Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO mối QUAN hệ GIỮA độc lập, tự CHỦ, hội NHẬP QUỐC tể của VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.89 KB, 19 trang )

2

MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐỘC LẬP, TỰ CHỦ VÀ HỘI NHẬP
QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY
Độc lập, tự chủ là một yêu cầu nội tại của mọi quốc gia, dân tộc với tính
cách là một chủ thể chính trị - pháp lý. Bởi vậy, nó trở thành một trong những
nguyên tắc căn bản nhất trong tổ chức và hoạt động của nhà nước, cả trên bình
diện đối nội và đối ngoại. Hội nhập quốc tế thể hiện sự tham gia của quốc gia,
dân tộc vào q trình tồn cầu hóa với tính cách là một xu thế lịch sử trong thế
giới hiện đại.
Độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế đều mang tính khách quan, phản ánh
những tất yếu của quốc gia, dân tộc trong thời đại hiện nay. Mặt khác, giữ vững
độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế lại là các hoạt động của nhà nước, cho nên,
sự thành bại của chúng lại phụ thuộc trước hết vào chế độ xã hội, đảng cầm
quyền và chính quyền ở mỗi nước. Đồng thời, giữ vững độc lập, tự chủ và tích
cực, chủ động hội nhập quốc tế là phương thức hành động đúng đắn, được đảm
bảo bởi tính khách quan của độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, kết
quả của phương thức hành động sẽ được quyết định bởi tư duy, đường lối, chiến
lược, giải pháp… của giai cấp lãnh đạo, nhà nước và toàn xã hội.
Những năm qua, mối quan hệ giữa giữ vững độc lập, tự chủ và tích cực,
chủ động hội nhập quốc tế của Việt Nam đã được đảm bảo hài hịa, góp phần tạo
nên những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của đất nước. Trong giai đoạn
cách mạng hiện nay, chúng ta cần tiếp tục phát huy kết quả đã đạt được; nắm bắt
kịp thời, sâu sắc những thay đổi về nội dung, kết cấu độc lập, tự chủ của Việt
Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng. Đồng thời, cần tránh
hai quan điểm lệch lạc: đó là cho rằng độc lập, tự chủ là hằng số bất biến, có nội
dung không thay đổi, không thể tương dung với hội nhập quốc tế, xem thế giới
như một phức thể thống nhất. Ngược lại cho rằng trong thời đại toàn cầu hóa và


3



hội nhập quốc tế, không cần và không thể duy trì, củng cố độc lập dân tộc, tự
chủ, chủ quyền quốc gia. Cả hai quan điểm trên đều chưa chính xác, phiến diện
một chiều.
Như vậy có thể nhận thức rằng Đảng ta chủ trương: “thực hiện đường lối
đối ngoại độc lập, tự chủ, hịa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; chủ động và
tích cực hội nhập quốc tế” là hoàn toàn đúng đắn. Và Đảng ta xác định một
trong tám mối quan hệ cần tập trung giải quyết là mối quan hệ giữa độc lập, tự
chủ với hội nhập quốc tế. Để giải quyết được mối quan hệ này, bên cạnh việc
nắm vững những đặc điểm của thời đại, bối cảnh quốc tế và khu vực, cần thấy rõ
một số thuận lợi và khó khăn song hành do hội nhập quốc tế đem lại với đối
ngoại của Việt Nam với nội dung cốt lõi của hội nhập quốc tế là quá trình các
nước tăng cường sự gắn kết với nhau trên cơ sở nền tảng là sự chia sẻ lợi ích,
mục tiêu, giá trị nguồn lực, quyền lực và tuân thủ các luật “chơi” chung trong
khuôn khổ các định chế, tổ chức quốc tế nên hoạt động đối ngoại sẽ có nhiều cơ
hội mở rộng, đi sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống thế giới, góp phần cùng các
mặt hoạt động của quốc gia nhằm mau chóng cụ thể hóa các mục tiêu đối nội đã
đặt ra. Tuy nhiên, do phải chia sẻ lợi ích và các giá trị nguồn lực, quyền lực của
mình với các nước theo những quy định bắt buộc của “cuộc chơi” nên các mục
tiêu đối nội của các nước cũng như Việt Nam sẽ không thể thực hiện được triệt
để, kéo theo tính chất độc lập, tự chủ về đối ngoại sẽ bị tác động ở những phạm
vi khác nhau và mức độ nhất định.
Hơn nữa hội nhập quốc tế mang tính ràng buộc hơn và vượt lên trên sự
hợp tác thông thường, bởi nó địi hỏi sự chia sẻ và tính tuân thủ cao của các chủ
thể tham gia. Khi các cam kết quốc tế được ký kết sẽ tạo ra điều kiện pháp lý,
trên cơ sở đó các thành viên tham gia ký kết có thể được hưởng quyền và lợi ích
của mình. Tuy nhiên, việc có được lợi ích luôn đi kèm với trách nhiệm và nghĩa
vụ. Điều này sẽ tạo sức ép không nhỏ đối với các thành viên khi thực thi cũng
như khi không tuân thủ. Sự độc lập, tự chủ của đối ngoại, vì thế, sẽ phụ thuộc



4

vào sức mạnh nội lực, mức độ am hiểu luật pháp quốc tế, các mối quan hệ lợi
ích ràng buộc, lường trước những vấn đề có thể xảy ra cũng như khả năng đề
kháng với những ảnh hưởng, tác động từ bên ngoài...
Mặt khác, việc hội nhập quốc tế khi được mở rộng sang các lĩnh vực sẽ
mở ra nhiều cơ hội hơn nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức hơn. Mơ hình Liên
minh châu Âu (EU) hiện nay là một thí dụ. Đường lối đối ngoại, thậm chí đối
nội của mỗi quốc gia thành viên đều ít nhiều, ở những mức độ nhất định chịu sự
ràng buộc, can thiệp của cả cộng đồng EU. Cuộc bầu cử tổng thống ở Hy Lạp
tháng 6 vừa qua là một dẫn chứng. Vị tổng thống được bầu nếu chủ trương tiếp
tục chính sách thắt chặt chi tiêu sẽ tiếp tục được nhận gói cứu trợ của EU và
IMF, trong trường hợp ngược lại, nếu tân tổng thống không theo quan điểm này
(do chính sách tài chính khắc khổ tỏ ra thiếu hiệu quả), nguồn cứu trợ sẽ bị dừng
lại. Và nếu điều đó xảy ra, Hy Lạp sẽ đứng trước nguy cơ phải rời khỏi khu vực
đồng tiền chung châu Âu (điều mà châu Âu và cả người dân Hy Lạp không
mong muốn), đe dọa đến sự tồn tại của khu vực này. Tình thế “lưỡng nan” và
sức ép về trách nhiệm lớn như vậy đã không thể không ảnh hưởng đến lá phiếu
bầu của cử tri trong cuộc bầu cử tổng thống lần thứ hai, cho dù đã có rất nhiều
cuộc biểu tình diễn ra để phản đối chính sách tài chính khắc khổ của chính phủ
trước đây.
Ngồi ra, hội nhập quốc tế ngày càng sâu vào một “sân chơi” đa dạng các
đối tác lẫn đối tượng, phương pháp và phong cách đối ngoại khác nhau sẽ tạo
điều kiện phát triển tồn diện trí tuệ, tăng cường nguồn lực và nâng cao bản lĩnh
độc lập, tự chủ của ngoại giao Việt Nam. Tuy nhiên, điều đó cũng thử thách sự
bền vững, dẻo dai trong việc giữ vững độc lập, tự chủ về đối ngoại. Khẳng định
mình hay đánh mất mình chính là một thách thức khi hội nhập sâu hơn vào một
“sân chơi” quốc tế rộng lớn.
Từ nhận thức đúng đắn đó độc lập, tự chủ của quốc gia địi hỏi chúng ta

phải có một nền kinh tế độc lập, tự chủ: cơ cấu kinh tế hợp lý, hiệu quả và đảm


5

bảo độ an toàn cần thiết; nền kinh tế phát triển bền vững và có năng lực cạnh
tranh cao; cơ cấu xuất, nhập khẩu cân đối; đầu tư trực tiếp của nước ngoài trong
một số ngành kinh tế, nhất là những ngành kinh tế quan trọng, chiếm một tỷ lệ
không thể chi phối được nền kinh tế; hạn chế hoặc khơng cho phép đầu tư nước
ngồi vào những ngành nhạy cảm...
Xây dựng kinh tế độc lập, tự chủ ở nước ta, trước hết phải được thể hiện ở
độc lập, tự chủ về đường lối phát triển theo định hướng XHCN; đẩy mạnh CNH,
HĐH, tạo tiềm lực kinh tế, khoa học và cơng nghệ, cơ sở vật chất-kỹ thuật đủ
mạnh; có cơ cấu kinh tế hợp lý, có hiệu quả và sức cạnh tranh cao; tập trung
phát triển các ngành, lĩnh vực và sản phẩm kinh tế chủ yếu có vai trị quan trọng
hàng đầu, hiệu quả… Cùng với đó, nó phải được thể hiện ở việc bảo đảm an
ninh lương thực quốc gia; an tồn năng lượng, tài chính-tiền tệ, môi trường; đất
nước phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững.
Trong thời đại mà các nền kinh tế thế giới gắn kết, phụ thuộc lẫn nhau,
nhà nước tuy vẫn có quyền can thiệp, quản lý kinh tế, nhưng khơng có năng lực
điều tiết, chi phối thị trường toàn cầu và kinh tế tồn cầu. Trên thực tế, đang có
những thế lực siêu quốc gia, xuyên quốc gia điều khiển nền kinh tế tồn
cầu.Tính tự chủ trong điều tiết kinh tế vĩ mơ của chính phủ bị ràng buộc bởi
nhiều biến động từ bên ngồi. Ngày nay, nền kinh tế ảo có giá trị (ảo) lớn hơn
nhiều so với nền kinh tế thực, đem lại quyền lực chuyên chế cho thị trường tài
chính-tiền tệ.
Để được tham gia vào sân chơi quốc tế, các quốc gia phải thực hiện mở
cửa thị trường nội địa, chủ động thay đổi kết cấu chủ quyền, cho phép hình
thành các đặc khu kinh tế-hành chính để đáp ứng đòi hỏi thu hút một khối lượng
lớn vốn đầu tư. Đây là hình thức hợp đồng th nhượng, có thời hạn một vùng

lãnh thổ với những quyền nhất định. Mặt khác, các quốc gia hội nhập phải thực
hiện tự do hoá nền kinh tế theo các cam kết quốc tế, tức là chuyển giao một số
quyền đáng kể từ nhà nước sang thị trường. Trong điều kiện kết cấu độc lập về


6

kinh tế thay đổi như vậy, trọng tâm của việc đảm bảo chủ quyền kinh tế là tăng
cường toàn diện năng lực tự chủ kinh tế, chứ không phải là cố sức duy trì một
kết cấu cố định về độc lập kinh tế. Chủ quyền về kinh tế không tránh khỏi bị thu
hẹp nếu năng lực tự chủ của toàn bộ nền kinh tế khơng được tích cực đổi mới và
nâng cao.
Với tư cách thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới, Việt Nam cần
đặc biệt quan tâm đảm bảo các cân đối kinh tế vĩ mô trong điều kiện mở cửa, hội
nhập về tài chính đang ngày càng trở nên phức tạp hơn, trong đó đảm bảo ổn
định tiền tệ trở thành khâu then chốt. Trong ngắn hạn, nền kinh tế toàn cầu đang
lâm vào hàng loạt cuộc khủng hoảng đan xen về tài chính, năng lượng, lương
thực, mơi trường. Do đó, giữ vững ổn định vĩ mơ và duy trì đà tăng trưởng hợp
lý trở thành ưu tiên số một. Về dài hạn, bảo đảm tính độc lập, tự chủ về đường
lối kinh tế khơng có nghĩa là chủ quan, duy ý chí, mà phải nắm bắt xu thế phát
triển chung của thế giới, tiếp thu có chọn lọc các lý thuyết, mơ hình, kinh
nghiệm phát triển quốc tế; nhưng khơng giáo điều, rập khn máy móc. Chiến
lược kinh tế phải được xây dựng đồng bộ với chiến lược phát triển xã hội và
chiến lược hội nhập quốc tế, phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam trong
từng giai đoạn phát triển.
Vấn đề then chốt là không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng,
năng lực quản trị xã hội của Nhà nước.. Cần tiếp tục đổi mới và hồn thiện cơng
tác lý luận, tuyên truyền, vận động, giáo dục của Đảng cả về hình thức lẫn nội
dung, bám sát thực tiễn, tránh bệnh hình thức, thành tích, xa rời quần chúng; đổi
mới cơng tác cán bộ, tăng cường công tác kiểm tra, chỉnh đốn, kỷ luật Đảng; các

chủ trương của Đảng phải được nhanh chóng triển khai thành các chính sách cụ
thể của Nhà nước. Các chính sách xã hội, dân tộc, tơn giáo phải được coi trọng,
tránh để các thế lực xấu lợi dụng kích động, gây chia rẽ; khơng ngừng củng cố
đồng thuận xã hội, khối đại đoàn kết toàn dân; đẩy mạnh cải cách hành chính,
nâng cao chất lượng và hiệu quả hệ thống cung cấp các dịch vụ công, tăng c-


7

ường hiệu lực tư pháp, đẩy mạnh phòng chống tham nhũng. Việt Nam đã trở
thành một xã hội có mức thu nhập trung bình, mà trọng tâm cơng tác xã hội
chuyển dần từ vấn đề xố đói, giảm nghèo sang quản trị và an sinh, do đó cần
tăng cường vai trò của Nhà nước pháp quyền XHCN, từng bước thực hành dân
chủ, mở rộng sự tham gia của nhân dân vào các hoạt động của Nhà nước, xây
dựng xã hội thực sự dân chủ, cơng bằng, văn minh.
Ngồi ra độc lập, tự chủ là u cầu có tính ngun tắc trong quá trình hội
nhập quốc tế của nước ta. Độc lập, tự chủ về chính trị có nghĩa là tự mình xác
định mục tiêu, con đường phát triển đất nước; hoạch định đường lối, chủ trương,
chiến lược phát triển; xác lập và duy trì thể chế chính trị, khơng chấp nhận bất
cứ sự can thiệp nào từ bên ngoài. Độc lập, tự chủ về chính trị được thể hiện cả
trong đối nội và đối ngoại, cả kinh tế, văn hoá, xã hội và QP-AN...
Đó là, quyền lực Nhà nước phải điều chỉnh, phạm vi và cách thức can
thiệp của Nhà nước vào đời sống kinh tế-xã hội có nhiều thay đổi. Việc thực
hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp của Nhà nước chịu sự giám sát,
phản biện xã hội ngày càng tăng. Quyền tài phán tối cao của Nhà nước, Chính
phủ, quốc gia đối với các vấn đề đối nội và đối ngoại của đất nước vẫn tiếp tục
được khẳng định, nhưng phải gắn với hàng loạt trách nhiệm ngày càng lớn, ngày
càng nặng nề. Sự giao thoa giữa khu vực công quyền và khu vực thị trường trở
nên phức tạp, các lợi ích cơng, tư đan xen, chồng chéo, dễ tạo điều kiện cho các
hành vi tham nhũng, móc ngoặc; thách thức nghiêm trọng hiệu lực thực thi luật

pháp, làm tổn hại quyền lực của Nhà nước. Yêu cầu dân chủ hoá xã hội gia tăng
mạnh mẽ, bao gồm cả các hoạt động của Đảng và Nhà nước; người dân ngày
càng hiểu biết hơn về chính trị, nhận thức tốt hơn về các quyền công dân, quyền
con người, cũng như kỹ năng thực thi các quyền đó và nhấn mạnh cả nhu cầu
tham gia vào các hoạt động chính trị.
Độc lập, tự chủ về đối ngoại là một vấn đề rất quan trọng. Theo Chủ tịch
Hồ Chí Minh: độc lập, tự chủ trong quan hệ quốc tế và đối ngoại thể hiện trước


8

hết ở tư duy, nhận thức độc lập, sáng tạo; xuất phát từ lợi ích giai cấp và dân tộc,
khơng giáo điều, rập khn, máy móc trong hoạch định và thực hiện đường lối,
chính sách đối ngoại; trong xác định bạn, thù và tập hợp lực lượng quốc tế. Chủ
quyền quốc gia trên lĩnh vực đối ngoại vận động theo tiến trình mở cửa, hội
nhập quốc tế. Hệ thống các quan hệ đối ngoại rộng lớn hiện nay của Việt Nam là
kết quả của một quá trình thực hiện các bước đột phá: từ phá thế bao vây, cấm
vận, bình thường hoá quan hệ với các nước lớn, cải thiện quan hệ với các nước
trong khu vực…, đến thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở, hợp tác, bình
đẳng cùng có lợi, là bạn, là đối tác tin cậy với tất cả các nước; tích cực, chủ động
hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, để thực hiện tốt vấn đề đó, cần nắm bắt sâu sắc các
nhân tố quan trọng sau đây trong quá trình phát huy độc lập, chủ quyền quốc
gia:
Độc lập và tự chủ về đối ngoại của Việt Nam luôn nằm trong tương quan
và quan hệ chiến lược giữa các nước lớn, các trung tâm quyền lực quốc tế. Việc
ta có thể khai thác lợi ích từ hội nhập đến đâu tùy thuộc vào sự ổn định, phát
triển trong nước, cũng như năng lực xử lý quan hệ với các nước lớn, các trung
tâm quyền lực thế giới, bảo đảm cân bằng lợi ích của nước ta trong quan hệ với
họ; ổn định và phát triển, hay trái lại bất ổn và khủng hoảng tại Đông Nam Á và
rộng hơn là tại châu Á - Thái Bình Dương, có ảnh hưởng trực tiếp đến quan hệ

đối ngoại của nước ta; bởi vậy, chúng ta phải luôn chủ động, có trách nhiệm đối
với sự ổn định của khu vực. Hội nhập và mở cửa sẽ tạo cơ hội cho một số thế
lực chính trị bên ngồi nhân danh "nhân quyền", "dân chủ", "tự do tôn giáo" can
thiệp vào công việc nội bộ, thực hiện ''diễn biến hồ bình”, bạo loạn lật đổ; các
thế lực xuyên quốc gia, như: khủng bố quốc tế, buôn bán ma tuý, hoạt động rửa
tiền... cũng có thể thâm nhập, phá hoại trật tự, an tồn xã hội, gây mất ổn định
chính trị. Do đó, chúng ta phải ln đề cao cảnh giác, có các biện pháp phù hợp,
hiệu quả.


9

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: ''Thực lực là cái chiêng mà ngoại giao là
cái tiếng''. Điều kiện để bảo đảm độc lập, tự chủ về đối ngoại trong bối cảnh đẩy
mạnh hội nhập quốc tế của Việt Nam là: chính trị, xã hội ổn định; kinh tế tăng
trưởng nhanh, bền vững; QP-AN vững mạnh; nguồn nhân lực đối ngoại trung
thành và chuyên nghiệp; quan hệ cân bằng với các nước lớn.
Để thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ này, cần nâng cao hiệu quả công tác
đối ngoại, gắn ngoại giao chính trị với ngoại giao kinh tế; nắm vững mục tiêu,
kiên định nguyên tắc, bám sát tình hình, linh hoạt ứng biến; tích cực tranh thủ và
chủ động tạo dựng thời cơ, vừa hợp tác, vừa đấu tranh; phối hợp chặt chẽ, nhịp
nhàng đối ngoại với các mặt chính trị, quân sự, kinh tế, xã hội; tăng cường ngoại
giao nhân dân. Trong bối cảnh thế giới đang có những chuyển biến phức tạp,
chúng ta phải có chiến lược đối ngoại linh hoạt; đồng thời, cần khẩn trương xây
dựng chiến lược và lộ trình hội nhập giai đoạn 2011-2020 phù hợp với thế và lực
của nước ta cũng như trong môi trường quan hệ quốc tế mới, đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thời kỳ mới.
Tuy vậy, có thể nhận thấy thách thức lớn nhất và dễ nhận thấy nhất xuất
phát từ chỗ nước ta là một nước đang phát triển có trình độ kinh tế thấp, quản lý
nhà nước còn nhiều yếu kém và bất cập, doanh nghiệp và đội ngũ doanh nhân

cịn nhỏ bé, sức cạnh tranh của hàng hố, dịch vụ nói riêng và của tồn bộ nền
kinh tế nói chung cịn nhiều hạn chế, hệ thống chính sách kinh tế, thương mại
chưa hoàn chỉnh... Cho nên, nước ta sẽ gặp khó khăn lớn trong cạnh tranh cả ở
trong nước cả trên trường quốc tế, cạnh tranh sẽ diễn ra gay gắt hơn, với nhiều
đối thủ hơn, trên bình diện sâu hơn, rộng hơn. Trong quá trình hội nhập quốc tế,
cũng như các nước đang phát triển khác, nước ta phải chịu sự ràng buộc của các
quy tắc kinh tế, thương mại, tài chính - tiền tệ, đầu tư... chủ yếu do các nước
phát triển áp đặt; phải chịu sức ép cạnh tranh bất bình đẳng và sự điều tiết vĩ mô
bất hợp lý của các nước phát triển hàng đầu.


10

Trên lĩnh vực xã hội, quá trình hội nhập quốc tế trong xu thế tồn cầu hố
đặt ra một thách thức nan giải đối với nước ta trong việc thực hiện chủ trương
tăng trưởng kinh tế đi đơi với xố đói, giảm nghèo, thực hiện tiến bộ và cơng
bằng xã hội. Trong tình hình như đã nêu, cơ cấu xã hội có thể biến động phức
tạp và khó lường, làm cho sự phân tầng, phân hoá xã hội cũng trở thành yếu tố
tiêu cực đối với bản thân sự phát triển của đất nước. Hội nhập quốc tế đặt ra
những vấn đề mới về bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hố và truyền
thống tốt đẹp của dân tộc. Về an ninh quốc gia, các nguy cơ đe doạ an ninh ngày
càng phức tạp hơn, bên cạnh các hiểm hoạ mang tính truyền thống, đã xuất hiện
các nguy cơ phi truyền thống (an ninh môi trường, dịch bệnh, khủng bố...).
Về văn hoá, hội nhập quốc tế đặt nước ta trước nguy cơ bị các giá trị
ngoại lai, nhất là các giá trị văn hoá phương Tây xâm nhập ồ ạt, làm tổn hại
bản sắc văn hoá dân tộc. Trên lĩnh vực chính trị, tiến trình hội nhập quốc tế ở
nước ta cũng đang đối diện trước thách thức của một số nguy cơ đe doạ độc lập
dân tộc, chủ quyền quốc gia, sự lựa chọn định hướng chính trị, vai trị của nhà
nước... Hội nhập quốc tế đối với nước ta rõ ràng không thể tách rời cuộc đấu
tranh chống "diễn biến hồ bình" của các thế lực thù địch trên nhiều lĩnh vực.

Sức mạnh chính trị của nước ta là sức mạnh của cả hệ thống chính trị, của
khối đại đồn kết tồn dân tộc với hạt nhân lãnh đạo của Đảng. Kinh nghiệm
lịch sử cách mạng từng chứng tỏ, trong điều kiện nền tảng vật chất- kỹ thuật còn
nhiều hạn chế, nhưng dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, dân tộc ta với tinh
thần tự chủ, tự lực, tự cường, đã phát huy những ưu việt của thể chế chính trị,
đồn kết thống nhất tạo nên nguồn sức mạnh to lớn, vượt qua những thử thách
khắc nghiệt nhất, bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia và
những thành quả cách mạng đã giành được, tiếp tục kiên định mục tiêu đi lên
xây dựng CNXH. Trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế hiện nay,
bên cạnh việc tăng cường sức mạnh vật chất, kinh tế, thì việc tăng cường sức
mạnh chính trị, củng cố sự đồng thuận xã hội, phát triển khối đoàn kết toàn dân


11

tộc vẫn là một trong những nhân tố mang tính quyết định nhất đối với bảo vệ
độc lập, chủ quyền và định hướng XHCN ở nước ta. Điều đó xét cho cùng lại
phụ thuộc vào năng lực lãnh đạo của Đảng về mọi mặt, đòi hỏi Đảng tiếp tục đổi
mới mạnh mẽ và toàn diện, thực sự trong sạch, vững mạnh ngang tầm với những
nhiệm vụ lịch sử đang đặt ra trước vận mệnh dân tộc.
Hệ thống chính trị nước ta tiếp tục được đổi mới mạnh mẽ theo hướng
đồng bộ và hiệu quả từ phương thức hoạt động đến cơ chế tương tác và vận hành
của mỗi bộ phận cấu thành, cùng với sự tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng.
Trong q trình xây dựng, hồn thiện hệ thống chính trị cần nghiên cứu, tham
khảo và tiếp thu một cách chọn lọc các kinh nghiệm tiên tiến của nước ngoài.
Đổi mới và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của dân, do dân
và vì dân phải được chú trọng một cách thực chất hơn nữa. Sự vận hành thông
suốt, hiệu quả và hiệu lực cao của hệ thống chính trị là yếu tố cơ bản, then chốt
nhất để tăng cường sức mạnh khối đại đoàn kết tồn dân tộc và sức mạnh chính
trị của đất nước, đủ năng lực xử lý linh hoạt, hiệu quả những vấn đề phát triển

của đất nước nói chung, cũng như những vấn đề liên quan đến bảo vệ độc lập
dân tộc và con đường xây dựng CNXH ở Việt Nam trong bối cảnh tồn cầu hố.
Hệ thống chính trị vững mạnh sẽ tạo sức đề kháng cao và làm thất bại mọi âm
mưu, thủ đoạn “diễn biến hồ bình” của các thế lực đế quốc thù địch, đồng thời
đẩy lùi nguy cơ “tự diễn biến” từ bên trong.
Vấn đề cơ bản nhất vừa có ý nghĩa trước mắt vừa mang tầm chiến lược
lâu dài đối với nước ta nhằm giữ vững độc lập, tự chủ và định hướng XHCN
trong điều kiện hội nhập là tăng cường sự lãnh đạo của Đảng để tập trung mọi
nỗ lực xây dựng sức mạnh tổng hợp quốc gia. Do đó, mọi chủ trương, chính
sách, đường lối của Đảng và Nhà nước, nhất thiết phải được hoạch định trên cơ
sở lấy lợi ích quốc gia dân tộc, phải đặt trong mối quan hệ gắn bó mật thiết, hữu
cơ giữa những yêu cầu cấp thiết bên trong và tác động của bối cảnh bên ngoài.
Đồng thời, trong hoạch định và thực hiện chủ trương, đường lối chính sách trên


12

các mặt phải thấy rõ mối quan hệ biện chứng giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
giữa an ninh và phát triển, giữa độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế, lấy nhiệm vụ
xây dựng kinh tế là trọng tâm hàng đầu, phát huy tối đa nội lực, tranh thủ cao độ
ngoại lực, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; coi thế và lực của
đất nước là chỗ dựa vững chắc nhất cho tiến trình hội nhập.
Để tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia, nước ta cần chú trọng phát
triển trên cả hai phương diện: “sức mạnh cứng”, tức là thực lực mọi mặt trong
nước và “sức mạnh mềm” là ảnh hưởng trên trường quốc tế. "Tiếp tục nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; đẩy mạnh toàn diện cơng cuộc đổi
mới; xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; phát huy dân chủ và
sức mạnh đại đoàn kết dân tộc; phát triển kinh tế nhanh, bền vững; nâng cao đời
sống vật chất, tinh thần của nhân dân; giữ vững ổn định chính trị-xã hội; tăng
cường hoạt động đối ngoại; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất,

toàn vẹn lãnh thổ; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước
công nghiệp theo hướng hiện đại".
Sự lãnh đạo của Đảng trong vấn đề bảo vệ độc lập dân tộc cần được tăng
cường trên cơ sở tư duy mới về vấn đề này, gắn với những vấn đề mới đặt ra
trong xu thế phát triển của tồn cầu hố. Theo đó, độc lập dân tộc của nước ta
hiện nay, không chỉ thuần t là tính bất khả xâm phạm chủ quyền tồn vẹn lãnh
thổ, lãnh hải, khoảng không và môi trường tự nhiên, chủ quyền trong lĩnh vực
văn hố, mà cịn là sự an tồn và khơng bị đe doạ đối với chế độ chính trị, vai trị
lãnh đạo của Đảng và định hướng chính trị xã hội chủ nghĩa, cũng như đối với
quyền được duy trì, bảo vệ những lợi ích chính đáng của cơng dân, của thể nhân
và Nhà nước ở ngoài nước. Sự chuyển biến nhận thức như đã nêu phải đi đôi với
việc nâng cao một bước mới về chất trong ý thức và trách nhiệm chính trị của
tồn bộ hệ thống chính trị, cũng như của mỗi công dân đối với nghĩa vụ bảo vệ
độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia trong quá trình hội nhập quốc tế.


13

Ngày nay, sự phát triển kinh tế được coi là yếu tố hàng đầu quyết định sức
mạnh tổng hợp quốc gia. Trong bối cảnh tồn cầu hố, một trong những thách
thức lớn nhất đối với nước ta, đó là nguy cơ tụt hậu về kinh tế do trình độ xuất
phát điểm thấp. Sự tụt hậu, nghèo nàn, chậm phát triển về kinh tế là nguyên
nhân vừa sâu xa, vừa cơ bản và trực tiếp nhất khiến bất kỳ dân tộc nào cũng phải
đối mặt hiểm hoạ rơi vào vòng lệ thuộc nước ngồi trên nhiều phương diện.
Do đó, đối với nước ta, nhiệm vụ xây dựng, phát triển kinh tế càng phải
thực sự được đặt cao là trọng tâm hàng đầu, nhằm tăng cường sức mạnh vật chất
- kỹ thuật làm nền tảng bảo vệ độc lập dân tộc. Sức mạnh kinh tế được thể hiện
trước hết ở thực lực, tiềm năng và cơ cấu hiện đại của nền kinh tế. Ưu tiên số 1
trong phát triển kinh tế ở nước ta hiện nay là đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại
hoá, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Phát triển kinh tế gắn

chặt với phát triển văn hố và bảo vệ mơi trường; thực hiện tiến bộ, cơng bằng xã
hội trong từng chính sách phát triển. Đây là một yêu cầu tất yếu đặt ra nhằm giữ
vững định hướng XHCN trong nền kinh tế thị trường, tránh nguy cơ chệch hướng
trong phát triển kinh tế nói riêng và trong tồn bộ q trình đổi mới nói chung.
Trong tiến trình hội nhập quốc tế, phải quán triệt một cách sâu sắc và đầy
đủ quan điểm của Đảng về gắn chặt việc xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ
với chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế; kết hợp giữa phát triển kinh tế
với quốc phòng, an ninh và đối ngoại.
Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp
hố, hiện đại hố và hội nhập quốc tế là một nhân tố không thể thiếu để bảo vệ
độc lập dân tộc và định hướng XHCN. Trong đó, trước hết và chủ yếu phải đảm
bảo độc lập tự chủ về đường lối, chính sách, tham khảo và tiếp thu kinh nghiệm
của nước ngồi nhưng khơng bị áp đặt từ nước ngoài hoặc bị lệ thuộc vào nước
ngoài. Mặt khác, phải có tiềm lực kinh tế đủ mạnh, có cơ cấu kinh tế hợp lý, có
sức cạnh tranh, phát triển kết cấu hạ tầng ngày càng hiện đại, có một số ngành
cơng nghiệp then chốt; đồng thời phải có năng lực nội sinh về khoa học và công


14

nghệ, đủ khả năng ứng dụng công nghệ hiện đại; giữ vững ổn định kinh tế - tài
chính vĩ mơ, bảo đảm an ninh lương thực, an toàn năng lượng, tài chính, mơi
trường.
u cầu hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng địi hỏi nhất thiết phải giải
quyết thành cơng một loạt mối quan hệ: giữa mở rộng quan hệ đối ngoại với giữ
vững ổn định và phát triển đất nước; giữa hội nhập quốc tế với giữ vững độc lập
dân tộc, chủ quyền quốc gia, giữ gìn và phát triển bản sắc văn hoá dân tộc; giữa
mở rộng quan hệ đối ngoại với xây dựng lực lượng, tạo lập thế trận quốc phòng
- an ninh dưới sự lãnh đạo của Đảng, tổ chức quản lý của Nhà nước,… Xét về
thực chất, đây là việc xử lý mối quan hệ giữa an ninh và phát triển trong quá

trình hội nhập quốc tế.
Giữ vững độc lập dân tộc và định hướng XHCN trong hội nhập quốc tế
đặt ra vấn đề phải hết sức tránh tình trạng bị lệ thuộc vào bất cứ đối tác nào, thị
trường nào, không đẩy các đối tác vào tình thế phải lựa chọn giữa ta và nước
khác, kiên quyết khơng để rơi vào tình trạng đối đầu, bị cô lập.
Trên cơ sở phương châm đa dạng hoá, đa phương hoá, cần quán triệt sâu
sắc nhận thức mới về đối tác và đối tượng, tiếp tục tạo tương tác tích cực giữa
các đối tác trong quan hệ với nước ta, tạo được thế đan xen lợi ích, xác định
đúng các ưu tiên đối ngoại. Xuất phát từ lợi ích quốc gia dân tộc lâu dài và trước
mắt, trong từng lĩnh vực và từng thời kỳ, từng hoàn cảnh điều kiện đất nước và
tình hình thế giới mà có chính sách và các biện pháp cụ thể trong quan hệ với
từng đối tượng, đối tác; chủ động thiết lập thêm quan hệ đối tác chiến lược với
các nước, nhất là các nước lớn.
V.I.Lênin đã từng khái quát, chính sách đối ngoại là sự kéo dài của chính
sách đối nội. Trải qua các giai đoạn lịch sử, đường lối độc lập, tự chủ về đối
ngoại của Việt Nam luôn tn thủ vấn đề có tính quy luật này.
Trong giai đoạn phát triển mới của nước ta - giai đoạn phát huy sức mạnh
toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm


15

2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp, theo hướng hiện đại, nhiệm vụ
trung tâm của công tác đối ngoại Việt Nam là “giữ vững mơi trường hịa bình,
thuận lợi cho đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo vệ vững chắc độc
lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; nâng cao vị thế của đất nước;
góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
tiến bộ xã hội trên thế giới”. Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị này, đối
ngoại Việt Nam phải đồng thời tiến hành nhiều hoạt động khác nhau. Rất nhiều
vấn đề cần thực hiện tốt để có thể giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa độc lập,

tự chủ và hội nhập quốc tế.
Một là, quán triệt sâu sắc và thực hành đúng tư tưởng xây dựng thực lực
mạnh. Thực hiện đúng tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh: “Thực lực mạnh,
ngoại giao sẽ thắng lợi. Thực lực là cái chiêng mà ngoại giao là cái tiếng. Cái
chiêng có to tiếng mới lớn”. Tư tưởng này khẳng định bản chất, nguồn gốc cũng
như điều kiện của sức mạnh ngoại giao Việt Nam là thực lực, “muốn người ta
giúp cho, thì trước hết mình phải tự giúp lấy mình đã”. Điều kiện để bảo đảm
độc lập, tự chủ về đối ngoại hiện nay là giữ vững ổn định về chính trị, xã hội;
kinh tế tăng trưởng nhanh và bền vững; củng cố quốc phòng - an ninh vững
mạnh; xây dựng nguồn nhân lực đối ngoại trung thành và chuyên nghiệp; đa
dạng hóa, đa phương hóa các quan hệ quốc tế; thiết lập và duy trì được trạng
thái quan hệ quốc tế cân bằng với các nước lớn, các trung tâm tài chính, kinh tế
lớn, các nhóm, khối nước khu vực có ảnh hưởng lớn trên thế giới.
Hai là, kiên định lợi ích quốc gia, dân tộc gắn liền với đoàn kết và hợp
tác quốc tế. Mọi hoạt động đối ngoại xét đến cùng cũng vì lợi ích của dân tộc
Việt Nam; cụ thể là “muốn làm gì cũng cần vì lợi ích của dân tộc mà làm”(5).
Lợi ích của dân tộc là tối cao, xa rời mục đích này mọi hoạt động đối ngoại đều
trở nên vô nghĩa. Cho nên, mọi sự đoàn kết, hợp tác hay hội nhập quốc tế hiện
nay, tất thảy đều phải xoay quanh cái trục “dĩ bất biến” này. Trong đó, chính trị,
quốc phịng, an ninh là những lợi ích có tính ngun tắc. Có như vậy, bản chất


16

của độc lập, tự chủ trong hội nhập quốc tế mới được thực hiện và thực hiện theo
đúng nghĩa: “Độc lập nghĩa là chúng tôi điều khiển lấy mọi công việc của chúng
tơi, khơng có sự can thiệp ở bên ngoài”
Độc lập, tự chủ của Việt Nam hoàn toàn khác về bản chất và luôn xa lạ
với tư tưởng biệt lập, khép kín, chủ nghĩa dân tộc cực đoan và biệt phái. Độc lập
là thực hiện các quyền dân tộc cơ bản trong điều kiện cùng bảo đảm lợi ích

chính đáng của các dân tộc. Độc lập, tự chủ nhưng cần gắn với đoàn kết, hợp tác
quốc tế. Cho nên, đối ngoại cũng phải thực hành “ứng vạn biến”. Theo đó, sự
chia sẻ hệ thống các lợi ích về kinh tế, khoa học và cơng nghệ, văn hóa, xã hội,
giáo dục, y tế, môi trường… phải dựa trên các nguyên tắc: tối ưu hóa các lợi ích
quốc gia và lợi ích trong nước; chia sẻ cùng có lợi với các nước, tổ chức quốc tế
và khu vực; không để sự chia sẻ bởi hai lợi ích trên đây chuyển hóa, tác động,
ảnh hưởng lớn đến hệ thống lợi ích chính trị, quốc phòng, an ninh của đất nước.
Giải quyết được vấn đề cơ bản trên đây về mối quan hệ lợi ích dân tộc và lợi ích
quốc tế cũng đồng nghĩa với tăng cường độc lập, tự chủ của đối ngoại Việt Nam
trong hội nhập quốc tế; tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của cộng
đồng quốc tế.
Ba là, chủ động tham gia vào các tiến trình khu vực và quốc tế, nêu cao
cảnh giác và có các biện pháp phù hợp trong hội nhập quốc tế. Độc lập và tự
chủ về đối ngoại của Việt Nam hiện nay luôn nằm trong các mối tương quan
chiến lược giữa các nước lớn, các trung tâm quyền lực trên thế giới; giữa sự ổn
định, phát triển hay bất ổn, khủng hoảng ở khu vực Đông Nam Á và châu Á Thái Bình Dương; giữa tương quan lực lượng các đối tác và đối tượng. Tính
biện chứng của vấn đề độc lập, tự chủ không chỉ bao gồm việc khắc phục sự lệ
thuộc, phụ thuộc, chống áp đặt, lôi kéo, chi phối, can thiệp vào công việc nội bộ
hay bị động, bất ngờ trước những diễn biến của môi trường quốc tế, sự hợp tác
của đối tác hay chống đối của đối tượng mà chủ yếu còn là nêu cao và phát huy
tính chủ động trong việc tham gia vào các nội dung, tiến trình hoạt động của khu


17

vực và quốc tế. Định hướng hoạt động đối ngoại, Đại hội XI của Đảng xác định
phải: “chủ động ngăn ngừa và giảm thiểu tác động tiêu cực của quá trình hội
nhập quốc tế.
Tham gia các cơ chế hợp tác chính trị, an ninh, kinh tế song phương và đa
phương vì lợi ích quốc gia trên cơ sở tơn trọng các nguyên tắc cơ bản của luật

pháp quốc tế, Hiến chương Liên hợp quốc”. Để giữ được độc lập, tự chủ trong
đối ngoại cần luôn chủ động tham gia vào các tiến trình hoạt động quốc tế, với
tư cách là người trong cuộc để có các dự báo chiến lược và trực tiếp đề xuất
những sáng kiến của mình trong các thỏa thuận quốc tế, tranh thủ tối đa sự ủng
hộ, hạn chế thấp nhất những khác biệt, bất đồng... Đồng thời, cũng cần phát huy
vai trò, tham gia một cách có trách nhiệm đối với việc bảo đảm sự ổn định của
khu vực và quốc tế, thông qua các sáng kiến, đề xuất được cộng đồng chấp
nhận. Mặt khác, cần luôn đề cao cảnh giác trong quan hệ đối ngoại và hợp tác
quốc tế. Tích cực thực hiện phương châm đa dạng hóa, đa phương hóa các quan
hệ quốc tế, “thêm bạn bớt thù”... Bằng nhiều nội dung, biện pháp thích hợp
chống chủ nghĩa cơ hội về chính trị, sự lừa đảo và “chụp giật” về kinh tế; bằng
nhiều hình thức đối ngoại phù hợp để chủ động tiến cơng các thế lực thù địch từ
bên ngồi lãnh thổ Việt Nam, thực hành tốt tư tưởng “ngoại giao là một mặt
trận”.
Bốn là, nâng cao trí tuệ, bản lĩnh ngoại giao Việt Nam. Trong xu thế hội
nhập quốc tế hiện nay, sự hiểu biết toàn diện mọi mặt của đời sống kinh tế,
chính trị, xã hội, quốc phịng, an ninh của đất nước, cũng như quốc tế và khu
vực là sức mạnh của ngoại giao Việt Nam. Trong đó, điểm mấu chốt là nắm
vững nội dung, xu thế vận động phát triển tất yếu của thời đại và mục tiêu của
cách mạng Việt Nam; hiểu rõ lực lượng cách mạng trong nước, khu vực và quốc
tế, phương thức phát huy sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại; nắm vững
phương pháp, nghệ thuật ngoại giao, nhất là tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo và
phong cách ứng xử linh hoạt…Có sự hiểu biết, trí tuệ và sáng suốt đó sẽ giúp


18

hoạt động đối ngoại đi đúng hướng, xây dựng được đội ngũ cán bộ ngoại giao có
bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức cách mạng trong sáng, trung thành với Tổ
quốc, có phong cách ngoại giao chuyên nghiệp, hiện thực hóa được chủ trương

của Đảng: “Trong bất cứ hồn cảnh nào cũng cần kiên định ý chí độc lập, tự chủ
và nêu cao tinh thần hợp tác quốc tế, phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh
thủ ngoại lực, kết hợp yếu tố truyền thống với yếu tố hin i
Tóm lại, nhìn lại chặng đờng lịch sử đấu tranh cách mạng ca dõn tc ta,
gi vng c lp dân tộc và định hướng XHCN trong hội nhập quốc t ú là sự
kế thừa, phát huy truyền thống quý báu của dân tộc, là sự nối tiếp tinh thần độc
lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng ta, của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hiện nay công
cuộc đổi mới do Đảng ta lÃnh đạo đang bớc vào chiều sâu của sự nghiệp đổi mới,
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc theo định hớng XHCN. Để thực
hiện thắng lợi sự nghiệp v vang đó, đòi hỏi Đảng ta phải tiếp tục phát huy tinh
thần độc lập, tự chủ, sáng tạo trong việc hoạch định đờng lối chiến lợc, sách lợc
cách mạng, kiên trì mục tiêu, con đờng đi lên CNXH. Đồng thời, ton ng,
ton dõn v ton quõn ta, trc ht l các tổ chức đảng, đội ngũ đảng viên phải
không ngừng quán triệt, nghiên cứu nắm vững và hiểu rõ những kinh nghiệm
phong phú, sáng tạo của Đảng trong hoạch định đờng lối cách mạng ch ụng
hi nhp quc t. Nhận thức sâu sắc những bài học lớn đợc Đảng tổng kết từ
toàn bộ quá trình lÃnh đạo cách mạng cùng với những giá trị truyền thống của
Đảng để vận dụng thích hợp và phát triển hơn nữa trong sự nghiệp xây dựng v
bo v T quốc Việt Nam XHCN theo con ®êng ®ỉi míi hiƯn nay
Ngoài ra để phát huy hơn nữa là việc chúng ta cũng cần phải thường
xuyên đẩy mạnh công tác tư tưởng, thông tin tuyên truyền nhằm tạo sự thống
nhất rộng rãi trong nhận thức xã hội về những nội dung mới, những biểu hiện
mới của độc lập dân tộc và việc bảo vệ độc lập dân tộc, giữ vững định hướng
XHCN trong bối cảnh tồn cầu hố và hội nhập quốc tế. Tiếp tục mở rộng và


19

phát huy dân chủ, tăng cường đổi mới xây dựng, củng cố và hồn thiện hệ
thống chính trị, nâng cao năng lực, hiệu lực và hiệu quả quản lý của Nhà

nước. Tháo gỡ kịp thời những khó khăn, hạn chế, vướng mắc về cơ chế và chính
sách, tạo mơi trường pháp lý thuận lợi cho đổi mới, phát triển kinh tế- xã hội,
đặc biệt là tái cấu trúc kinh tế và thúc đẩy sản xuất kinh doanh. Tăng cường sức
mạnh quốc phòng - an ninh, kết hợp chặt chẽ quốc phòng - an ninh với kinh tế
và đối ngoại. Đề cao cảnh giác trước âm mưu của các thế lực thù địch lợi dụng
chính sách mở cửa, hội nhập quốc tế của Việt Nam để "Diễn biến hồ bình".
Qn triệt sâu sắc hơn nữa và thực hiện một cách sáng tạo, có hiệu quả
chủ trương của Đảng về chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Xử đúng đắn, lý
linh hoạt các vấn đề quốc tế có liên quan trực tiếp đến an ninh và phát triển của
đất nước theo đúng quan điểm: “là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách
nhiệm trong cộng đồng quốc tế; vì lợi ích quốc gia, dân tộc; vì một nước Việt
Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh”. Quán triệt sâu sắc tư tưởng chỉ đạo đối ngoại
là giữ vững độc lập tự chủ, tự lực tự cường, giữ vững định hướng XHCN, đặt lợi
ích quốc gia dân tộc lên trên hết, lấy đó làm tiêu chí cao nhất để xác định hay
điều chỉnh biện pháp chính sách một cách kịp thời, linh hoạt, khơn khéo. Có
sách lược mềm dẻo trong công tác thông tin, tuyên truyền đối ngoại nhằm phục
vụ tốt nhất các yêu cầu tăng cường quan hệ đối ngoại vì hồ bình, hợp tác và
phát triển. Khắc phục những vấn đề tồn tại trong nước, không để các diễn biến
trong nước ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động đối ngoại, đặc biệt các vấn đề
nhạy cảm thường bị các thế lực thù địch lợi dụng để vu cáo, xuyên tạc liên quan
dân chủ, nhân quyền, tôn giáo, sắc tộc./.



×