Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Một số Đề luyện thi tham khảo vào lớp 10 môn Văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (479.27 KB, 18 trang )

Một số Đề thi vào lớp 10 môn Văn

Hình minh họa

Cuộc chạy đua chuyển cấp bao giờ cũng trở nên đáng lo lắng
đối với mỗi bậc phụ huynh và các em học sinh. Để vào được ngôi
trường, lớp học mà mình mong muốn thì các em cần có một kỳ thi
đạt kết quả tốt. Ngoài việc có một kế hoạch ôn tập phù hợp, các em
cũng nên tham khảo các đề thi năm trước để rút ra cho mình kinh
nghiệm làm bài, Nhằm giúp các bạn có điều kiện tham khảo đề thi
những năm trước và giúp các em tự tin hơn trong kỳ thi tới.

Những Bài Văn Hay, Văn Mẫu Lớp 9 cho các em tham
khảo

Viết bài tập làm văn số 2 lớp 9

1


Bài viết số 2 lớp 9 đề 1:

Tưởng tượng 20 năm sau về thăm trường xưa vào 1 ngày
hè, hãy viết thư cho 1 bạn học hồi ấy kể lại buổi thăm trường
đầy
xúc
động
đó
Bài làm:
Kể từ cái ngày nhận giấy tốt nghiệp cấp hai thấm thoát đã
qua 20 năm, qua bao tháng ngày xa quê hương thương nhớ.


Rồi một ngày, khi thấy mình đã trưởng thành qua quãng
dương học tập đầy gian khó, tôi đã đử tự tin dê về thăm lại
ngôi trường cấp hai xưa – nơi ươm mầm cho tôi bao ước mơ,
nơi tôi đã lớn lên từng ngày trong sự dìu dắt của các thầy cô.
Hôm ấy là một ngày rất đẹp. Tiết trời dần chuyển thu, bầu
không khí hè không còn quá oi bức, nóng bỏng mà đã trở nên
dễ chịu hơn nhiều. Từng cơn gió nhẹ khua tán cây bên đường
xào xạc. Tôi vẫn đi trên lối cũ, mải mê bước theo làn nắng
vàng rực rỡ trong niềm vui sướng thôi thúc lẫn với chút cảm
giác khó tả. Chính cảm giác, chính bầu không khí ấy 20 năm
trước tôi cũng như nhiều đứa bạn khác trong làng đang náo
nức mong chờ đếm từng ngày từng giờ để được đến trường
gặp lại bạn bè thầy cô.
2


Ngay khi đứng trước cổng ngôi trường xưa, cảm xúc nao
nao hạnh phúc ấy lại ùa về chiếm lấy trái tim tôi rất tự nhiên,
không thể nào ngăn được. Nghe tiếng tim mình thúc giục, tôi
bước vào sân trường – những bước chân đầu tiên trở lại ngôi
trường xưa yêu dấu sau ngần ấy năm xa cách.
Tôi nhìn khắp xung quanh va thầm nghĩ trường nay đã
thay đổi quá nhiều. Nhưng dù trường có thay đổi nhiều thế
nào thì hình ảnh ngoài có vẻ lạ lẫm ấy vẫn không thể nào lấn át
được cảm giác vô cùng thân thương gần gũi in sâu trong tâm
thức tôi. Còn nhớ lúc trước trường chỉ có 6, 7 phòng học,
khuôn viên cũng khá nhỏ đi một qua mạch là hết. Còn giờ đây
trường trông khang trang và rộng thoáng hơn rất nhiều. Các
dãy phòng đều được xây thêm mấy tầng cao ngất. Còn sân
trường cũng được mở rộng hơn tráng bê tông sạch sẽ và

trồng thêm nhiều cây xanh.
Tôi đang dạo bước dưới hàng cây thẳng tắp, cố hít thật
đầy phổi không khí trong lành mát mẻ rồi dừng chân ngồi
xuống bên một gốc cây to. Rồi không biết là nhờ đâu, một linh
cảm, hay một sự trùng hợp, tôi phát hiện dòng chữ khắc đậm
nét “ 9/2 SIU WẬY” trên thân cây. Tôi thật sự rất bất ngờ, tôi
không nghĩ cái cây con xưa do cả lớp trồng giờ lại còn nơi đây
và trở thành cái cây già to sừng sững. Nhìn dòng chữ tôi
không nén nổi niềm vui mà bật cười, biết bao kỷ niệm vui
buồn đẹp đẽ năm cuối cấp như hiện về trước mặt. Ngày ấy đã
là anh chị của cả trường rồi mà xem ra chúng tôi vẫn còn ngây
thơ nông nỗi lắm.
Kể ra lớp tôi ngày ấy đoàn kết thật: Đoàn kết học, Đoàn
kết chơi. Nói về học, một khi cả lớp đã quyết tâm học lập
thành tích thì thật không lớp nào vượt qua nổi. Với khẩu hiệu “
ĐOÀN KẾT MỘT LÒNG”, mỗi thành viên trong lớp với tinh
thần thi đua năng nổ tràn đầy sức sống đều cố gắng ra sức
học hết mình, không chỉ vì bản thân mà là vì cả tập thể. Về mặt
phong trào cũng vậy. Cũng nhờ tinh thần đoàn kết trên, lớp
luôn đạt nhà trường khen thưởng và đạt nhiều danh hiệu đáng
tự hào. Học thì tốt thật đấy, nhưng đã là “ 9/2 SIU WẬY” thì hẳn
cũng có những lúc nghịch không ai chịu được. Thầy cô từng
dạy lớp khen thì có khen nhưng lúc nào cũng không quên
3


thêm vài câu đùa về cái lớp lắm chiêu nhiều trò. Nhưng những
chiêu trò độc đáo ấy cũng rất hồn nhiên rất dễ thương.
Tôi nhớ nhất buổi liên hoan cuối năm của lớp, thật cảm động
lắm . Cả lớp bày nhau dùng nghề “ thủ công” độc nhất, cả lớp

ngồi lại với nhau viết những lời tâm sự, lời chúc, bày tỏ tình
cảm ban bè, tình thầy trò vào những mảng giấy nhỏ trao tay
nhau, bỏ vào một cái hộp lớn tặng cô. Mỗi người một cách
viết, một cảm xúc, một suy nghĩ riêng, tất cả đều xuất phát từ
trái tim trong sáng tuổi mới lớn, biết cảm, biết yêu thương. Có
đứa chẳng biết nói thế nào rồi viết có mỗi câu “ Em yêu cô”
gần trăm lần như chép bài phạt đem tặng cho cô.
Trước tấm lòng của đám trò nhỏ, cô không cảm động sao
được, chúng ta cũng vậy, ngồi xem từng mẫu giấy mà vừa
cười vừa khóc. Tôi ngồi dưới gốc cây nhớ về từng kỷ niệm vui
buồn bên nhau. Càng nhớ lại càng thấy luyến tiếc, tiếc sao
thời học sinh sao trôi qua quá nhanh. Từng lúc vui, lúc buồn
tôi vẫn còn nhớ rất rõ ràng như chỉ mới xảy xa hôm trước dậy
mà hôm nay khi nhìn lại mới thấy mình đã đi một quãng
đường quá xa. Không biết bạn bè ngày trước giờ có còn nhớ
về nhau, nhớ về mái trường này không. Tôi ngồi nghĩ ngợi
quên cả thời gian.

4


Bài viết số 2 lớp 9 đề 2:
Kể lại 1 giấc mơ, trong đó em gặp lai ng` thân cách xa lâu
ngày
Bài làm: Bài văn mẫu hay lớp 9 của học sinh giỏi văn
“Một năm mới lại về rồi,mẹ à!” Tôi ngước mắt nhìn lên bầu
trời đêm và nghĩ về người mẹ kính yêu. Đã 3 năm kể từ ngày
mẹ đi sang nước ngoài rồi. Nhớ lại hồi mẹ còn ở đây,mẹ đều
đưa tôi đi chợ hoa và mua sắm vào những ngày năm mới gần
kề thế này. Tôi cứ ngồi suy nghĩ mông lung rồi chìm vào giấc

ngủ
.
“Hồng ơi!”, tôi nghe thấy có tiếng gọi từ đằng xa. Tôi quay
lại thì thấy mình đang đứng giữa khu công viên mà ngày tôi
còn bé mẹ thường dắt tôi đến đây chơi.Từ xa bước lại phía tôi
là một bóng người mà tôi cảm thấy vừa thân quen,vừa lạ
lẫm.”Phải chăng là mẹ?”-Tôi thầm nghĩ bụng. Tôi chạy lại gần
để nhìn cho rõ. Ồ!Đúng là mẹ rồi.Lòng tôi vô cùng sung sướng
và hạnh phúc . Không kìm nổi xúc động,tôi gọi thật to:”Mẹ,mẹ
ơi!” rồi tôi chạy đến ôm chầm lấy mẹ.Mẹ cũng dang rộng đôi
vòng tay bé nhỏ của mình để ôm tôi.Mẹ nghẹn ngào
nói:”Hồng!Con của mẹ!”
Tôi òa khóc trong giây phút được gặp lại người mẹ kính
yêu đã xa cách bao ngày.Đến bây giờ tôi mới có dịp nhìn kĩ mẹ
hơn.Mái tóc của mẹ đã điểm vài sợi bạc.Những nếp nhăn của
tháng ngày vất vả khó khăn bên xứ người hằn lên bên khóe
mắt của mẹ.Chỉ có một điều ở mẹ mà tôi thấy không hề thay
đổi,đó chính là nụ cười.Nụ cười của mẹ vẫn thật hiền dịu và
đem lại cho tôi cảm giác yên bình ,hạnh phúc.
Đang mải ngắm nhìn người mẹ hiền dịu đã xa cách bao
ngày thì giọng mẹ vang lên khiến tôi hơi giật mình:
-Mẹ con mình ra ghế đá kia tâm sự đi.Lâu lắm rồi mẹ con mình
không
được
nói
chuyện
với
nhau.
Tôi
gật

đầu:
-Vâng
ạ!
Tôi và mẹ ra hàng ghế đá thân thuộc ngày nào.Mẹ vuốt nhẹ lên
mái
tóc
tôi

hỏi:
-Dạo
này
gia
đình
mình
thế
nào
hả
con?
Tôi
liền
trả
lời:
-Mọi người vẫn khỏe mẹ à!Ông ngoại thì thỉnh thoảng bị thấp
5


khớp.Còn các bác thì vẫn đi làm đều.Mọi người vẫn nhắc tới
mẹ
luôn
đấy

ạ.Ai
cũng
nhớ
mẹ
nhiều
lắm.
Mẹ
mỉm
cười
hiền
dịu:
-Ừ!Vậy việc học của con bây giờ sao rồi?Con vẫn giữ ước mơ
về
sau
trở
thành
phóng
viên
chứ?
Tôi
nhanh
nhảu
trả
lời:
-Việc học năm nay của con mệt và vất vả hơn những năm
trước nhiều.
Vì là năm cuối cấp nên ngoài học chính ở trên lớp ,con
còn phải học thêm nhiều để củng cố kiến thức.Và để biến ước
mơ được làm phóng viên thành hiện thực ,con vẫn đều đặn
gửi bài cho báo đấy,mẹ à.Con sẽ không để mẹ và mọi người

thất
vọng
đâu.
Lời nói của mẹ như truyền thêm niềm tin cho tôi:
-Ừ!Mẹ tin ở con.Phải cố gắng học cho giỏi con nhé.Dù có
chuyện vui,buồn gì thì cũng phải tâm sự cho mẹ nghe.
Nghe giọng nói ấm áp của mẹ càng làm tôi thêm gần gũi mẹ
hơn.Tôi biết rẳng ở phương xa-nơi đất khách quê người
kia,mẹ vẫn luôn nhớ về tôi,dõi theo từng bước đi và quan tâm
đến từng chuyện buồn vui của tôi.
Tất cả những gì tôi làm được hôm nay đều nhờ đến lời
động viên của mẹ.Tình yêu thương mà mẹ truyền cho tôi đã
giúp tôi có nghị lực vượt qua những chông gai thử thách của
đường đời.Tình mẫu tử thật thiêng liêng biết chừng nào!Đã
bao lâu nay tôi vắng bóng hình ảnh người mẹ thân yêu mà giờ
đây lại được ở bên cạnh mẹ,thật hạnh phúc làm sao!Tôi thầm
nghĩ:”Mẹ à! Bây giờ mẹ con mình lại ở bên nhau rồi.Đừng rời
xa con nữa,mẹ nhé…”Thế rồi tôi lại chìm vào những suy
nghĩ,vào niềm sung sướng,hân hoan đang tràn ngập trong
lòng.Rồi mọi vật bỗng trở nên nhạt dần,nhạt dần…
“Hồng ơi!Dậy đi em sao lại ngủ gật thế kia?Sắp sang năm
mới rồi kìa.Em có dậy xem pháo hoa cùng gia đình
không?”Tôi dụi mắt ,thấy chiếc đồng hồ đã sắp chỉ sang số
12.Tôi ngơ ngác nhìn quanh thì mới biết đó là một giấc
mơ.Ngước mắt nhìn lên bầu trời đêm,pháo hoa sáng rực
trời,một năm mới nữa lại đến rồi.Tôi thầm nhủ với trời đêm,với
nàng tiên mùa xuân để mong nàng tiên mùa xuân gửi lời đến
6



mẹ :”Mẹ ơi!Con nhớ mẹ nhiều lắm.Mẹ hãy sớm trở về với
con,mẹ nhé!”

Bài viết số 2 lớp 9 đề 3:
Kể lại một việc làm khiến em rất ân hận
Bàilàm:
Bầu không khí ấm áp, trong lành dưới cái nắng dịu nhẹ
của những ngày cuối năm đã hiện rõ, báo hiệu nhày lễ lớn và
kéo dài nhất Việt Nam – Tết Nguyên Đán đã đến gần. Ông bà
xưa

câu:
“Con
người

tổ

tông
Như
cây

cội,
như
sông

nguồn.”
Đúng như câu thành ngữ đã lưu truyền từ ngàn đời nay,
cứ vào ngày hai mươi tháng Chạp (Âm Lịch) hằng năm, gia
đình em lại về quê ở ấp 4 xã An Trường thuộc huyện Càng
Long

thăm
mộ
ông
em.
Những tia nắng dịu nhẹ chưa xuyên qua làn sương mỏng đã
thấy bố mẹ quần áo, mâm cỗ tươm tất chuẩn bị về An Trường.
Từ nhà em về quê, nếu đi xe máy khoảng hơn hai mươi phút.
Trên đường đi, có rất nhiều người cũng giống như gia đình
em: tay bưng mâm cỗ, đồ cúng, gương mặt rạng rỡ nói cười.
Lúc trước, gia đình em chỉ đi một xe thôi, nhưng giờ phải đi
hai xe vì em đã lớn rồi, không thể đi cùng bố mẹ và em nhỏ
được.
Thế là bố chở em và em nhỏ, còn mẹ thì đi một mình. Em
của em cứ miệng líu lo những câu hỏi vu vơ: “Sao hôm nay có
nhiều xe thế bố?”, “Sao lại về thăm mộ ông vậy bố?”, và đôi
lúc lại hát những khúc ca quen thuộc của tuổi ăn ngủ. Gần một
năm kể từ Tết năm ngoái, gia đình em không về quê vì bố mẹ
bận việc làm ăn, rồi lại lo việc học hành của em chị em em; giờ
trở về quê, thấy cảnh vật có thay đổi ít nhiều.
Nhà cửa đã mọc sang sát nhau, đa phần là nhà tường,
nhà tôn… những ngôi nhà lá đã mất dần, chứng tỏ đời sống
của người dân nơi đây đã khá hơn. Đường lộ cũng thế, được
mở rộng , trán nhựa rất đẹp thuận tiện cho việc đi lại.
Nhanh thật, mới đây đã thấy hình bóng ẩn hiện của cây đa già
nua ở đầu làng; chỉ còn cách vài ngôi nhà sẽ thấy “Dương gia
7


chi mộ” – nơi ăn nghĩ của những người thân của dòng họ
Dương.

Tới đây thì đường làng đã nhỏ và hẹp dần – vì nó thuộc
ngôi làng nhỏ của xã An Trường nên nhà nước chưa mở rộng
đường và chăm lo cho đời sống của người dân chu đái nên
vẫn còn có nhiều hộ gặp khó khăn. Những ngôi nhà lá tạm bợ
tuy đã giảm dần nhưng số lượng vẫn còn nhiều. Tới nơi, bố
mẹ em dừng xe ở cổng chi mộ; những hình ảnh quen thuộc
của anh em, cô chú và các ông, các bà lại hiện rõ đầy đủ;
không thiếu một người. Mọi người chào nhau, thăm hỏi nhau
rất nồng nhiệt; những lời chúc ân cần cứ luân phiên nhau làm
không
khí
náo
nhiệt
hẳn
lên.
Khi đã thăm hỏi tình hình làm ăn của bà con xong, mọi người
liền bắt tay vào việc tân trang lại các ngôi mộ của ông bà.
Người thì tay cầm dao mác, đốn chặt những cây cỏ dại; người
thì nhanh nhẹn đặt đồ cúng ở trước mộ ông bà; cả trẻ em
cũng bận rộn nữa, mấy bé củng cầm giẻ lau, lau sạch những
lớp bụi đã bám dày trên mộ; các cô, các dì tay cầm giá, tay
cầm xoong chãm nấu những món ăn dân dã – là đặc sản của
người dân lao động xứ Việt (là vì nhà của bà Tư em ở gần Chi
mộ nên khi đã tân trang xong chi mộ thì cả dòng hợ qua nhà
bà em ăn uống, vui chơi).
Khi đã gần xong, người nào người nấy đều đã thắm mệt,
riêng chỉ có những em nhỏ là còn sức để quậy thôi. Giờ thì lần
lượt từng người từ già đến trẻ, đến thấp nhang, cầu xin ông
bà phù hộ cho việc làm ăn và sức khỏe của mình. Các bác
không quên đem theo điếu thuốc lào và một sị rượu để dân lên

các ông – những người đã khuất. Các em nhỏ thì ngoan ngoan
chờ khi cúng xong, xin pháp ăn vài miếng bánh, miếng dưa và
cũng không quên chúc những lời chúc tốt lành đến ông bà,
nhưng chắc các em không hiểu hết lí do vì sao phải xin phép
và chúc ông bà; đơn giản là vì các em còn rất ngây thơ, chỉ
biết
việc
ăn
ngủ

thôi.
Mọi việc đã xong, cả dòng họ sang nhà bà Tư ăn uống, vừa
bước vào cửa nhà đã thoáng nghe mùi của món thịt kho hột
vịt, canh chua cua đồng, vịt quay… toàn là món khoải khẩu
của em.
8


Tuy nhà bà em không lớn lắm nhưng cũng đủ để mọi
người vui chơi, nghĩ ngơi thư giản. Ở bàn nữ, các cô các dì và
có vài bà em là bà nội, bà Tư, bà Tám… liên tục ói về những
chuyện trai gái của các chị đã đến tuổi lấy chồng; và cũng
không quên dặn dò con cháu cố gắng học tập nên người. Còn
bên bàn nam thì các ông, các bác thăm hỏi nhau về việc làm
ăn, kinh tế và còn bàn về các món nhậu nữa.
Đã về chiều, mọi người vào ấp 7 xã An Trường thăm bà con.
Vì gia đình em lên huyện ở do điều kiện kinh tế nên sẵn
dịp thăm này thăm nhà bà con. Thấy mọi thứ cũng không có
thay đổi gì nhiều, chỉ có khác là vật chất được nâng cao, các
thiết bị điện đã thay dần các dụng cụ thô sơ, lỗi thời. Vào ấp 7,

các bác lại nhậu thêm một lần nữa, khiến các cô các dì cứ liên
tục nhắc nhở cồng là nhậu ít để còn lái xe. Chúng em thì ra bờ
sông – nơi cầu treo bắt qua sông Càng Long chơi; hít thở
không khía trong lành của cảnh làng quê. Lâu lâu lại nghe
tiếng nhắc nhở của mẹ các em nhỏ là đừng đến gần bờ sông
quá, đừng đùa giỡn trên cầu treo vì sẽ rất nguy hiểm. Các cô
thì qua nhà cô Ba ăn uống, tán gẫu những chuyện làm đẹp…
Hơn sáu giờ chiều, thế mà trời vẫn sáng nhưng vì phải về nhà
sớm để lo cho việc ăn ngủ của các em. Gia đình của chú Ba và
cô Út ở tận Hồ Chí Minh nên phải lên xe về sớm. Vậy mà hằng
năm, họ đều xuống đủ và luôn mang quà bánh về cho các
cháu.
Dù cho điều kiện kinh tế có ra sao nhưng bà con dòng họ em
đều dành ngày hai mươi tháng Chạp (Âm Lịch) hằng năm về
quê thăm ông bà. Thăm lại những người đã một thời dày công
cực khổ – dầm mưa dãy nắng để chăm lo, nuôi nấng con cháu
nên người.

Những bài văn mẫu lớp 9

9


Văn lớp 9 · 21 Tháng Mười Hai, 2016
Cảm nhận về nhân vật Thúy Kiều trong đoạn trích “Kiều ở lầu
Ngưng Bích”
Cảm nhận về nhân vật Thúy Kiều trong đoạn trích “Kiều ở lầu
Ngưng Bích” – văn mẫu lớp 9 – Thúy Kiều là nhân vật lí tưởng
của Nguyễn Du


10


Đề bài: Cảm nhận của em về nhân vật Thúy Kiều
trong đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”.
Bài làm: Bài văn hay lớp 9 viết về truyện kiều nhân vật Thúy
Kiều
Thúy Kiều là nhân vật lí tưởng của Nguyễn Du với sự trọn vẹn
về tài và sắc nhưng cuộc đời Kiều lại long đong, lận đận. Qua
nhân vật Thúy Kiều, tác giả muốn gửi gắm những khát vọng
sống, khát vọng yêu mạnh liệt nhất. Trong những năm tháng
đày đọa bản thân, cảnh kiều sống ở lầu Ngưng Bích khiến
người đọc rưng rưng. Nguyễn Du đã gợi tả thành công hình
dáng và tâm lí của Thúy Kiều khi sống ở chốn lầu xanh qua
đoạn “Kiều ở lầu Ngưng Bích”.
Cuộc đời của Thúy Kiều sau khi rơi vào tay Mã Giám Sinh là
những chuỗi ngày đằng đằng nhớ thương và nước mắt. Thúy
Kiều bị chà đạp và vùi dập không xót thương. Những kẻ mua
thịt bán người đã không từ mọi thủ đoạn để có được Kiều, và
rồi để hành hạ Kiều. Thúy Kiều đã định tìm đến cái chết để giải
thoát bản thân nhưng Tú Bà đã biết được và đem Kiều sống
tại lầu Ngưng Bích – một nơi lạnh lẽo tình người. Thực chất
hành động này của mụ chính là giam lỏng kiều, dần dần buộc
Kiều tiếp khách.
Khung cảnh lầu Ngưng bích khiến người đọc phải xót xa:
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia.
Cụm tù “Bát ngát xa trông” đã gợi lên sự vô tận của không
gian, của thiên nhiên. Đâu là bến bờ, đâu là điểm dừng chân
hình như là không có. Một khung cảnh cô liêu, hoang lạnh đến

rợn người. Thúy Kiều nhìn xa chỉ thấy những dãy núi, những
cồn cát bay mù trời. Nàng chỉ biết làm bạn với cảnh vật vô tri,
vô giác, ảm đảm và quạnh quẽ đến thê lương. Chỉ một vài chi
tiết nhưng Nguyên Du đã khắc họa thành công khung cảnh lầu
Ngưng Bích đơn côi.
11


Trong khung cảnh này, Thúy Kiều vẫn luôn nhung nhớ về chốn
cũ, về người xưa. Nỗi nhớ ấy da diết và day dứt:
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ
Bên trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai
Dù trong hoàn cảnh éo le như thế này nhưng tấm lòng son của
Thúy Kiều vẫn nhung nhớ tới một người khi tưởng lại những
kỉ niệm êm đẹp từng có. Kiều xót xa kkhi nghĩ tới cảnh Kim
Trọng còn mong chờ tin tức của nàng. Rồi nhìn lại mình, thấy
nhơ nhuốc và hoen ố. Thúy Kiều đã không thể giữ trọn lời hứa
với chàng Kim. Nàng nằng “tấm son gột rửa bao giờ cho
phai”, những gì nang chịu đựng, những gì kẻ xấu làm với này
biết bao giờ chàng Kim thấu, biết bao giờ có thể gột rửa đây?
Một
tiếng
lòng
đầy
đau
đớn

thê

lương.
Nghĩ về người yêu đã xót, Thúy Kiều còn xót xa hơn khi nghĩ
về cha mẹ:
Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấm lạnh những ai đó chờ
Sân Lai cách mấy nắng mưa
Có khi ngồi gốc tứ đã vừa người ôm
Thúy Kiều chua xót khi nghĩ cảnh cha mẹ đã già yếu, héo hon
từng ngày. Nàng lo lắng không biết có ai chăm sóc cho cha mẹ
hay không. Nàng ân hận và chua xót khi không được phụng
dưỡng mẹ già. Một người con gái hiếu thảo, nhưng đành lặng
lẽ nhớ và lặng lẽ chờ mong ngày đoàn tụ.

12


Thúy Kiều – một người con gái dù sống trong cảnh nhơ nhuộc
nhưng chữ hiếu và chữ tình vẫn còn da diết trong trái tim của
Kiều.
Con người đã buồn thê lương, nhìn ra cảnh bật dường như
càng thê lương hơn:
Buồn trông của bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cảnh buồn xa xa
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu
Những câu thơ chua xót, cứa vào lòng người người đọc nhiều
đớn đau mà Kiều phải trải qua. “Chiều hôm” là thời gian mà
nỗi buồn cứ thế ùa về, hiển hiện bao nhiêu thương nhớ nhưng
đành câm lặng. Điệp từ “Buồn trông” như khắc khoải, như
chờ mong và như nén lại trong lòng. Thúy Kiều ví mình như

“hoa trôi” vô định, không có điểm dừng, không biết về đâu.
Màu xanh xuất hiện ở cuối đoạn trích dường như càng khiến
cho cảnh thêm tái tê hơn:
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt ghềnh
ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi
Một bức tranh chỉ có màu “buồn”, buồn đến thê thảm và buồn
đến não nề. Dường như người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.
Màu cỏ, màu mây, màu nước, đều là màu “xanh xanh”, nhưng
không phải màu xanh tươi mới mà là màu xanh đến rợn
người, mờ mịt và đầy tối tăm.

13


Mỗi câu thơ, mỗi hình ảnh để khắc họa được tâm trạng đầy
ngổn ngang giữa một khung cảnh ảm đạm, tái tê khiến người
đọc không cầm được cảm xúc. Nguyễn Du với những nét vẽ
tài tình đã vẽ lên một bức tranh tuyệt đẹp, một vẻ đẹp đến thê
lương cuộc sống của Thúy Kiều ở lầu Ngưng Bích.

Tham khảo thêm bài văn mẫu lớp 9 hay của các em học sinh
lớp 9
Bài viết số 2 :Phân tích đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích
Nguyễn Du là bậc thầy về tả cảnh. Nhiều câu thơ tả cảnh của
ông có thể coi là chuẩn mực cho vẻ đẹp của thơ ca cổ điển.
Nhưng Nguyễn Du không chỉ giỏi về tả cảnh mà còn giỏi về tả
tình cảm, tả tâm trạng. Trong quan niệm của ông, hai yếu tố
tình và cảnh không tách rời nhau mà luôn đi liền nhau, bổ
sung cho nhau.

14


Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích là một bức tranh tâm tình
đầy xúc động. Bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình, Nguyễn Du đã
miêu tả tâm trạng nhân vật một cách xuất sắc. Đoạn thơ cho
thấy nhiều cung bậc tâm trạng của Kiều. Đó là nỗi cô đơn,
buồn tủi, là tấm lòng thủy chung, nhân hậu dành cho Kim
Trọng và cha mẹ.
Kết cấu của đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích rất hợp lí. Phần
đầu tác giả giới thiệu cảnh Kiều bị giam lỏng ở lầu Ngưng
Bích; phần thứ hai: trong nỗi cô đơn buồn tủi, nàng nhớ về
Kim Trọng và cha mẹ; phần thứ ba: tâm trạng đau buồn của
Kiều và những dự cảm về những bão tô cuộc đời sẽ giáng
xuống đời Kiều.
Thiên nhiên trong sáu câu thơ đầu được miêu tả hoang vắng,
bao la đến rợn ngợp. Ngồi trên lầu cao, nhìn phía trước là núi
non trùng điệp, ngẩng lên phía trên là vầng trăng như sắp
chạm đầu, nhìn xuống phía dưới là những đoạn cát vàng trải
dài vô tận, lác đác như bụi hồng nhỏ bé như càng tô đậm thêm
cuộc sống cô đơn, lẻ loi của nàng lúc này:
Trước lầu Ngưng Bích khoá xuân
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia
Có thể hình dung rất rõ một không gian mênh mông đang trải
rộng ra trước mắt Kiều. Không gian ấy càng khiến Kiều xót xa,
đau đớn:
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.

Một chữ bẽ bàng mà lột tả thật sâu sắc tâm trạng của Kiều lúc
bấy giờ: vừa chán ngán, buồn tủi cho thân phận mình, vừa xấu
hổ, sượng sùng trước mây sớm, đèn khuya. Và cảnh vật như
cũng chia sẻ, đồng cảm với nàng: nửa tình nửa cảnh như chia
tấm lòng. Bức tranh thiên nhiên không khách quan, mà có
15


hồn, đó chính là bức tranh tâm cảnh của Kiều những ngày cô
đơn ở lầu Ngưng Bích.
Trong tâm trạng cô đơn, buồn tủi nơi đất khách quê người,
Kiều tìm về với những người thân của mình. Nỗi nhớ người
yêu, nhớ cha mẹ được Nguvễn Du miêu tả rất xúc động trong
những lời độc thoại nội tâm của nhân vật. Nỗi nhớ thương
được chia đều: bốn câu đầu dành cho người yêu, bốn câu sau
dành cho cha mẹ. Nhưng nỗi nhớ với chàng Kim được nói đến
trước vì đây là nồi nhớ nồng nàn và sâu thẳm nhất. Nồi nhớ
đó được xoáy sâu và đêm thề nguyền dưới ánh trăng và nỗi
đau cũng trào lên từ đó:
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng.
Tin sương luống những rày trông mai chờ.
Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm thân gột rửa bao giờ cho phai.
Lời thơ như chứa đựng nhịp thổn thức của một trái tim yêu
đương đang chảy máu! Nỗi nhớ của Kiều thật tha thiết, mãnh
liệt! Kiều tưởng tượng ra cảnh chàng Kim đang ngày đêm chờ
mong tin mình một cách đau khổ và tuyệt vọng. Mới ngày nào
nàng cùng với chàng Kim nặng lời ước hẹn trăm năm mà
bỗng dưng, nay trở thành kẻ phụ bạc, lỗi hẹn với chàng. Chén
rượu thề nguyền vẫn còn chưa ráo, vầng trăng vằng vặc giữa

trời chứng giám lời thề nguyền vẫn còn kia, vậy mà bây giờ
mỗi người mỗi ngả. Rồi bất chợt Kiều liên tưởng đên thân
phận Bên trời góc bể bơ vơ của mình và tự dằn vặt: Tấm son
gột rửa bao giờ cho phai. Kiều nuối tiếc mối tình đầu trong
trắng của mình, nàng thấm thía tình cảnh cô đơn của mình, và
cũng hơn ai hết, nàng hiểu rằng sẽ không bao giờ có thể gột
rửa được tấm lòng son sắt, thủy chung của mình với chàng
Kim. Và thực sự, bóng chàng Kim cũng sẽ không bao giờ phai
nhạt trong tâm trí Kiều trong suốt mười lăm năm lưu lạc.
Nhớ người yêu, Kiều càng xót xa nghĩ đến cha mẹ. Mặc dầu
nàng đã liều đem tấc có, quyết đền ba xuân, cứu được cha và
em thoát khỏi vòng tù tội, nhưng nghĩ về cha mẹ, bao trùm
trong nàng là một nỗi xót xa lo lắng. Kiều đau lòng khi nghĩ
đến cảnh cha mẹ già tựa cửa trông con. Nàng lo lắng không
16


biết khi thời tiết thay đổi ai là người chăm sóc cha mẹ. Nguyễn
Du đã rất thành công khi sử dụng thành ngữ, điển cố (tựa cửa
hôm mai, quạt nồng ấp lạnh, gốc tử) để thể hiện tình cảm nhớ
nhung sâu nặng cũng như những băn khoăn, trăn trở của Kiều
khi nghĩ đến cha mẹ, nghĩ đến bổn phận làm con của mình.
Trong hoàn cảnh của Kiều, những suy nghĩ, tâm trạng đó càng
chứng tỏ Kiều là một người con rất mực hiếu thảo.
Nhớ người yêu, nhớ cha mẹ, nhưng rồi cuổì cùng nàng Kiều
lại quay về với cảnh ngộ của mình, sống với tâm trạng và thân
phận hiện tại của chính mình. Mỗi cảnh vật qua con mắt, cái
nhìn của Kiều lại gợi lên trong tâm trí nàng một nét buồn. Và
nàng Kiều mỗi lúc lại càng chìm sâu vào nỗi buồn của mình.
Nỗi buồn sâu sắc của Kiều được ngòi bút bậc thầy Nguyễn Du

mỗi lúc càng tô đậm thêm bằng cách dùng điệp ngữ liên hoàn
rất độc đáo trong tám câu thơ tả cảnh ngụ tình:
Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
Nguyễn Du quan niệm: Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu… Mỗi
cảnh vật hiện ra qua con mắt của Kiều ở lầu Ngưng Bích đều
nhuốm nỗi buồn sâu sắc. Mỗi cặp câu gợi ra một nỗi buồn.
Buồn trông là buồn mà nhìn ra xa, nhưng cũng là buồn mà
trông ngóng một cái gì đó mơ hồ sẽ đến làm đổi thay tình
trạng hiện tại. Hình như Kiều mong cánh buồm, nhưng cánh
buồm chỉ thấp thoáng,xa xa không rõ, như một ước vọng mơ
hồ, mỗi lúc mỗi xa. Kiều lại trông ngọn nước mới từ cửa sông
chảy ra biển, ngọn sóng xô đẩy cánh hoa phiêu bạt, không biết
về đâu như thân phận của mình. Rồi màu xanh xanh bất tận
của nội cỏ rầu rầu càng khiến cho nỗi buồn thêm mênh mang
trong không gian; để rồi cuối cùng, nỗi buồn đó bỗng dội lên
thành một nỗi kinh hoàng khi ầm ầm tiếng sóng kêu quanh
ghế ngồi. Đây là một hình ảnh vừa thực, vừa ảo, cảm thấy như
17


sóng vỗ dưới chân, đầy hiểm họa, như muốn nhấn chìm Kiều
xuống vực.
Tám câu thơ tuyệt bút với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình kết hợp

với nghệ thuật điệp ngữ liên hoàn đầu mỗi câu lục và nghệ
thuật ước lệ tượng trưng cùng với việc sử dụng nhiều từ láy
tượng hình, tượng thanh (thấp thoáng, xa xa, man mác, rầu
rầu, ầm ầm) đã khắc họa rõ cảm giác u uất, nặng nề, bế tắc,
buồn lo về thân phận của Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích.
Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích là một bức tranh thiên nhiên
đồng thời cũng là một bức tranh tâm trạng có bố cục chặt chẽ
và khéo léo. Thiên nhiên ở đây liên tục thay đổi theo diễn biến
tâm trạng của con người. Mỗi nét tưởng tượng của Nguyễn Du
đều phản ánh một mức độ khác nhau trong sự đau đớn của
Kiều. Qua đó, cho thấy Nguyễn Du đã thực sự hiểu nỗi lòng
nhân vật trong cảnh đời bất hạnh để ca ngợi tấm lòng cao đẹp
của nhân vật, để giúp ta hiểu thêm tâm hồn của những người
phụ nữ tài sắc mà bạc mệnh

18



×