Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

Chuyên đề địa lý dân cư việt nam.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (308.89 KB, 18 trang )

A. ĐẶT VẤN ĐỀ:
Đối với các trường THPT chuyên hiện nay, việc dạy học và bồi dưỡng học
sinh giỏi là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Tuy nhiên , việc dạy
chuyên đề cho học sinh chuyên còn gặp nhiều khó khăn do chương trình chưa có
giáo trình riêng nên việc dạy học vẫn do mỗi giáo viên tìm tòi, biên soạn trên cơ sở
đảm bảo các yêu cầu về kiến thức và kĩ năng Địa Lí cho học sinh nhất là học sinh
chuyên địa và đội tuyển học sinh giỏi.Từ thực tế giảng dạy trong những năm vừa
qua, bản thân đã biên soạn và giảng dạy một số chuyên đề, sau đây tôi xin chia sẻ
cùng các đồng nghiệp chuyên đề “ Địa lí dân cư Việt Nam”.
B. CƠ SỞ LÍ LUẬN:
Dân cư là tập hợp người trên lãnh thổ,được đặc trưng bởi kết cấu, mối quan hệ
qua lại với nhau về mặt kinh tế, bởi tính chất của phân công lao động và cư trú theo
lãnh thổ .
Dân cư là khâu trung tâm của quá trình tái sản xuất xã hội. trong hệ thống tự
nhiên- dân cư- kinh tế, chính dân cư là thành phần năng động nhất, gắn bó giữa tự
nhiên với kinh tế nhờ những thuộc tính sẳn có của mình. Toàn bộ những giá trị vật
chất, tinh thần cần thiết cho xã hội đều do lao động của con người tạo ra.
Trong xã hội, dân cư vào là người sản xuất ra giá trị vật chất và tinh thần đồng
thời vừa là người tiêu thụ những sản phẩm do chính lao động của mình làm nên.
Như vậy về phương diện kinh tế, dân cư vào với tư cách là người sản xuất, vừa với
tư cách là người tiêu thụ. Nhờ việc tiêu thụ các giá trị vật chất và tinh thần, con
người đảm bảo được sự tái sản xuất ra chính mình bên cạnh quá trình tái sản xuất
khác của xã hội.
C. CƠ SƠ THỰC TIỄN:
Trong bộ môn Địa Lí, địa lí dân cư là một nội dung hết sức quan trọng, nếu học
sinh nắm vững các kiến thức về địa lí dân cư sẽ là cơ sở để các em đánh giá một
cách đầy đủ, chính xác về quá trình phát triển kinh tế xã hội của một vùng lãnh thổ
nói riêng và cả nước nói chung. Đây cũng là mảng kiến thức luôn được đề cập trong
các đề thi học sinh giỏi cấp tỉnh, cấp quốc gia và là nội dung có liên quan đến nhiều
nội dung khác trong môn Địa Lí. Chính vì vậy, việc học tốt kiến thức địa lí dân cư
sẽ giúp các em đạt được hiệu quả cao trong học tập môn Địa Lí.


Xuất phát từ tầm quan trọng của vấn đề đã nêu trên, Tôi đưa ra mội số nội dung
cơ bản của địa lí dân cư Việt Nam để giúp học sinh có tài liệu học tập tốt và cùng
trao đổi với các đồng nghiệp.
1


D. NỘI DUNG:
I. Đặc điểm dân số và sự phân bố dân cư nước ta:
1. Dân số là nguồn lực quan trọng để phát triển đất nước:
- Dân số là lực lượng lao động của xã hội để tạo ra của cải vật chất. Dân số là lực
lượng tiêu dùng, là cơ sở hình thành thị trường rộng lớn, kích thích sản xuất phát
triển.
- Chính sách dân số gắn liền với chiến lược con người, chiến lược phát triển kinh
tế xã hội. Không có chính sách dân số hợp lý sẽ gây khó khăn cho quá trình phát
triển của đất nước.
2. Đặc điểm dân số nước ta:
a. Dân số đông và nhiều thành phần dân tộc:
a.1. Nước ta có quy mô dân số đông:
- Theo kết quả điều tra dân số đến ngày 1/4/2009, quy mô dân số Việt Nam là
85.789.573 người, mật độ dân số là 259 người/km2, tốc độ gia tăng dân số là 1,2%.
Bình quân mỗi năm tăng khoảng 947 nghìn người (trong vòng 10 năm trở lại đây).
- Các nhà khoa học của Liên Hợp Quốc đã tính toán rằng, để có cuộc sống thuận lợi,
bình quân trên một km2 chỉ nên có từ 30- 40 người. Như vậy, ở Việt Nam, mật độ
dân số gấp khoảng 6-7 lần “Mật độ chuẩn”. Căn cứ vào chỉ số này, có thể khẳng
định Việt Nam là quốc gia có quy mô dân số đông.
- Dân số đông là lực lượng lao động dồi dào, thị trường tiêu thụ lớn, tuy nhiên trong
điều kiện của nước ta hiện nay đây là trở ngại lớn cho việc phát triển kinh tế, giải
quyết việc làm và nâng cao đời sống nhân dân.
a.2. Nước ta có nhiều thành phần dân tộc:
- Nước ta có 54 dân tộc khác nhau đang sinh sống trên lãnh thổ. Đại đa số các dân

tộc có nguồn gốc bản địa, có quá trình hình thành và phát triển cùng với lịch sử
dựng nước và giữ nước, cùng chung sống dưới mái nhà của nước Việt Nam thống
nhất.
- Trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, người kinh chiếm đa số (85,7% năm
2009). Các thành phần còn lại sống rải rác suốt từ Bắc vào Nam, chỉ chiếm 14,7%
dân số toàn quốc.
- Về mặt số lượng, sau người Việt là người Tày, Thái, Khơ me, Mường và Mông.
Mỗi dân tộc có số dân trên một triệu, tổng cộng chiếm 7,9% dân số cả nước. Các tộc
người có số dân từ 50 vạn đến 1 triệu là người Hoa, Nùng, Dao. Các tộc người khác
có số lượng ít hơn, dao động từ 20-30 chục vạn tới vài trăm người.
2


- Mỗi dân tộc, đều có nét văn hóa riêng, đoàn kết bên nhau tạo nên sức mạnh phát
triển kinh tế xã hội và xây dựng đất nước.
- Trình độ phát triển kinh tế xã hội giữa dân tộc có sự chênh lệch rất lớn nên cần chú
ý đầu tư, phát triển kinh tế xã hội ở vùng dân tộc ít người, tăng cường tính thống
nhất đoàn kết dân tộc.
b. Dân số tăng nhanh:
- Cho tới những năm cuối của thế kỷ 19, dân số Việt Nam gia tăng rất chậm. Từ đầu
thế kỷ 20 trở lại đây, tốc độ tăng ngày càng nhanh. Giai đoạn 1921- 1955 (35 năm)
dân số tăng khoảng 9,9 triệu người. Đặc biệt, giai đoạn 1955- 1995 (40 năm sau)
dân số tăng khoảng 46,5 triệu người. Nếu tính từ 1921- 1995, trong khoảng 75 năm
dân số Việt Nam tăng gấp 4,5 lần với khoảng 58,3 triệu người, cũng trong thời gian
này dân số thế giới tăng 2,9 lần. Như vậy sự bùng nổ dân số ở Việt Nam diễn ra
mạnh mẽ trong thời gian vừa qua.
- Dân số Việt Nam vẫn có thể tăng nhanh trong thời gian tới do qui mô dân số nước
ta đông và số phụ nữ bước vào tuổi sinh đẻ vẫn lớn. Những phương án dự báo mới
nhất của cục thống kê cho thấy, vào năm 2024 dân số Việt Nam có thể đạt 95,13
triệu người( phương án thấp nhất) và 104,28 triệu người (phương án cao nhất).

- Việc thực hiện chính sách dân số, sức khỏe sinh sản, thực hiện chương trình tiêm
chủng cho trẻ em đã góp phần làm giảm mức chết, nhất là mức chết ở trẻ dưới một
tuổi giảm nhanh, tuổi thọ dân cư tăng. Tuy mức sinh đã giảm mạnh nhưng vẫn còn
cao và không đồng đều giữa các vùng và các khu vực.
- Sự gia tăng dân số nhanh trong thời gian vừa qua đã có những ảnh hưởng tiêu cực
đến quá trình phát triển kinh tế- xã hội. Qui mô dân số lớn đã tác động xấu tới môi
trường: đất đai khan hiếm, cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường…ảnh hưởng
đến việc cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc sống dân cư.
- Bên cạnh việc tuyên truyền, vận động về dân số, sức khỏe sinh sản, chính sách dân
số và các chính sách có liên quan, cần tiếp tục tục đẩy mạnh qui mô gia đình ít con,
đặc biệt đối với vùng sâu, vùng xa, vùng ven biển và miền núi.
c. Cơ cấu dân số:
- Cơ cấu dân số theo tuổi đang ở thời kì kết thúc giai đoạn “dân số trẻ” bước vào
giai đoạn “dân số già” đồng thời bước vào cơ cấu “dân số vàng”.
+ Số người dưới 15 tuổi chiếm tỉ lệ khá cao: 42,5% năm 1979; 38,9% năm 1989;
33,6% năm 1999 và giảm xuống còn 25% năm 2009.
+ Số người già trên 60 tuổi có tăng lên qua các năm nhưng chậm và còn thấp: 7,1%
năm 1979; 7,9% năm 1989; 8,1% năm 1999 và 9% năm 2009.
3


+ Dân số trẻ làm gánh nặng nuôi dạy và chăm sóc trẻ em; sức ép về lao động, việc
làm ngày càng tăng lên. Tuy nhiên do quá trình giảm sinh tương đối nhanh trong
những năm qua, tỉ trọng dân số trẻ đã có xu hướng giảm mạnh và tỉ trọng dân số già
đã tăng lên. Có thể nói, dân số nước ta đang nằm trong thời kỳ quá độ chuyển từ dân
số trẻ sang dân số già. Trong thời kì này, tỉ lệ những người ngoài độ tuổi lao động
giảm xuống, tỉ lệ người trong độ tuổi lao động tăng lên. Nó vừa là cơ hội vừa là
thách thức của nền kinh tế nước ta trong vài chục năm tới.
+ Ở nước ta mỗi năm có thêm khoảng 950 nghìn trẻ em. Nhà nước cần có chính
sách đáp ứng nhu cầu giáo dục đối với thế hệ trẻ, bảo vệ và chăm sóc trẻ em, ngăn

chặn tình trạng lạm dụng tình dục trẻ em, tình trạng nghiện chính ma tuý trong
thanh thiếu niên, quan tâm vấn đề sức khỏe sinh sản vị thành niên, chăm sóc người
cao tuổi… Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh thực hiện mục tiêu giảm sinh để có thể đạt
mức sinh thay thế vào những năm tới.
- Cơ cấu dân số theo giới tính đã dần cân bằng:
Năm
1939 1943 1951 1960 1970 1979 1989 1999 2005 2009
Tỉ số giới 97,2
tính

96,5

96,1

95,9

94,7

94,2

94,7

96,4

96,5

98,1

Bảng trên cho thấy sự mất cân đối giới tính của dân số Việt Nam nhìn chung đã dần
thu hẹp. Năm thấp nhất là năm 1979, trung bnh cứ 100 nữ chỉ có 94,2 nam; cho đến

năm 2009, tỉ số này đã tăng lên 98,1 nam/100 nữ.
- Mất cân bằng giới tính ở trẻ em và trẻ sơ sinh có xu hướng tăng lên. Theo điều
tra biến động dân số hàng năm, tỉ số giới tính khi sinh ở nước ta bắt đầu tăng từ đầu
thập kỉ nhưng tăng cao bất thường trong vài năm trở lại đây, căn vào số liệu chính
thức năm 1979 là 105 bé trai/100 bé gái (ở mức tự nhiên). Năm 1999 tỉ số này là
107 và năm 2009 là 111 bé trai/100 bé gái. Nhiều chuyên gia dự đoán với tốc dộ
này, tỉ số giới tính khi sinh có thể vượt ngưỡng trong vài năm tới. Đến năm 2035
năm giới sẽ nhiều hơn phụ nữ 10%.
3. Phân bố dân cư :
Cũng giống như các nước trên thế giới, sự phân bố dân cư nước ta phụ thuộc vào
nhân tố tự nhiên, kinh tế- xã hội, lịch sử…Tùy theo thời gian và lãnh thổ cụ thể, các
nhân tố ấy tác động một cách khác nhau tạo nên bức tranh phân bố dân cư như ngày
nay.

4


Đặc điểm cơ bản của sự phân bố dân cư nước ta hiện nay là tính chất không hợp
lí trong phân bố giữa đồng bằng với trung du và miền núi, giữa thành thị và nông
thôn.
a. Giữa đồng bằng với trung du và miền núi :
a.1.Sự phân bố dân cư ở đồng bằng :
- Đồng bằng là nơi dân cư trù mật nhất. Trên lãnh thổ chưa đầy ¼ diên tích tự nhiên
đã tập trung ¾ dân số cả nước.
+ Đồng bằng sông Hồng với diện tích 14.964,1km2 là địa bàn cư trú của 18.478,4
nghìn người( năm 2009). Dân cư qui tụ đông nhất là khu vực trung tâm (Hà Nội,
Bắc Ninh, Hưng Yên), ở phần Đông và Đông Nam châu thổ (Hải Phòng, Thái
Bình). Mật độ dân số cao có quan hệ trực tiếp với nền nông nghiệp thâm canh lúa
nước và cơ cấu nghành nghề đa dạng. Sự hiện diện của các thành phố, trung tâm
công nghiệp, dịch vụ lớn cũng đã góp phần vào việc làm tăng thêm mật độ dân số ở

đồng bằng.
+ Đồng bằng sông Cửu Long, với diện tích 40.518,5km2, là vựa lúa lớn nhất của
nước ta, đồng thời cũng là nơi cư trú của 17.213,4 nghìn người (2009). Phần lớn dân
cư sinh sống ở khu vực tam giác châu và dọc theo hai nhánh sông chính. Những tỉnh
có mật độ cao nhất là Tiền Giang (674 người/km2), Vĩnh Long (696 người/km2),
Thành phố Cần Thơ (848 người/km2). Phần Tây Nam của đồng bằng mới được khai
phá vào giữa thế kỉ XVII, tuy nhiều tài ngyên , nhưng mật độ dân số còn thấp so với
các nơi khác như Cà Mau (226 người/km2), Kiên Giang (266 người/km2).
+ Hệ thống đồng bằng Duyên hải miền Trung nhỏ hẹp, tiềm năng nông nghiệp
không lớn như hai đồng bằng trên nên mật độ dân số không cao lắm. Các tỉnh có
mật độ dân số cao ở khu vực này gắn liền với trồng lúa nước, làm nghề thủ công,
đánh bắt cá ven biển.
- Trong điều kiện tự nhiên và đất nông nghiệp của đồng bằng có hạn, mật độ dân số
cao đã gây rất nhiều khó khăn trong việc tạo đủ công ăn việc làm, đảm bảo các nhu
cầu của đời sống và phúc lợi xã hội. Vì Vậy ngay từ những năm 60, nhà nước đã
tiến hành di dân và phân bố lại dân cư lao động theo hướng từ đồng bằng lên trung
du và miền núi. Sau 1975, phong trào tăng nhanh cả về số lượng và cường độ thông
qua việc tổ chức cho hàng vạn hộ gia đình từ Đồng bằng sông Hồng, Duyên hải
Nam Trung Bộ đến các vùng kinh tế mới ở Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, Đồng bằng
sông Cửu Long và một phần thuộc các tỉnh thuộc vùng Đông Bắc và Tây Bắc.
a.2.Sự phân bố dân cư ở trung du và miền núi :
5


- Nước ta có ¾ diện tích là đồi núi. Mặc dù ở khu vực này có nhiều nguồn lực để
phát triển kinh tế nhưng dân cư hãy còn thưa thớt (chỉ ¼ dân số). Mật độ dân số như
vậy, trùng với địa bàn cư trú của các dân tộc ít người, một mặt phản ánh trình độ
phát triển kinh tế còn thấp và mặt khác, thể hiện ảnh hưởng của địa hình đến sự cư
trú của con người.
- Nhìn chung địa hình càng cao, mật độ dân số càng thấp. Giữa các vùng trung du

và miền núi, mật độ rất khác nhau.Ở Đông Bắc dân cư khá đông đúc như Bắc Giang
(408 người/km2), Phú Thọ (373 người/km2), Thái Nguyên (320 người/km2). Còn ở
vùng núi Tây Bắc, địa hình hiểm trở, dân cư phân tán và quá thưa thớt so với mật độ
dân số trung bình cả nước, như Lai Châu(41 người/km2), Điện Biên (52 người/km2),
Sơn La (76 người/km2).
- Là một sơn nguyên có độ cao 700- 1500m. Tây Nguyên trở thành địa bàn cư trú cử
nhiều dân tộc. Nơi đây có tài nguyên phong phú nhất là nguồn đất ba dan màu mỡ.
Sự phân bố dân cư không tương xứng với tài nguyên của vùng. Tỉnh Kon Tum có
mật độ dân số thấp thứ hai sau Lai Châu (45 người/km2), tỉnh Đắc Nông (76
người/km2). Trong mật độ ít ỏi này đã tính đến sự hổ trợ về nhân lực của nhiều tỉnh
khác thông qua việc chuyển cư.
b. Sự phân bố dân cư ở thành thị và nông thôn :
- Dân cư nước ta phân bố không đồng đều giữa thành thị và nông thôn với sự vượt
trội về dân số ở nông thôn so với thành thị. Là một quốc gia nông nghiệp được hình
thành từ lâu đời nhưng bị chế độ thực dân và phong kiến thống trị quá lâu dài, kiềm
hãm sự phát triển kinh tế cùng với các cuộc chiến tranh liên tục, hệ thống các thành
phố của nước ta vừa ít vừa chậm phát triển.
- Từ sau khi miền Bắc đươc giải phóng, quá trình công nghiệp hóa XHCN đã khai
sinh và thúc đẩy sự phát triển của một số đô thị. Tỉ lệ dân số thành thị tăng dần từ
8,7% (1960) lên 21,3% (1975). Còn ở các tỉnh miền Nam, quá trình đô thị hóa và
tập trung dân cư vào các thành phố diễn ra rất nhanh, tuy mục đích và sự hình thành
đô thị hoàn toàn khác các tỉnh phía Bắc. Dân cư từ các vùng dân cư miền Nam trong
thới kì chiến tranh đã dồn về khu vực thành thị, nhất là các đô thị lớn để lánh nạn và
làm ăn sinh sống. Vì vậy tỉ lệ nhân khẩu thành thị ở miền Nam rất cao :21,5%
(1960), và 31,3% (1975).
- Sau khi thống nhất đất nước, dân số thành thị giảm nhanh cả về số lượng và tỉ
trọng : 21,5% (1975) ; 20,6% (1976) ; 19,24% (1979). Nguyên nhân chủ yếu là do
việc hồi hương của dân cư từ các thành phố lớn ở miền Nam sau ngày giải phóng và
do công tác điều động lao động và dân cư đi xây dựng các vùng kinh tế mới, chủ
6



yếu từ các thành phố, thị xã. Vào những năm đầu 80 của tế kỉ XX, quá trình hồi
hương từ các thành phố lớn hầu như đã kết thúc, việc điều động dân cư đi xây dựng
các vùng kinh tế mới đã dần đi vào chiều sâu, chủ yếu theo hướng nông thôn- nông
thôn. Cùng với đường lối đổi mới của nền kinh tế, việc thực hiện công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước đã làm dân số thành thị tăng dần, từ 20,1% (1989) lên 23,5%
(1999) và 29,6% (2009).
- Cho đến hết năm 2009, số dân thành thị là 25.466 nghìn người, số dân ở nông thôn
là 60.558,6 nghìn người. So với thế giới và các nước trong khu vực, tỉ lệ dân số
thành thị của nước ta tương đối thấp. Năm 2009, tỉ lệ dân số thành thị trung bình
của thế giới là 50%, của các nước đang phát triển là 44%, khu vực Đông Nam Á là
43%. Số dân ở nông thôn quá lớn phản ánh trình độ thấp của quá trình công nghiệp
hóa và sự phát triển chậm của nhóm ngành dịch vụ.
II. Lao động và việc làm :
Việt Nam là nước có dân số tương đối trẻ, nhờ sự thành công của chính sách dân
số trong thời gian qua, tỉ suất gia tăng tự nhiên đang giảm dần. Bộ phận dân số dưới
15 tuổi có xu hướng giảm, tỉ lệ dân số trông độ tuổi từ 15 đến 59 đang tăng. Song
hiện nay cũng như 15 năm tới, tốc độ tăng trưởng lực lượng lao động sẽ cao hơn tốc
độ tăng dân số. Vào thời kì dân số ổn định, tỉ suất tăng trưởng dân số và tỉ suất tăng
trưởng lực lượng lao động sẽ tiềm cận nhau. Vì vậy, xây dựng các kế hoạch và
chính sách về lao động và việc làm phải được quan tâm đặc biệt.
1.Đặc điểm nguồn lao động nước ta :
- Nguồn lao động nước ta rất dồi dào.
+ Năm 2009, tỉ lệ dân số hoạt động kinh tế của nước ta là 47,7 triệu người chiếm
55,5% tổng số dân.
+ Mỗi năm nước ta có thêm khoảng 1 triệu lao động, tỉ lệ dân số hoạt động kinh tế
trong độ tuổi lao động so với dân số trong độ tuổi lao động là 76,5%.
- Chất lượng lao động ngày càng tăng :
+ Người lao động cần cù, sáng tạo, có kinh nghiệm sản xuất phong phú nhất là trong

sản xuất nông lâm ngư nghiệp và tiểu thủ công nghiệp.
+ Trình độ học vấn của lực lượng lao động ngày càng được nâng cao. Số lao động
đã qua đào tạo ngày càng tăng.
+ Về trình độ chuyên môn kĩ thuật của lực lượng lao động, tính đến hết 2009, có
trên 8,5 triệu người có trình độ chuyên môn (từ sơ cấp, công nhân kĩ thuật, trung
học chuyên nghiệp đến cao đẳng, cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ) chiếm 18% tổng lao động
đang hoạt động trong các ngành kinh tế.
7


+ So với yêu cầu hiện nay, thì lực lượng lao động có trình độ vẫn còn mỏng, số lao
động chưa qua đào tạo còn nhiều, đặc biệt là đội ngũ cán bộ quản lý, công nhân kĩ
thuật lành nghề còn thiếu nhiều.
- Phân bố lao động không đồng đều cả về số lượng và chất lượng :
+ Phần lớn lực lượng lao động của cả nước tập trung ở ba vùng : Đồng bằng sông
Hồng, Đông Nam Bộ, Đồng bằng sông Cửu Long (57,9%). Tây Nguyên có diện tích
tự nhiên lớn, nhưng quy mô lao động nhỏ nhất (5,9%).
+ Số lao động có chuyên môn kĩ thuật tập trung chủ yếu ở thành thị (40% tổng lực
lượng lao động trong khu vực) còn nông thôn tương ứng là 10,2%.
2. Tình hình sử dụng lao động ở nước ta hiện nay :
a. Lực lượng lao động chia theo khu vực kinh tế:
- Nhìn chung, cơ cấu lao động của của cả nước chia theo khu vực kinh tế trong thời
gian qua có sự chuyển dịch mạnh mẽ.(1979-2009).
+ Giảm tỉ trọng khu vực nông –lâm – ngư nghiệp (79% năm 1979 xuống còn 51,9%
năm 2009).
+ Tăng tỉ trọng khu vực công nghiệp- xây dựng (6% lên 21,4%) và dịch vụ (15%
lên 26,7%).
- Sự chuyển dịch trên là tích cực, theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tuy
vậy, phần lớn lao động vẫn còn tập trung trong nhóm ngành nông- lâm –ngư nghiệp.
- Hiện nay, đi đôi với việc tiếp tục chuyển dịch cơ cấu cây trồng ở nông thôn theo

hướng đa dạng hóa, nhằm phục vụ các mục tiêu đảm bảo an toàn lương thực, xuất
khẩu, nâng cao thu nhập và mức sống của nông dân. Nhà nước đang triển khai
chương trình khuyến nghề để tạo môi trường và điều kiện thu hút nhiều hơn nông
dân chuyển sang làm các ngành nghề phi nông nghiệp. Có như vậy, mới tạo được sự
đột biến trong chuyển dịch cơ cấu lao động của cả nước, đáp ứng có hiệu quả yêu
cầu phát triển và ổn định xã hội trong thời kỳ mới.
- Dân số hoạt động kinh tế phân theo nhóm ngành không giống nhau giữa các vùng
lãnh thổ. Trong phạm vị cả nước, Đông Nam Bộ có tỉ trọng dân số hoạt động trong
ngành nông nghiệp thấp nhất (18,5% năm 2009), tiếp theo là Đồng bằng Sông
Hồng. Các vùng còn lại lực lượng lao động trong nhóm ngành nông- lâm- ngư
nghiệp tương đối cao, vượt trên mức trung bình cả nước.
b. Cơ cấu lao động theo thành phần kinh tế:
- Cơ cấu lao động theo thành phần kinh tế cũng có những thay đổi quan trọng. Nền
kinh tế của nước ta hiện nay là nền kinh tế nhiều thành phần, bao gồm Nhà nước,
tập thể, liên doanh, tư nhân, cá thể và gia đình. Có thể chia các thành phần kinh tế
8


thành hai khu vực lớn là khu vực nhà nước và khu vực kinh tế khác (ngoài nhà
nước, có vốn đầu tư nước ngoài). Sự chuyển dịch lao động từ khu vực nhà nước
sang khu vực kinh tế khác đang diễn ra phù hợp với quá trình Việt Nam chuyển
sang nền kinh tế thị trường.
- Khu vực kinh tế ngoài nhà nước không chỉ thu hút lao động nông- lâm – ngư
nghiệp mà còn thu hút nhiều lao động vào các ngành công nghiệp- xây dựng và dịch
vụ.
3. Việc làm của lực lượng lao động cả nước:
a. Việc làm là vấn đề gay gắt:
- Việc làm thường xuyên của lực lượng lao động trong cả nước ở thời điểm năm
2009, số người từ đủ 15 tuổi trở lên có việc làm thường xuyên trong 12 tháng là
47,7 triệu người chiếm 96,7% dân số hoạt động kinh tế.

- Trong 8 vùng lãnh thổ, tỉ lệ người có việc làm thường xuyên trong 12 tháng của
lực lượng lao động cao nhất thuộc về Trung du và miền núi Bắc Bộ (98,8%), tiếp
theo là Đồng bằng sông Hồng (97,3%) và Duyên hải miền Trung (98,8%), thấp nhất
là Đông Nam Bộ (96,4%) và Đồng bằng sông Cửu Long (96,6%).
- Tình trạng thiếu việc làm ở nông thôn vẫn diễn ra rất phổ biến trong cả nước. Tỉ lệ
sử dụng thời gian lao động trong nông nghiệp và nông thôn năm 2009 cao nhất ở
vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ (96,5%), song ngay tại vùng này vẫn còn 3,5%
quỹ thời gian lao động chưa có đủ việc làm. Vùng Đồng bằng sông Cửu Long có tỉ
lệ nhàn rỗi cao nhất nước (10,5%) tổng quỹ thời gian lao động. Các vùng còn lại tỉ
lệ sử dụng thời gian lao động từ 93,0 đến 94,0%.
- Tỉ lệ thất nghiệp của dân số hoạt động kinh tế ở khu vực thành thị trong cả nước
có xu hướng giảm chậm từ 6,7% năm 1999 xuống còn 4,6% năm 2009 và có sự
phân hóa rõ giữa các vùng.
+ Bắc Trung Bộ và Duyên hải Nam Trung Bộ có tỉ lệ thất nghiệp ở thành thị cao
nhất (5,5%), Đồng bằng sông Hồng (4,6%), Đồng bằng sông Cửu Long (4,5%). Các
vùng còn lại dao động từ 3,0- 3,9%.
+ Trong 63 tỉnh thành, có 4 tỉnh, thành phố có tỉ lệ thất nghiệp cao (trên 6,0%): Đà
Nẳng (7,1%), Hải Phòng (6,5%), Thừa Thiên Huế (6,3%), Khánh Hòa (6,3%). Có 4
tỉnh tỉ lệ thất nghiệp ở mức 5,5- 6,0% (Tuyên Quang, Quảng Ninh, Bình Định và
Cần Thơ). Các tỉnh còn lại dao động từ 2,8 – 5,4%.
-Việc làm và thất nghiệp có liên quan chặt chẽ với nhau trong sự biến động không
ngừng của thị trường lao động và sự phát triển kinh tế - xã hội. Thất nghiệp là biểu
hiện của sự không cân bằng của thị trường lao động khi nhu cầu việc làm cao hơn
9


chổ làm việc. Các chính sách khuyến khích sản xuất trong những năm gần đây cùng
với quá trình đổi mới, đa dạng hóa kinh tế đã làm cho nền kinh tế nước ta phát triển
và có thêm nhiều chổ làm mới. Tuy nhiên, do tốc độ tăng trưởng lực lượng lao
động cao nên vấn đề thất nghiệp vẫn đang là thách thức lớn đối với nước ta.

b. Phương hướng giải quyết vấn đề việc làm:
- Phân bố lại dân cư và lao động giữa các vùng để vừa khai thác tốt hơn tiềm năng
của mỗi vùng vừa tạo thêm việc làm mới.
- Đẩy mạnh kế hoạch hóa gia đình, thực hiện tốt chính sách dân số, sức khỏe sinh
sản.
- Đa dạng hóa các hoạt động kinh tế nông thôn (sản xuất nông nghiệp hàng hóa,
phát triển ngành nghề thủ công, dich vụ…).
- Phát triển các hoạt động công nghiệp và dịch vụ. Mở rộng liên doanh đầu tư nước
ngoài, mở rộng sản xuất hàng xuất khẩu.
- Đẩy mạnh xuất khẩu lao động.
III. Đô thị hóa:
Hiện nay trên toàn thế giới, đô thị hóa đang diễn ra với qui mô lớn và nhịp độ
nhanh chưa từng thấy. Cùng với công nghiệp hóa, đô thị hóa được xem như là một
khía cạnh vận động đi lên của xã hội. Trongđiều kiện phát triển của nền kinh tế hiện
đại, đô thị hóa trở thành quá trình kinh tế- xã hội nhiều mặt với các biểu hiện chính
là sự tăng lên về các điểm dân cư đô thị, về qui mô của bản thân từng đô thị và sự
phổ biến rộng rãi lối sống thành phố.
Đô thị Việt Nam được hình thành và phát triển cùng với quá trình lịch sử phát
triển kinh tế- xã hội, văn hóa, chính trị của đất nước. Tuy có bề dày lịch sử, nhưng
tốc độ phát triển đô thị ở nước ta hiện nay còn chậm chạp và trình độ thấp so với
các nước trên thế giới, bởi vì đô thị hóa phụ thuộc vào tốc độ phát triển kinh tế,
trình độ công nghiệp hóa và nhiều yếu tố khác.
1. Đặc điểm đô thị hóa:
- Tốc độ đô thị hóa chậm, tỉ lệ dân số thành thị vẫn còn thấp.
Dân số Việt Nam phần lớn sống ở nông thôn và hoạt động nông nghiệp là chủ
yếu. Tốc độ đô thị hóa diễn ra chậm chạp. Giai đoạn 1931- 1975, tỉ lệ dân số đô thị
từ 7,6% lên 21,5%, bình quân mỗi năm tăng 0,3%. Giai đoạn 1975- 2000, tỉ lệ dân
số thành thị nhích thêm 2,7%, bình quân tăng 0,11%. Từ 2000 đến nay, tốc độ đô thị
hóa tăng nhanh hơn từ 24,7% lên 29,6%, bình quân mỗi năm tăng 0,6%. Dự báo đến
năm 2020, tỉ lệ dân số thành thị nước ta tăng lên 45- 50%.

10


- Số lượng các đô thị tăng lên rõ rệt, song qui mô đô thị nhỏ bé, chưa trở thành hạt
nhân của vùng lãnh thổ.
Năm 2009,nước ta có 719 điểm dân cư đô thị. Qui mô các đô thị chủ yếu là nhỏ
và vừa. Trong tổng số 719 đô thị chỉ có 2 đô thị có qui mô lớn( trên 3 triệu dân) là
Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh(đô thị đặc biệt); 3 đô thị loại 1 trực thuộc Trung
ương; 8 đô thị loại 1 khác thuộc tỉnh; 11 đô thị loại 2; 37 đô thị loại 3; 38 đô thị loại
4 và 625 đô thị loại 5.
- Mối quan hệ giữa nông thôn và thành thị mang tính chất xen cài cả trong không
gian đô thị, cả về xã hội học, lối sống, sinh hoạt văn hóa, phong tục tập quán và mối
quan hệ kinh tế. Về cơ bản, Việt Nam là nước nông nghiệp, với hơn 50% dân số
nông nghiệp. Các đô thị ra đời và phát triển trên cơ sở nông nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp, thương nghiệp, dịch vụ, hành chính. Rất ít đô thị phát triển mạnh mẽ dựa
vào sản xuất công nghiệp, tác phong và lối sống nông nghiệp vẫn còn phổ biến
trong dân cư, nhất là các đô thị vừa và nhỏ.Vì vậy, khi không còn đóng vai trò trung
tâm của tỉnh hoặc huyện thì đô thị bị xuống cấp nhanh chóng và ít được đầu tư.
- Cơ sở hạ tầng kĩ thuật, kinh tế- xã hội, môi trường còn yếu kém nhất là ở miền Bắc
và miền Trung. Điều đó làm cho các đô thị này luôn chịu áp lực của gia tăng dân số
(tự nhiên và cơ học) đồng thời chịu sức ép của nền kinh tế kém phát triển.
- Đô thị hóa không đồng đều giữa các vùng trong cả nước, phân bố phân tán, tản
mạn, đa phần là đô thị nhỏ, nửa đô thị, nửa nông thôn. Sự rãi đều của các đô thị nhỏ
làm hạn chế khả năng đầu tư và phát triển kinh tế, dẫn đến việc nông thôn hóa đô
thị, đô thị không đủ sức phát triển.
2. Mạng lưới đô thị:
a. Khái niệm:
- Đô thị: Đô thị là khu vực tập trung dân cư sinh sống với mật độ cao và chủ yếu
hoạt động trong lĩnh vực kinh tế phi nông nghiệp, là trung tâm chính trị, hành chính,
kinh tế, văn hóa, hoặc chuyên ngành có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội

của quốc gia hoặc một vùng lãnh thổ, một địa phương.
- Mạng lưới đô thị: Là một hệ thống đô thị liên kết với nhau thông qua mạng lưới cơ
sở hạ tầng. Mạng lưới đô thị được coi là một hệ thống bao gồm nhiều cấp khác
nhau, giữa các cấp trong một mạng lưới có quan hệ đặc biệt với nhau.
b. Phân bố đô thị ở Việt Nam:
- Mạng lưới đô thị nước ta trải ra tương đối rộng khắp trên lãnh thổ và được chia
thành 6 loại dựa trên các tiêu chí cơ bản: Số dân, chức năng, mật độ dân số, cơ sở hạ
tầng, kiến trúc cảnh quan, tỉ lệ lao động phi nông nghiệp.
11


+ Đô thị đặc biệt: Dân số từ 5 triệu trở lên, mật độ dân số 15 nghìn người/km2; cơ sở
hạ tầng đồng bộ; là thủ đô hoặc trung tâm quốc gia, quốc tế; có phạm vi ảnh hưởng
cả nước; tỉ lệ lao động phi nông nghiệp trên 90%.
+ Đô thị loại 1: Dân số từ 1-5 triệu, mật độ trung bình từ 10.000- 13.000 người/km2;
trung tâm quốc gia, quốc tế; phạm vi ảnh hưởng vùng, liên tỉnh hoặc cả nước; tỉ lệ
lao động phi nông nghiệp >85%.
+ Đô thị loại 2: Dân số từ 30- 80 vạn người, mật độ dân số trung bình từ 8.00010.000 người/km2; trung tâm quốc gia quốc tế; phạm vi ảnh hưởng vùng, tỉnh; tỉ lệ
lao động phi nông nghiệp >80%.
+ Đô thị loại 3: Dân số từ 15 vạn trở lên, mật độ trung bình 6.000 người/km2; trung
tâm tỉnh hoặc vùng; tỉ lệ lao động phi nông nghiệp >75%.
+ Đô thị loại 4: Dân số từ 5 vạn trở lên, mật độ trung bình 4.000 người/km2; trung
tâm tỉnh; cơ sở hạ tầng chưa hoàn chỉnh; tỉ lệ lao động phi nông nghiệp >70%.
+Đô thị loại 5: Dân số từ 4.000 người trở lên, mật độ trung bình 2.000 người/km2;
trung tâm huyện, cụm xã; cơ sở hạ tầng chưa hoàn chỉnh; tỉ lệ lao động phi nông
nghiệp > 65%.
( Lưu ý: Các chỉ tiêu trên có thể thấp hơn đối với các đô thị ở trung du và miền núi).
- Theo chỉ tiêu đô thị phân loại Việt Nam, cho đến năm 2009, nước ta có 719 điểm
dân cư đô thị được chia như sau:
+ Hai đô thị đặc biệt (Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh) chiếm 33.8% dân số đô thị

và 15,8% dân số toàn quốc.
+ Ba đô thị loại 1 trực thuộc trung ương (Hải Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ) chiếm
9,4% dân số đô thị và 4,6 % dân số toàn quốc.
+ 8 đô thị loại 1 là thành phố tỉnh lỵ, trung tâm các vùng (Thái Nguyên, Nam Định,
Vinh, Huế, Quy Nhơn, Nha Trang, Đà Lạt, Buôn Mê Thuột).
+ 11 đô thị loại 2 ( Hạ Long, Việt Trì, Hải Dương, Thanh Hóa, Phan Thiết, Biên
Hòa, Plây ku, Vũng Tàu, Mỹ Tho, Long Xuyên, Cà Mau).
+ 37 đô thị loại 3; 38 đô thị loại 4 và 625 đô thị loại 5.
- Cùng với sự biến đổi chung của nền kinh tế đất nước, các đô thị Việt Nam đã có
những bước phát triển rõ rệt, nhưng vẫn chưa đạt yêu cầu của cuộc sống đô thị. Phát
triển đô thị vừa là một đòi hỏi, vừa là một trong những yếu tố cơ bản để thúc đẩy sự
phát triển kinh tế- xã hội theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
3. Ảnh hưởng của đô thị hóa đến việc phát triển kinh tế- xã hội:
- Tác động tích cực: Các đô thị của nước ta với chức năng tổng hợp, là trung tâm
văn hóa, chính trị, kinh tế, khoa học- kĩ thuật đã tạo động lực phát triển cho địa
12


phương. Các đô thị là nơi tập trung dân cư đông đúc tạo ra thị trường tiêu thụ lớn và
lực lượng lao động dồi dào có kĩ thuật cao. Các đô thị có sức hút đầu tư lớn cho cơ
sở vật chất kĩ thuật. Các đô thị có khả năng tạo việc làm cho người lao động, tăng
thu nhập, tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế cho địa phương và cả nước.
- Tác động tiêu cực: Ô nhiễm môi trường (khí thải công nghiệp, không khí, tiếng
ồn). An ninh trật tự không được đảm bảo, tệ nạn xã hội phát sinh, vấn đề giải quyết
việc làm cho người lao động trở nên bức xúc.
- Trong quá trình đô thị hóa cần chú ý: Phát triển mạnh mạng lưới đô thị, chú trọng
đến các đô thị là trung tâm phát triển vùng. Đẩy mạnh đô thị hóa nông thôn, rút
ngắn khoản cách giữa thành thị và nông thôn. Sự gia tăng dân số và lao động ở
thành thị phải đi đôi với vấn đề việc làm và phát triển cơ sở vật chất hạ tầng đô thị.
Quy hoạch đô thị phải hoàn chỉnh, đồng bộ, đảm bảo có đô thị lành mạnh, trong

sạch.
IV. Chất lượng cuộc sống:
- Nâng cao chất lượng về thể chất và trí tuệ, tinh thần và vật chất cho nhân dân là
mục tiêu phấn đấu nhằm đáp ứng sự nghiệp phát triển bền vững của quốc gia. Mặc
dù chất lượng cuộc sống của nhân dân về mọi mặt đang được cải thiện song nhìn
chung vẫn ở mức thấp so với khu vực và thế giới. Căn cứ vào chỉ số phát triển con
người (HDI) để phản ánh chất lượng dân số, chương trình phát triển Liên Hợp Quốc
(UNDP) xếp Việt Nam vào hàng thứ 105/177 nước năm 2009.
1. Về thu nhập bình quân đầu người và xóa đói giảm nghèo:
a. Thu nhập bình quân đầu người:
- Trong những năm qua, công cuộc đổi mới của Việt Nam đã thu được những thành
tựu to lớn trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội. Trong 10 năm gần đây, nhờ
duy trì nhịp độ tăng trưởng kinh tế khá cao, trung bình mỗi năm GDP tăng trên 7%,
đời sống vật chất tinh thần của phần lớn dân cư được ổn định và cải thiện. GDP
bình quân đầu người mỗi năm tăng trung bình khoảng 6,9%.
+ GDP bình quân đầu người có sự phân hóa giữa các vùng lãnh thổ và theo từng
tỉnh, thành phố.
+ Có 6/8 vùng có GDP theo đầu người thấp hơn mức trung bình của cả nước.
+ GDP bình quân cao nhất là Đông Nam Bộ gấp 2,2 lần mức trung bình của cả nước
và 3,8 lần Tây Bắc (vùng có GDP/người thấp nhất). Đồng bằng sông Hồng đứng
thứ 2, gấp 1,2 lần cả nước.
- Do sự phát triển của nền kinh tế chưa thực sự vững chắc, hiệu quả và sức cạnh
tranh thấp, còn nhiều yếu tố chưa đảm bảo tăng trưởng cao và bền vững nên Việt
13


Nam vẫn còn là một trong những nước có thu nhập thấp trên thế giới. Theo báo cáo
của Ngân hàng Thế Giới năm 2008, GDP/người của nước ta là 1.052 USD (trong
khi đó GDP/người trung bình của thế giới 8897 USD, các nước phát triển > 35.000
USD, các nước đang phát triển 3.120 USD, các nước Đông Nam Á 2.450 USD).

b. Xóa đói, giảm nghèo:
- Ở Việt Nam, chỉ tiêu thu nhập được coi là quan trọng nhất trong việc đánh giá tình
trạng nghèo và hoạch định chính sách xóa đói, giảm nghèo của nhà nước. Thu nhập
thường được tính bằng tiền theo hộ gia đình. Chuẩn nghèo quốc gia do Bộ lao động,
thương binh và xã hội ban hành thường xuyên, thay đổi theo mặt bằng thu nhập
quốc gia. Từ năm 1993 đến nay, chuẩn nghèo quốc gia đã 5 lần thay đổi và chuẩn
nghèo mới nhất cho giai đoạn 2011- 2015 là:
+ Nông thôn < 400.000 đồng/người/tháng.
+ Thành thị < 500.000 đồng/người/ tháng.
- Theo chuẩn này thì tỉ lệ hộ nghèo nước ta giảm nhanh, đến nay còn 13,4% hộ
nghèo. Phần lớn người nghèo sống ở nông thôn vùng núi phía Bắc, Bắc Trung Bộ,
Duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên. Số hộ nghèo có thể dao động do sự biến
đổi kinh tế hay thiên tai gây ra. Chương trình quốc gia xóa đói giảm nghèo đã thực
hiện có hiệu quả bằng các dự án như xây dựng cơ sở hạ tầng và sắp xếp lại dân cư,
hỗ trợ sản xuất và phát triển ngành nghề, cho người nghèo vay vốn với lãi suất ưu
đãi…Mục tiêu đến năm 2020 giảm hộ nghèo cả nước xuống còn 5%, phấn đấu tăng
thu nhập bình quân đầu người lên 3.000USD.
2. Về giáo dục:
- Mặc dù tỉ lệ biết chữ của dân số từ 15 tuổi trở lên cao (năm 2009 đạt 93,5%), số
năm bình quân đi học tăng (đạt 10,1 năm), song số người có trình độ cao còn ít (chỉ
có 6,0% dân số tốt nghiệp cao đẳng, đại học còn trình độ sơ, trung cấp kĩ thuật là
7,3%).
- Tỉ lệ học sinh tốt nghiệp phổ thông tuy khá cao, nhưng có sự khác biệt lớn giữa
các vùng. Năm học 2008 -2009, tỉ lệ này là 83,8%. Vùng Đồng bằng sông Hồng có
tỉ lệ học sinh tốt nghiệp cao nhất (91.9%), vùng Tây Nguyên và Đồng bằng sông
Cửu Long có tỉ lệ tốt nghiệp thấp nhất (78,0% và 75,1%).
- Ngân sách đầu tư cho giáo dục ở Việt Nam ngày càng tăng, nhưng chưa đáp ứng
được yêu cầu và so với nhiều nước trên thế giới, còn ở mức thấp.
- Để đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, góp phần cải thiện và
nâng cao chất lượng cuộc sống, cần tiếp tục đẩy mạnh công tác giáo dục thông qua

việc xây dựng chiến lược giáo dục và đào tạo thích hợp cho tương lai; tăng cường
14


công tác xã hội hóa nhằm bổ sung nguồn lực đầu tư cho giáo dục; khuyến khích và
tạo điều kiện thuận lợi để mọi trẻ em đến tuổi đi học được đến trường; Chú ý ưu
tiên các vùng mà trình độ dân trí, học vấn và nghề nghiệp còn thấp.
3. Về y tế và chăm sóc sức khỏe:
- Sức khỏe là vốn quý và là yếu tố quan trọng trong đảm bảo hạnh phúc cho mỗi
con người. Sức khỏe của toàn dân là điều kiện cần thiết để thực hiện các mục tiêu
phát triển của mỗi quốc gia, là tương lai của mỗi dân tộc. Các quốc gia trên toàn thế
giới không chỉ quan tâm đến số lượng mà còn chú ý đến chất lượng dân số, chất
lượng nòi giống trong đó có mục tiêu nâng cao thể lực cho con người.
- Ở Việt Nam, do những thành tựu về phát triển kinh tế, nên các chương trình quốc
gia về xã hội đã được triển khai rộng khắp và có tác dụng sâu sắc đến cả nông thôn
và thành thị. Hầu hết các chỉ số về sức khỏe đã được cải thiện. Chính phủ đã có chủ
trương cơ bản và lâu dài là phát triển các dịch vụ y tế, đặc biệt là dịch vụ khám,
chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe ban đầu.
- Tuổi thọ trung bình của cả nước đạt mức cao đáng kể so với điều kiện kinh tế và
mức sống hiện tại, năm 2009 đạt 72,8 tuổi.
- Hàng năm số người chết vì bệnh sốt rét giảm đáng kể. Trên 90% dân cư đã tiếp
cận với các dịch vụ y tế.
- Mạng lưới y tế phát triển rộng khắp. Số giường bệnh, bác sĩ, y sĩ, y tá ngày càng
tăng. Tuy nhiên, do điều kiện khách quan hạn chế, trong đó yếu tố quan trọng là tỉ
suất gia tăng dân số vẫn còn cao nên mặc dù hệ thống y tế phát triển, nhưng mức độ
cải thiện còn chậm.
- Tình trạng sức khỏe của người dân không chỉ phụ thuộc riêng vào ngành y tế, mà
còn vào sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế- xã hội, dân số, môi trường, dân
trí…Công tác y tế và chăm sóc sức khỏe của Việt Nam, mặc dù đã phát triển, song
vẫn phải tiếp tục được đầu tư hơn nữa. Cùng với việc nâng cao mức sống dân cư,

giảm tỉ suất gia tăng dân số góp phần tạo nên một cộng đồng với thể lực, trí lực
sung mãn, đáp ứng công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

15


E.KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU:
Trong nhiều năm tham gia bồi dưỡng đội tuyển học sinh giỏi quốc gia môn
Địa Lí, tôi đã áp dụng chuyên đề vào giảng dạy và thấy đạt hiệu quả rất cao, học
sinh nắm vững được kiến thức địa lí dân cư Việt Nam và vận dụng một cách có hiệu
quả để trả lời các câu hỏi phần địa lí dân cư Việt nam và những câu hỏi có liên
quan, nên đã góp phần quan trọng trong các giải của đội tuyển quốc gia.
F. KẾT LUẬN:
Dân số đã là đang là vấn đề quan tâm hàng đầu trên toàn thế giới nó chung và
Việt Nam nói riêng. Các vấn đề về dân số có ảnh hưởng sâu sắc và rõ rệt đến tình
hình phát triển kinh tế- xã hội của đất nước. Bên cạnh sự gia tăng dân số nhanh, sự
phân bố dân cư không hợp lý thì các vấn đề về đô thị hóa tự phát, chất lượng cuộc
sống chậm cải thiện, việc làm còn là vấn đề gay gắt...đã có những tác động tiêu cực,
gây cản trở sự phát triển kinh tế- xã hội của đất nước.
Chuyên đề địa lý dân cư Việt Nam với 4 nội dung cơ bản đã được trình bày: Đặc
điểm dân số và sự phân bố dân cư, lao động và việc làm, đô thị hóa và chất lượng
cuộc sống. Đây là những nội dung quan trọng trang bị cho các em đầy đủ kiến thức
về địa lý dân cư Việt Nam làm cơ sở để vận dụng tốt trong quá trình học tập Địa lí
và tham gia các kì thi đạt hiệu quả, đồng thời hình thành được thái độ và hành vi
đúng đắn về vấn đề dân số của đất nước hiện nay.Trong quá trình nghiên cứu và
hoàn thành chuyên đề bản thân đã có nhiều cố gắng, song không tránh khỏi những
sai sót. Rất mong sự đóng góp của đồng nghiệp.
G.ĐỀ NGHỊ:
Đối với tổ chuyên môn: Cần có kế hoạch phân công việc viết các chuyên đề
một cách cụ thể và có hiệu quả để có tài liệu phục vụ cho việc dạy chuyên sâu và

bồi dưỡng đội tuyển học sinh giỏi quốc gia.
Đối với ban giám hiệu: Nên có các biện pháp để hổ trợ, khuyến khích, động
viên các giáo viên trực tiếp viết chuyên đề chuyên sâu.

16


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Địa lí kinh tế- xã hội đại cương ( Nguyễn Minh Tuệ- Chủ biên).
2. Địa lí kinh tế- xã hội Việt Nam (Lê Thông- Chủ biên).
3. Kỉ yếu hội thảo khoa học lần thứ 4 của các trường THPT chuyên khu vực
Duyên hải và Đồng bằng Bắc Bộ.
4. Tài liệu tập huấn phát triển chuyên môn giáo viên trường THPT chuyên môn
Địa Lí năm 2010, 2011 và 2012 của Bộ giáo dục và đào tạo.
5. Chương trình dạy học chuyên sâu môn Địa Lí ( Bộ giáo dục và đào tạo).
6. Sách giáo khoa Địa Lí 12 nâng cao (Nhà xuất bản giáo dục).

17


MỤC LỤC:

Trang
A. ĐẶT VẤN ĐỀ………………………………………………………….. 1
B. CƠ SỞ LÍ LUẬN……………………………………………………….. 1
C. CƠ SỞ THỰC TIỄN……………………………………………………. 1
D. NỘI DUNG:
I. Đặc điểm dân số và sự phân bố dân cư nước ta……………………....2-8
II. Lao động và việc làm………………………………………………...8-10
III. Đô thị hóa…………………………………………………………..10-13

IV. Chất lượng cuộc sống………………………………………………13-15
E. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU………………………………………………..16
F. KẾT LUẬN……………………………………………………………….16
G. ĐỀ NGHỊ…………………………………………………………………16
H. TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………..17

18



×