.Lênin đã coi mục
tiêu đấu tranh của giai cấp vô sản là “biến ruộng đất, cơng xưởng, nhà máy,
máy móc thành sở hữu chung của tất cả những người lao động, trên cơ sở đó
giải phóng lao động khỏi cảnh nơ lệ làm thuê, khỏi cảnh nghèo nàn túng bấn
để xây dựng một chế độ xã hội “khơng có kẻ giàu người nghèo”, “mọi thành
quả lao động là thuộc về những ai lao động”” 24. Bởi vậy, chủ trương của
người là khơi phục và sử dụng quan hệ hàng hóa - tiền tệ phải bắt đầu từ cải
tạo quan hệ sản xuất trong nơng nghiệp, thay chính sách trưng thu lương thực
thừa bằng chính sách thuế lương thực và nơng dân có quyền tự do bán lương
thực và nơng sản, tự do trao đổi mua bán hàng hóa. V.I.Lênin coi việc tự do
trao đổi là địn xeo của chính sách kinh tế mới, là nền móng để xây dựng một

nền tài chính và tiền tệ đúng, là cơ sở để xác lập mối quan hệ mới giữa giai
cấp công nhân và nơng dân.
Cùng với phát triển kinh tế hàng hóa là việc chuyển đổi cơ chế quản lý‎
tập trung cao độ sang quản lý‎ dựa trên sử dụng quan hệ hàng hóa - tiền tệ, sử
dụng các cơng cụ địn bẩy kinh tế. Theo V.I.Lênin, việc phát triển quan hệ
hàng hóa - tiền tệ không thay thế cho kế hoạch mà chỉ thay đổi cách làm kế
hoạch. Chính điều này, V.I.Lênin đã xây dựng nên phương pháp luận cho
nguyên tắc kết hợp kế hoạch với thị trường và xây dựng thể chế kinh tế thị
24

V.I.Lênin Toàn tập, tập 8, Nxb Tiến bộ, Matxcơva, 1976.


13

trường trong quản lý‎ nền kinh tế thời kỳ quá độ lên CNXH.
V.I.Lênin cho rằng, có nhà nước cơng nơng vững mạnh thì việc phát triển
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, phát triển kinh tế tư nhân chỉ có lợi
cho CNXH chứ khơng mất CNXH. Nội dung của cải cách bộ máy nhà nước là
xây dựng nhà nước pháp quyền từ lập pháp, hành pháp và tư pháp, đào tạo đội
ngũ cán bộ có phẩm chất và phương pháp công tác tốt, thành thạo, biết tổ
chức công việc và phải học tập và sử dụng những cái giá trị được nhân loại
tạo ra trong chủ nghĩa tư bản. V.I.Lênin kiên quyết phản đối việc đối lập tuyệt
đối giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội. Mặt khác, cần và có thể “lùi
một bước” và “thoả hiệp” với giai cấp tư sản bằng cách thu phục và trả lương
cao các chuyên gia tư sản là giải pháp tốt nhất xúc tiến CNXH. V.I.Lênin cho
rằng, khơng có sự chỉ đạo của các chuyên gia am hiểu các lĩnh vực khoa học,
kỹ thuật và có kinh nghiệm tổ chức quản lý‎, thì khơng thể nào chuyển lên chủ
nghĩa xã hội được, vì chủ nghĩa xã hội địi hỏi một bước tiến có ý‎ thức và có tính
chất q̀n chúng để đi tới một năng suất lao động cao hơn năng suất của chủ nghĩa

tư bản dựa trên cơ sở những kết quả mà chủ nghĩa tư bản đã đạt được. V.I.Lênin
chỉ rõ: “Dùng cả hai tay mà lấy những cái tốt của nước ngồi: Chính quyền xơ
viết + trật tự ở đường sắt Phổ + kỹ thuật và cách tổ chức các tơrớt ở Mỹ + ngành
giáo dục quốc dân Mỹ etc. etc. + + = ∑ = Chủ nghĩa xã hội”.25
Củng cố chính quyền nhà nước, tăng cường vai trò của quản lý‎, kết hợp chặt
chẽ các biện pháp hành chính, tổ chức và kinh tế là biện pháp tốt nhất để xúc tiến
CNXH. V.I.Lênin nhấn mạnh: Cần thực hiện ở khắp mọi nơi và hết sức nghiêm
ngặt sự kiểm kê và kiểm soát việc sản xuất và phân phối sản phẩm của Nhà nước
đối với đời sống kinh tế - xã hội, trên cơ sở liên minh kinh tế để tăng cường củng
cố liên minh công nông về chính trị.
Liên quan đến hiệu lực quản lý‎ của bộ máy nhà nước kiểu mới, V.I.Lênin
xác định ba kẻ thù đó là: tính kiêu ngạo cộng sản chủ nghĩa; nạn mù chữ và
nạn tham nhũng hối lộ. Tính kiêu ngạo cộng sản chủ nghĩa dễ đưa người ta
25

V.I.Lênin. Toàn tập, t.36. Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1978, tr. 684.


14

đến say sưa với những thắng lợi và từ đó rơi vào bệnh chủ quan duy ý‎ chí,
tham quyền cố vị, xa rời quần chúng và tham nhũng. Nạn mù chữ là cơ sở của
chính sách ngu dân, nhân dân trình độ văn hóa thấp khơng thể tham gia vào
quản lý‎ kinh tế - xã hội và thực hiện quyền dân chủ. Nạn tham nhũng, hối lộ
dễ làm tha hóa đội ngũ cán bộ cách mạng, làm suy sụp Nhà nước kiểu mới
một cách dễ dàng. Theo V.I.Lênin, tự do thương mại chính là địn bẩy phát
triển lực lượng sản xuất của nền kinh tế nông nghiệp và tiểu công nghiệp,
cũng như mở rộng cuộc đấu tranh chống lại chủ nghĩa quan liêu trong kinh tế.
Thương nghiệp là “phương sách kiểm nghiệm” đời sống kinh tế nhà nước, là
“mối ghép” duy nhất, là cái có thể liên minh đội ngũ tiên tiến của giai cấp vô

sản với nông dân để từ đó, mới có thể có sự phát triển kinh tế.
- Quan điểm về thực hiện chế độ phân phối theo lao động trong nền
kinh tế xã hội chủ nghĩa.
V.I.Lênin khẳng định, trong chủ nghĩa xã hội ngoài việc chế độ tư hữu
về tư liệu sản xuất từng bước bị xố bỏ, cịn có sự thực hiện ngun tắc làm
theo năng lực, hưởng theo lao động. Đó là thực hiện phân phối theo lao động
cho tiêu dùng cá nhân dưới chủ nghĩa xã hội; người nào có sức lao động mà
khơng làm thì khơng có ăn, số lượng lao động ngang nhau thì được hưởng số
lượng sản phẩm bằng nhau; những người lao động ở những điều kiện mơi
trường khó khăn được hưởng phần thu nhập thích ứng. V.I.Lênin chủ trương:
“Phải thực hiện gấp rút, áp dụng trên thực tế và thí nghiệm chế độ trả lương
theo sản phẩm”26. Thực hiện nghiêm ngặt chế độ hạch toán kinh tế nhằm
đánh giá đúng mức cống hiến, làm cơ sở bảo đảm mức hưởng thụ của người
lao động, lợi nhuận cho doanh nghiệp và thực hiện tăng năng suất lao động.
“Xét đến cùng, thì năng suất lao động là cái quan trọng nhất, chủ yếu nhất
cho thắng lợi của chế độ xã hội mới” 27. Đây là quan điểm có ý‎ nghĩa phương
pháp luận chỉ đạo hoạt động thực tiễn ở nước ta nhằm nâng cao hiệu quả và
hiệu lực quản lý‎ của nhà nước đối với nền kinh tế thời kỳ quá độ lên chủ
26
27

V.I.Lênin Toàn tập, Nxb CTQG, H. 2005, t.36, tr.231.
V.I.Lênin toàn tập, Nxb CTQG, H. 2005, t.39, tr.25.


15

nghĩa xã hội.
* Quan điểm Hồ Chí Minh về xây dựng quan hệ sản xuất trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội

Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo học thuyết Mác - Lênin vào thực tiễn
cách mạng dân chủ mới - cách mạng dân chủ gắn với chủ nghĩa xã hội. Đó là
tiến hành đánh đế quốc, đánh phong kiến thực hiện người cày có ruộng và tiến
lên chủ nghĩa xã hội “không kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”28.
Theo, Hồ Chí Minh: “Chúng ta phải xây dựng một xã hội hoàn toàn mới
xưa nay chưa từng có trong lịch sử dân tộc ta. Chúng ta phải thay đổi triệt để
những nếp sống, thói quen…có gốc rễ từ ngàn năm, chúng ta phải thay đổi
quan hệ sản xuất cũ, xố bỏ giai cấp bóc lột, xây dựng quan hệ sản xuất mới
khơng có áp bức bóc lột” 29. Như vậy, quan điểm của Hồ Chí Minh có ý‎ nghĩa
chỉ đạo cơng cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và đã được Đảng ta quán triệt
ngay từ Đại hội III với nội dung tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng.
Hồ Chí Minh khẳng định: “chủ nghĩa xã hội vẫn cịn chút ít vết tích của
xã hội cũ; xã hội cộng sản thì hồn tồn khơng cịn vết tích của xã hội cũ” 30.
Luận điểm này của Hồ Chí Minh có ý‎ nghĩa chỉ đạo đối với thực hiện chính
sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, nhiều hình thức sở hữu. Người
khẳng định rõ, trong thời kỳ quá độ ở nước ta còn tồn tại đan xen nhiều hình
thức sở hữu về tư liệu sản xuất. Đó là: “Sở hữu của nhà nước (tức là của toàn
dân), sở hữu của hợp tác xã tức là sở hữu tập thể của nhân dân, sở hữu của
người lao động riêng. Một số ít tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của nhà tư bản”
31

. Chính vì cịn nhiều hình thức sở hữu mà trong thời kỳ quá độ còn tồn tại

nhiều thành phần kinh tế. Hồ Chí Minh chỉ ra những thành phần kinh tế trong
thời kỳ quá độ ở nước ta gồm có: “A- Kinh tế quốc doanh (thuộc chủ nghĩa xã
hội, vì nó là của chung của nhân dân). B- Các hợp tác xã (nó là nửa chủ nghĩa
xã hội, và sẽ tiến đến chủ nghĩa xã hội). C- Kinh tế của cá nhân, nơng dân và
Hồ Chí Minh tồn tập, Nxb CTQG, H.2000, t.10, tr.13.
Hồ Chí Minh tồn tập, Nxb CTQG, H.2000, t.8, tr.493; t.10, tr. 13.
30 Hồ Chí Minh tồn tập, Nxb CTQG, H.2000, t.7, tr. 244.

31 Hồ Chí Minh tồn tập, Nxb CTQG, H.2000, t.9, tr.588.
28
29


16

thủ cơng nghệ (có thể tiến dần vào hợp tác xã, tức là nửa chủ nghĩa xã hội).
D- Tư bản của tư nhân. E- Tư bản của Nhà nước (như Nhà nước hùn vốn với
tư bản tư nhân để kinh doanh). Trong năm loại ấy, loại A là kinh tế lãnh đạo
và phát triển mau hơn cả. Cho nên kinh tế ta sẽ phát triển theo hướng chủ
nghĩa xã hội chứ không theo hướng chủ nghĩa tư bản” 32. Đây là cơ sở phương
pháp luận quan trọng cho Đảng ta đề ra chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần có sự quản lý‎ của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Theo Hồ Chí Minh, bên cạnh xây dựng chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất,
cần thiết phải cải tạo quan hệ tổ chức quản lý‎. Bàn về vai trò cực kỳ quan
trọng của tổ chức quản lý‎, nếu làm khơng tốt thì kinh tế không thể phát triển
được, Người cho rằng: “Quản lý‎ một nước cũng như quản lý‎ một doanh
nghiệp: phải có lãi, cái gì ra, cái gì vào, việc gì phải làm ngay, việc gì chờ,
hỗn, huỷ bỏ, món gì đáng tiền, người nào đáng dùng, tất cả mọi thứ đều phải
được tính tốn cho cẩn thận''33. Quản lý‎ tồn diện cả đầu vào, đầu ra, ở mọi
khâu của quá trình lao động, ở tất cả các cấp từ trung ương đến cơ sở và tất cả
mọi thứ đều phải được tính tốn cẩn thận... Song, muốn quản lý‎ tốt cần phát
huy nhân tố con người và vai trò của cán bộ quản lý‎ kinh tế. Thực hiện tốt ba
điều: Tất cả cán bộ lãnh đạo phải thật sự tham gia lao động chân tay. Tất cả
công nhân phải tham gia công việc quản lý‎ các tổ sản xuất, dưới sự lãnh đạo
của cán bộ các phân xưởng. Sửa đổi chế độ và qui tắc không hợp lý‎. Đội ngũ
cán bộ quản lý‎ kinh tế cần có đầy đủ các phẩm chất: Cần, kiệm, liêm, chính;
phải thật sự chống quan liêu, tham ơ, lãng phí; nâng cao cảnh giác bảo vệ xí
nghiệp; khéo đồn kết và lãnh đạo cơng nhân… phải thật sự săn sóc đến đời

sống vật chất và tinh thần của công nhân; phải cố gắng nghiên cứu và học tập
để tiến bộ. Đồng thời, để bảo đảm bảo đảm công bằng xã hội trong phân phối
của cải xã hội cần phải thực hiện phân phối theo lao động. Người khẳng định
rằng, “Nguyên tắc sinh hoạt là: Ai khơng làm thì khơng được ăn và làm nhiều

32
33

Hồ Chí Minh tồn tập, Nxb CTQG, H.2000, t.7, tr.247, 248.
Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H.2000, t.11, tr.110.


17

hưởng nhiều, làm ít hưởng ít...” 34.
Chế độ tiền lương có quan hệ rất chặt chẽ với sản xuất và mức sống của
người lao động. Hồ Chí Minh cho rằng: “Chế độ tiền lương rất quan hệ đến
mức sống của người lao động. Khi định tiền lương phải xuất phát từ nguyên tắc
định thế nào cho người lao động thiết thực quan tâm đến kết quả việc làm của
họ, làm cho họ cố gắng học tập để tiến bộ mãi về nghề nghiệp và sản xuất. Nói
tóm lại, định tiền lương phải dựa vào số lượng và chất lượng của cơng tác”35.
Khốn sản phẩm là một cơng cụ có tính chất địn bẩy đem lại lợi ích cho
cả tập thể và cá nhân người lao động. Là đòn bẩy kinh tế vì khốn có tác dụng
khuyến khích tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng và hiệu quả kinh tế.
Do đó, nếu triển khai tốt, khốn sản phẩm sẽ tỏ rõ tính ưu việt của nó. Hồ Chí
Minh khẳng định: “Chế độ làm khoán là một điều kiện của chủ nghĩa xã hội, nó
khuyến khích người cơng nhân ln tiến bộ, cho nhà máy tiến bộ. Làm khốn là
ích chung và lợi riêng. Công nhân sản xuất ra nhiều vải, cố gắng nhiều, hưởng
được nhiều; làm khốn tốt thích hợp và công bằng dưới chế độ ta hiện nay”36.
Những quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin và Hồ Chí Minh về

xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa có ý‎ nghĩa phương pháp luận quan
trọng đối với hoạt động thực tiễn trong lĩnh vực này ở nước ta. Một sự vận dụng
không đúng đắn phương pháp luận mác xít sẽ gây hậu quả lớn với sức tàn phá
khủng khiếp những thành quả cách mạng đã giành được.
2. Nội dung xây dựng quan hệ sản xuất trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng ta.
Xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa là một nhiệm vụ trọng yếu
của cách mạng nước ta. Đó là quan hệ sản xuất có bản chất tiến bộ trong lịch
sử, nó hơn hẳn quan hệ sản xuất phong kiến và quan hệ sản xuất tư bản chủ
nghĩa (với bản chất là bóc lột và ngày càng tỏ ra lỗi thời khơng phù hợp với
lịch sử). Nói cụ thể hơn, quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa sẽ dần dần xóa bỏ
áp bức bóc lột và đưa mọi thành viên trong bộ máy sản xuất và cả xã hội đến
Hồ Chí Minh tồn tập, Nxb CTQG, H.2000, t.7, tr.244-245.
Hồ Chí Minh tồn tập, Nxb CTQG, H.2000, t.8, tr.545.
36 Hồ Chí Minh tồn tập, Nxb CTQG, H.2000, t.8, tr.341.
34

35


18

ấm no hạnh phúc. Đó chính là quan hệ sản xuất mà cả nhân loại phải mơ ước
và phấn đấu để đạt được. Tuy nhiên, để xây dựng được quan hệ sản xuất xã
hội chủ nghĩa còn phải trải qua nhiều giai đoạn khó khăn phức tạp. Nội dung
xây dựng quan hệ sản xuất trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam thể hiện trên các vấn đề sau đây:
Một là, xây dựng quan hệ sản xuất mới, quan hệ sản xuất theo định
hướng XHCN với đầy đủ 3 chế độ cấu thành: chế độ sở hữu về tư liệu sản
xuất, chế độ tổ chức quản lý‎ sản xuất và chế độ phân phối sản phẩm xã hội.

Xây dựng “quan hệ sản xuất mới về cả ba mặt chế độ sở hữu, chế độ
quản lý‎, chế độ phân phối, làm cho nó thật sự mang bản chất xã hội chủ nghĩa,
gắn với mỗi bước phát triển của lực lượng sản xuất, là công việc to lớn, không
thể làm xong trong một thời gian ngắn”37. Do đó, trong q trình xây dựng
khơng được coi trọng (hoặc coi nhẹ) mặt nào trong ba mặt nói trên.
Về chế độ sở hữu, trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa thường có cả sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân hình
thành nhiều thành phần kinh tế với những hình thức tổ chức kinh doanh đa
dạng, đan xen, hỗn hợp, trong đó sở hữu tồn dân và tập thể là nền tảng của
quan hệ sản xuất mới. Chế độ sở hữu chung về tư liệu sản xuất tồn tại và phát
triển theo nhiều hình thức, chủ yếu là:
Hình thức sở hữu nhà nước (sở hữu tồn dân) có nội hàm thay đổi cùng
với sự thay đổi của giai cấp cầm quyền nên có hình thức sở hữu nhà nước của
giai cấp phong kiến, của giai cấp tư sản, của giai cấp công nhân. Trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, sở hữu nhà nước là của giai
cấp cơng nhân Việt Nam, là hình thức sở hữu cao nhất gắn với trình độ phát
triển cao của lực lượng sản xuất xã hội. Phải xây dựng sở hữu nhà nước đủ
sức mạnh, đóng vai trị trụ cột của nền kinh tế, đảm bảo là chỗ dựa vững chắc
và ổn định cho kinh tế chính trị xã hội đứng vững. Theo đó, cần phải xác định
đúng đối tượng sở hữu và chủ thể của sở hữu nhà nước. Phân định và giải
quyết đúng đắn mối quan hệ giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng để hình
37

Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, NxbCTQG, H. 1986, tr22.


19

thức sở hữu này ngày càng được củng cố và phát triển. Hiện nay, hình thức sở
hữu nhà nước cần phải được đổi mới thực sự có hiệu quả việc cổ phần hóa và

đổi mới cơ chế quản lý‎ (cơng ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên)… thì
mới đẩy mạnh vai trò của sở hữu nhà nước, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh
doanh đặc biệt là chống thất thốt lãng phí của cải xã hội, đủ sức phát triển và
tham gia hội nhập quốc tế thành cơng.
Hình thức sở hữu tập thể ra đời là kết quả của q trình tập thể hố tư
liệu sản suất phù hợp với trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất.
Hình thức sở hữu tập thể với mơ hình hợp tác xã giúp kết hợp hài hòa và làm
cho các quan hệ trong cơ chế thị trường không trở nên đối kháng nhau, loại
trừ nhau mà ngược lại hỗ trợ lẫn nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển. Các hợp
tác xã được thành lập trên cơ sở tự nguyện, hợp tác, bình đẳng, đồng sở hữu,
tương trợ lẫn nhau giữa các thành viên nhằm mang lại lợi ích cho thành viên
thông qua đáp ứng nhu cầu chung của thành viên về kinh tế, xã hội và văn
hóa. Đối tượng của sở hữu tập thể là phần tài sản (hiện vật hoặc giá trị) chung
do q trình tích luỹ tạo nên, hoặc là phần tài sản được cho, biếu, tặng. Những
người góp phần tài sản của mình vào để hình thành tài sản chung vẫn giữ
quyền chủ sở hữu đối với phần tài sản riêng đã góp vào để hình thành tài sản
chung. Điều này địi hỏi phải có cơ chế phù hợp để giải quyết hợp lý‎ mối
quan hệ lợi ích giữa từng thành viên với tập thể, nhằm huy động mọi nguồn
vốn để phát triển sản xuất, kinh doanh. Sở hữu tập thể phải được xây dựng,
củng cố cả về quy mơ, trình độ, hiệu quả sản xuất, kinh doanh và được Nhà
nước cũng như các thành phần kinh tế khác hỗ trợ thông qua công ty cổ phần,
liên kết, liên doanh kinh tế.
Sở hữu tư nhân là cách gọi chung của các hình thức sở hữu, trong đó tư nhân
là chủ sở hữu tư liệu sản xuất. Đối tượng của sở hữu tư nhân là tài sản, vốn, tư liệu
sản xuất…của tư nhân đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Trong hình thức sở hữu
này, các quyền sở hữu và quyền sử dụng, quyền định đoạt…cơ bản thuộc về một
chủ thể. Sở hữu tư nhân gồm: sở hữu của tư bản tư nhân và sở hữu cá thể, tiểu chủ


20


của những người sản xuất nhỏ. Xét về bản chất, giữa sở hữu tư bản tư nhân và sở
hữu cá thể có sự khác nhau. Sở hữu tư bản tư nhân có tính chất bóc lột giá trị
thặng dư. Nhìn chung, sở hữu tư nhân là cơ sở nảy sinh hiện tượng người bóc lột
người, nhưng khơng thể tuỳ tiện xố bỏ nó. Trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, sở hữu tư nhân có vai trò quan trọng trong phát triển sản
xuất và khai thác các tiềm năng của đất nước nên được Nhà nước thừa nhận, tôn
trọng và bảo vệ quyền sở hữu những tài , thu nhập hợp pháp của các chủ sở hữu tư
nhân. Để có chính sách đúng đối với sở hữu tư bản tư nhân cần nghiên cứu xem
giai cấp tư sản đã có sự điều chỉnh gì về quan hệ sản xuất trong mối quan hệ
với lực lượng sản xuất. Trên cơ sở đó, vận dụng sáng tạo vào nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Về chế độ tổ chức và quản lý‎ - đó là tổ chức và quản lý‎ sản xuất kinh
doanh trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Điều quan
trọng là xác lập và hồn thiện cơ chế thị trường có sự quản lý‎ của Nhà nước
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; vừa tuân theo những quy luật của kinh
tế thị trường, vừa được chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa
xã hội. Phát huy vai trò của cơ chế thị trường trong phân bổ hợp lý‎ các nguồn
lực cho phát triển; tăng cường vai trò của Nhà nước sử dụng hiệu quả các
công cụ pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách và lực lượng
kinh tế nhà nước để định hướng, điều tiết, thúc đẩy phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Về chế độ phân phối lưu thông: Phải xây dựng chế độ phân phối công
bằng bao gồm cả các yếu tố sản xuất, các cơ hội, điều kiện phát triển và sản
phẩm làm ra. Trong phân phối sản phẩm, chủ yếu căn cứ vào kết quả lao
động, hiệu quả kinh tế; theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác;
phân phối thông qua hệ thống phúc lợi và an sinh xã hội. Gắn phát triển kinh
tế với thực hiện các chính sách xã hội; tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong
suốt quá trình phát triển.



21

Hai là, phát triển các thành phần kinh tế dùa trên các hình thức sở hữu
khác nhau trong nn kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Từ các hình thức sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, chúng ta thực hiện đa dạng các thành phần kinh tế. Các thành phần
kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền
kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh
tranh lành mạnh.
Kinh tế nhà nước là thành phần kinh tế được xác lập trên cơ sở sự phát
triển cao của lực lượng sản xuất và hình thức sở hữu tồn dân. Kinh tế nhà
nước bao gồm các doanh nghiệp nhà nước; tài nguyên quốc gia và tài sản thuộc
sở hữu toàn dân như đất đai, hầm mỏ, rừng, biển, ngân sách, các quỹ dự trữ
quốc gia, ngân hàng nhà nước, hệ thống bảo hiểm, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã
hội; phần vốn nhà nước góp vào các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế
khác. Phát triển mạnh kinh tế nhà nước để nó thực sự giữ vai trị chủ đạo, “Có
vai trị quyết định trong việc giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, ổn định và
phát triển kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước; mở đường, thúc đẩy, tạo điều
kiện, tạo động lực cho phát triển mạnh các thành phần kinh tế khác.” Đồng thời
“Doanh nghiệp nhà nước giữ vị trí then chốt trong nền kinh tế, làm công cụ vật
chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô, làm lực lượng
nịng cốt, góp phần chủ yếu để kinh tế nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.”

38

Từ thực tiễn khủng


hoảng năm 2008, cần phải khẳng định vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước và
vai trò quan trọng làm nòng cốt của doanh nghiệp nhà nước, gắn với vai trò
quản lý‎ và điều tiết nền kinh tế của Nhà nước.
Đổi mới và phát triển kinh tế tập thể đúng hướng. Kinh tế tập thể là
thành phần kinh tế dựa trên sở hữu tập thể về tư liệu sản xuất và sự liên kết
của những người lao động; kết hợp sức mạnh của từng thành viên với sức
mạnh của tập thể để giải quyết có hiệu quả những vấn đề của sản xuất kinh
38

Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. NxbCTQG, H. 2011, tr.280281


22

doanh và đời sống. Kinh tế tập thể mà nòng cốt là các hợp tác xã kiểu mới
được tổ chức trên cơ sở đóng góp cổ phần và sự tham gia lao động trực tiếp
của xã viên, phân phối theo kết quả lao động và theo cổ phần. Hợp tác xã
được tổ chức theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi, quản lý‎ dân
chủ, tồn tại và phát triển dưới nhiều hình thức đa dạng, từ thấp đến cao. Cần
tiếp tục đa dạng hóa các hình thức sở hữu và hình thức tổ chức sản xuất, kinh
doanh trong các loại hình kinh tế tập thể. Khuyến khích huy động vốn cổ phần
và các nguồn vốn để không ngừng tăng thêm vốn đầu tư phát triển, tăng tài
sản và quỹ không chia. Các hợp tác cổ phần từng bước trở thành thực thể chủ
yếu của kinh tế tập thể. Nhà nước trợ giúp hợp tác xã đào tạo cán bộ, ứng
dụng khoa học- công nghệ, nắm thông tin, mở rộng thị trường, xây dựng các
quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã, giải quyết nợ đọng.
Quá trình xây dựng quan hệ sản xuất mới trong nền kinh tế thị trường đòi
hỏi phát triển kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể phải trở thành nền
tảng ngày càng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
Phát triển kinh tế tư nhân không chỉ tập trung phát triển kinh tế cá thể,

tiểu chủ hoạt động dưới hình thức hộ gia đình mà cần thiết phải chú ý‎ khuyến
khích kinh tế tư bản tư nhân đầu tư phát triển theo quy định pháp luật, không hạn
chế về quy mô, ngành nghề, lĩnh vực, địa bàn. Khuyến khích phát triển các
doanh nghiệp lớn của tư nhân, các tập đoàn kinh tế tư nhân theo đúng luật
pháp và có lợi cho quốc kế dân sinh.
Phát triển kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi, gồm những doanh nghiệp
sản xuất, kinh doanh có vốn của doanh nghiệp, cá nhân người nước ngoài
tham gia, các doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài và doanh nghiệp 100%
vốn nước ngoài. Tạo điều kiện thuận lợi để thành phần kinh tế này phát triển
trong các ngành hướng vào xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã
hội, gắn với thu hút công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm cho người
lao động.



×