Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

TOÀN cầu hóa KINH tế cơ hội, THÁCH THỨC và một số GIẢI PHÁP hội NHẬP KINH tế QUỐC tế của VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (242.5 KB, 32 trang )

TOÀN CẦU HÓA KINH TẾ - CƠ HỘI, THÁCH THỨC VÀ MỘT SỐ
GIẢI PHÁP HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN
HIỆN NAY
Toàn cầu hoá là một xu thế phát triển tất yếu của lịch sử nhân loại. Ngày nay,
toàn cầu hoá kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế là đặc trưng và xu hướng phát
triển phổ biến của nền kinh tế thế giới, bất luận đó là nền kinh tế có quy mô và
trình độ phát triển ra sao và thuộc chế độ chính trị - xã hội thế nào.
Việt Nam đang trong quá trình đổi mới, phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hoá gắn với phát triển
kinh tế trí thức, nhằm tạo ra cơ sở vật chất cho thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Vì vậy, việc nhìn nhận một cách khách quan về thời cơ, thách thức do toàn cầu hóa
kinh tế mang lại là rất cần thiết. Đặc biệt, việc đẩy mạnh tham gia hội nhập vào
nền kinh tế khu vực và thế giới là một nội dung khía cạnh quan trọng.
I. TOÀN CẦU HOÁ KINH TẾ - XU HƯỚNG VẬN ĐỘNG TẤT YẾU
CỦA LỊCH SỬ
1. Toàn cầu hóa kinh tế
Hiện nay, có nhiều định nghĩa khác nhau về toàn cầu hóa. Theo định nghĩa
của ủy ban Châu Âu năm 1997: “Toàn cầu hóa có thể được định nghĩa như là một
quá trình mà thông qua đó thị trờng và sản xuất ở nhiều nước khác nhau đang trở
nên ngày càng phụ thuộc lẫn nhau”. Hay một định nghĩa khác lại cho rằng: “Toàn
cầu hóa kinh tế phản ánh một mức độ phụ thuộc lẫn nhau toàn diện hơn so với quá
khứ, cho thấy một sự khác biệt với thuật ngữ “quốc tế hóa”. Nó ngụ ý tầm quan
trọng ngày càng giảm của các đường biên giới của quốc gia và sự tăng cường
những đặc tính lan tỏa ra ngoài biên giới bắt nguồn từ một nước, hoặc một khu
vực nhất định…”.
Tuy nhiên, tại hội thảo “Hội nhập kinh tế quốc tế - những vấn đề lý luận và
thực tiễn diễn ra tại Hà nội vào ngày 11/03/2004 thì các đại biểu đã đồng thuận ý

3



kiến với một khái niệm mới được tập hợp từ các khái niệm khác nhau về toàn cầu
hóa như sau :
“Toàn cầu hóa về kinh tế là một quá trình phát triển kinh tế của các nước
trên thế giới và các quan hệ kinh tế quốc tế vượt khỏi biên giới một quốc gia, hướng tới phạm vi toàn cầu, trong đó, hàng hóa, vốn, tiền tệ, thông tin, lao động…
vận động thông thoáng. Mối quan hệ giữa các quốc gia và khu vực được vận hành
theo “luật chơi” chung được xác lập giữa các thành viên trong cộng đồng quốc tế;
sự phân công hợp tác quốc tế ngày càng sâu rộng, tính xã hội hóa của sản xuất
ngày càng tăng, các nền kinh tế ngày càng có mối quan hệ mật thiết với nhau và
tùy thuộc lẫn nhau”.
2. Cơ sở lí luận và thực tiễn của toàn cầu hóa
a. Cơ sở lí luận của toàn cầu hóa
Cơ sở lí luận quan trọng nhất của quá trình toàn cầu hóa là xuất phát từ lý
thuyết về lợi thế so sánh do Adam Smith nêu ra năm 1776 và sau này David
Ricardo (1817) đã bổ sung thêm. Trong lý thuyết so sánh này có 4 điểm quan
trọng:
Thứ nhất, thương mại tự do làm cho sản xuất có hiệu quả hơn, nghĩa là
thương mại tự do hướng các quốc gia và các doanh nghiệp vào lĩnh vực có hiệu
quả nhất, rời bỏ các lĩnh vực kém hiệu quả hơn theo các nguyên tắc của thị trường.
Các quốc gia và doanh nghiệp sẽ căn cứ vào các tín hiệu của thị trường (giá cả, tỷ
giá, lãi suất…), vào các nguồn lực phát triển của mình để lựa chọn các lĩnh vực
kinh doanh có hiệu quả nhất.
Thứ hai, thương mại tự do làm cho tiêu dùng có hiệu quả hơn, do không có
hàng rào thuế quan và phi thuế quan, nên giá cả các hàng hóa và dịch vụ sẽ rẻ hơn,
sản phẩm đa dạng hơn, chất lượng cao hơn và mua bán thuận tiện hơn.
Thứ ba, thương mại tự do làm cạnh tranh sẽ mạnh mẽ hơn, gia tăng động lực
tăng trưởng của kinh tế thị trường.

4



Thứ tư, thương mại tự do thúc đẩy quá trình đổi mới toàn diện ở các quốc gia
và công ty tham gia, vì nếu không đổi mới toàn diện các quốc gia và công ty sẽ rơi
vào tình thế không có lợi, sẽ bị thua thiệt và tụt hậu.
Mọi quốc gia và công ty tham gia vào toàn cầu hóa đều chịu tác động theo
bốn hướng trên. Nếu thích ứng được, có nghĩa là việc sản xuất, kinh doanh, tiêu
dùng có hiệu quả hơn, thực hiện đổi mới và thích ứng được với cạnh tranh quốc tế,
các quốc gia và các công ty đó sẽ dành được những lợi ích to lớn. Ngược lại,
không thích ứng đợc, có nghĩa các quốc gia và công ty không đổi mới đủ mức làm
cho sản xuất - kinh doanh của mình có hiệu quả hơn, không từ bỏ các ngành, lĩnh
vực sản xuất kinh doanh kém hiệu quả, không giảm được hàng rào bảo hộ có hại
cho người tiêu dùng trong nước… thì họ sẽ bị thua thiệt, tụt hậu.
Cơ sở lí luận thứ hai, đó là những lý thuyết về kinh tế thị trường, trước hết là
những nguyên tắc cơ bản của kinh tế thị trường bao gồm: sự không phân biệt đối
xử về quyền kinh doanh đối với mọi công ty trong và ngoài nước, một đồng tiền
quốc gia chuyển đổi tự do, tự do hóa giá cả, lãi suất, tỷ giá, tự do hóa thương
mại… Đây chính là một nguồn lực phát triển cho mọi quốc gia.
Đây là cơ sở lí luận rất cơ bản, vì các quan hệ kinh tế toàn cầu hiện nay vẫn
phải tác động theo các nguyên tắc của thị trường. Cho đến nay người ta chưa thấy
xuất hiện những cơ sở cho một nền kinh tế toàn cầu không phải là thị trường. Do
vậy, tất cả các nền kinh tế chấp nhận tham gia toàn cầu hóa đều phải chấp nhận các
nguyên tắc của thị trường, đều phải tiến hành những cải cách, những chuyển đổi
theo thị trường hóa. Thực tế cũng cho thấy những nền kinh tế tham gia vào toàn
cầu hóa, nhưng đã tiến hành những cải cách thị trường nửa vời, đều đã không đạt
được những kết quả mong đợi, thậm chí còn chịu thua thiệt.
Cơ sở lí luận thứ ba, đó là lý thuyết thể chế. Lý thuyết thể chế đặc biệt là lý
thuyết thể chế mới cho rằng hành vi của con người vì nhiều lí do mang tính hợp lý có
giới hạn và mang nhiều tính cơ hội, do vậy cần phải được hướng dẫn bởi các thế chế
phù hợp với xu thế phát triển và chính các thể chế này là sự đảm bảo cho sự phát triển
và thịnh vượng của các quốc gia. Trong điều kiện kinh tế thị trường hội nhập quốc tế,
5



những thể chế này có năm hình thức: Thể chế tiền tệ; quan hệ lao động; quan hệ cạnh
tranh; phương thức hội nhập quốc tế; bản chất và hình thức nhà nước.
Các quốc gia khi tham gia vào toàn cầu hóa kinh tế và hội nhập kinh tế quốc
tế đều phải thương lượng, ký các cam kết hội nhập khu vực hay toàn cầu. Sau đó
những cam kết này phải được thể chế hóa thành luật pháp quốc gia, và phải tuân
thủ các luật pháp đó. Trên thực tế, đối với các nước đang phát triển, hệ thống luật
pháp chưa hoàn thiện, nhiều luật rất quan trọng của kinh tế thị trường cũng chưa
có. Do vậy, những cam kết có tính thể chế này có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối
với sự hoàn thiện thể chế thị trường, cũng như đối với sự phát triển của các quốc
gia này.
Với những căn cứ trên đây, toàn cầu hóa đang phát triển như một xu hướng
tất yếu khách quan.
b. Cơ sở thực tiễn của toàn cầu hóa
Thứ nhất; một nền công nghệ toàn cầu đang xuất hiện.
Nền công nghệ cơ khí về cơ bản vẫn là một nền công nghệ có tính quốc gia,
vì nó luôn phải lấy thị trường trong nước làm chính. Một khi chi phí vận tải, liên
lạc còn quá đắt đỏ, thì việc sản xuất, vận tải, tiêu thụ các hàng hóa ở thị trường bên
ngoài luôn có nhiều rủi ro bất trắc và có lợi thế so sánh hạn chế. Giải pháp để giảm
bớt những rủi ro bất trắc này và đảm bảo có lợi thế so sánh là những nước sản xuất
hàng hóa phải xâm chiếm và phân chia thị trờng thế giới, thị trường của ai, kẻ đó
có độc quyền bán hàng. Nhưng sự xâm chiếm thị trường này đã dẫn đến những
xung đột giữa các nước thuộc địa nơi bán hàng và các nước chính quốc, kẻ xâm
chiếm. Các nước đế quốc xuất hiện sau không có thị trường, đòi chia lại thị trường,
chiến tranh bùng nổ. Trong tình trạng xung đột như vậy thị trường thế giới đã bị xé
nhỏ và chia cắt. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, hệ thống thuộc địa đã tan rã, các
nước đế quốc không thể xâm chiếm và chia nhau thị trường bằng chiến tranh như
trước nữa, do sức mạnh của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới và phong trào giải
phóng dân tộc. Nhưng thị trường thế giới lại bị chia cắt theo hướng khác: thị

trường của các nước XHCN đối lập với thị trường các nước TBCN; Các quốc gia
6


mới độc lập hầu như thi hành chính sách bảo hộ mậu dịch chặt chẽ, các nước phát
triển vừa thi hành chính sách bảo hộ mậu dịch, vừa mở cửa thị trường theo các
hiệp nghị song phương và khu vực. Hiệu năng của nền công nghiệp cơ khí chưa
cho phép các quan hệ kinh tế quốc tế có thể phát triển xa hơn xét về mặt hiệu quả
kinh tế.
Trong những thập kỷ gần đây, công nghệ thông tin và vận tải đã có những tiến
bộ vượt bậc, đã làm giảm chi phí vận tải quốc tế xuống cả chục lần và giảm chi phí
liên lạc viễn thông xuống tới vài trăm lần (Năm 1930 một cú điện thoại từ London
đến Newyork trong 3 phút mất 300 USD, nay chỉ còn không đáng kể). Tiến bộ
công nghệ này đã có tác động cực kỳ quan trọng đến toàn bộ các quan hệ kinh tế
quốc tế, nó đã biến các công nghệ có tính quốc gia thành công nghệ toàn cầu.
Chính công nghệ toàn cầu này là cơ sở quan trọng đầu tiên, đặt nền móng cho sự
đẩy mạnh quá trình toàn cầu hóa. Nhờ có công nghệ toàn cầu phát triển, sự hợp tác
giữa các quốc gia, các tập đoàn kinh doanh có thể mở rộng từ sản xuất đến phân
phối dịch vụ trên phạm vi toàn cầu, những quan hệ tùy thuộc lẫn nhau cùng có ích
phát triển. Đó là cơ sở đầu tiên của nền kinh tế toàn cầu thống nhất.
Thứ hai; các quan hệ kinh tế toàn cầu ngày càng phát triển.
Một nền công nghệ toàn cầu xuất hiện đã là cơ sở cho các quan hệ kinh tế
toàn cầu phát triển. Đầu tiên là các quan hệ thương mại. Chi phí vận tải liên lạc
càng giảm đi thì khả năng bán hàng đi các thị trường xa càng tăng lên, thương mại
toàn cầu càng có khả năng phát triển. Đồng thời quá trình phân công, chuyên môn
hóa sản xuất càng có thể diễn ra giữa các quốc gia và châu lục. Các linh kiện của
máy bay Boing, của ô tô, của máy tính… đã có thể sản xuất ở hàng chục nước khác
nhau. Các quan hệ sản xuất, thương mại có tính toàn cầu đã kéo theo các dòng tiền
tệ, vốn, dịch vụ… vận động trên phạm vi toàn cầu. Công nghệ thông tin đã làm cho
các dòng vận động này thêm náo nhiệt và nhanh nhạy. Ngày nay, lượng buôn bán

tiền tệ toàn cầu mỗi ngày đã vượt quá 4000 tỷ USD. Thương mại điện tử xuất hiện
với kim ngạch ngày càng tăng và đang trở thành một loại hình buôn bán toàn cầu
không biên giới đầy triển vọng.
7


Sự phát triển của công nghệ toàn cầu và các quan hệ kinh tế toàn cầu đang
ngày càng xung đột với các thể chế quốc gia, với các rào cản quốc gia. Sự phát
triển của lực lượng sản xuất và các quan hệ kinh tế toàn cầu đang công phá các
bức tường thành quốc gia. Bước vào thập kỉ 90 các bức tường thành quốc gia này
đã bị phá vỡ ở các quốc gia trong liên minh Châu Âu, ở các quốc gia Bắc Mỹ với
mức độ thấp hơn, các quốc gia ASEAN đã cam kết giảm bớt rào cản quốc gia.
Các thành viên của Tổ chức thương mại thế giới cũng đã cam kết một lộ trình
giảm bỏ hàng rào này. Nhưng phải thừa nhận là những bức tường thành quốc gia
này vẫn còn rất mạnh ở nhiều nước và ở ngay cả liên minh Châu Âu hay Bắc Mỹ
với những hình thức biến tướng đa dạng. Chính chúng đang cản trở quá trình toàn
cầu hóa.
Thứ ba; những vấn đề kinh tế toàn cầu ngày càng xuất hiện nhiều và trở nên
bức xúc, ngày càng đòi hỏi phải có sự phối hợp toàn cầu.
Người ta có thể kể ra ngày càng nhiều các vấn đề kinh tế toàn cầu như thương
mại, đầu tư, tiền tệ, dân số, lương thực, năng lượng, môi trường… Môi trường toàn
cầu ngày càng bị phá hoại, các nguồn tài nguyên thiên nhiên ngày càng bị cạn kiệt,
dân số thế giới đang gia tăng nhanh chóng trở thành một thách thức toàn cầu. Các
dòng vốn toàn cầu vận động tự do không có sự phối hợp điều tiết đã làm nảy sinh các
cuộc khủng hoảng liên tiếp ở Châu Âu, Châu Mỹ, và Châu á trong thập kỷ 1990…
Cần có sự phối hợp toàn cầu để đối phó với các thách thức đó. “Bàn tay hữu hình”
của các chính phủ đã chỉ ra sự hữu hiệu ở các quốc gia, còn trên phạm vi toàn cầu
hiện đang có quá nhiều “bàn tay hữu hình” vỗ đập vào nhau, chứ chưa có “một bàn
tay hữu hình” chung làm chức năng điều tiết toàn cầu. Ngoài ba căn cứ chính trên đây
thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa phát triển, còn có thể có những căn cứ khác như:

chiến tranh lạnh chấm dứt vào đầu thập kỷ 1990 đã chấm dứt sự đối đầu giữa các siêu
cường, tạo ra một thời kì hòa bình, hợp tác và phát triển mới.
3. Tính chất hai mặt của toàn cầu hóa
a. Những mặt tích cực:

8


Nhìn tổng thể, tự do hóa thương mại và toàn cầu hóa kinh tế đã thúc đẩy phát
triển sản xuất và tăng trưởng kinh tế toàn cầu.
Hội nghị UNCTADX cho rằng “toàn cầu hóa và sự phụ thuộc vào nhau, nhờ
sự mở rộng tự do hóa thương mại và tiến bộ về công nghệ, đã mở ra những triển
vọng mới cho sự tăng trưởng kinh tế thế giới và cho sự phát triển. Với sự tăng tốc
của toàn cầu hóa đầu thập niên 90, người ta dự kiến rằng sự tăng trưởng và phát
triển, với động lực của thị trường thế giới, sẽ nhanh hơn, bền vững hơn, và được
chia sẻ rộng rãi hơn trong quá khứ”.
Tự do hóa thương mại và toàn cầu hóa kinh tế đã đáp ứng và tạo ra nhu cầu
ngày càng đa dạng và thúc đẩy tiêu dùng và qua đó mà thúc đẩy sản xuất phát
triển. Tự do hóa thương mại và toàn cầu hóa kinh tế đã vận dụng triệt để quy luật
cung cầu của cơ chế thị trường, lấy kích cầu (kích thích tiêu dùng) để tăng cung
(phát triển sản xuất) và cung phải nhằm mục tiêu đáp ứng và tạo ra những nhu cầu
tiêu dùng mới, ngày càng cao. Sự đa dang và phong phú của các mặt hàng tiêu dùng
và các dịch vụ, những tiện nghi trong sinh hoạt đối với những người có điều kiện mua
sắm là điều không thể phủ nhận. Dưới tác động của các tiến bộ khoa học và công nghệ,
tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, phương thức tổ chức sản xuất đã có nhiều
thay đổi cơ bản. Tính chất của lao động, phương thức tổ chức các doanh nghiệp cũng
thế. Điều này đúng nhìn trên quy mô toàn cầu, cũng như đối với nền kinh tế của các
nước đã phát triển.
Tự do hóa thương mại và toàn cầu hóa kinh tế đã thúc đẩy đầu tư cho khoa
học, công nghệ và khai thác triệt để lĩnh vực này. Công nghệ luôn là lá bài chủ lực

của các tập đoàn xuyên quốc gia trong việc tìm kiếm lợi nhuận, cạnh tranh và
chiếm lĩnh thị trường. Tự do hóa thương mại và toàn cầu hóa kinh tế đã tạo ra một
cuộc tập hợp lực lượng rộng rãi trên phạm vi toàn cầu, đấu tranh cho công bằng và
tiến bộ xã hội.
Trong báo cáo của tổng thư kí UNCTAD tại hội nghị lần thứ X của tổ chức
này, tại Bangkok tháng 2 năm 2000, có nêu: “Việc xem xét lại này phải đề cập
trực diện vấn đề gắn nội tại của các quá trình tự do hóa và toàn cầu hóa để làm
9


cho các quá trình này trở nên công bằng hơn. Một hệ thống kinh tế thế giới bất lực
trong việc tạo cho những nước nghèo và cho những nhóm người nghèo của các
nước, những khả năng đủ và khả thi để nâng cao mức sống, chắc chắn sẽ đánh
mất tính chính đáng của nó đối với các nước đang phát triển. Và không có tính
chính đáng đó, không có một hệ thống kinh tế thế giới nào tồn tại lâu dài được. “
Tuyên bố cuối cùng của các cuộc họp của các nghị sỹ các nước G7 tại La
Habana (Cuba) vào tháng 3 năm 2000 cũng cho rằng phải đưa toàn cầu hóa vào
một quỹ đạo công bằng, đích thực vì hạnh phúc của toàn nhân loại.
b. Những mặt trái:
Tự do thương mại, trên thực tế hầu như chỉ diễn ra một chiều từ các nước
phát triển đến các nước đang phát triển. Các quy định về tự do thương mại hiện
nay như nguyên tắc đối xử quốc gia gần như chỉ có các nước đang phát triển đơn
phương phải thực hiện. Các nước đã phát triển, dưới nhiều hình thức và viện dẫn
khác nhau, trên thực tế đã và đang áp dụng chủ nghĩa bảo hộ và phân biệt đối xử
đối với hàng hóa của các nước đang phát triển (phương Nam), tạo nên những bức
rào ngăn chặn hàng hóa của các nước này thâm nhập thị trường của mình. Các
nước đang phát triển đang đấu tranh ngày càng mạnh mẽ chống lại các hình thức
bảo hộ, các rào cản, trực tiếp và gián tiếp, bởi vì chúng đi ngược lại với chính
nguyên tắc tự do hóa thương mại.
Cánh kéo giá giữa hàng nông sản, nguyên vật liệu và hàng công nghệ phẩm,

dịch vụ rất xa, là một bất lợi lớn cho các nước đang phát triển. Giá các mặt hàng
nông sản và nguyên liệu, khoáng sản trên thị trường thế giới bấp bênh và nhìn
chung có xu hướng giảm trên biểu đồ nhiều năm. Đây lại là các mặt hàng xuất
khẩu chủ yếu của các nước đang phát triển. Trong khi đó hàng công nghệ phẩm và
dịch vụ được định giá theo một thang bậc cao hơn rất nhiều lần. Cánh kéo giá cả
xuất - nhập ngày càng bất lợi cho các nước đang phát triển.
Việc tự do hóa tuyệt đối chu chuyển tư bản tiền tệ và thị trường tài chính,
không có sự kiểm soát cần thiết, là một nguy cơ cho sự ổn định của nền kinh tế thế
giới. Mặt khác, thị trường tài chính mỗi khi bị khủng hoảng thì sự khủng hoảng lan
10


truyền rất nhanh, làm trầm trọng thêm khủng hoảng. Đây là nguyên nhân chủ yếu
nhất dẫn đến các cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong những năm gần đây.
Sự trao đổi mậu dịch của các nước nghèo, vốn đã không ổn định, sự không ổn
định tài chính càng làm cho các nước này hết sức dễ bị tổn thương. Hệ quả của các
cuộc khủng hoảng này rất khắc nghiệt đối với các nước nghèo, tầng lớp lao động
nghèo. Trong phút chốc, chúng làm tiêu tan một phần quan trọng những gì mà nền
kinh tế nghèo và mong manh của những nước đang phát triển đã tích lũy được trong
nhiều chục năm, làm cho các nước này lâm vào những khó khăn kinh tế - xã hội trầm
trọng. Trong khi đó, các công ty xuyên quốc gia và tầng lớp giàu của các nước bị
khủng hoảng lại thu được những món kếch xù nhờ vào phương sách giải quyết khủng
hoảng do IMF đề ra.
Sự phân hóa giàu nghèo giữa các nước và trong mỗi nước là mặt trái mang
tính tổng hợp nhất của tự do hóa thương mại và toàn cầu hóa kinh tế hiện nay.
Các số liệu về tăng trưởng trung bình của GDP toàn thế giới, của GDP bình
quân đầu người trên thế giới trong thời gian qua chỉ có một ý nghĩa tương đối, tự
chúng không nói lên thu nhập thực sự của các nước và của các tầng lớp nhân dân
các nước. Thật ra, sự phân hóa giàu nghèo giữa các nước và trong mỗi nước,
nghiêm trọng chưa từng thấy, là vấn đề nổi cộm nhất hiện nay và là biểu hiện tiêu

cực tổng hợp của xu hướng toàn cầu hóa hiện nay.
Theo một báo cáo của Chương trình phát triển của LHQ (UNDP), năm 1960,
khoảng cách giữa các nước giàu nhất và nghèo nhất trên thế giới là 30 lần, năm
1990 là 60 lần, năm 1997 là 74 lần. Theo một nghiên cứu gần đây, khoảng cách
giữa 1/5 người giàu nhất và 1/5 ngời nghèo nhất trong tổng số các nước trên thế
giới vào đầu thế kỉ 21 đang tiến tới gần 150 lần.
Tại hội nghị cấp cao Nhóm G77 tại La Habana, tháng 4/2000, Chủ tịch Fidel
Castro đã phát biểu:
“Toàn cầu hóa là một khách quan, nói lên rằng chúng ta đều là một hành
khách trên một con tàu. Nhưng các điều kiện không như nhau cho mọi hành khách.
Một thiểu số rất ít, sống trong những phòng đầy đủ tiện nghi, được nối mạng
11


internet, có điện thoai di động, dùng những bữa cơm thịnh soạn, có nước uống, có
bác sĩ trên tàu chăm sóc, có phòng giải trí và được thưởng thức các loại hình văn
hóa.
Tuyệt đại bộ phận hành khách, khoảng 85%, trên tàu sống trong những điều
kiện gợi cho chúng ta nhớ lại các chuyến tàu khủng khiếp chở nô “lệ từ châu Phi
sang châu Mỹ trong thời kỳ thực dân: sống chen chúc trong những phòng nhơ bẩn,
chịu đói khát, bệnh tật, đau đớn và vô vọng”.
Chuyến tàu vợt đại dương này mang theo quá nhiều bất công và phi lý để có
thể không bị đắm, và đi theo một hành trình quá vô lý để có thể yên ổn cập bờ.
Dường như nó sẽ đụng phải tảng băng. Và khi đó, tất cả chúng ta sẽ chết chìm”
Tại hội nghị về an toàn lương thực toàn thế giới, tháng 6 năm 2002, tại Roma,
Koffi Annan, tổng thư kí Liên hợp quốc, đã phải nói lên một sự thật : “Thực tế mỗi
ngày trên thế giới có tới 24000 người chết vì đói. Đó thật sự là một nỗi nhục của
nhân loại”. Hố ngăn cách giàu nghèo cũng sâu sắc thêm trong mỗi nước, kể cả ở
các nước đang phát triển.
Tài nguyên thiên nhiên bị lãng phí, môi trường ngày càng suy thoái nghiêm trọng.

Tài nguyên thiên nhiên và môi trường sinh thái đang chịu nhiều sức ép mà
trước tiên là sự gia tăng dân số, từ sự nghèo khổ, từ sự kích thích tiêu dùng không
có điểm dừng, thừa thãi, lãng phí và từ sự từ nhiệm đối với môi trường vì lợi nhuận
trong quá trình công nghiệp hóa.
Việc phá rừng trên quy mô rộng đã làm giảm tốc độ che phủ của thảm thực
vật. Việc phá rừng ở đầu nguồn các sông, hồ, biển nội địa, đã làm thay đổi môi
trường và sự đa dạng sinh học của các lưu vực và ảnh hưởng đến chế độ thủy văn
của các sông và hồ chứa này.
Việc phá rừng ngập mặn đã diễn ra trên quy mô rộng tại nhiều vùng trong
những thập niên gần đây và đã làm mất đi hàng triệu héc ta rừng ngập mặn và làm
mất đi một tấm lá chắn trước việc biển dâng.
Nguồn nước ngọt cho loài người ngày càng trở nên khan hiếm. Nhiều vùng
rộng lớn đang bị nguy cơ sa mạc hóa. Tại nhiều quốc gia, môi trường nước các
12


sông đang bị ô nhiễm nặng do chất thải công nghiệp và chất thải sinh hoạt của con
người.
Việc tuôn các chất thải, đặc biệt là chất thải công nghiệp xuống đáy đại
dương, việc khai thác quá mức tái tạo các nguồn lợi thủy sản, việc khai thác các
rạng san hô sống… đang làm cho môi trường biển và đại dương chịu nhiều tổn
thất, nhiều nơi có nguy cơ không phục hồi được.
Việc sử dụng năng lượng hiện nay trong công nghiệp và sinh hoạt, đặc biệt ở
các nước đã phát triển, đã thải vào khí quyển một lượng khí đi-ô-xid cácbon khổng
lồ làm mỏng đi tầng ô- zôn và lỗ thủng của tầng ngày càng rộng ra.
Sự ấm lên của khí hậu và sự tan băng là những nhân tố kéo theo sự dâng lên
của mực nước biển. Từ kết quả tính toán theo các mô hình khác nhau, chỉ với nhân
tố này, tổng mức nước biển dâng vào năm 2050 sẽ nằm trong khoảng từ 50 đến 60
cm. Việc nước biển dâng không chỉ có hiệu ứng tĩnh, làm ngập những vùng trũng
trước đây không bị ngập, mà còn phải tính đến những hiệu ứng động: dòng hải lưu

thay đổi, bờ biển bị xói lở với cường độ mạnh hơn; xâm nhập mặn vào sâu trong
nội địa hơn và thay đổi thảm thực vật và của hệ động vật vùng ven biển dưới tác
động các yếu tố trên.
Theo công bố gần đây của chương trình quốc tế về thay đổi khí hậu (IPCC)
thì đối với vùng nhiệt đới và xích đạo Châu á, các hiện tượng trên đây có rất nhiều
khả năng xảy ra ngay từ đầu thế kỉ XXI này.
Với các tiến bộ khoa học và công nghệ ngày nay, loài người có khả năng giải
quyết hay chế ngự ngay từ gốc, ngay từ đầu, những vấn đề môi trường nêu trên.
Tiếc thay, toàn cầu hóa kinh tế vì lợi nhuận trên hết ngày càng dẫn sâu vào con
đường tạo ra mâu thuẫn giữa con người với thiên nhiên, khiến cho môi trường suy
thoái trên phạm vi toàn cầu và trong mỗi quốc gia.
II. QUAN ĐIỂM, THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
TRONG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1. Quan điểm của Đảng ta về hội nhập kinh tế quốc tế

13


* Bối cảnh: Trước năm 1986, với cơ chế tập trung quan liêu bao cấp kéo dài,
nạn đói diễn ra trầm trọng từ những năm trước không chấm dứt, người dân luôn
sống trong cảnh nghèo đói, túng quẫn. Tiếp theo đó là lạm phát kéo dài càng làm
cho nền kinh tế Việt nam trở nên kiệt quệ. Nước ta bước vào thời kì đổi mới trong
hoàn cảnh hết sức khó khăn: lạm phát những năm 1980 khoảng trên 700%, nhập
siêu nghiêm trọng, thị trường khan hiếm, máy móc nhà xưởng ngừng hoạt động.
Bước sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, trong bối cảnh cuộc chiến tranh lạnh giữa Nga và Mỹ kết thúc, xu hướng
mở cửa hội nhập đang phát triển… Đảng và nhà nước ta đã nhận thấy việc mở cửa
là con đường giúp chúng ta thoát khỏi khủng hoảng hiện nay. Từ đó đến nay, Đảng
và nhà nước ta đã không ngừng mở rộng quan hệ hợp tác, chủ động hội nhập, đưa
nước ta đạt được nhiều thành tựu quan trọng, khẳng định sự lựa chọn đúng đắn của

mình trong việc tìm ra con đường đi thích hợp cho thời kì quá độ lên CNXH, bắt
nhịp với sự phát triển của thế giới.
* Quan điểm của Đảng ta về hội nhập kinh tế quốc tế
Gần 30 năm qua, tình hình thế giới và khu vực có những diễn biến nhanh
chóng và phức tạp. Trong các kỳ đại hội, Đảng ta luôn có những nhận thức xác
đáng về thời đại, về tình hình khu vực và thế giới để trên cơ sở đó, định hướng
những chính sách đối nội và đối ngoại phù hợp, bám sát tình hình thực tiễn.
Đại hội VI mở đầu cho thời kỳ đổi mới đất nước, Đảng ta đưa ra chủ trương
tranh thủ những điều kiện thuận lợi về hợp tác kinh tế và khoa học kỹ thuật, tham
gia ngày càng rộng rãi vào việc phân công và hợp tác quốc tế trong “Hội đồng
tương trợ kinh tế và mở rộng với các nước khác”.
Tới Đại hội VII, Đảng ta định hướng “đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ
với các quốc gia, các tổ chức kinh tế”. Tại Đại hội VIII, thuật ngữ “hội nhập” bắt
đầu được đề cập trong các văn kiện của Đảng: “Xây dựng một nền kinh tế mở, hội
nhập với khu vực và thế giới”.
Đại hội IX của Đảng nhấn mạnh việc “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và
khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế,
14


bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa”. Ngày 27-11-2001, Bộ
Chính trị khóa IX đã ban hành Nghị quyết số 07-NQ/TW “Về hội nhập kinh tế
quốc tế”.
Tại Đại hội X, Đảng ta đã nhấn mạnh chủ trương “chủ động và tích cực hội
nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác trên các lĩnh vực khác”. Ngày 0502-2007, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X đã ban hành Nghị quyết số 08NQ/TW “Về một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh và
bền vững khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới”.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra
đường lối đối ngoại của Việt Nam trong thời kỳ phát triển mới, trong đó có chủ
trương rất quan trọng là “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”. Từ “hội nhập
kinh tế quốc tế” của các kỳ đại hội trước, chuyển sang “hội nhập quốc tế” một

cách toàn diện là một phát triển quan trọng về tư duy đối ngoại của Đảng ta tại Đại
hội XI.
Ngày 10-4-2013, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 22-NQ/TW về hội
nhập quốc tế. Đây là văn kiện quan trọng, có ý nghĩa chiến lược, làm rõ và thống
nhất nhận thức trong toàn Đảng, toàn dân về hội nhập quốc tế trong tình hình mới.
Nghị quyết đã xác định rõ hội nhập quốc tế sẽ được triển khai sâu rộng trên nhiều
lĩnh vực, đặc biệt hội nhập kinh tế phải gắn với yêu cầu đổi mới mô hình tăng
trưởng và tái cơ cấu nền kinh tế.
Việc thực hiện chủ trương trên đây của Đảng đã đạt được nhiều thành tựu,
góp phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, gia tăng sức mạnh
tổng hợp quốc gia, giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ
của đất nước, giữ vững an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội; cải thiện đời
sống nhân dân, củng cố niềm tin của các tầng lớp nhân dân vào công cuộc đổi mới;
nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Nước ta đã thiết lập quan hệ
ngoại giao với hầu hết các nước, có quan hệ kinh tế - thương mại với hơn 160 nước
và vùng lãnh thổ, là thành viên của hầu hết các tổ chức khu vực và quốc tế quan
trọng với vị thế và vai trò ngày càng được khẳng định. Quan hệ giữa nước ta với
15


các nước trên thế giới ngày càng đi vào chiều sâu; hợp tác về chính trị, quốc
phòng, an ninh, văn hóa, xã hội và các lĩnh vực khác được mở rộng.
Xuyên suốt quá trình gần 30 năm đổi mới, có thể thấy quan điểm về đối ngoại
của Đảng và Nhà nước ta là:
Một là, thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa
phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế; Việt Nam muốn làm bạn và là đối
tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và
phát triển.
Hai là, tiếp tục tạo môi trường hoà bình và điều kiện quốc tế thuận lợi để đẩy
mạnh phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước,

xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh
chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã
hội.
Ba là, mở rộng quan hệ nhiều mặt, song phương và đa phương với các nước,
các tổ chức quốc tế và khu vực theo nguyên tắc tôn trọng lẫn nhau, tôn trọng độc
lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội
bộ của nhau; không dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực; bình đẳng và cùng có
lợi, giải quyết các bất đồng và các tranh chấp bằng thương lượng hoà bình; chống
mọi hành động gây sức ép, áp đặt và cường quyền.
Đối với hội nhập kinh tế quốc tế, Đảng ta xác định:
Thứ nhất, hội nhập kinh tế quốc tế là do yêu cầu nội sinh, do yêu cầu xây
dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã
hội chủ nghĩa. Hội nhập kinh tế quốc tế là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị.
Thứ hai, hội nhập kinh tế quốc tế phải gắn liền với việc giữ vững độc lập dân
tộc và chủ quyền đất nước; khẳng định mở cửa, hội nhập để khai thác các mặt có
lợi cho sự phát triển kinh tế của ta từ nền kinh tế thế giới.
Thứ ba, chúng ta chủ động hội nhập, dựa vào nguồn lực trong nước là chính,
đi đôi với tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài. Xây dựng nền kinh tế mở, hội nhập

16


với khu vực và thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu
bằng những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả.
Thứ tư, chúng ta phải nhanh chóng điều chỉnh cơ cấu thị trường, xây dựng
đồng bộ thị trường trong nước (thị trường hàng hoá, thị trường nhân lực, thị trường
tiền tệ, thị trường bất động sản), để đủ sức hội nhập với khu vực và hội nhập toàn
cầu, xử lý đúng đắn lợi ích giữa ta và các đối tác.
Thứ năm, song song với việc xây dựng, phát triển đồng bộ thị trường, chúng
ta phải nhanh chóng xây dựng các doanh nghiệp vững mạnh. Doanh nghiệp là đội

quân xung kích vô cùng quan trọng trong quá trình hội nhập kinh tế.
Thứ sáu, chủ động tham gia cộng đồng thương mại thế giới, tích cực tham gia
đàm phán thương mại, tham gia các diễn đàn, các tổ chức, các hiệp định, định chế
quốc tế một cách chọn lọc với những bước đi tỉnh táo và thích hợp.
2. Thực tiễn hội nhập kinh tế quốc tế qua gần 30 năm đổi mới
Thực hiện chủ trương, chính sách nhất quán của Đảng về hội nhập kinh tế
quốc tế, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đã đạt được những kết
quả vững chắc. Việt Nam đã gia nhập ASEAN vào tháng 7-1995, ký kết Hiệp định
Thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ (BTA) vào năm 2000, gia nhập
WTO vào tháng 01-2007 và tham gia 8 Hiệp định thương mại tự do (FTA) khu vực
và song phương. Cụ thể, ta đã cùng với các nước ASEAN ký các Hiệp định thương
mại tự do giữa khối ASEAN với các đối tác như Trung Quốc vào năm 2004, với
Hàn Quốc vào năm 2006, Nhật Bản vào năm 2008, Autralia và Niu Di-lân vào
năm 2009, Ấn Độ năm 2009. Ngoài ra, ta đã ký 2 FTA song phương là FTA Việt
Nam - Nhật Bản năm 2008 và FTA Việt Nam - Chi-lê năm 2011.
Hiện nay, Việt Nam cũng đang tích cực tham gia đàm phán 6 FTA khác, gồm
Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), FTA với Liên minh châu Âu
(EU), với Liên minh thuế quan Nga - Bê-la-rút - Ka-dắc-xtan, với Khối Thương
mại tự do châu Âu (EFTA) gồm các nước Thụy Sĩ, Na-uy, Lích-tân-xten và Ai-xơlen, FTA với Hàn Quốc và FTA giữa khối ASEAN với Hồng Công, Trung Quốc.
Ngoài ra, Việt Nam cũng tích cực chủ động tham gia sâu vào Diễn đàn Hợp tác
17


Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), đã đăng cai năm APEC 2006 và tiến
tới sẽ đăng cai APEC năm 2017 với hàng trăm cuộc họp từ cấp chuyên viên đến
cấp cao.
Quá trình gần 30 năm hội nhập kinh tế quốc tế đã góp phần quan trọng vào
quá trình đổi mới toàn diện đất nước. Có thể đánh giá thành tựu, hạn chế ở những
mặt sau:
a. Những kết quả đạt được

Từ quan điểm, chủ trương của Đảng, quá trình mở cửa, tích cực và chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế đã mở ra không gian phát triển mới cho nền kinh tế Việt
Nam. Thể hiện trên những mặt chính sau:
Thứ nhất, về hoạt động xuất, nhập khẩu:
Về xuất khẩu, quá trình tích cực, chủ động tham gia hội nhập kinh tế quốc tế
trong thời gian qua đã giúp Việt Nam có điều kiện mở rộng thị trường xuất khẩu
dựa trên những lợi thế cạnh tranh: nguồn tài nguyên phong phú, nguồn lực lao
động dồi dào, giá rẻ và sự ổn định chính trị và kinh tế - xã hội… Nhờ đó, hoạt
động xuất khẩu đã không ngừng tăng trưởng cả về quy mô và tốc độ, cũng như mặt
hàng xuất khẩu chủ lực và trở thành động lực chính, quan trọng cho sự phát triển
của nền kinh tế quốc dân.
Về quy mô, kim ngạch xuất khẩu không ngừng được tăng lên, đóng góp một
phần quan trọng vào sự tăng trưởng GDP. Nếu năm 1986, tổng kim ngạch xuất
khẩu mới đạt 789 triệu USD, thì năm 2013 đã cao gấp 167,5 lần, trong đó thủy sản
gấp 63,4 lần; hạt tiêu gấp 42,9 lần; hạt điều gấp 200,8 lần; rau quả gấp 23,8 lần.
Một số mặt hàng tuy vào các thời kỳ sau mới xuất khẩu, nhưng năm 2013 đã đạt
quy mô lớn, trong đó có 22 mặt hàng đạt kim ngạch trên 1 tỷ USD. Tốc độ tăng
kim ngạch xuất khẩu hàng hóa trong giai đoạn tăng trung bình trên 15%/năm. Đặc
biệt là thời kỳ từ sau khi gia nhập WTO đến nay, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu
đạt quy mô lớn và tốc độ tăng trưởng cao (trừ năm 2009 tốc độ tăng trưởng âm).
Xuất khẩu hàng hóa/GDP vào năm 1988 mới đạt 18,9%, thì năm 2013 đã đạt
77,6%, cao gấp 4,1 lần năm 1988 và thuộc loại khá cao trên thế giới. Nếu tính cả
18


xuất và nhập khẩu/GDP đã đạt 155,2%; nếu tính cả xuất khẩu dịch vụ thì đạt
169,1%, nằm trong tốp 5 nước có tỷ lệ cao nhất thế giới. Điều đó chứng tỏ độ mở
của nền kinh tế Việt Nam thuộc loại khá rộng.
Về cơ cấu, mặt hàng xuất khẩu ngày càng phong phú, đa dạng, có nhiều nhóm
hàng “chủ lực” đạt kim ngạch lớn. Cơ cấu mặt hàng mấy năm nay đã có sự chuyển

dịch theo hướng tích cực: tỷ trọng hàng thô hoặc mới sơ chế giảm (từ 55,8% năm
2000 xuống còn khoảng 34% năm 2013), tỷ trọng hàng chế biến hoặc đã tinh chế
tăng (tương ứng từ 44,2% lên 66%); trong nhóm hàng chế biến, hoặc đã tinh chế,
hàng có kỹ thuật, công nghệ cao hơn (như điện thoại, máy vi tính, máy ảnh, máy
quay phim, máy móc thiết bị, phương tiện vận tải…) tăng cao hơn.
Về hàng hóa của Việt Nam, nếu năm 1986 hàng Việt Nam mới có mặt ở 33
nước và vùng lãnh thổ, thì đến nay, hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam đã có mặt
trên thị trường 220 nước và vùng lãnh thổ, hầu hết các châu lục, chủ yếu là châu Á.
Các thị trường xuất khẩu hàng hóa lớn của Việt Nam là Hoa Kỳ, EU, ASEAN,
Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc. Năm 2013, có 27 nước và vùng lãnh thổ đạt từ
1 tỷ USD trở lên (Hoa Kỳ 23,87 tỷ USD, Nhật Bản 13,65 tỷ USD, Cộng hòa nhân
dân Trung Hoa 13,26 tỷ USD, Hàn Quốc 6,63 tỷ USD…).
Trong quan hệ với nước ngoài, Việt Nam đã chuyển vị thế từ nước nhập siêu
lớn sang xuất siêu. Năm 1976, Việt Nam nhập siêu 801,4 triệu USD; tỷ lệ nhập
siêu so với xuất khẩu lên đến 360%. Từ năm 2012 đến nay, Việt Nam đã xuất siêu
hàng hóa (năm 2012 là 749 triệu USD, năm 2013 là 9 triệu USD). Năm 2014 xuất
siêu với quy mô cao hơn 2 năm trước. Cán cân thương mại được cải thiện, cùng
một số yếu tố khác đã góp phần cải thiện cán cân thanh toán, tăng dự trữ ngoại hối,
tăng an toàn tài chính và thanh khoản của quốc gia.
Xuất khẩu dịch vụ năm 2013 đạt 10,5 tỷ USD, cao gấp gần 2,5 lần năm 2005,
bình quân 1 năm tăng 12,1%, là tốc độ khá cao. Khả năng, quy mô xuất khẩu dịch
vụ sẽ tiếp tục tăng tốc do Việt Nam mở cửa, hội nhập nói chung và mở cửa, hội
nhập về dịch vụ ngày một sâu rộng hơn. Hiện nay, Việt Nam đã nhanh chóng phát
triển một số ngành dịch vụ, như: Bưu chính, viễn thông, hàng không, hàng hải, tài
19


chính, ngân hàng, du lịch… Phát triển xuất khẩu đã góp phần tạo thêm việc làm(1),
tăng thu nhập, xóa đói giảm nghèo, nhất là đối với khu vực nông thôn. Phát triển
xuất khẩu cũng có tác dụng tích cực trong việc nâng cao trình độ của người lao

động và thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa.
Về hoạt động nhập khẩu hàng hóa, cũng gia tăng mạnh mẽ. Năm 1995 so với
1985, kim ngạch nhập khẩu tăng gấp gần 5 lần (8.155,4 triệu USD/1.857,4 triệu
USD); năm 1996 kim ngạch nhập khẩu là 11.143,6 triệu USD, đến năm 2006 là
44.981,1 triệu USD, tăng gấp khoảng gần 4 lần so với năm 1996. Năm 2012 so với
năm 2006, kim ngạch nhập khẩu tăng gấp hơn 2,5 lần (113.792,7 triệu
USD/44.891,1 triệu USD).
Hàng hóa nhập khẩu chủ yếu là máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu, chiếm đến
trên 80%/kim ngạch nhập khẩu; hàng tiêu dùng khoảng 10%/kim ngạch nhập khẩu,
còn lại các hàng hóa khác. Trong đó khu vực có vốn đầu tư nước ngoài nhập khẩu
nhiều hơn khu vực kinh tế trong nước.
Thứ hai, về thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), ODA
Kể từ khi Luật Đầu tư trực tiếp nước ngoài có hiệu lực (năm 1988), FDI vào
Việt Nam ngày càng tăng cả về dự án, vốn đăng ký và số nước, vùng lãnh thổ. Tính
đến hết năm 2013, đã có khoảng 100 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt
Nam với 17.434 dự án, tổng số vốn đăng ký hơn 268 tỷ USD, vốn thực hiện đạt
xấp xỉ 112 tỷ USD. Xét tỷ lệ trên GDP, Việt Nam thu hút đầu tư trực tiếp từ nước
ngoài lớn hơn 5 lần so với Trung Quốc hay Ấn Độ trong 5 năm qua. Trong 5 tháng
đầu năm 2015, ước tính các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đã giải ngân được
4,95 tỷ USD, tăng 7,6% với cùng kỳ năm 2014.
Khu vực doanh nghiệp FDI là khu vực luôn năng động và có đóng góp đáng
kể trong sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. FDI đang tăng dần tỷ trọng
trong GDP. Báo cáo tổng kết 25 năm FDI của Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã phân tích,
tỷ lệ đóng góp của FDI vào GDP đã tăng từ 2% GDP năm 1992 lên 12,7% năm
2000; 16,98% (năm 2006); 18,97% (năm 2011) và nay là 20%. Thu ngân sách
20


trong khối doanh nghiệp FDI tăng bình quân trên 20%/năm. Theo số liệu tại Bảng

xếp hạng V1000 - Top 1000 doanh nghiệp đóng thuế thu nhập lớn nhất Việt Nam,
có tới hơn 30% trong bảng này là các doanh nghiệp FDI với 20.000 tỷ đồng thuế
thu nhập.
Các dự án FDI đã tạo ra nhiều chỗ làm việc mới, góp phần làm giảm đáng kể
nạn thất nghiệp. Tính đến nay, khu vực FDI tạo ra gần 3 triệu việc làm và tiền
lương lao động của khu vực này luôn cao hơn mức trung bình cả nước.
Trong hoạt động xuất khẩu, từ năm 2003, xuất khẩu của khu vực FDI bắt đầu
vượt khu vực trong nước và dần trở thành nhân tố chính thúc đẩy xuất khẩu, đóng
góp tới 66,87% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước vào năm 2013. Mười tháng
đầu năm 2014, khu vực FDI xuất khẩu 82,5 tỷ USD, tăng 13,6%, đóng góp 67%
vào tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước và vẫn liên tục xuất siêu.
Về thu hút ODA, tính từ năm 1993 đến hết năm 2013, tổng vốn ODA cam kết
đạt 80.776 triệu USD, giải ngân đạt 40.367 triệu USD, tương đương với 3,36%
GDP.
FDI và ODA vào Việt Nam đã góp phần thúc đẩy tăng GDP, tăng vốn đầu tư
phát triển xã hội, tăng kim ngạch xuất khẩu, phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã
hội và góp phần giải quyết các vấn đề xã hội …
Thứ ba, thông qua việc mở rộng quan hệ hợp tác với các quốc gia trong khu
vực và thế giới, Việt Nam đã tiếp thu được khoa học - công nghệ mới và cách quản
lý tiên tiến trên nhiều lĩnh vực: kinh tế, kỹ thuật, văn hóa - xã hội… góp phần tăng
năng suất lao động, nâng cao năng lực cạnh tranh trong hoạt động sản xuất, kinh
doanh… Bên cạnh đó, hội nhập quốc tế cũng đã góp phần đào tạo cho Việt Nam có
được đội ngũ nguồn nhân lực có trình độ và năng lực cả về chuyên môn lẫn quản lý.
Hội nhập kinh tế quốc tế cũng góp phần thúc đẩy cải cách hành chính, cải cách thể
chế kinh tế thị trường, góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Tóm lại, sau gần 30 năm đổi mới, hội nhập kinh tế quốc tế đã tác động mạnh
đến sự tăng trưởng, phát triển kinh tế của Việt Nam. Nhờ tăng trưởng kinh tế cao
và ổn định mà quy mô của nền kinh tế được mở rộng nhiều lần, do đó thu nhập
21



bình quân đầu người cũng tăng lên đáng kể: Năm 2013, GDP đầu người đạt 1.940
USD so với 86 USD vào năm 1988. Chúng ta không những thoát khỏi khủng
hoảng kinh tế - xã hội, mà còn bước vào nhóm các nước có thu nhập trung bình.
b. Những hạn chế và khó khăn trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
Bên cạnh những kết quả đạt được, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của
Việt Nam trong những năm qua còn bộc lộ không ít những khó khăn và hạn chế.
Cụ thể:
Thứ nhất, nền kinh tế Việt Nam hiện nay còn phát triển thiếu bền vững. Cơ
cấu kinh tế chậm chuyển dịch theo hướng hợp lý và hiệu quả. Tình trạng phát triển
dàn trải, không có trọng tâm của nền kinh tế trong điều kiện các nguồn lực hạn chế
đang kìm hãm khả năng tăng trưởng vượt bậc và bền vững.
Thứ hai, năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam nói riêng và nền
kinh tế Việt Nam nói chung còn thấp. Cụ thể, năng lực cạnh tranh tổng hợp của
Việt Nam năm 2013/2014 chỉ xếp thứ 70/148, thấp hơn 11 bậc so với năm
2010/2011. Khả năng tích lũy vốn nhân lực và tiến bộ công nghệ của Việt Nam còn
rất khiêm tốn, biểu hiện ở mức năng suất lao động thấp và trình độ công nghệ của
đa số doanh nghiệp còn khá lạc hậu.
Thứ ba, mặc dù hoạt động thu hút nguồn vốn FDI đã đạt được những kết quả
khả quan và có những đóng góp nhất định đối với nền kinh tế, nhưng khu vực
doanh nghiệp FDI vẫn bộc lộ nhiều hạn chế. Thị trường và đối tác FDI của Việt
Nam chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các nước châu Á. Đầu tư từ Hoa Kỳ,
EU và những nước OECD khác vào Việt Nam còn rất khiêm tốn nếu so với FDI
của các nước đó vào Thái Lan, In-đô-nê-xi-a, Sin-ga-po, Ma-lai-xi-a. Tình trạng
chuyển giá đã được phát hiện trong những năm gần đây gắn với tác động tiêu cực
của kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. Có hiện tượng một số nhà đầu tư
nước ngoài nhập khẩu vào Việt Nam máy móc, thiết bị cũ, công nghệ lạc hậu, gây
nên tình trạng tiêu hao nhiều năng lượng, ô nhiễm môi trường, không đảm bảo an
toàn lao động. Việc chuyển giao công nghệ, sáng chế phát minh, giải pháp kỹ thuật


22


từ doanh nghiệp FDI vào Việt Nam chưa tương xứng với vốn đầu tư, nhất là trong
những ngành công nghệ cao như công nghiệp điện tử, ô tô, xe máy.
Thứ tư, các hoạt động hội nhập kinh tế quốc tế và mở rộng quan hệ trong các
lĩnh vực khác chưa được triển khai đồng bộ, nhịp nhàng trong một chiến lược tổng
thế. Cơ chế chỉ đạo, điều hành, phối hợp thực hiện và giám sát quá trình hội nhập
từ Trung ương đến địa phương, giữa các ban, ngành còn nhiều bất cập. Chất lượng
nguồn nhân lực và kết cấu hạ tầng chậm được cải thiện. Năng lực đội ngũ cán bộ,
công chức, doanh nhân chưa đáp ứng được yêu cầu hội nhập.
* Thời cơ và thách thức đối với Việt Nam khi tham gia hội nhập kinh
tế thế giới
Thời cơ: Việc tham gia vào tổ chức thương mại thế giới WTO đã mở ra cho
chúng ta rất nhiều cơ hội, tuy nhiên bên cạnh những cơ hội thì cũng tồn tại những
thách thức. Vấn đề đặt ra là cần nhận thức được những cơ hội và thách thức đó để chủ
động trong việc vạch ra đường lối, biện pháp để tận dụng tối đa những cơ hội và biến
những thách thức thành những điều kiện, động lực để phát triển nền kinh tế đất nước.
Phải khẳng định một điều rằng hội nhập vào nền kinh tế giới thì thời cơ và
thách thức đặt ra là vô cùng lớn, thời cơ và thách thức luôn đan xen lẫn nhau, trong
thời cơ có những thách thức và trong thách thức cũng có thể biến thành những cơ
hội, động lực để phát triển kinh tế. Và không phải cứ gia nhập WTO là chúng ta đã
có thể có hết tất cả các thời cơ mà sự thật là chúng ta phải bắt tay vào hành động
một cách chủ động thì mới có thể đưa những thời cơ đó từ lý thuyết thành thực tế,
làm tăng khả năng cạnh tranh của Việt Nam.
Vậy những thời cơ mà chúng ta có được khi tham gia vào WTO là gì? Có thể
khái quát thành 5 cơ hội cơ bản sau:
Thứ nhất, thị trường xuất nhập khẩu được mở rộng
Được tiếp cận thị trường hàng hoá và dịch vụ ở tất cả các nước thành viên với
mức thuế nhập khẩu đã được cắt giảm và các ngành dịch vụ mà các nước mở cửa

theo các nghị định thư gia nhập các nước này không bị phân biệt đối xử. Điều đó
tạo điều kiện cho chúng ta mở rộng thị trường xuất khẩu và trong tương lai, với sự
23


lớn mạnh của doanh nghiệp và nền kinh tế nước ta mở rộng kinh doanh dịch vụ ra
ngoài biên giới quốc gia.
Thứ hai; hội nhập kinh tế quốc tế làm tăng đầu tư nước ngoài vào Việt Nam
Tham gia hội nhập và chấp nhận các luật lệ chung của các thế chế thương mại
quốc tế sẽ dần dần tạo lập và củng cố lòng tin của càc nhà đầu tư nước ngoài, và cơ
chế, chính sách của Việt Nam. Các chính sách kinh tế của Việt Nam sẽ dần được
điều chỉnh theo các chuẩn mực và thông lệ quốc tế từng bước tạo dựng môi trờng
đầu tư thông thoáng và bình đẳng.
Thứ ba; gia nhập WTO tạo được vị thế bình đẳng như các thành viên khác
trong việc hoạch định chính sách thương mại toàn cầu, có cơ hội đấu tranh để thiết
lập một trật tự kinh tế mới công bằng hơn, hợp lý hơn, có điều kiện để bảo vệ lợi
ích của đất nước
Thứ tư, gia nhập WTO sẽ giúp chúng ta thực hiện cải cách động bộ và hiệu
quả hơn, đồng thời tiếp cận khoa học công nghệ tiên tiến.
Mặc dù chủ trương của chúng ta là chủ động đổi mới, cải cách thế chế kinh tể
trong nước để phát huy nguồn nội lực và ngoại lực, nhưng khi chúng ta tham gia
vào WTO thì chúng ta cũng phải tuân thủ theo “luật chơi” nhất định nào đó. Vì vậy
khi hội nhập thì chúng ta sẽ thúc đẩy việc cải cách đồng bộ và hiệu quả hơn. Quá
trình hội nhập sẽ thúc ép các doanh nghiệp trong nước phải tiến hành đổi mới, xoá
bỏ tính ỷ lại vào sự bảo hộ của nhà nước, từ đó nâng cao hiệu quả sản xuất, góp
phần thúc đẩy hiệu qua sản xuất trong nước phát triển.
Thứ năm, nâng cao vị thế việt Nam trên trường quốc tế.
Việt Nam đang khẳng định và nâng cao vị thế của mình trên trường quốc tế bằng
những kết quả đạt được sau gần 30 năm đổi mới. Những thành tựu về kinh tế, văn
hoá, cũng như việc chúng ta tham gia vào các tổ chức thương mại, kinh tế quốc tế như

ASEAN, APEC, WTO, thì vị thế Việt Nam càng được khẳng định rõ ràng hơn. Điều
này sẽ tạo thế đứng vững trong quan hệ chính trị, tạo điều kiện cho ta triển khai có
hiệu quả đường lối đối ngoại theo phương châm “Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy
của các nước trong cộng đồng thế giới vì hoà bình, hợp tác và phát triển”.
24


Những khó khăn, thách thức
* Về chủ quan:
Gia nhập WTO chúng ta nhận thấy rõ thời cơ mở ra là rất lớn, nhưng liệu có phải
thời cơ mang đến nhiều mà khó khăn, thách thức chỉ là phiến diện hay không? Rằng
nó không đáng kể và không đáng lo sợ? Chúng ta có suy nghĩ như vậy là hoàn toàn
sai lầm, bởi khi gia nhập WTO tức là chúng ta đã bước vào “sân chơi chung”, vì vậy
chúng ta cũng phải tuân thủ những “luật chơi” của nó. Quá trình toàn cầu hoá là vừa
hợp tác vừa cạnh tranh giữa các nước, nên bên cạnh thời cơ là những thách thức mới,
nhất là trong điều kiện nớc ta là một nớc đang phát triển ở trình độ thấp, thì việc vợt
qua thách thức càng khó khăn và phức tạp hơn. Những thách thức về mặt chủ quan là:
Thứ nhất, khi hoà bình lập lại thì nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung không
còn phù hợp với sự phát triển của đất nước, dẫn đến những mặt trái như: quan liêu,
tình trạng: “cha chung không ai khóc”. . . điều đó đã làm cho nền kinh tế không
phát triển mà còn bị thụt lùi. Việt Nam bị thế giới bỏ lùi một khoảng cách khá xa
về nhiều mặt của đời sống xã hội. Hiện nay, sau gần 30 năm đổi mới GDP đầu
người vẫn còn thấp. Cơ sở hạ tầng, đường xá giao thông còn lạc hậu chưa đáp ứng
được cho việc thu hút đầu tư từ nước ngoài. Cơ cấu kinh tế chuyển biến chậm,
nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong sản xuất nhưng chưa tương xứng với
tiềm năng. Trình độ khoa học công nghệ còn kém, lạc hậu. Mặc dù trong một số
ngành như công nghệ thông tin, điện tử viễn thông đã trang bị máy móc hiện đại
nhưng số lượng chưa nhiều. Chính vì vậy năng suất lao động còn thấp, khả năng
cạnh tranh của doanh nghiệp, hàng hoá Việt Nam còn rất yếu. Nếu chính phủ và
công ty trong nước không có biện pháp kịp thời trong vấn đề đổi mới công nghệ,

nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hóa, dịch vụ thì các doanh nghiệp Việt Nam sẽ
nhanh chóng bị “tiêu diệt” khi hàng hóa nước ngoài tràn vào và hậu quả của nó đến
nền kinh tế là không thể lường trước được.
Thứ hai, Việt Nam có nguồn nhân lực dồi dào nhưng chưa đáp ứng được nhu
cầu trong tiến trình hội nhập

25


Nước ta hiện nay có gần 50 triệu người trong độ tuổi lao động nhưng số được
qua đào tạo và công nhân kỹ thuật lành nghề chỉ chiếm một phần nhỏ. Theo kết
quả điều tra chỉ có gần 26% dân số từ 15 tuổi trở lên đã qua trường lớp đào tạo
trong khi tỷ lệ này ở các nớc ASEAN là 50%. Cả nước chỉ có khoảng 17 - 20% số
lao động có chuyên môn kỹ thuật, tỷ lệ này ở các nước công nghiệp là 35%. Lao
động có trình độ trung cấp kỹ thuật của ta là 7,5% thì các nước phát triển là 24,5%.
Số công nhân kĩ thuật có kỹ thuật có trình độ bậc bốn trở lên chỉ chiếm tỷ lệ bằng
1/3 tổng số công nhân kỹ thuật, công nhân kỹ thuật bậc 7 chỉ khoảng 4000 người
và đại bộ phận đã lớn tuổi. Để chủ động hội nhập, vấn đề đào tạo nguồn nhân lực
đang đặt ra hàng loạt nhiệm vụ cấp bách, có một thực tế không ai phủ nhận là sau
nhiều lần cải cách nhưng sản phẩm của nền giáo dục nước ta vẫn chưa ngang tầm
với đòi hỏi thực tiễn. Nếu không cải cách mạnh mẽ kịp thời thì chúng ta khó có thể
phát triển. Hơn nữa có nguồn nhân lực dồi dào mà không biết khai thác và sử dụng
hiệu quả thì không những sẽ là một gánh nặng cho nền kinh tế mà còn làm nảy
sinh nhiều tệ nạn xã hội.
Thứ ba, hàng hoá Việt Nam chưa đủ sức cạnh tranh trên thị trường thế giới.
Khoa học kỹ thuật, tay nghề công nhân, trình độ quản lý kém là những
nguyên nhân chính khiến hàng hoá Việt Nam có sức cạnh tranh yếu trên thị trường
thế giới. Do lợi thế so sánh thấp mà có những sản phẩm giá xuất xưởng của chúng
ta còn cao hơn giá nhập khẩu, chẳng hạn giá thép trong nước sản xuất bình quân là
300 USD/ tấn nhưng giá nhập khẩu chỉ có 285 USD/ tấn. Trong tiến trình hội nhập

Việt Nam sẽ phải ký kết các hiệp định giảm thuế, xoá bỏ một phần hoặc toàn phần
việc bảo hộ các mặt hàng trong nước, như vậy hàng hoá trong nước sẽ dễ bị hàng
hoá nhập khẩu đánh bại ngay trên sân nhà còn hàng hoá xuất khẩu sẽ có nhiều trở
ngại bởi thị trường các nước đều có hệ thống kiểm định chất lượng rất khắt khe.
Theo diễn đàn kinh tế thế giới cho thấy năm 2012 sức cạnh tranh của hàng hoá
Việt Nam chỉ đứng thứ 73/ 141 nước được khảo sát. Đây thực sự là một thách thức
lớn cho Chính phủ và doanh nghiệp Việt Nam.

26


Thứ tư, trình độ quản lý, sự am hiểu về thị trường thế giới của các doanh
nghiệp còn nhiều hạn chế.
Hầu hết các doanh nghiệp được thành lập chưa lâu, nguồn vốn hạn hẹp, chủ
yếu là các công ty làm ăn nhỏ lẻ và chỉ buôn bán trong nước là chính. Những công
ty có vốn lớn đủ khả năng xuất khẩu chiếm số lượng không nhiều, ngay cả những
mặt hàng có số lợng lớn như gạo, cà phê cũng còn nhiều bấp bênh, chưa thực sự ổn
định. Trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, chính phủ đóng vai trò vô cùng
quan trọng nhưng hiện nay vai trò ấy chưa thực sự nổi bật ít nhất là trong việc giúp
đỡ các doanh nghiệp vừa và nhỏ tiến ra thị trường bên ngoài, xúc tiến ký kết các
hiệp định song phương, giúp các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, khẳng định
thương hiệu của mình. Việc để mất nhãn hiệu như của kem đánh răng Dạ Lan, cà
phê Trung nguyên, thuốc lá Vinataba… đã thể hiện sự non kém của các doanh
nghiệp Việt Nam. Đây quả là một thách thức không dễ vượt qua.
Thứ năm, hệ thống pháp định kinh tế nói chung và luật đầu tư nói riêng chưa
thực sự hoàn thiện.
Đây thực sự là một trở ngại lớn cho Việt Nam trong quá trình hội nhập. Xuất
phát từ chế độ chính trị, chúng ta đang trên đường xây dựng CNXH, các nước đế
quốc tư bản luôn tìm cách chống phá mà phương pháp được sử dụng hiện nay là
chiến lược “diễn biến hoà bình” với mục đích ban đầu là thâu tóm về kinh tế sau

đó là chi phối về chính trị chính vì vậy việc xây dựng một hệ thống pháp lật hoàn
chỉnh là rất khó khăn và rất nhiều thời gian công sức. Mặt khác, công tác quản lý
của ta chưa chặt chẽ, việc đánh thuế một số mặt hàng quá cao dẫn đến hàng lậu ồ
ạt tràn vào, trốn thuế gây thất thoát tiền của Nhà nớc thiệt hại cho các doanh
nghiệp trong nước. Ngoài ra luật đầu tư của Việt Nam còn nhiều bất cập, thủ tục
hành chính rườm rà, chồng chéo, “một đơn nhiều cửa”, cùng đó là cơ sở hạ tầng
lạc hậu, không đồng bộ tạo môi trờng đầu tư không thuận lợi, đó là thách thức lớn
trong việc thu hút nguồn vốn vào Việt Nam.
* Về khách quan:

27


×