LỜI MỞ ĐẦU
Toàn cầu hoá là xu thế phát triển khách quan, là đặc điểm nổi trội của hoạt
đông kinh tế quốc tế hiện nay. Do được thừa hưởng những thành tựu tiên tiến
của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ hiện đại, lực lượng sản xuất quốc tế
đã có những bước thay đổi cách mạng, mà hệ quả trực tiếp của nó là làm xuất
hiện kinh tế tri thức. Đến lượt mình, sự phát triển của lực lượng sản xuất trên
thế giới đã đưa lại những thay đổi mới trong tương quan kinh tế thế giới và
những thay đổi này mang tính chất quốc tế trong các quan hệ kinh tế giữa các
nước. Từ đây, tính toàn cầu hoá trong hoạt động kinh tế của các nước trên thế
giới là một tất yếu. Các nước muốn phát triển nền kinh tế của mình, không thể
không tính đến tính toàn cầu của nền kinh tế quốc tế...
Việt Nam tuy còn nhiều khó khăn nhưng cũng không nằm ngoài tính khách
quan của xu thế hội nhập thế giới. Tuy nhiên để hội nhập kinh tế quốc tế và khu
vực, nước ta vừa đứng trước những cơ hội lớn lại vừa đứng trước những thách
thức lớn như vốn; sức ép cạnh tranh; thể chế chính sách và việc cải cách hành
chính quốc gia; hạn chế về khoa học công nghệ... trong đó các yếu tố về nguồn
nhân lực đóng vai trò cực kỳ quan trọng, là một trong những thách thức lớn nhất
trong quá trình hội nhập của nước ta.
Thực vậy, trong thời đại ngày nay khi mà khoa học và công nghệ đã có
những bước nhảy vọt, kinh tế tri thức sẽ chiếm vị trí ngày càng lớn trong quá
trình phát triển. Với hàm lượng chất xám ngày càng chiếm tỷ lệ cao trong mỗi
sản phẩm làm ra con người đang ngày càng tỏ rõ vai trò quyết định của mình
trong tiến trình phát triển của xã hội, của lịch sử nhân loại. Để hoà nhập vào nền
kinh tế khu vực và thế giới thì nước ta phải có được một nguồn nhân lực có đủ
sức đáp ứng được ác yêu cầu của trình độ phát triển của thế giới, của thời đại.
Đặc biệt trong bối cảnh khi mà nền kinh tế nước ta còn nghèo thì nguồn nhân
lực đóng vai trò then chốt cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
1
Nhằm làm sáng tỏ hơn thực trạng nguồn nhân lực nước ta trong tiến trình
hội nhập kinh tế quốc tế, em mạnh dạn nghiên cứu đề tai: “Một số giải pháp
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế
quốc tế”. EM xin chân thành cảm ơn cô giáo Vũ Thị Thìn và các anh chị, cô
chú bác trong Ban Phát triển nguồn nhân lực và Các vấn đề xã hội đã giúp đỡ
em trong quá trình nghiên cứu.
Đề tài được chia làm 3 phần:
Phần I: Cơ sở lý luận về nguồn nhân lực và hội nhập kinh tế quốc tế.
Phần II: Nguồn nhân lực nước ta trong quá trình hội nhập. Cơ hội và thách
thức.
Phần III: Một số vấn đề nâng cáo chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam
trong quá trình hội nhập kinh tế.
2
PHẦN I
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG
I. MỘT SỐ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGUỒN NHÂN LỰC
1. Khái niệm về NNL.
NNL là nguồn lực về con người và được nghiên cứu dưới nhiều khía cạnh.
NNL được xem xét trên giác độ là nguồn cung cấp sức lao động cho xã hội, nó
bao gồm toàn bộ dân cư có thể phát triển bình thường (không bị khiếm khuyết
hoặc dị tật bẩm sinh). Với tư cách là một yếu tổ của sự phát triển kinh tế - xã hội
NNL là khả năng lao động của xã hội, theo nghĩa hẹp thì đó là nhóm dân cư
trong độ tuổi lao động có khả năng lao động.
NNL còn thể hiểu là tổng hợp cá nhân những con người cụ thể tham gia
vào quá trình lao động, là tổng thể các yếu tố về thể chất và tinh thần được huy
vào quá trình lao động. Theo cách hiểu này, NNL bao gồm những người từ giới
hạn dưới tuổi lao động trở lên (ở nước ta là tròn 15 tuổi)
Các cách hiểu trên chỉ khác nhau về việc xác định quy mô NNL, song đều
nhất trí với nhau đó là NNL nói lên khả năng lao động của xã hội.
3
NNL được xem xét trên giác độ số lượng và chất lượng. Số lượng NNL
được biểu hiện thông qua các chỉ tiêu quy mô và tốc độ tăng NNL. Các chỉ tiêu
này có quan hệ mật thiết với chỉ tiêu quy mô và tốc độ tăng dân số. Quy mô dân
số càng lớn, tốc độ tăng dân số càng cao thì dẫn đến quy mô và tốc độ tăng
NNL càng lớn và ngược lại. Về chất lượng, NNL được xem xét trên các mặt
trình độ văn hoá, trình độ sức khoẻ, trình độ chuyên môn, năng lực phẩm chất...
2. Phân loại NNL.
2.1. Căn cứ vào nguồn gốc hình thành.
+ NNL có sẵn trong dân số. Bao gồm toàn bộ những người nằm trong độ
tuổi lao động, có khả năng lao động, không kể đến trạng thái có làm việc hay
không làm việc.
+ NNL tham gia vào hoạt động kinh tế. Là số người có công ăn việc làm,
đang hoạt động trong các ngành kinh tế và văn hoá của xã hội.
+ NNL dự trữ. Bao gồm những người nằm trong độ tuổi lao động, nhưng vì
các lý do khác nhau, họ chưa có công ăn việc làm ngoài xã hội.
2.2. Căn cứ vào vai trò của từng bộ phận NNL tham gia vào nền sản xuất.
+ Bộ phận lao động chính. Là bộ phận nhân lực nằm trong độ tuổi lao động
và có khả năng lao động.
+ Bộ phận nguồn lao động phụ. Là bộ phân dân cư nằm ngoài độ tuổi lao
động có thể và cần phải tham gia vào nền sản xuất.
2.3. Căn cứ vào trạng thái có việc làm hay không.
+ Lực lượng lao động. Bao gồm những người trong độ tuổi lao động có khả
năng lao động đang làm việc trong nền kinh tế quốc dân và những người thất
nghiệp song đang có nhu cầu tìm việc làm.
4
+ Nguồn lao động. Bao gồm những người thuộc lực lượng lao động và
những người thất nghiệp song không có nhu cầu tìm việc làm
(
1
)
.
II. MỘT SỐ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỘI NHẬP KINH TẾ.
1. Khái niệm về hội nhập kinh tế.
Hội nhập kinh tế quốc tế là một thuật ngữ đã xuất hiện trong vài thập kỷ
gần đây nhưng đến nay vẫn tồn tại nhiều cách hiểu khác nhau về hội nhập kinh
tế quốc tế. Có ý kiến cho rằng hội nhập kinh tế quốc tế là sự phản ánh quá trình
các thể chế quốc gia tiến hành xây dựng, thương lượng, ký kết và tuân thủ các
cam kết song phương, đa phương và toàn cầu ngày càng đa dạng hơn, cao hơn
và đồng bộ hơn trong các lĩnh vực đời sống kinh tế quốc gia và quốc tế. Có ý
kiến lại cho rằng hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình loại bổ dần các hàng rào
thương mại quốc tế, thanh toán và di chuyển các nhân tố sản xuất giữa các
nước. Tuy vậy, khái niệm tương đối phổ biến được nhiều nước chấp nhận là:
Hội nhập kinh tế quốc tế là sự gắn kết nền kinh tế của mỗi quốc gia vào các tổ
chức hợp tác kinh tế khu vực và toàn cầu, trong đó mối quan hệ giữa các nước
thành viên có sự ràng buộc theo những quy định chung của khối. Nói một cách
khái quát, hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình các quốc gia thực hiện mô hình
kinh tế mở, tự nguyện tham gia vào các định chế kinh tế và tài chính quốc tế,
thực hiện thuận lợi hoá và tự do hoá thương mại, đầu tư vào các hoạt đông kinh
tế đối ngoại khác
(
2
)
.
2. Tính khách quan của Hội nhập kinh tế quốc tế.
Trước đây, tính chất xã hội hoá của quá trình sản xuất chủ yếu mới lan toả
bên trong phạm vi biên giới của từng quốc gia, nó gắnc các quá trình sản xuất,
kinh doanh riêng rẽ với nhau, hình thành các tập đoàn kinh tế quốc gia và làm
(
1
)
: Gi¸o tr×nh Kinh tÕ Lao ®éng
(
2
)
: Gi¸o tr×nh Kinh tÕ Quèc tÕ
5
xuất hiện phổ biến các loại hình công ty cổ phần trong nền kinh tế quốc gia.
Qua đó quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất đã có sự thay đổi đáng kể, dần hình
thành vốn lớn cho sản xuất kinh doanh ngày càng thuận lợi hơn. Tình hình này
càng đòi hỏi sự tham gia ngày càng lớn của chính phủ các quốc gia có nền kinh
tế phát triển. Bởi lẽ, các quốc gia này là những quốc gia có thế mạnh về vốn,
công nghệ, trình độ quản lý v.v. Ngày nay, một mặt do trình độ phát triển cao
của lực lượng sản xuất làm cho tính chất xã hội hoá của chính nó càng vượt ra
khỏi phạm vi biên giới quốc gia, lan toả sang các quốc gia khu vực và thế giới
nói chung và mặt khác, tự do hoá thương mại cũng đang trở thành xu hướng
twts yếu và được xem là nhân tố qun trọng thuc đẩy buôn bán giao lưu giữa các
quốc gia, thúc đẩy buôn bán giao lưu giữa các quốc gia, thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế và nâng cao mức sống của mọi quốc gia. Chính vì vậy, hầu hết các quốc
gia trên thế giới theo định hướng phát triển của mình đều điều chỉnh các chính
sách theo hướng mở cửa, giảm và tiến tới dõ bỏ các rào cản thương mại, tạo
điều kinệ tho việc lưu chuyển các nguồn lực và hàng hoá tiêu dùng giữa các
quốc gia ngày càng thuận lợi hơn, thông thoáng hơn.
(3)
Hội nhập kinh tế là tất yếu bởi lẽ bất kỳ một quốc gia nào dù giàu có, phát
triển đến đâu cũng không thể tự mình đáp ứng được tất cả các nhu cầu của
chính mình. Đặc biệt trong thời đại ngày nay khi mà hoạt động của các quốc gia
không còn bó hẹp trong ranh giới lãnh thổ của mình mà vươn rộng ra nhiều
nước khác trên thế giới. Khi trình độ phát triển càng cao thì nền kinh tế càng
phụ thuộc với mức độ nhiều hơn vào thị trường thế giới. Đó là một vấn đề có
tính quy luật. Những quốc gia chậm trễ trong hội nhập kinh tế quốc tế thường
phải trả giá bằng chính sự tụt hậu của mình, ngược lại những nước vội vã không
phát huy nội lực, không chủ động hội nhập cũng đã bị trả giá. Bởi vậy, để hội
nhập có hiệu quả, cần phải có quan điểm nhận thức đúng dắn, nhất quán, cơ chế
chính sách phù hợp tận dụng tốt cơ hội, không bỏ lỡ thời có, giảm thách thức,
hạn chế ruỷ ro trong quá trình phát triển tiến lên của mình.
(3)
Theo Giáo trình Kinh tế Quốc tế.
6
Đối với các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam thì hội nhập kinh tế
quốc tế là con đường tất yếu và tốt nhất để rút ngắn tụt hậu so với các nước
khác và có điều kiện phát huy tối ưu hơn những lợi thế so sánh của mình trong
phân công lao động va hợp tác quốc tế. Hội nhập kinh tế sẽ giúp chúng ta thu
nhận tri thức, khoa học công nghệ tiên tiến trên thế giới, tạo sức ép để các
doanh nghiệp trong nước nâng cao khả năng cạnh tranh của mình, mở rộng thị
trường ra nước ngoài, góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển, nâng cao chất lượng
cuộc sống người dân.
III. VAI TRÒ CỦA NNL ĐỐI VỚI QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ.
Ngày nay, trước sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học
công nghệ và thông tin, sự giao lưu trí tuệ và tư tưởng liên minh kinh tế giữa
các khu vực trên thế giới. Sự ra đời của nhiều công ty xuyên quốc gia đã tạo ra
tốc độ tăng trưởng kinh tế chưa từng thấy. Tình hình đo đã dẫn đến sự quốc tế
hoá kinh tế thế giới, gây nên những đảo lộn về chính trị xã hội sâu sắc mang
tính toàn cầu và đang đi đến thiết lập một trật tự thế giới mới. Trong bối cảnh
đó, khu vực Châu Á – Thái Bình Dương đang nổi lên là khu vực kinh tế năng
động nhất. Nếu trước đây, sự phát triển của một quốc gia chủ yếu phụ thuộc vào
nguồn tài nguyên thiên nhiên, nguồn vốn thì ngày nay quan niệm đó đã thay
đổi. Theo các lý thuyết gần đây, một nền kinh tế muốn tăng trưởng nhanh và
bền vững cần dựa vào ba yếu tố cơ bản là áp dụng công nghệ mới, phát triển kết
cấu hạ tầng hiện đại và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Trong đó yếu tố và
cũng là động lực quan trọng nhất của sự tăng trưởng kinh tế bền vững chính là
con người. Theo tổ chức Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF), nhóm yếu tố lao
động là một trong 8 nhóm yếu tố quan trọng nhất quyết định năng lực cạnh
tranh của một quốc gia.
7
Con người vừa là chủ thể sáng tạo ra mọi giá trị vật chất và tinh thần vừa la
mục tiêu, đối tượng hướng tới của qúa trình phát triển, là trung tâm của sự phát
triển. Thực tế đã chứng minh được vai trò quyết định đó của con người trong
phát triển kinh tế. Trước đây, Nhật Bản là một nước khan hiếm tài nguyên, chịu
sự khắc nghiệt của tự nhiên, nghèo nàn và lạc hậu, chỉ nhờ sức mạnh nguồn
nhân lực đáng khâm phục của mình, nước Nhật đã vươn lên thành một cường
quốc kinh tế trên thế giới.
Nền kinh tế ngày nay là nền kinh tế tri thức, là nền kinh tế dựa trên cơ sở
của công nghệ thông tin hiện đại, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới...
Để có được tri thức cần phải xây dựng cơ sở hạ tầng vững chắc để phát triển
khoa học công nghê, đặc biệt là công nghệ thông tin; đồng thời phải đầu tư cho
phát triển giáo dục đào tạo hay nói cách khác phải đầu tư cho phát triển nguồn
nhân lực. Suy cho cùng, tri thức là hệ quả tất yếu, của sự phát triển nguồn nhân
lực. Các nước muốn phát triển nền kinh tế tri thức cần phải đầu tư cho phát triển
con người mà cốt lõi là phát triển giáo dục và đào tạo, đặc biệt là đầu tư phát
triển nhân tài.
Để hoà nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới, để đạt được tốc độ tăng
trưởng nhanh, hiêu quả kinh tế -xã hội cao thì nước ta cần phải có một đội ngũ
nguồn nhân lực đủ mạnh, đủ khả năng đáp ứng được các yêu cầu mà nền kinh tế
khu vực và thế giới và thực tiễn của đất nước đòi hỏi.
Trong giai đoạn hiện nay, chúng ta ngày càng nhận thức rõ vai trò quyết
định của nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, là yếu tố quan
trọng đối với sự nghiệp phát triển lực lượng sản xuất và tốc độ tăng trưởng kinh
tế để Việt Nam tiếp tục phát triển bền vững và hội nhập thành công vào nền
kinh tế quốc tế. Nước ta vẫn còn đang là một nước nông nghiệp, rõ ràng chúng
ta không thể xấy dựng và phát triển nền kinh tế tri thức như các nước công
nghiệp phát triển. Để tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế được thực hiện tốt, cần
phải bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người. Với tư cách là mục tiêu và động
8
lực phát triển, con người có vai trò to lớn không những trong đời sống kinh tế
mà còn trong lĩnh vực hoạt động khác. Bởi vậy phải quan tâm, nâng cao chât
lượng con người, không chỉ với tư cách là người lao động sản xuất, mà với tư
cách là công dân trong xã hội, một cá nhân trong tập thể, một thành viên trong
cộng đồng nhân loại... không thể hội nhập kinh tế quốc tế nếu không có đội ngũ
đông đảo những công nhân lành nghề, những nhà khoa học kỹ thuật tài năng,
giỏi chuyên môn nghiệp vụ, những nhà doanh nghiệ tháo vát, những nhà lãnh
đạo, quản lý tận tụy, biết nhìn xa trông rộng.
9
PHẦN II
NGUỒN NHÂN LỰC NƯỚC TA
TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP – CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC
I. XU THẾ HỘI NHẬP KINH TẾ TRÊN THẾ GIỚI
Hiện nay, xu thế hội nhập trên thế giới đang diễn ra mạnh mẽ và trên diện
rộng, hàng loạt các tổ chức hiệp hội, các khu mậu dịch tự do, liên minh, liên kết
được ra đời. Điển hình phải kể đến đó là Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
(ASEAN) bao gồm các quốc gia Đông Nam Á (Inđonexia, Singapore, Thái Lan,
Brunei, Việt Nam, Lào, Campuchia, Mianma và Đôngtimo), Khu mậu dịch tự
do ASEAN (AFTA), Liên minh Châu Âu (EU) gồm có 11 quốc gia ở Châu Âu,
Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương (APEC) gồm có 21 quốc
gia ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, Tổ chức Thương mại thế giới
(WTO) gồm 146 nước thành viên trên toàn thế giới, Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF),
Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB),...
II. QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ Ở VIỆT NAM
1. Tiến trình hội nhập ở Việt Nam
Trong những năm qua, nước ta đã thiết lập được quan hệ ngoại giao với
167 nước, đã trở thành thành viên của các tổ chức hợp tác quốc tế, tài chính khu
vực và trên thế giới như ASEAN, APEC, ASEM và đang hoàn tất quá trình đàm
phán gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Việc chủ động thực hiện
chính sách hội nhập kinh tế và xử lý tốt các mối quan hệ tài chính - tiền tệ với
đối tác nước ngoài đã làm gia tăng kim ngạch xuất khẩu, thu hút đáng kể vốn và
công nghệ bên ngoài cho đầu tư phát triển, cải thiện tình trạng nợ nước ngoài,
10
góp phần quan trọng vào tăng trưởng kinh tế và đảm bảo an ninh tài chính quốc
gia. Tới hôm nay chúng ta có đủ căn cứ để hài lòng về những thành công đã gặt
hái được trong 5 năm qua. Những mục tiêu kinh tế đề ra cho 5 năm đã đạt được,
có những mặt còn vượt cả dự kiến. Tốc độ tăng trưởng GDP trong 5 năm bình
quân đạt 7,5%/năm, riêng trong năm 2005 đạt mức kỷ lục trong 9 năm qua là
8,5%. Cơ cấu kinh tế đã có bước chuyển dịch tích cực theo hướng công nghiệp
hóa - hiện đại hóa. Tỷ trọng nông nghiệp giảm xuống 20,7%, tỷ trọng ngành
công nghiệp tăng lên 41% trong tổng GDP. Tích luỹ tiêu dùng, thu chi ngân
sách, cán cân thanh toán quốc tế cơ bản ổn định đáp ứng được yêu cầu tăng
trưởng của nền kinh tế. Tổng đầu tư toàn xã hội tăng nhanh và đạt 37,5% so với
GDP. Hoạt động kinh tế đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế có bước tiến quan
trọng. Quan hệ quốc tế được mở rộng, các cam kết quốc tế được triển khai thực
hiện tốt. Nguồn vốn ODA và FDI liên tục tăng. Thị trường xuất khẩu được duy
trì và mở rộng, tổng kim ngạch xuất khẩu tăng nhanh và đạt 17%/năm. Cùng
với phát triển kinh tế, 5 năm qua Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng
khích lệ trong lĩnh vực xã hội. Chất lượng nguồn nhân lực được nâng cao; tạo
thêm nhiều việc làm mới, giảm tỉ lệ thất nghiệp. Công tác xoá đói giảm nghèo
đạt được thành tựu nổi bật, được bạn bè quốc tế đánh giá cao. Những thành tựu
đó thật đáng trân trọng nếu tính rằng trong 5 năm qua Việt Nam phải đối mặt
với nhiều thách thức, trong đó nổi lên là thiên tai nặng nề liên tiếp xảy ra; giá cả
trên thế giới biến động phức tạp; dịch bệnh, nhất là dịch cúm gia cầm diễn ra
nghiêm trọng.
Quá trình toàn cầu hoá đã thúc đẩy cuộc chạy đua phát triển nguồn nhân
lực tại các quốc gia, khu vực trên thế giới về khả năng cạnh tranh trên thị trường
lao động trong nước và thị trường lao động quốc tế. Đối với nước ta, phát triển
nguồn nhân lực để thực hiện Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước và tham
gia tích cực vào phân công lao động quốc tế, gia nhập các tổ chức kinh tế khu
vực và thế giới (APEC, AFTA, WTO...), thực hiện các Hiệp định hợp tác kinh
tế song phương (Việt - Mỹ...) đang là nhu cầu hết sức cấp bách, đòi hỏi chất
11
lượng nguồn nhân lực phải có những thay đổi mang tính đột phá, tăng tốc.
Trong xu thế toàn cầu hoá kinh tế, vấn đề phát triển nguồn nhân lực nhằm đáp
ứng xu thế chuyển sang nền kinh tế tri thức đang được các nước ưu tiên. Trong
đó, lao động tri thức được coi là vốn nhân lực đóng vai trò hàng đầu của sự phát
triển kinh tế, với các đặc trưng sau:
+ Sự chuyển dịch của lực lượng lao động từ khu vực công nghiệp sang hoạt
động trong khu vực dịch vụ yêu cầu nhiều kiến thức (Knowledge-intensive), thí
dụ như: đào tạo công nghệ, thiết kế chế tạo kỹ thuật, kinh doanh bất động sản,
công nghệ thông tin, viễn thông, ngân hàng và tài chính, kế toán, bảo hiểm, tư
vấn R&D, tư vấn pháp luật, quản lý và xử lý môi trường, nghiên cứu thị trường,
thông tấn và báo chí, cung ứng lao động...
+ Gia tăng nhanh chóng các tài sản vô hình (vốn trí tuệ) so với các tài sản
vật chất. Các nguồn lực đó bao gồm: vốn con người (kiến thức chung, kiến thức
riêng), vốn tổ chức (chuẩn mực và hướng dẫn, hệ thống tổ chức và quản lý, cơ
sở dữ liệu, văn hoá tập thể, thoả thuận hợp tác...), vốn công nghệ (bằng sáng
chế, bí mật thương mại, bản thiết kế công nghiệp...), vốn quan hệ (danh tiếng,
thương hiệu, các quan hệ dài hạn....).
+ Gia tăng đóng góp của kiến thức vào tăng trưởng kinh tế .
+ Lợi thế khả năng tìm việc làm và tiền công cao của lao động có kỹ năng
và đặc biệt là lao động có chuyên môn kỹ thuật cao.
Quá trình toàn cầu hoá phát triển, các thị trường được mở rộng, tự do hoá
thương mại và đầu tư nước ngoài tạo ra sức ép cạnh tranh ngày càng cao đối với
mỗi nền kinh tế, doanh nghiệp. Tính cạnh tranh của nền kinh tế và các doanh
nghiệp có tác động kích thích phát triển nguồn nhân lực. Tuy nhiên, trong nền
kinh tế Việt Nam tính cạnh tranh còn thấp, khu vực kinh tế tư nhân đa số là
doanh nghiệp nhỏ có vốn dưới 1 tỷ đồng chiếm 87,2% tổng số doanh nghiệp,
công nghệ lạc hậu, trong đó số doanh nghiệp máy móc thiết bị không đảm bảo
12
an toàn lao động và sản xuất ra sản phẩm chất lượng thấp chiếm 26,4%, khả
năng mở rộng thị trường yếu, một số ngành sản xuất kinh doanh còn mang tính
độc quyền và được tiếp cận các nguồn lực thuận lợi hơn... đã hạn chế đến kích
thích học tập, đào tạo, học nghề nâng cao trình độ của người lao động và suy
cho cùng là hạn chế đến nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Quá trình toàn cầu hoá có đặc trưng của sự phát triển và tăng cường vai trò
của các tổ chức kinh tế và thương mại (WTO-Tổ chức thương mại quốc tế,
APEC, WB-Ngân hàng thế giới, các khối kinh tế khu vực ASEAN, EC...) đã
dẫn đến mở rộng và thay đổi các thông lệ quốc tế về đầu tư, thương mại và lao
động. Nước ta tham gia dòng chảy toàn cầu hoá cũng có sự thay đổi, điều chỉnh
pháp luật liên quan tới đầu tư, thương mại, lao động. Trong đó, có sự thay đổi
chính sách phát triển nguồn nhân lực và chính sách liên quan đến phát triển
nguồn nhân lực như: xã hội hoá giáo dục, đào tạo tự do lựa chọn ngành nghề
đào tạo của người lao động, khuyến khích sử dụng lao động chuyên môn kỹ
thuật, tiền lương/tiền công đối với lao động chuyên môn kỹ thuật, tín dụng đào
tạo và dạy nghề cho các đối tượng tài năng của đất nước, bảo hiểm xã hội đối
với người lao động, đổi mới đầu tư cho giáo dục và đào tạo...
Bước vào năm 2006, Việt Nam tiến vào thời kỳ mới, thời kỳ hội nhập kinh
tế quốc tế toàn diện hơn và sâu rộng hơn. Việt Nam sẽ phải thực hiện đầy đủ
các cam kết của AFTA, thực hiện hầu hết các cam kết chủ yếu của Hiệp định
Thương mại Việt-Mỹ, bắt đầu thực hiện các cam kết của khu vực thương mại tự
do ASEAN-Trung Quốc, theo đó hàng rào bảo hộ đã giảm thiểu đáng kể, đồng
thời Việt Nam cũng sẽ có khả năng khai mở thị trường lớn hơn với AFTA,
Trung Quốc, Mỹ và các quốc gia thành viên WTO.
Tiến trình gia nhập WTO của Việt Nam.
Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) thành lập ngày 1/1/1995 ban đầu có
130 nước thành viên đến nay đã lên đến 146 thành viên trong đó có đến hai
13
phần ba là nước đang và kém phát triển. Đây là tổ chức thương mại lớn nhất
toàn cầu, chiếm hơn 90% thương mại thế giới.
(4)
Nhận định rõ sự cần thiết tham gia tổ chức WTO, Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ IX đã khẳng định lại “ Tiếp tục mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại theo
hướng đa phương hoá, đa dạng hoá chủ động hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ
trình phù hợp với điều kiện của Việt Nam và bảo đảm thực hiện những cam kết
trong quan hệ song phương và đa phương... tiến tới gia nhập WTO”. Thực hiện
chủ trương nêu trên, năm 1995, Việt Nam đã nộp đơn xin gia nhập WTO.
Gia nhập WTO đã tạo ra cho Việt Nam rất nhiều cơ hội mới. Trong đó,
Trước hết có thể mở rộng thị trường và tăng xuất khẩu. Trong lịch sử phát
triển của mình, hệ thống GATT, sau này là WTO, đã thực hiện nhiều vòng đàm
phán để tự do hóa thương mại hàng hóa và thương mại du lịch quốc tế. Mức độ
tự do hóa mà các Thành viên WTO đạt được cho tới nay là khá sâu rộng. Khi ra
nhập WTO, theo nguyên tắc tối huệ quốc, ta sẽ được tiếp cận mức độ tự do hóa
này mà không phải đàm phán hiệp định thương mại song phương với từng
nước. Hàng hóa của ta, vì vậy, sẽ có cơ hội lớn hơn và bình đẳng hơn trong việc
thâm nhập và mở rộng thị trường quốc tế.
Do có điều kiện tự nhiên và chi phí lao động rẻ, Việt Nam có lợi thế trong
một số ngành, đặc biệt là nông nghiệp và dệt may. Đây là 2 ngành được WTO
rất quan tâm và đã đề ra nhiều biện pháp để xóa bỏ dần các rào cản thương mại.
Thí dụ, theo Hiệp định Dệt may của WTO (ATC), mọi hạn chế định lượng đối
với mặt hàng dệt may phải được xóa bỏ từ ngày 1/1/2005. Gia nhập WTO, Việt
Nam sẽ được hưởng lợi ích này. Đối với thương mại hàng nông sản, các Thành
viên WTO cũng đã và đang đưa ra nhiều cam kết về cắt giảm trợ cấp, giảm thuế
và loại bỏ hàng rào phi thuế, từ đó mang lại cơ hội mới cho những nước xuất
khẩu nông sản như Việt Nam.
(4)
Theo www.mpi.gov.vn
14
Thứ hai là Tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Việc gia nhập WTO
sẽ giúp chúng ta có được một môi trường pháp lý hoàn chỉnh và minh bạch hơn,
có sức hấp dẫn hơn đối với đầu tư trực tiếp của nước ngoài. Gia nhập WTO
cũng là thông điệp hết sức rõ ràng về quyết tâm cải cách của ta, tạo niềm tin cho
các nhà đầu tư khi bỏ vốn vào làm ăn tại Việt Nam. Ngoài ra, cơ hội tiếp cận thị
trường của các Thành viên WTO khác một cách bình đẳng và minh bạch, theo
đúng chuẩn mực của WTO, cũng là một yếu tố quan trọng để thu hút vốn đầu tư
của nước ngoài.
Thứ ba, nâng cao tính hiệu quả và sức cạnh tranh cho nền kinh tế. Giảm
thuế, cắt giảm hàng rào phi thuế, mở cửa thị trường dịch vụ sẽ khiến môi trường
kinh doanh ở nước ta ngày càng trở nên cạnh tranh hơn. Trước sức ép cạnh
tranh, các doanh nghiệp trong nước, bao gồm cả các doanh nghiệp nhà nước, sẽ
phải vươn lên để tự hoàn thiện mình, nâng dần khả năng cạnh tranh cho sản
phẩm của mình, nhờ đó góp phần nâng cao tính hiệu quả và sức cạnh tranh cho
toàn bộ nền kinh tế. Ngoài ra, giảm thuế và loại bỏ các hàng rào phi thuế cũng
sẽ giúp các doanh nghiệp tiếp cận các yếu tố đầu vào với chi phí hợp lý hơn, từ
đó có thêm cơ hội để nâng cao sức cạnh tranh không những ở trong nước mà
còn trên thị trường quốc tế.
Thứ tư là sử dụng được cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO. Môi
trường thương mại quốc tế, sau nhiều nỗ lực của WTO đã trở nên thông thoáng
hơn. Tuy nhiên, khi tiến ra thị trường quốc tế doanh nghiệp của ta vẫn phải đối
mặt với nhiều rào cản thương mại, trong đó có cả những rào cản trá hình, núp
bóng các công cụ được WTO cho phép như chống trợ cấp, chống bán phá
giá...Tranh chấp thương mại là điều khó tránh mà phần thua thiệt thường rơi về
phía ta, bởi ta là nước nhỏ. Gia nhập WTO sẽ giúp ta sử dụng được cơ chế giải
quyết tranh chấp của tổ chức này, qua đó có thêm công cụ để đấu tranh với các
nước lớn, bảo đảm sự bình đẳng trong thương mại quốc tế. Thực tiễn cho thấy
cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO hoạt động khá hiệu quả và nhiều nước
đang phát triển đã thu được lợi ích từ việc sử dụng cơ chế này.
15
2. Những thuận lợi và khó khăn của Việt Nam trong tiến trình hội nhập.
2.1. Thuận lợi.
a. Về nội lực.
Khung pháp luật, thể chế chính sách được đổi mới liên tục. Để đáp ứng yêu
cầu hội nhập quốc tế nói chung và gia nhập WTO nói riêng, cho đến nay Việt
Nam đã làm được một số việc quan trọng.
Trong đó, phải kể đến việc Quốc hội vừa thông qua hàng loạt đạo luật cực
kỳ quan trọng nhằm cải thiện hơn nữa môi trường kinh doanh và cho phù hợp
với các cam kết quốc tế như Luật Đầu tư, Luật Đấu thầu, Luật Sở hữu trí tuệ,
Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Thuế giá trị gia tăng và Luật Thuế
tiêu thụ đặc biệt, Luật các công cụ chuyển nhượng, Luật Giao dịch điện tử... và
cả những luật có mối quan hệ chặt chẽ với môi trường kinh doanh như Luật
phòng chống tham nhũng, Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, Luật Bảo
vệ môi trường... Đồng thời, Quốc hội còn cho ý kiến để thông qua tại kỳ họp
sau các Luật Hàng không dân dụng, Công nghệ thông tin, Kinh doanh bất động
sản, Bảo hiểm xã hội...
Bên cạnh đó, công cuộc cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước đã được
đẩy mạnh, hệ thống ngân hàng thương mại đã được chấn chỉnh, sắp xếp lại, thị
trường chứng khoán đã hoạt động. Việc quan trọng nhất là các doanh nghiệp
cần ra sức đổi mới công nghệ, cải tiến quản lý, nâng cao chất lượng hàng hoá,
giảm giá thành.
Về đầu tư nước ngoài. Khung pháp luật cũng được đổi mới liên tục và ngày
càng phù hợp hơn, thông thoáng hơn và được đánh giá là có sức hấp dẫn hơn.
Nhiều lĩnh vực và hình thức đa dạng mở ra cho các nhà đầu tư nước ngoài cho
phép đầu tư theo công ty cổ phần, niêm yết trên thị trường chứng khoán...
16
Một ví dụ điển hình ở tỉnh Quảng Ninh, trong những năm qua, với chủ
trương chủ động hội nhập, Đảng bộ tỉnh đã đề ra những chính sách thông
thoáng nhằm thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Năm 2002 đã thu hút được một số
lượng đáng kể vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và vốn hỗ trợ phát triển
chính thức (ODA). Tính đến ngày 31-12-2002, trên địa bàn tỉnh có 50 dự án và
9 chi nhánh vốn đầu tư nước ngoài đang hoạt động, với tổng số vốn đăng ký là
357 triệu USD, vốn thực hiện là 195 triệu USD. Các dự án đầu tư FDI đã có
những đóng góp quan trọng vào sự tăng trưởng kinh tế chung của tỉnh: đóng
góp 25,6% giá trị sản xuất công nghiệp, 33,8% doanh thu du lịch, 19,5% kim
ngạch xuất khẩu, 12% nguồn thu ngân sách, 15,5% GDP.
(5)
Nhờ chính sách cải cách đổi mới phát triển kinh tế, chất lượng nguồn nhân
lực đã được nâng cao nhiều. Trình độ học vấn và dân trí của nguồn nhân lực
Việt Nam là khá cao. Tỷ lệ mù chữ của lực lượng lao động cả nước là 5,01%, tỷ
lệ tốt nghiệp phổ thông cơ sở là 3,28%, tỷ lệ tốt nghiệp phổ thông trung học là
19,7%; so với thời điểm 1/4/2003 tỷ lệ tốt nghiệp phổ thông cơ sở tăng 2,6%;
tốt nghiệp phổ thông trung học tăng 1,4%. Công tác nghiên cứu khoa học cũng
được chú trọng. Chúng ta cũng đã phát triển được một đội ngũ cán bộ khoa học
và công nghệ đông đảo. Nhiều nhà kinh tế, nhiều cán bộ khoa học của Việt
Nam cũng đã tiếp thu và tiếp cận được với nhiều tiến bộ khoa học và công nghệ
hiện đại của thế giới; nhiều công nhân, lao động Việt Nam thông qua xuất khẩu
lao động và các chuyên gia nước ngoài đã có điều kiện tiếp cận được với những
máy móc thiết bị hiện đại và tác phong lao động công nghiệp. Qua đó chất
lượng nguồn nhân lực Việt Nam cũng đã được nâng cao hơn.
Một trong những thuận lợi nữa của nước ta khi tham gia hội nhập kinh tế
quốc tế là có được sự ổn định về chính trị và xã hội; cùng với lợi thế về nguồn
nhân lực dồi dào và tài nguyên thiên nhiên phong phú đa dạng.
b. Về ngoại lực.
(
5)
Nguồn www.moi.gov.vn
17
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đang được sự ủng hộ từ
nhiều quốc gia trên thế giới. Đó là một thuận lợi rất lơn mà Việt Nam cần được
khai thác tốt. Trong những năm qua Việt Nam đã có được bước tiến lớn trong
quá trình ký kết đàm phán song phương và đa phương. Chương trình “HẬU
WTO” đang được nhiều quốc gia trên thế giới quan tâm và ủng hộ, đặc biệt quá
trình đàm phán với Hoa Kỳ xoay quanh vấn đề gia nhập WTO đang có những
dấu hiêu khả quan.
Một thuận lợi khác nữa cho Việt Nam đó là chúng ta đang trong môi trường
kinh doanh thuận lợi, các quốc gia cùng hợp tác bình đẳng trên cơ sở cùng có
lợi. Vì thế chúng ta có thể dễ dàng tiếp cận với các thành tựu khoa học trên thế
giới. Thực tế cho thấy chỉ trong vòng vài năm qua, công nghệ thông tin của Việt
Nam đã có những tiến bộ vượt bậc cả về số lượng và chất lượng.
Năm 2003 có thể đánh giá là năm thành công của công nghệ thông tin. Với
giá trị sản lượng phần mềm là 120 triệu USD, tăng 41% so với năm 2002 (38%
cho thị trường nội địa và 50% cho thị trường nước ngoài), số nhân lực phần
mềm tăng gấp rưỡi, năng suất phần mềm ở ngưỡng 10.000 USD/người/năm.
Giá trị xuất khẩu phần cứng cũng tăng 27%, đạt con số 700 triệu USD. So với
năm 2002 số nhân sự làm phần mềm của Việt Nam năm 2003 tăng từ 8.000 lên
12.000 người, tạo ra giá trị sản phẩm/dịch vụ khoảng 120 triệu USD, trong đó
gia công/xuất khẩu 30 triệu USD, còn lại là phục vụ thị trường trong nước.
Theo thống kê của Tổng cục Hải quan, giá trị phần mềm nhập khẩu qua đường
chính ngạch rất thấp, chỉ khoảng 7-10 triệu USD trong năm 2003. Năng suất lập
trình viên năm 2003 ở ngưỡng 10.000 USD/người/năm
(6)
.
2.2. Khó khăn.
Về công tác quản lý. Mặc dù đã có những cải cách đáng kể nhưng vẫn còn
nhiều bất cập trong công tác quản lý. Đội ngũ cán bộ, công chức chưa đáp ứng
được yêu cầu của thời kỳ hội nhập. Đội ngũ đông nhưng không mạnh, không
(
6)
: Nguồn www.vietnamnet.vn
18
đồng bộ, vừa thừa vừa thiếu; trình độ, kiến thức, năng lực lãnh đạo và quản lý
chưa đáp ứng được yêu cầu của nhiệm vụ quản lý thị trường.
Hiện nay, đội ngũ cán bộ, công chức trong các cơ quan quản lý nhà nước
thuộc các bộ, các ngành ở các cơ quan trung ương có 129.763 người, trong đó
có 74% công chức có trình độ đại học trở lên. Theo Nghị định 09/1998/NĐ-CP
ban hành ngày 23/1/1998 số lượng cán bộ chính quyền cơ sở loại xã sau đây
được ấn định như sau:
- Dưới 10.000 dân: 17-19 cán bộ.
- Từ 10.000 đến 20.000 dân: 19-21 cán bộ.
- Trên 20.000 dân cứ thêm 3000 dân thêm 1 cán bộ, tối đa không quá 25
cán bộ.
So với đội ngũ công chức hành chính trong nước từ cấp huyện lên trung
ương hiện có khoảng trên dưới 200.000 người, thì đội ngũ cán bộ làm công tác
chính quyền cơ sở không phải là nhỏ. Ngoài số đó ra còn có khoảng 200.000 là
đại biểu hội đồng dân cư, những người đang được chính quyền cơ sở trao những
quền hạn nhất định về mặt chính quyền, hợp thành một đội ngũ cán bộ đông đảo
ở cơ sở và trong toàn quốc.
Tính đến năm 2002, số cán bộ có trình độ cao đẳng, đại học, trên đại học là
trên 1.000.000 người, trong đó khoảng trên 10.000 người là cán bộ có trình độ
trên đại học. Đội ngũ này chiếm 2,3% lực lượng lao động xã hội. Số trinh viên
tốt nghiệp đại học hàng năm khoảng 25.000 người có học vị trên đại học bổ
xung vào nguồn nhân lực chất lượng cao. Hàng năm ở Việt Nam tỷ lệ cán bộ có
trình độ cao đẳng, đại học trên 1000 dân đang tăng lên:
Năm Tỷ lệ cán bộ có trình độ cao đẳng,
đại học trên 1000 dân
1997 12,0
19
1999 13,3
2000 14.1
Trong khi đó ở các nước khác là:
Nước Tỷ lệ cán bộ có trình độ cao đẳng, đại
học trên 1000 dân
Hàn Quốc 52
Singapo 16
Italia 21
Nhật Bản 70
Nguồn: www.mofa.gov.vn
So sánh các số liệu trên ta thấy giữa số lượng cán bộ được đào tạo ở Việt
Nam so với các nước khác vẫn đang còn khoảng cách khá xa, chứ chưa nói đến
nguồn nhân lực chất lượng cao. Mặt khác, cơ cấu đào tạo nguồn nhân lực cũng
chưa phù hợp, thể hiện ở chỗ số ngành được đào tạo ồ ạt như ngành kinh tế, luật
trong khi đó các ngành kỹ thuật, công nghệ thông tin, khoa học cơ bản chưa
được coi trọng đúng mức.
Một số bộ phận cán bộ thoái hoá, tham nhũng, quan liêu, cục bộ, cơ hội
trong thực thi công vu. Chính sách đối với cán bộ, công chức nhất là về tiền
20
lương; còn nhiều bất hợp lý; nội dung và phương pháp đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, chưa đảm bảo, chậm đổi mới. Thể chế hành chính vẫn chưa đáp ứng được
đòi hỏi của phát triển kinh tế, mở cửa hội nhập thể hiện ở thể chế pháp luật
không đồng bộ, chậm đi vào cuộc sống, trật tự kỷ cương bị vi phạm nghiêm
trọng; cải cách thủ tục hành chính chưa được tiến hành thường xuyên, chậm
tổng kết việc thực hiện “một cửa, một dâu”, chậm công bố những văn bản pháp
luật hết hiệu lực hoặc không còn phù hợp; số khiếu nại, tố cáo hành chính vẫn
còn tồn đọng nhiều; những phiền hà, sách nhiễu trong thực thi công vụ chưa
được khắc phục triệt để; tổ chức bộ máy hành chính còn cồng kềnh, nhiều đầu
mối, tầng lớp trung gian, chất lượng hoạt động và hiệu quả thấp. Đặc biệt, sự
phân cấp thẩm quyền trách nhiệm giữa Chính phủ với các bộ, ngành, giữa TW
và địa phương chưa cụ thể, thiếu nhất quán,dẫn đến tranh chấp thẩm quyền, đùn
đẩy trách nhiệm và thiếu sự phối hợp giữa các ngành các cấp.
Nước ta vẫn là nước nghèo. Trình độ phát triển của chúng ta còn quá thấp,
quá lạc hậu. Thu nhập bình quân đầu người tính bằng USD theo tỉ giá sức mua
tương đương của Việt Nam năm 2003 theo số liệu của Ngân hàng thế giới là
2.490 USD/năm (bằng 10% của Singapore, 28% của Malaysia, 33% của Thái
Lan, 54% của Philippines, 77% của Indonesia, 50% của Trung Quốc).
(7)
Do chiến tranh, do hoàn cảnh lịch sử, cơ sở vật chất mà chúng ta kế thừa
quá nghèo nàn. Bên cạnh đó còn biết bao vấn đề khó khăn về con người do
chiến tranh thiên tai để lại như những nạn nhân chất độc màu da cam... Công tác
ưu đãi và cứu trợ xã hội là gánh nặn đối với xã hội.
Trong lĩnh vực công nghiệp, công nghệ của ta lạc hậu so với thế giới từ 50–
100 năm. Hệ thống thiết bị kỹ thuật ở hầu hết các doanh nghiệp lạc hậu so với
mức trung bình của thế giới từ 2–3 thế hệ (ngoại trừ một số lĩnh vực mới). Công
nghệ và kỹ thuật lạc hậu không cho phép nâng cao năng suất lao động xã hội,
làm cho giá thành cao, không cạnh tranh được với các mặt hàng của các nước
(
7)
Nguồn: www.dpi.hochiminhcity.gov.vn
21
trên thế giới. Năng lực cạnh tranh yếu là nguy cơ rất lớn đẩy chúng ta tụt hậu xa
hơn trong bối cảnh toàn cầu hoá. Mặt khác công nghệ lạc hậu làm cản trở sự
phát triển của đội ngũ lao động có trình độ lành nghề và trình độ cao.
Cơ chế luật pháp còn nhiều bất cập. Để chủ động hội nhập kinh tế, vấn đề
rất bức xúc hiện nay là hoàn thiện hệ thông luật pháp phù hợp với sự phát triển
thị trường trong nước gắn liền mở cửa thị trường. Từ năm 1992, sau Hiếun pháp
được ban hành, Nhà nước đã ban hành hơn 100 luật, bộ luật; hàng trăm pháp
lệnh, nghị định và rất nhiều văn bản pháp quy, hướng dẫn các văn bản luật, bổ
sung, chi tiết hoá các quy phạm pháp luật. Tuy nhiên, tính khả thi còn thấp và
năng lực thi hành còn nhiều bất cập, yếu kém, cho nên hiệu lực, hiệu quả các
văn bản pháp quy bị hạn chế. Tiến hành hội nhập, thực hiện của quá trình tham
gia AFTA, APEC, quan hệ thương mại với Liên minh Châu Âu (EU), khu vực
mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA); thực hiện Hiệp định thương mại Việt Nam–
Hoa Kỳ; tham gia đàm phán gia nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO... Việt
Nam gặp một số rào cản về luật pháp do hệ thống luật pháp nước ta còn sự khác
biệt so với những định chế của các tổ chức kinh tế, các quốc gia nói trên. Hội
nhập kinh tế khu vực và thế giới, chúng ta phải chấp nhận hệ thống luật pháp,
các định chế của các tổ chức kinh tế thế giới và các quốc gia mà ta ký hiệp định
thương mại song phương. Đây cũng là một thách thức lớn cho quá trình hội
nhập kinh tế của Việt Nam.
Cơ cấu kinh tế còn chưa phù hợp. Trong những năm qua cơ cấu kinh tế đã
có những chuyển biến tích cực, đúng hướng nhưng chưa mạnh.
Về cơ cấu thành phần kinh tế.
22
Nguồn: www.dpi.hochiminhcity.gov.vn
Qua biểu đồ trên ta thấy, khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng
mạnh về tỷ trọng đóng góp GDP trong tổng cả ba khu vực (từ 18,6% năm 2000
lên 25,6% năm 2005), tiếp theo là khu vực ngoài quốc doanh (từ 35,5% năm
2000 lên 37,1% năm 2005) trong khi đó tỷ trọng đóng góp GDP của khu vực
quốc doanh đã có xu hướng giảm (từ 45,9% năm 2000 xuống còn 37,3% năm
2005). Đây là biểu hiện có chiều hướng tích cực trong cơ cấu kinh tế. Tuy
nhiên, khu vực Quốc doanh vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong thành phần kinh tế.
Khu vực này giành được vị trí có lợi trong sản xuất kinh doanh và được hưởng
nhiều ưu đãi của Nhà nước, nhưng hiệu quả sản xuất kinh doanh lại kém, phần
lớn số doanh nghiệp Nhà nước làm ăn thua lỗ hoặc chưa có lãi. Bên cạnh đó
môi trường đầu tư, kinh doanh chậm được cải thiện; các chính sách khuyến
khích phát triển các thành phần kinh tế khác chậm đưa vào cuộc sống, còn
nhiều biểu hiện phân biệt đối xử với các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh,
làm cho các thành phần kinh tế này còn e ngại, dè dặt, chưa mạnh dạn đưa vốn
vào đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh. Tỉ trọng của thành phần kinh tế nhà
nước hiện vẫn còn cao (chiếm 37,9%), điều này là một nguyên nhân của tình
trạng hiệu quả thấp, sức cạnh tranh yếu của nền kinh tế. Tỉ trọng của khu vực
kinh tế cá thể cao phản ánh phương thức kinh doanh nhỏ lẻ, phân tán còn khá
phổ biến trong nền kinh tế. Tỉ trọng kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài còn thấp
23
nhưng tăng tương đối mạnh trong những năm vừa qua, thể hiện sức hấp dẫn của
môi trường đầu tư của nước ta.
Về cơ cấu các ngành kinh tế.
Cơ cấu các ngành kinh tế ở nước ta
Ngành 2000 (%) 2004 (%)
Công nghiệp - xây dựng 36,6 39,8
Dịch vụ 39,1 39,9
Nông, lâm, ngư nghiệp 24,3 21,3
Nguồn: www.cuts-international. org
Như vậy, cơ cấu kinh tế theo ngành cũng có những chuyển biến tích cực,
dịch chuyển theo hướng công nghiệp hóa-hiện đại hoá. Tăng dần tỷ trọng trong
GDP các ngành công nghiệp-xây dựng (tăng từ 36,6% năm 2000 lên 39,8%
năm 2005) và dịch vụ (tăng từ 39,1% năm 2000 lên 39,9% năm 2005) giảm dần
tỷ trọng nông-lâm-ngư nghiệp (từ 24,3% năm 2000 giảm xuống 21,3% năm
2005). Tăng tỉ trọng của công nghiệp, dịch vụ trong tổng sản phẩm quốc nội.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở nước
ta trước hết chính là quá trình phát triển mạnh các ngành nghề phi nông nghiệp,
thông qua đó giảm bớt lao động trong lĩnh vực nông nghiệp, tăng khả năng tích
luỹ cho dân cư. Đây lại chính là điều kiện để tái đầu tư, áp dụng các phương
pháp sản xuất, công nghệ tiên tiến hiện đại vào sản xuất, trong đó có cả sản xuất
nông nghiệp. Kết quả là, tất cả các ngành kinh tế đều phát triển, nhưng ngành
công nghiệp và dịch vụ phát triển nhanh hơn, biểu hiện là tăng tỷ trọng của sản
phẩm công nghiệp và dịch vụ trong GDP. Tuy nhiên, ta có thể nhận thấy tỷ
trọng ngành dịch vụ tăng còn ở mức chậm, chưa đạt mức kế hoạch đặt ra, ngành
24
công nghiệp tăng mạnh nhưng trên thực tế cho thấy nhiều quy hoạch phát triển
còn rập khuôn, mang nặng tính phong trào. Có thể lấy ví dụ về điều này qua
việc xây dựng tràn lan nhà máy đường, nhà máy xi măng lò đứng, cảng biển,
khu công nghiệp ở các tỉnh, dẫn đến hiệu quả đầu tư rất thấp. Nhiều vùng sản
xuất hình thành một cách tự phát, hoặc quy hoạch phát triển thiếu khoa học, như
phát triển tràn lan cây cà phê ở Tây Nguyên, xây dựng nhiều nhà máy đường ở
các địa phương trong cả nước...
Về cơ cấu vùng kinh tế. Gắn với quy hoạch phát triển kinh tế, xã hội của
các vùng lãnh thổ, đặc biệt là các vùng kinh tế trọng điểm đang được xây dựng
và hình thành theo hướng phát huy thế mạnh của từng vùng, làm cho bộ mặt
kinh tế, xã hội ở các địa phương, các vùng đều có những thay đổi tích cực.
Đến năm 2000, các tỉnh vùng núi phía Bắc đóng góp khoảng trên 9% GDP
của cả nước; vùng đồng bằng sông Hồng khoảng 19%; Bắc Trung bộ và Duyên
hải Miền Trung khoảng 15%; vùng Tây Nguyên 3%; vùng Đông Nam bộ
khoảng 35% và đồng bằng sông Cửu Long khoảng 19%. Ba vùng kinh tế trọng
điểm đóng góp khoảng 50% giá trị GDP cả nước; 75-80% giá trị gia tăng công
nghiệp và 60-65% giá trị gia tăng khu vực dịch vụ. Nhịp độ tăng trưởng của các
vùng trọng điểm đều đạt trên mức trung bình cả nước, bước đầu có tác dụng
thúc đẩy sự phát triển chung
(8)
. Tuy nhiên, cơ cấu kinh tế chuyển dịch còn chậm,
chưa phát huy mạnh lợi thế so sánh của từng ngành, từng vùng; chưa tạo được
động lực thúc đẩy mạnh mẽ các thành phần kinh tế phát triển.
Về nguồn nhân lực. Tham gia quá trình toàn cầu hoá đang đặt ra cho lao
động nước ta những yêu cầu cấp bách, không những cần phải nâng cao khả
năng cạnh tranh về trình độ chuyên môn kỹ thuật, tay nghề mà còn các phẩm
chất khác như ngoại ngữ, tác phong và văn hoá ứng xử công nghiệp hiện đại,
tinh thần chấp hành kỷ luật lao động, kỷ luật công nghệ, hiểu biết pháp luật...
Ngoài ra, đặc điểm của nền sản xuất–kinh doanh hiện đại, kinh tế thị trường với
(
8)
Nguồn: www.mpi.gov.vn
25