Tải bản đầy đủ (.doc) (41 trang)

đề tài thạc sỹ Lúa lai F1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (280.02 KB, 41 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
----------š&›----------

HÀ VĂN TUYỂN

“ Nghiên cứu một số biện pháp kỹ thuật sản suất hạt lai F1 cho giống lúa
lai BGN18 và Việt Lai 50 tại huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang”
Chuyên ngành : Trồng trọt
Mã số

: 606201
ĐỀ CƯƠNG

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP

Người hướng dẫn khoa học:
TS. ĐẶNG QUÝ NHÂN

Thái Nguyên 6 -2012

1


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết
Lúa (Oryza sativa L.) là một trong những cây trồng cung cấp nguồn
lương thực quan trọng nhất của loài người, với 40% dân số thế giới sử dụng
lúa gạo làm thức ăn chính và có ảnh hưởng đến đời sống của ít nhất 65% dân số
thế giới. Theo dự báo của FAO (Food and Agricuture Organization), thế giới


đang nguy cơ thiếu hụt lương thực do dân số tăng nhanh (khoảng hơn chín
tỷ người năm 2050), sức mua lương thực, thực phẩm tại nhiều nước tăng,
biến đổi khí hậu toàn cầu gây hiểm họa khô hạn, bão lụt, quá trình đô thị hoá
làm giảm đất lúa, nhiều nước phải dành đất, nước để trồng cây nhiên liệu
sinh học vì sự khan hiếm nguồn nhiên liệu rất cần thiết cho nhu cầu đời sống
và công nghiệp phát triển. Chính vì vậy, an ninh lương thực là vấn đề cấp
thiết hàng đầu của thế giới ở hiện tại và trong tương lai.
Lúa ưu thế lai hay gọi tắt là lúa lai là một khám phá lớn để nâng cao
năng suất, sản lượng và hiệu quả canh tác lúa. Nhiều nước đang tập trung
nghiên cứu về vấn đề này. Lúa lai đã được nghiên cứu và phát triển rất
thành công ở Trung Quốc và diện tích gieo trồng lúa lai của nước này đã lên
đến 18 triệu ha, chiếm khoảng 50,0 % diện tích trồng lúa của Trung Quốc.
Lúa lai cũng đã và đang được mở rộng ở các nước trồng lúa châu Á khác
như Việt Nam, Ấn Độ, Myanmar, Philippines, Bangladesh [45], trong đó
diện tích lúa lai của Việt Nam khoảng 720 nghìn ha. Việc sử dụng lúa lai đã
góp phần nâng cao năng suất và sản lượng lúa, đảm bảo an toàn lương thực,
tăng thu nhập và tạo thêm việc làm cho nông dân thông qua việc sản xuất lúa
lai.
Ở Việt Nam lúa là cây trồng chính, cung cấp lương thực và là ngành
sản xuất truyền thống trong nông nghiệp. Mục tiêu sản xuất lúa của Việt
Nam đến năm 2015 là duy trì diện tích trồng lúa ở mức 7.030 ngàn ha và sản
lượng dự tính đạt 39.869.000 tấn [2].

2


Hiện nay, Việt Nam đang cần nhu cầu sản lượng hạt lai F1 hàng năm
là 17.482 tấn hạt lai F1 để phục vụ gieo cấy cho toàn bộ diện tích là 650
ngàn ha diện tích lúa lai ở miền Bắc (số liệu báo cáo của Cục trồng trọt năm
2012, tại Hội thảo Quốc tế : Chiến lược nghiên cứu phát triển lúa lai ứng phó

với biến đổi khí hậu toàn cầu). Trong đó Việt Nam đang tự túc sản xuất
được 21,33% sản lượng hạt lai F1 trên, do đó Việt Nam hàng năm cần nhập
13.753 tấn/năm từ nước ngoài.
Việt Nam đã xây dựng được vùng sản xuất hạt lai tại Quảng Nam
nhưng tính ổn định và tỷ lệ rủ ro trong sản xuất hạt lúa lai hai dòng là rất
cao. Do đó các nhà sản xuất đang định hướng tìm vùng sản xuất mới an
toàn.
Các vùng sản xuất ngoài phía Bắc như Thanh Hóa, Hải Phòng, Lào
Cai tổ chức sản xuất trong vụ mùa thường hay bị mưa nhất là Thanh Hóa
thường hay bị mưa giai đoạn tung phấn và có hiện tượng bị ngập khi bão về.
Qua khảo sát điều kiện tự nhiên Viện Nghiên cứu lúa thấy vùng đất
phía tây của huyện Tân Yên, có điều kiện tốt để sản xuất hạt giống lúa lai
hai dòng, vì vậy tổ chức sản xuất hạt lai F1 tại vùng này có độ an toàn rất
cao và có thể mở rộng quy mô thành vùng sản xuất giống tập trung lớn. Kết
quả nghiên cứu 2 năm ở Phú Bình giáp Tân Yên và nhiều năm nghiên cứu
sản xuất hạt lai F1 ở huyện Tân Yên đều cho thấy một đặc điểm: Khi nở hoa
tung phấn gặp thời tiết thuận lợi, điều tiết trùng khớp bố mẹ dễ dàng hơn so
với các vùng khác, điều kiện nước tới theo con kênh từ hồ Ba bể chảy dọc.
Một đặc điểm đặc biệt là vùng sản xuất ở huyện Tân Yên là sử dụng
phương pháp mạ khay ném do đó đã đạt năng suất cao gần bằng năng suất
hạt lai tại Trung Quốc đạt từ 2,7 đến 3,5 tấn/ha.
Xuất phát từ những nghiên cứu và thử nghiệm trên chúng tôi thấy đây
là vùng sản xuất thuận lợi, an toàn của sản xuất hạt giống lúa lai hai dòng tại
huyện Tân Yên, Bắc Giang.
Từ những thực tiễn cấp bách cần quy hoạch, xây dựng vùng sản xuất cũng
như nghiên cứu và hoàn thiện quy trình kỹ thuật canh tác để có những thông
3


số kỹ thuật hoàn thiện khi tổ chức sản xuất hạt lai F1 ở quy mô lớn. Xuất

phát từ những vấn đề nêu trên, chúng tôi tiến hành đề tài:
“Nghiên cứu một số biện pháp kỹ thuật sản xuất hạt lai F1 cho giống lúa
lai BGN18 và Việt Lai 50 tại huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang”.
1.2 Mục tiêu của đề tài
Xác định thời vụ thích hợp và phương pháp cấy dòng bố, dòng mẹ cho
các giống lúa lai hai dòng, ba dòng mới chọn tạo trong điều kiện sinh thái
huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang nhằm nâng cao năng suất hạt lai và tăng
hiệu quả kinh tế cho công nghệ sản xuất hạt giống lúa lai F1.
1.3 Yêu cầu của đề tài:
Xây dựng được các thông số kỹ thuật về thời vụ, kỹ thuật bố trí dòng
bố mẹ cho sản xuất hạt lai F1 của hệ lúa ba dòng và hai dòng.
Xác định được các biện pháp kỹ thuật gieo cấy dòng bố mẹ để nâng
cao được năng suất hạt lai F1 lên cao.
Xác định được thời vụ gieo trước khi sản xuất hệ hai và ba dòng.
1.4 Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài
1.4.1 Ý nghĩa khoa học
- Đối với học tập:
Giúp các học viên củng cố kiến thức, có điều kiện tiếp cận với phương
pháp nghiên cứu khoa học và áp dụng được những kiến thức lý thuyết đã
học vào trong thực tiễn sản xuất.
- Đối với nghiên cứu khoa học:
Kết quả nghiên cứu của đề tài là cơ sở cho việc bố trí khung thời vụ cho
thích hợp và điều chỉnh tỷ lệ hàng bố mẹ trong sản suất hạt F1 hai dòng, ba
dòng tại huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang.
Đóng góp một phần cơ sở lý luận để hoàn thiện quy trình sản xuất hạt lúa lai
F1 hai dòng, ba dòng tại huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang.
1.4.2 Ý nghĩa thực tiễn
4



Đề tài thành công sẽ góp phần mở rộng diện tích tăng năng suất hạt lai F1,
đồng thời giúp các cơ sở nghiên cứu lúa lai F1 hai dòng, ba dòng huyện Tân
Yên, tỉnh Bắc Giang. Hoàn thiện quy trình nghiên cứu sản suất hạt lúa lai F1
phục vụ chương trình sản suất hạt lúa lai F1 giai đoạn 2010-2015, tạo cơ sở
cho khoa học cho việc chuyển dich cơ cấu cây trồng trên địa bàn huyện.

5


CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1 Khái niệm lúa lai
Lúa lai (Hybrid rice ) là danh từ gọi tắt của lúa ưu thế lai. Lúa ưu thế
lai là các giống lúa ứng dụng hiệu ứng ưu thế lai đời F1. Lúa lai khác lúa
thường ở chỗ hạt giống lúa lai chỉ sử dụng một lần khi hiệu ứng ưu thế lai
thể hiện mạnh nhất.
1.1 Lúa lai 3 dòng
1.1.1. Khái niệm
Lúa lai hệ ba dòng sử dụng ba dòng vật liệu có bản chất di truyền
khác biệt nhau làm bố mẹ để tạo ra con lai; dòng bất dục đực tế bào chất
(Cytoplasmic Male Sterile – CMS) gọi là dòng A dùng làm mẹ để lai; dòng
duy trì bất dục (Maintainer) dòng B dùng làm dòng bố để giữ cho dòng A
bảo toàn được tính bất dục; dòng phục hồi tính hữu dục (Restorer) gọi tắt là
dòng phục hồi – dòng R dùng làm bố để sản xuất hạt lai F1.
* Dòng A (dòng mẹ bất dục đực): Đây là dòng có bao phấn không
bình thường, không có hạt phấn, hoặc hạt phấn bất dục, không tạo hạt quả tự
thụ nhưng nhụy bình thường nên có khả năng tạo hạt khi thụ tinh bằng hạt
phấn của cây bình thường khác.
* Dòng duy trì bất dục đực B: Đây là dòng cho phấn cho CMS line
đến thế hệ con lai vẫn giữ được tính bất dục của CMS line.

* Dòng bố phục hồi tính bất dục R: Giống cho phấn CMS line để tạo
ra F1 mà F1 là giống hữu thụ có thể tạo hạt nhờ tự thụ.
1.1.2 Những thành công và hạn chế của lúa lai 3 dòng
a) Những thành công của phương pháp “ba dòng”
Thành công cơ bản của phương pháp ba dòng là đã khai thác và sử
dụng có hiệu quả tính bất dục đực di truyền tế bào chất ở lúa. Bằng lai lại
liên tục đã cải tiến nhanh chóng các dạng lúa dại, lúa nửa dại thành lúa
6


trồng. Sử dụng tính đa dạng di truyền trong các tổ hợp lai nên đã tạo ra nhiều
tổ hợp có năng suất siêu cao trên 100kg hạt/ha/ngày như tổ hợp 10120ª/H0i
73-28 đạt năng suất 15,65 tấn/ha/vụ ở tỉnh Kiên Giang và phẩm chất khá tốt.
Lúa lai có khả năng thích ứng rộng và chịu thâm canh, chống chịu sâu bệnh
khá, đặc biệt có thời gian sinh trưởng ngắn rất phù hợp với điều kiện tăng vụ
trong cơ cấu gieo trồng. Cho đến nay lúa lai ba dòng đã được sử dụng rộng
rãi ở nhiều nước trên thế giới.
b) Hạn chế của phương pháp “ba dòng”
Những tính trạng kinh tế do các gen lặn điều khiển cho nên ở con lai
F1 không thể khai thác được tiềm năng này.
Việc tạo dòng CMS mới gặp nhiều khó khăn vì chỉ có khoảng 0,1%
các giống lúa thường có khả năng duy trì tốt đối với kiểu bất dục WA. Các
dòng CMS tạo ra từ các nguồn tế bào chất khác kiểu WA thường không ổn
định nên khó sử dụng.
Số lượng các dòng CMS tìm ra khá nhiều nhưng số dòng được sử
dụng còn ít, có tới 95% số dòng CMS đang dùng thuộc kiểu WA. Hiện
tượng tương đồng tế bào chất như vậy sẽ dẫn đến nguy cơ bị hại nghiêm
trọng nếu như xuất hiện một loại bệnh có liên kết với gen gây bất dục đực.
Phổ phục hồi của những dòng CMS kiểu WA hẹp. Có rất ít dòng bố
lai thử có khả năng phục hồi tốt đối với những dòng CMS kiểu WA. Do vậy

khả năng tìm thấy các dòng phục hồi tốt cho lúa lai ba dòng cũng bị giới
hạn.
Các tổ hợp lai ba dòng trong loài phụ Japonica còn ít, năng suất trên
diện rộng chỉ cao hơn giống thuần Japonica 5 -10% nên không hấp dẫn. Mặt
khác kiểu bất dục “BT” là chủ yếu của loài phụ Japonica lại khôn ổn định
bằng kiểu “WA” của loài phụ Indica, do đó hạt lai không thuần làm hạn chế
năng suất của F1 ở các tổ hợp này.
Quy trình duy trì dòng CMS và sản xuất hạt lai F1 rất khắt khe, cồng
kềnh và tốn kém, phải trải qua hai lần lai mới có được hạt lai F1 mà mỗi lần
lai đều có thể gặp điều kiện thời tiết bất thuận gây tốn kém lao động, vật tư
7


mà năng suất lại thấp làm cho giá thành hạt giống cao và kế hoạch sản xuất
luôn bị thay đổi.
1.2 Hệ thống lúa lai 2 dòng
1.2.1 Khái niệm
Các nhà khoa học đã sử dụng đường hướng mới để thay thế hệ CMS
và nâng cao năng suất lúa lai bằng cách chọn tạo giống lúa lai 2 dòng.
Phương pháp dựa trên hai loại mới của công cụ di truyền Photosensitive
(PGMS) và Themosensitive genic male sterile (TGMS) và đã thành công. Sự
bất dục đực chủ yếu điều khiển bởi một hoặc hai gen lặn trong nhân không
có liên quan tới tế bào chất.
Các dòng PGMS trong điều kiện ngày dài hơn và các dòng TGMS
trong điều kiện nhiệt độ cao hơn cho bất dục hoàn toàn do vậy có thể sử
dụng cho sản xuất hạt lai. Điều kiện ngày ngắn hoặc điều kiện ôn hòa chúng
có sự hữu thụ bình thường và có thể nhân giống bằng tự thụ.
Dr. Yuan đề nghị một chiến lược mới cho chọn tạo giống lúa lai
không bao gồm dòng B (dòng duy trì) gọi là lúa lai hai dòng (A và R). Bất
cứ dòng hữu thụ nào có thể sử dụng như dòng bố để tạo nên giống lai

Enivronment sensitive genic sterile (EGMS) line được chia làm hai nhóm:
Photothermosensitive genic male sterile (PGMS) và Themosensitive genic
male sterile (TGMS) phụ thuộc vào điều kiện môi trường bên ngoài mà sự
hữu thụ xảy ra.
1.2.2. Ưu diểm và hạn chế của lúa lai 2 dòng
a) Ưu điểm của lúa lai 2 dòng
Theo Nguyễn Văn Hoan (2000), việc ứng dụng các dòng EGMS để phát
triển lúa lai so với ứng dụng dòng CMS kinh điển có các ưu thế hơn hẳn sau:
- Quá trình phát triển hạt lai được đơn giản hoá, không phải tổ chức
một lần lai để duy trì dòng bất dục như hệ “ba dòng” vì không cần dòng B.
- Do tính bất dục đực được kiểm soát bởi gen lặn nên hầu hết các giống
lúa thuờng đều phục hồi phấn được cho các dòng EGMS. Vì vậy việc chọn
8


dòng phục hồi sẽ dễ dàng hơn, phổ cập hơn, có thể mở rộng ra ngoài phạm
vi của một loài phụ và khả năng tạo ra các tổ hợp năng suất cao hơn được
tăng lên đáng kể.
- Kiểu gen của EGMS dễ dàng được chuyển sang giống khác, để tạo ra
các dòng bất dục mới với nguồn di truyền khác nhau, tránh nguy cơ đồng tế
bào chất và thu hẹp phổ di truyền.
- Tính bất dục của dòng EGMS không liên quan đến tế bào chất vì thế
các ảnh huởng của kiểu bất dục dạng dại “WA” (Wild Abortion) đã được
khắc phục, khả năng kết hợp giữa năng suất cao và chất lượng tốt được mở
rộng và hiện thực hơn.
b) Hạn chế của lúa lai 2 dòng
Sản xuất hạt lai vẫn phải tiến hành hàng vụ và phải đảm bảo cách ly
nghiêm ngặt như sản xuất hạt lai ba dòng. Quá trình sản xuất tiêu tốn nhiều
lao động thủ công nặng nhọc và thường xuyên chịu rủi ro vì điều kiện thời
tiết thay đổi ngoài dự định.

Độ thuần của hạt lai giảm nếu trong quá trình sản xuất gặp những biến
đổi bất thường của nhiệt độ làm cho dòng mẹ có thể tự thụ dẫn đến lô hạt lai
có lẫn hạt tự thụ, giảm tiềm năng ưu thế lai.
Gen kiểm soát các tính trạng qui định về kinh tế chủ yếu là gen lặn
nên ít thể hiện ở con lai F1 [20].
Ngoài hai hệ lúa lai nêu trên, các nhà khoa học đang từng bước nghiên
cứu để phát triển hệ lúa lai một dòng: lúa lai một dòng thực chất là vấn đề
duy trì UTL của một tổ hợp lai nào đó được xác định là có UTL cao về mọi
tính trạng mong muốn, cở sở để sản xuất hạt lai một dòng là sản xuất hạt lai
thuần (Truebred - Hybrid - Rice) nhờ sử dụng thể vô phối (Apomixis). Đây
sẽ là một thành tựu mới có ý nghĩa lớn lao trong công nghệ sản xuất lúa lai
trong tương lai.
2 Tình hình sản xuất và tiêu thụ lúa gạo trên thế giới và Việt Nam
2.1. Tình hình sản xuất lúa gạo trên thế giới
9


Cây lúa có nguồn gốc nhiệt đới, dễ trồng, cho năng suất cao. Vùng
trồng lúa tương đối rộng, có thể trồng lúa ở các vùng có vĩ độ cao như Hắc
Long Giang (Trung Quốc) 53o B, Nhật, Italia, Nga 45oB đến Nam bán cầu
New South Wales (Úc) 35oN. Vùng phân bố chủ yếu ở Châu Á từ 30o B đến
10o N [11].
Hiện nay trên thế giới có khoảng trên 100 quốc gia trồng và sản xuất
lúa gạo, trong đó tập trung nhiều ở các nước Châu Á, 85 % sản lượng lúa
trên thế giới phụ thuộc vào 8 nước ở Châu Á: Thái Lan, Việt Nam, Trung
Quốc, Ấn Độ, Indonesia, Bangladesh, Myanmar và Nhật Bản [10].
Theo dự báo của Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA), tổng sản lượng gạo thế
giới năm 2008/2009 sẽ đạt 434,59 triệu tấn, điều chỉnh tăng 310 ngàn tấn so
với dự báo hồi tháng 11/2008 và tăng 3,45 triệu tấn (0,8%) so với sản lượng
431,14 triệu tấn của năm 2007/2008. Tổng diện tích thu hoạch dự báo sẽ đạt

155,62 triệu ha, tăng nhẹ so với 154,34 triệu ha của năm 2007/2008 với năng
suất bình quân đạt 4,16 tấn thóc/ha so với 3,17 tấn thóc/ha của năm
2007/2008 [3].
Trong niên vụ 2008/2009, hầu hết các nhà xuất khẩu gạo lớn trên thế
giới đều dự kiến tăng sản lượng so với niên vụ trước. Các nước xuất khẩu
tầm trung như Argentina, Uruguay và Campuchia cũng dự kiến tăng sản
lượng trong niên vụ này. Hầu hết các nhà nhập khẩu gạo lớn trên thế giới có
ý định tăng sản lượng lên mức kỷ lục như Nam sa mạc Sahara, Philippines,
Bangladesh, Indonesia và Malaysia. Riêng Iran và Iraq có thể giảm mạnh
sản lượng do hạn hán.
Tổng mức tiêu dùng gạo toàn cầu năm 2008/2009 dự báo đạt 432,33
triệu tấn, tăng so với 427,92 triệu tấn của năm 2007/2008. Ấn Độ và
Philippines sẽ giảm lượng tiêu dùng gạo nội địa.
Dự trữ gạo trên thế giới cuối niên vụ 2008/2009 dự báo đạt 80,85 triệu
tấn, tăng so với 78,59 triệu tấn của cuối niên vụ 2007/2008. Tỷ lệ dự trữ/tiêu
dùng khoảng 19,5%, tăng 18,4% so với năm 2007/2008, và đạt mức cao nhất
kể từ niên vụ 2003/2004. Ấn Độ và Thái Lan là hai nước tăng chủ yếu lượng
10


gạo dự trữ của mình [3].
Tình hình cung về lúa gạo thế giới năm 2009 sẽ tăng do nhiều yếu tố.
Thứ nhất, nguồn dự trữ lúa gạo tăng lên do chính sách dự trữ ở một số nước
như Thái Lan, Trung Quốc, v.v… Thứ hai, nhiều nước tăng đầu tư vào sản
xuất lương thực, nhất là lúa gạo. Tổng Giám đốc Vụ thương mại Bộ Thương
mại Thái Lan, Apiradi Tantraporn, dự báo xuất khẩu của Thái Lan trong
năm tới chỉ ở mức khoảng 8,5 - 9,5 triệu tấn, giảm so với mức ước tính xuất
khẩu 10 triệu tấn gạo đã được đưa ra trước đây.
Thương mại gạo toàn cầu năm 2009 dự kiến đạt 29,5 triệu tấn (gạo
trắng), giảm 1% so với năm 2008 và giảm 7% so với mức kỷ lục năm 2007.

Giá cao và ảnh hưởng từ chính sách hạn chế, cấm xuất khẩu là nguyên nhân
cơ bản làm giảm thương mại gạo toàn cầu giảm từ năm 2007 tới nay [16].
Với tốc độ tăng dân số như hiện nay thì cần phải nâng cao hơn nữa
năng suất, sản lượng cũng như chất lượng mới đảm bảo được vấn đề an ninh
lương thực của toàn xã hội. Theo dự đoán của FAO thì trong vòng 30 năm
tới, tổng sản lượng lúa trên toàn thế giới phải tăng được 56% mới đảm bảo
được nhu cầu lương thực cho mọi người dân.
2.2 Tình hình sản xuất lúa gạo trong nước
Với điều kiện khí hậu nhiệt đới, Việt Nam cũng có thể là cái nôi hình
thành cây lúa nước. Đã từ lâu, cây lúa đã trở thành cây lương thực chính ở
Việt Nam, đất nước có bề dày về nền văn minh lúa nước. Tình hình sản xuất
lúa gạo đã ảnh hưởng không nhỏ tới thu nhập và đời sống của hàng chục
triệu người dân Việt Nam, cũng như ảnh hưởng tới sự ổn định chính trị - xã
hội mà còn tạo ra những giá trị văn hóa, tinh thần. Xây dựng vùng lúa có
phẩm chất gạo cao phục vụ cho tiêu dùng và xuất khẩu là chiến lược lâu dài.
Trong những năm qua thực hiện đường lối đổi mới, Đảng, Nhà nước
và Chính phủ có nhiều chính sách về công tác giống, xây dựng cơ sở hạ
tầng, nâng cấp các công trình thủy lợi do vậy đã tạo điều kiện thuận lợi cho
phát triển lúa gạo của các nước.
Việt Nam từ chỗ thiếu lương thực, hiện nay đã vươn lên vị trí thứ hai
11


trên thế giới về xuất khẩu lúa gạo. Gạo xuất khẩu của Việt Nam mỗi năm
một tăng cả về số lượng, chất lượng và giá cả. Theo số liệu Thống kê của
Hải Quan Việt Nam. Tính đến hết tháng 6/2010 lượng gạo xuất khẩu nước ta
đạt 3,46 triệu tấn [52].
2.3. Đặc điểm sinh lý cây lúa
2.3.1. Đặc điểm của hệ rễ lúa lai
Rễ lúa lai phát triển sớm và mạnh. Kết quả quan sát cho thấy khi bắt

đầu nẩy mầm, rễ mầm và thân mầm cùng xuất hiện, khi lá thứ nhất xuất hiện
thì có 3 rễ mới hình thành, khi lá thứ hai xuất hiện thì 7 rễ hình thành, sau đó
số lượng rễ tăng lên rất nhanh, các rễ có đường kính to hơn dòng bố mẹ, sự
phân nhánh nhiều hơn, rễ ăn sâu và toả rộng ra xung quanh, tạo ra một lớp
rễ đan dày ở tầng sát mặt đất. Lông hút của rễ lúa lai nhiều và dài (0,1-0,25
mm) hơn hẳn lúa thường (0,01-0,013 mm). Vì số lượng nhiều nên diện tiếp
xúc lớn, làm cho khả năng hấp thu tăng cao gấp 2-3 lần lúa thường. Khi gặp
điều kiện thiếu nước rễ lúa lai ăn sâu hơn lúa thường nên khả năng chịu hạn
tốt hơn. Đường kính rễ lớn giúp cho quá trình vận chuyển nước và dinh
dưỡng thuận tiện. Rễ lúa lai phát triển mạnh trong suốt quá trình sống của
cây, vì vậy lúa lai có khả năng thích nghi tốt với nhiều loại đất, tận dụng
được phân bón trong đất, cây lúa khoẻ mạnh suốt quá trình sống, ít bị đổ,
sau khi thu hoạch, gốc rạ có khả năng tái sinh mạnh do bộ rễ lâu già hoặc có
khả năng hình thành rễ mới liên tục. Chính vì bộ rễ khoẻ nên lúa lai có khả
năng thích ứng rộng, sử dụng tiết kiệm phân bón, cây cứng, ít đổ.
Rễ lúa lai có khả năng thích ứng cao, tận dụng được phân bón trong
đất, chống đổ tốt vì vậy trong các biện pháp kỹ thuật cần tập trung bón
lượng kali và lân cao để phát huy tiềm năng hút dinh dưỡng của bộ rễ lúa lai.
2.3.2. Đặc điểm đẻ nhánh của lúa lai
Đẻ nhánh là một đặc tính sinh học của cây lúa, liên quan chặt chẽ đến
quá trình hình thành số bông và năng suất cây lúa.
Quá trình đẻ nhánh của lúa lai tuân theo qui luật đẻ nhánh chung của
cây lúa là khi quan sát thấy lá thứ 4 xuất hiện thì đồng thời nhánh đầu tiên
12


vươn ra từ bẹ lá thứ nhất. Các nhánh sau tiếp tục xuất hiện đúng theo qui
luật là khi lá thứ 5 xuất hiện thì nhánh con thứ hai xuất hiện, lá thứ 6 xuất
hiện thì nhánh con thứ ba xuất hiện đồng thời với nhánh cháu thứ nhất. Khi
có 7 lá thì nhánh mẹ đẻ nhánh con thứ 4, nhánh con 1 đẻ nhánh cháu 2,

nhánh con 2 đẻ nhánh cháu 1, lúc đó khóm lúa đã có 8 nhánh (nếu cấy 1
dảnh), nếu cấy 2 dảnh khởi đầu thì khóm lúa đạt được 15-16 dảnh. Khi đó có
thể tiến hành kìm hãm đẻ nhánh để tập trung dinh dưỡng nuôi các nhánh đẻ
sớm. Từ kết quả phân tích này cho thấy lúa lai không cần cấy dầy, cấy nhiều
dảnh như lúa thường. So với lúa thường, lúa lai có khả năng đẻ nhánh đều
hơn ở thời kỳ đầu nhờ quá trình cung cấp dinh dưỡng tốt của bộ rễ. Các
nhánh đẻ sớm thường to mập, có số lá nhiều hơn các nhánh đẻ sau, nên bông
lúa to đều nhau xấp xỉ như bông chính. Lúa lai có tỷ lệ nhánh thành bông
cao hơn hẳn lúa thường. Kết quả nghiên cứu của Trung Quốc cho thấy tỷ lệ
thành bông của lúa lai đạt khoảng 80-90% trong khi lúa thường chỉ đạt
khoảng 60-70% trong cùng điều kiện thí nghiệm.
Lúa lai có khả năng hồi xanh nhanh, đẻ nhánh sớm, đẻ nhánh khỏe và
có số bông hữu hiệu cao do đó hệ số sử dụng phân bón rất cao. Vì vậy trong
kỹ thuật sản xuất lúa lai thương phẩm cần chăm sóc hợp lí để đảm bảo số
nhánh hữu hiệu, số lá và số bông, tránh bón phân nhiều, bón muộn làm cho
lúa đẻ nhánh lai rai thường làm tăng tỷ lệ nhánh vô hiệu, ảnh hưởng đến tiêu
hao dinh dưỡng cũng như tăng cường sự phá hoại của sâu bệnh.
2.3.3. Đặc điểm bộ lá của lúa lai
Lá lúa là cơ quan quan trọng nhất trong suốt đời sống cây lúa. Nó làm
nhiệm vụ quang hợp, tích luỹ chất khô, hô hấp... Độ dày mỏng của lá có liên
quan gián tiếp đến hiệu suất quang hợp. Bộ lá cứng dày và tương đối hẹp tạo
điều kiện cho việc nâng cao mật độ gieo cấy, đồng thời ánh sáng mặt trời
vẫn có thể chiếu sâu tới tầng lá gốc, kích thích quá trình đẻ nhánh, hạn chế
sâu bệnh làm tăng diện tích quang hợp tạo ra nhiều chất khô [28]. Số lá trên
cây, trước hết phụ thuộc vào giống và khi tăng thêm một lá thì thời gian trổ
muộn hơn 5 ngày [6].
Cây lúa ở mỗi thời kỳ khác nhau thì lá lúa cũng có chức năng khác
13



nhau. Theo T. Sunda [26], từ lá thứ 8 trở lên lá đòng tích luỹ dinh dưỡng vận
chuyển tới bông hạt, từ lá thứ 8 trở xuống tích luỹ dinh dưỡng về thân rễ.
Sau khi trổ lá đòng giữ vai trò quan trọng nhất. Lá đòng và lá giáp nó cung
cấp 2/3 chất dinh dưỡng cho bông.
Lá của giai đoạn nào thường quyết định sinh trưởng của cây trong thời
kỳ đó 3 lá trên cùng đóng góp 74% tổng lượng vật chất chuyển vào hạt, thời
gian hoạt động của các lá này càng dài thì năng suất lúa càng cao [28].
Theo Đào Thế Tuấn (1981), một giống lúa có năng suất cao cần có đủ
2 điều kiện:
+ Phải có diện tích lá cao trước trổ để tạo ra một "nguồn" lớn, vì vậy
lá lúa phải đứng thẳng và nhỏ.
+ Có hiệu suất quang hợp sau trỗ cao, có thể tạo ra bông lúa to, tức
là có sức chứa dinh dưỡng lớn.
Yosida (1981) cho rằng trong một cây mà phối hợp được các lá trên
thẳng, các lá dưới cong dần và dài hơn là bộ lá lý tưởng cho quang hợp của
cây lúa.. Các giống lá dày có hàm lượng diệp lục nhiều hơn làm cho cường
độ quang hợp cao hơn, tích luỹ mạnh hơn, độ bền của lá kéo dài hơn những
giống có lá mỏng.
Theo Yuan L.P (1979) và các nhà chọn giống Trung Quốc cho rằng
lá đòng dài, rộng vừa phải, bản lá lòng mo, dầy đứng, xanh đậm là lý tưởng
nhất.
Do bộ lá lúa lai phát triển mạnh nên hấp dẫn các loại côn trùng, thịt
lá dầy, mô lá xốp nên các loại nấm bệnh dễ dàng xâm nhập, phát triển, cần
nắm vững đặc điểm này trong suốt quá trình canh tác lúa lai để phòng trừ kịp
thời các loại sâu bệnh gây hại, từ đó đảm bảo năng suất thực thu cao.
2.3.4. Đặc điểm cấu tạo của bông lúa
Lúa lai có nhiều bông trên khóm, bông to, nhiều hạt và tỷ lệ hạt mẩy
cao. Do lúa lai đẻ sớm, đẻ khoẻ, các bông to đều, hạt nhiều và nặng, trên
bông có nhiều gié cấp 1 (13-15 gié), trên 1 gié cấp 1 có 3-7 gié cấp 2, mỗi
14



gié cấp 2 có từ 3-7 hạt, vì vậy khối lượng bông cao hơn lúa thường 1,5-2,5
lần, các giống lai hiện nay có khối lượng bông trung bình từ 4-7 gam. Đặc
biệt đốt giáp cổ bông có 3-4 gié cấp 1 nên nhìn bông lúa như một chùm hạt.
Tổng số hạt trên bông trung bình cao từ 150-250 hạt, tỷ lệ hạt chắc >90%
nếu như giai đoạn trỗ gặp điều kiện ngoại cảnh thuận lợi, và lượng dinh
dưỡng được cung cấp đầy đủ thì bông lúa càng nặng. Khi dinh dưỡng thiếu
hoặc không cân đối (thiếu kali chẳng hạn) thì hạt trên bông lúa lai chín
không đều. Nói chung lúa lai chỉ có loại hình bông to hoặc bông trung bình,
không có loại bông nhỏ. Vì vậy có thể gieo lúa lai với mật độ thấp hơn lúa
thường, tính toán sao cho trên 1 m 2 thu được 5-7 vạn hạt chắc, (320-360
bông/m2), thì năng suất đạt được 12-15 tấn/ha/vụ. Hạt lúa lai có vỏ trấu
mỏng, tỷ lệ gạo xay, gạo xát cao. Nếu các dòng bố mẹ tham gia lai có kích
thước hạt khác xa nhau thì hạt lai có thể có kích thước không đều, tỷ lệ hạt
bạc bụng cao khi xay xát dễ bị gẫy, làm cho tỷ lệ gạo nguyên thấp. Do vỏ
hạt lúa lai mỏng nên khi lúa chín nếu gặp mưa vài ngày liền có thể xảy ra
hiện tượng mọc mầm trên bông. Vì vậy cần tổ chức gặt sớm và phơi cẩn
thận để giảm hao hụt khi thu hoạch.
Đa số các giống lúa lai có số bông/khóm cao, số hạt/bông nhiều và tỷ
lệ hạt lép thấp. Để thỏa mãn các đặc điểm trên của giống nhằm đáp ứng mục
tiêu cuối cùng trong sản xuất là năng suất thực thu cao cần phải xác định
được mật độ cấy, độ lớn của bông, lượng phân bón… thích hợp.
2.4. Đặc điểm, yêu cầu dinh dưỡng chính của cây lúa
2.4.1. Yêu cầu dinh dưỡng đạm của cây lúa
Đạm là yếu tố rất quan trọng ảnh hưởng đến sinh trưởng và năng suất
cây lúa . Các giống lúa có thời gian sinh trưởng khác nhau thì khả năng sử
dụng phân đạm khác nhau . Trong các giống lúa thì lúa lai có khả năng hút
đạm mạnh hơn so với lúa thuần ở giai đoạn đầu của quá trình sinh trưởng do
ưu thế lai về bộ rễ và khả năng hút đạm [44]. Theo tính toán của các nhà

khoa học Trung Quốc vào thời kỳ đẻ rộ đến bắt đầu phân hoá đòng lúa lai
hấp thu 3.520 gam N/ha/ngày, chiếm 34,68% tổng lượng đạm hấp thu trong
suốt quá trình sinh trưởng. Giai đoạn từ bắt đầu đẻ nhánh đến đẻ rộ hấp thu
15


2.737 gam N/ha/ngày, chiếm 26,82%. Như vậy quá trình hấp thu đạm của
lúa lai rất tập trung, nên kỹ thuật bón phân cho lúa lai cần cải tiến so với lúa
thường, cụ thể là: tập trung mạnh ở thời kỳ đầu, phải bón lót nhiều và bón
thúc sớm hơn hẳn so với lúa thường (sau cấy 7-10 ngày phải bón xong lần
thứ nhất). Vào giai đoạn cuối của quá trình sinh trưởng sức hấp thu đạm của
lúa lai giảm hơn giai đoạn đầu, nên không cần cung cấp thêm nhiều đạm,
cây lúa có thể sử dụng lượng đạm dự trữ, khi trỗ xong có thể bón bổ sung ít
để nuôi hạt, giúp cho bộ lá lâu tàn, hạt sẽ mẩy, chất lượng gạo tốt hơn [7].
Ngoài ra, hiệu suất sử dụng đạm đối với quang hợp cũng như năng suất chất
khô và năng suất hạt của lúa lai cao hơn hẳn so với lúa thuần [40].
Theo Lock và Yohida, (1973) khi nghiên cứu ảnh hưởng của phân bón
tới năng suất và chất lượng hạt lúa đã kết luận. Năng suất của các giống lúa
tăng dần theo lượng đạm bón, nếu bón 100 - 150 kg N/ha có thể tăng năng
suất từ 10,34 lên 38,92 tạ/ha.
Viện Nông hóa - Thổ nhưỡng đã tiến hành nghiên cứu ảnh hưởng của
đất, mùa vụ và liều lượng phân đạm bón đến tỷ lệ đạm cây hút. Không phải
do bón nhiều đạm thì tỷ lệ đạm của cây lúa sử dụng nhiều. Ở mức đạm 80
kgN/ha, tỷ lệ sử dụng đạm là 46,6%, so với mức đạm này có sử dụng phân
chuồng tỷ lệ đạm hút được là 47,4%. Nếu tiếp tục tăng liều lượng đạm đến
160N và 240N có phân chuồng thì tỷ lệ sử dụng đạm của cây lúa cũng giảm
xuống. Trên đất bạc màu so với đất phù sa sông Hồng thì hiệu suất sử dụng
đạm của cây lúa thấp hơn. Khi bón liều lượng đạm từ 40N-120N thì hiệu
suất sử dụng phân giảm xuống, tuy lượng đạm tuyệt đối do lúa sử dụng vẫn
tăng lên [23]

Đạm có vai trò rất quan trọng đối với cây lúa. Khi bón thiếu hay thừa
đạm đều ảnh hưởng tới sinh trưởng và phát triển, năng suất và các yếu tố cấu
thành năng suất, khả năng chống chịu với điều kiện ngoại cảnh bất thuận. Vì
vậy cần bón phân đạm cân đối cho mỗi giống lúa, hợp lý cho từng thời kỳ
của lúa trong những điều kiện cụ thể (chất đất, điều kiện khí hậu, kỹ thuật
thâm canh, vốn đầu tư…) để mỗi giống lúa đó đặc biệt là lúa lai thể hiện
được hết tiềm năng năng suất của giống.
16


2.4.2. Yêu cầu dinh dưỡng lân của cây lúa
Lân có liên quan chặt chẽ đến sức sống của cây. Nếu không có lân
không có hoạt động sống . Tác dụng chủ yếu của lân được thể hiện trên một
số mặt sau:
- Xúc tiến sự phát triển của bộ rễ lúa, đặc biệt là rễ bên và lông hút.
- Làm tăng số nhánh và tốc độ đẻ nhánh lúa, sớm đạt số nhánh cực
đại, tạo thuận lợi cho việc tăng số nhánh hữu hiệu, dẫn đến làm tăng năng
suất lúa.
- Thúc đẩy việc ra hoa, hình thành quả, tăng nhanh quá trình trỗ, chín
của lúa và ảnh hưởng tích cực đến chất lượng hạt.
- Tăng khả năng chống chịu với các điều kiện bất thuận và sâu bệnh
hại.
- Thúc đẩy phân chia tế bào, tạo thành các hợp chất béo và protein.
- Ngoài ra, lân còn có mối quan hệ chặt chẽ với sự hình thành diệp
lục, protit và sự vận chuyển tinh bột.
Lân rất cần thiết với đời sống của cây. Thiếu lân làm giảm tốc độ hấp
thụ oxy, làm biến đổi hoạt tính của các ezim tham gia vào trao đổi hô hấp.
Trong điều kiện thiếu lân, gia tăng quá trình phân giải các hợp chất hữu cơ
chứa photphat, các polysacarit, các quá trình tổng hợp protein và các
nucleotit tự do bị ức chế. Thiếu lân lá có màu xanh đậm và nhỏ, cây thấp, đẻ

nhánh kém, trổ bông chậm và chín chậm. Bón đầy đủ lân cây ra rễ mạnh, đẻ
nhánh khỏe, xúc tiến các hoạt động sinh lý làm cho hạt chắc có màu vàng
sáng. Lân dùng để bón lót cho lúa là chủ yếu và được đất giữ lại không bị
rửa trôi.
Vũ Hữu Yêm (1995) cho rằng: cây non rất mẫn cảm với việc thiếu
lân. Thiếu lân trong thời kỳ cây còn non cho hiệu quả rất xấu, sau này dù
bón nhiều lân cây cũng trỗ bông không đều. Do vậy cần bón đủ lân ngay từ
giai đoạn đầu và bón lót phân lân rất có hiệu quả [37].
Theo Hà Công Vượng (1992), trong điều kiện thâm canh trung bình
17


(10 tấn phân chuồng + 90 - 120 N + 60 K2O)/ha, để nâng cao hiệu quả phân
lân cho lúa ngắn ngày thì nên bón lân với lượng bón 80 – 90 kg P 2O5/ha và
chủ yếu bón lót [17].
Theo nhiều tác giả lượng phân lân bón cho cây lúa thay đổi theo thời
tiết, mùa vụ và từng loại đất. Trên đa số các loại đất chân lúa cao sản thường
bón lượng lân 60 kg P2O5/ha, riêng đối với đất xám bạc màu có thể bón 80 90 kg P2O5/ha [17].
Lân là nguyên tố có trong thành phần cấu tạo nên tế bào, mặt khác nó
còn cung cấp năng lượng cho các hoạt động của các enzim tạo thành các
phân tử cao năng (ATP) trong quá trình trao đổi chất của cây, đối với loại
cây trồng sinh trưởng nhanh mạnh như lúa lai cần cung cấp lân đầy đủ giúp
cho cây sinh trưởng phát triển cân đối, tất yếu sẽ cho năng suất cao.
2.4.3. Yêu cầu dinh dưỡng kali của cây lúa
Kali là một trong ba nguyên tố quan trọng đối với cây trồng. Tuy
không tham gia vào thành phần cấu tạo tế bào nhưng kali tham gia vào các
phản ứng trao đổi chất của cây thông qua tác dụng hoạt hóa các enzim xúc
tiến phản ứng quan trọng trong cây. Tác dụng của kali thể hiện ở một số mặt
sau:
- Điều tiết khả năng chịu hạn, chịu rét của cây. Kali cần cho quá trình

hút và vận chuyển nước của cây.
- Tăng tích lũy tinh bột, tích lũy monosacarit, xenlulo, hemixenlulo và
các chất pectin trong vách tế bào vì vậy tính chống đổ lốp của cây tăng lên.
- Xúc tiến sự hấp thu ion amon NH+4 của cây.
- Kali giữ vai trò quan trọng trong việc vận chuyển và tích lũy các sản
phẩm quang hợp, đặc biệt là gluxit từ thân lá về bông hạt.
- Ngoài ra kali còn có tác dụng kéo dài tuổi thọ lá ở giai đoạn sau trỗ,
từ đó ảnh hưởng đến quang hợp.
Cây thiếu kali, hàm lượng nước trong cây giảm, tế bào già nhanh, áp
suất thẩm thấu, tính thấm nước và độ dính của nguyên sinh chất giảm. Thiếu
18


kali quá trình hô hấp tăng mạnh, đường khử được tích lũy nhiều, quá trình
tổng hợp tinh bột bị cản trở. Trong điều kiện thời tiết khí hậu không thuận
lợi như nhiệt độ thấp, thiếu ánh sáng thì kali xúc tiến quá trình quang hợp và
các quá trình sinh lý khác.
Bón kali không đầy đủ không những làm cho quá trình trao đổi
cacbon bị thay đổi mà quá trình trao đổi đạm cũng bị rối loạn, lượng đạm
amon (NH+4) tăng lên rõ rệt. Từ giai đoạn đẻ nhánh đến khi lúa trỗ cường độ
hút kali của lúa lai như lúa thuần. Tuy nhiên sau trỗ lúa thuần hút rất ít kali,
trong khi đó lúa lai vẫn duy trì sức hút kali mạnh, mỗi ngày hút 0,67 g/ha
(chiếm 8,7% tổng lượng hút). Như vậy trong suốt quá trình sinh trưởng
cường độ hút kali của lúa lai luôn cao. Đây là điểm rất đặc trưng về sức hút
các chất dinh dưỡng của lúa lai. Từ các đặc điểm nêu trên có thể thấy rằng,
để lúa lai có năng suất cao cần coi trọng thời kỳ bón, liều lượng và tỷ lệ loại
phân cần bón [14]. Sự có mặt của kali thời kỳ sau trỗ ở lúa lai là một ưu thế
thúc đẩy quá trình vào mẩy của hạt giúp nâng cao năng suất. Trên cơ sở kết
quả nghiên cứu này mà trong quá trình bón phân, người ta luôn coi trọng yếu
tố kali đối với lúa lai.

Lượng kali cây hút để tạo ra 1 tấn thóc ở các vùng khác nhau trong
phạm vi dao động. Để tạo ra 1 tấn thóc trung bình cây lúa hút 31,6 kg K 2O,
trong đó tích lũy chủ yếu trong rơm rạ (28,4 kg ) [13].
Thiếu kali, lá lúa bị xém nâu, cây phát triển chậm và còi cọc, thân yếu
và dễ bị đổ, hạt teo quắt. Thiếu kali làm cây lúa dễ bị nấm bệnh, vi khuẩn …
Theo Nguyễn Vi, với các giống lúa hiện nay, tỷ lệ hạt chắc tăng từ 30-57%
do bón kali và trọng lượng hạt cũng tăng từ 12-30% [36].
Không bón kali làm giảm tích luỹ kali và đạm trong sản phẩm thu
hoạch, đạm tích luỹ nhiều trong rơm rạ không được vận chuyển về hạt là
nguyên nhân làm giảm năng suất và chất lượng gạo [13].

19


CHƯƠNG 3
VẬT LIỆU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Vật liệu
TT

Vật liệu

Loài phụ

Xuất xứ

Ghi chú

Dòng bố
BGN18


Indica

Viện Nghiên
cứu lúa-HUA

ở ĐÂU HẢ ANH

Dòng mẹ
137A

Indica

Trung Quốc

Nhập nội

Indica

Viện Nghiên
cứu lúa-HUA

Dòng bố được chọn
tạo tại Việt Nam

Indica

Viện Nghiên Dòng mẹ được chọn
cứu lúa-HUA
tạo tại Việt Nam


Lai 3 dòng

Dòng bố
Lai 2 dòng

R50
Dòng mẹ
135s

Sản xuất hạt lai F1 giống lúa lai hai dòng Việt Lai 50.
Sản xuất hạt lai F1 giống lúa lai ba dòng BGN18.
3.2. Nội dung nghiên cứu
Thí nghiệm 1: Nghiên cứu thời vụ sản xuất giống lúa lai hai dòng Việt
Lai 50 trong vụ mùa 2012.
Thí nghiệm 2: Nghiên cứu kỹ thuật sản suất hạt lai F1 bằng phương
pháp cấy một hàng bố và cấy hàng mẹ ỏ mật độ khác nhau vụ mùa 2012 của
tổ hợp lai hai dòng VL50.
Thí nghiệm 3: Nghiên cứu thời vụ sản xuất giống lúa lai ba dòng
BGN18 vụ xuân 2013.

20


Thí nghiệm 4: Nghiên cứu kỹ thuật sản suất hạt lai F1 bằng phương
pháp cấy một hàng bố và cấy hàng mẹ ỏ mật độ khác nhau vụ xuân 2013 của
tổ hợp lai ba dòng BGN 18.
3.3 phương pháp nghiên cứu
3.3.1 Thí nghiệm 1: Nghiên cứu thời vụ sản xuất giống lúa lai hai
dòng Việt Lai 50 trong vụ mùa 2012.
Ngày gieo chia làm 4 công thức, mỗi công thức cách nhau 10 ngày.

CT1: Ngày gieo 5/6.
CT1: Ngày gieo 15/6.
CT3: Ngày gieo 25/6.
CT4: Ngày gieo 5/7.
* Phương pháp nghiên cứu sử dụng phương pháp nghiên cứu thời vụ.
Diện tích mỗi thời vụ là 10 m2 được lặp lại 3 lần.
* Nội dung nghiên cứu của thí nghiệm 1
- Nghiên cứu thời điểm trỗ an toàn trong 6-7 ngày.
- Thời điểm chênh lệch bố mẹ nở hoa khi cùng một thời điểm gieo
cấy.
* Các chỉ tiêu theo dõi của thí nghiệm 1:
- Thời điểm nở hoa và kết thúc nở hoa của dòng mẹ 135s.
- Thời điểm nở hoa và kết thúc nở hoa của dòng bố R50.
- Chiều cao cây của dòng mẹ và dòng bố khi nở hoa
- Khả năng bất dục hạt phấn của dòng mẹ khi nở hoa bằng sử dụng
dung dịch KI 1% soi hạt phấn của dòng mẹ khi nơ hoa/
- Độ ngậm thoát cổ bông của dòng mẹ ở trạng thái bất dục.

21


3.3.2 Thí nghiệm 2: Nghiên cứu kỹ thuật sản suất hạt lai F1 bằng
phương pháp cấy một hàng bố và cấy hàng mẹ ỏ mật độ khác nhau vụ
mùa 2012 của tổ hợp lai hai dòng VL50.
Thí nghiệm 2 có 5 công thức trong đó có 4 công thức thí nghiệm và 1
công thức đối chứng.
CT1: Một hàng bố : 11 hàng mẹ.
CT2: Một hàng bố: 12 hàng mẹ
CT3: Một hàng bố: 13 hàng mẹ
CT4: Một hàng bố: 14 hàng mẹ

Đ/C: 2 hàng bố R50 và 18 hàng mẹ 135s
- Cấy hàng bố cây cách cây 30 cm. Sau đó cấy hàng mẹ hàng mẹ hàng
bố cách hàng mẹ là 25cm, hàng mẹ cách hàng mẹ là 20cm cây cách cây là
10 cm, cấy theo băng rộng 165cm.
* Phương pháp thí nghiệm theo RCB khối ngẫu nhiên hoàn chỉnh. Ô
thí nghiệm là 20 m2, tổng diện tích thí nghiệm là 240 m2 + 60 m2 bảo
vệ=300m2 , lặp lại 3 lần lặp lại, đối chứng là gieo mạ và cấy (cả gieo bố,
gieo mạ mẹ và cấy ). Thời vụ gieo mẹ là 25 tháng 6. Phương pháp mạ ném
dòng mẹ và cấy dòng bố.
Ghi chú: Lượng Ga3 theo quy trình cũ của Viện Nghiên cứu lúa:
150g/ha.
* Nền phân bón của sản xuất: 20 kg lân super + 10 kg đạm + 10kg
Kali/sào Bắc bộ.
* Các chỉ tiêu theo dõi.
- Xác định thời điểm trổ của dòng bố và dòng mẹ.
- Theo dõi số lá của dòng bố và dòng mẹ.
- Theo dõi số nhánh hữu hiệu và số bông hữu hiệu của dòng bố
mẹ/khóm. Mật độ ném của quần thể mẹ là 45 khóm/ m2.
22


- Xác định được tỷ lệ hoa của dòng mẹ/hoa của dòng bố R50.
- Theo dõi chiều cao cây của dòng bố mẹ trước và sau khi phun Ga3.
- Năng suất và các yếu tố cấu thành năng suất:
3.3.3 Thí nghiệm 3: Nghiên cứu thời vụ sản xuất giống lúa lai ba
dòng BGN18 vụ xuân 2013.
Ngày gieo chia làm 4 công thức mỗi công thức cách nhau 10 ngày:
CT 1: Gieo dòng CMS 137A ngày 5/1.
CT 2: Gieo dòng CMS 137A ngày 15/1.
CT 3: Gieo dòng CMS 137A ngày 25/1

CT 4: Gieo dòng CMS 137 A ngày 5/2.
* Phương pháp nghiên cứu sử dụng phương pháp nghiên cứu thời vụ.
Diện tích mỗi thời vụ là 10 m2 được lặp lại 3 lần.
* Nội dung nghiên cứu của thí nghiệm 3.
- Nghiên cứu thời điểm trổ hoa an toàn trong 6 - 7 ngày.
- Thời điểm chênh lệch bố mẹ nở hoa khi cùng một thời điểm gieo
cấy.
* Các chỉ tiêu theo dõi của thí nghiệm 3.
- Thời điểm nở hoa và kết thúc nở hoa của dòng mẹ CMS là 37A.
- Thời điểm nở hoa và kết thúc nở hoa của dòng bố BGN18.
- Chiều cao cây của dòng mẹ và dòng bố khi nở hoa
- Khả năng bất dục hạt phấn của dòng mẹ khi nở hoa bằng sử dụng
dung dịch KI 1% soi hạt phấn của dòng mẹ khi nở hoa.
- Độ ngậm thoát cổ bông của dòng mẹ khi trổ.
Thí nghiệm 4: Nghiên cứu kỹ thuật sản suất hạt lai F1 bằng
phương pháp cấy một hàng bố và cấy hàng mẹ ỏ mạt độ khác nhau vụ
xuân 2013 của tổ hợp lai hai dòng VL50
23


Thí nghiệm 4 có 5 công thức trong đó có 4 công thức thí nghiệm và 1
công thức đối chứng.
CT1: Một hàng bố : 10 hàng mẹ
CT2: Một hàng bố: 11 hàng mẹ
CT3: Một hàng bố: 12 hàng mẹ
CT4: Một hàng bố: 13 hàng mẹ.
Đ/C: Cấy 2 hàng bố và 20 hàng mẹ
* Phương pháp thí nghiệm theo RCB khối ngẫu nhiên hoàn chỉnh. Ô
thí nghiệm là 20 m2, tổng diện tích thí nghiệm là 240 m2 + 60 m2 bảo
vệ=300m2 , lặp lại 3 lần lặp lại, đối chứng là gieo mạ và cấy (cả gieo bố,

gieo mạ mẹ và cấy ). Thời vụ gieo mẹ là 25/12-10/1 dương lịch. Mục tiêu sẽ
cho dòng mẹ trổ từ 12/4 đến 29/4 dương lịch).
Ghi chú: Lượng Ga3 theo quy trình của Viện Nghiên cứu lúa: 350g
Ga3/ha.
* Nền phân bón của sản xuất: 20 kg lân super + 11 kg đạm + 12kg
Kali/sào Bắc bộ.
* Các chỉ tiêu theo dõi.
- Xác định thời điểm trổ của dòng bố và dòng mẹ.
- Theo dõi số lá của dòng bố và dòng mẹ.
- Theo dõi số nhánh hữu hiệu và số bông hữu hiệu của dòng bố
mẹ/khóm. Mật độ ném của quần thể mẹ là 45 khóm/ m2.
- Xác định được tỷ lệ hoa của dòng mẹ/hoa của dòng bố R50.
- Theo dõi chiều cao cây của dòng bố mẹ trước và sau khi phun Ga3.
- Năng suất và các yếu tố cấu thành
4. Địa điểm và thời gian nghiên cứu.
- Địa điểm: Thôn Trám xã phúc Sơn huyện Tân Yên tỉnh Bắc Giang.

24


- Thời gian: Vụ mùa năm 2012 sản xuất F1 Việt Lai 50, vụ Xuân 2013
thí nghiệm sản xuất giống BGN18.
5. Phương pháp xử lý số liệu
Toàn bộ số liệu được phân tích theo phương pháp thống kê sinh học bằng
chương trình EXCEL và phần mềm IRRISTAT 5.0 trên máy vi tính.

25



×