Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

SKKN hướng dẫn học sinh THPT cách làm dạng đề so sánh văn học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (331.41 KB, 28 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

ĐỀ TÀI:
“HƯỚNG DẪN HỌC SINH THPT CÁCH LÀM DẠNG ĐỀ SO
SÁNH VĂN HỌC”

1


PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Điều 35 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ghi rõ: “Giáo dục và
đào tạo là quốc sách hàng đầu. Nhà nước phát triển giáo dục nhằm nâng cao dân trí,
đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài...” Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng cộng sản
Việt Nam lần thứ IX cũng khẳng định “ Phát triển giáo dục đào tạo là một trong những
động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, là điều kiện để
phát triển nguồn lực con người, yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng cường kinh tế
nhanh và bền vững...” Xác định được nhiệm vụ quan trọng đó nên những năm qua Bộ
giáo dục đã không ngừng đưa ra nhiều giải pháp mang tính cải tiến để thúc đẩy phát triển
giáo dục. Đứng trước thềm thế kỉ XXI, Bộ giáo dục đã có những đổi mới tích cực như đổi
mới chương trình giáo khoa, đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới kiểm tra đánh giá,
lồng ghép giáo dục kĩ năng sống vào các môn học.... Đặc biệt Bộ giáo dục thay đổi cấu
trúc đề thi phải có một câu thuộc dạng nghị luận xã hội, ra đề theo hướng mở... nhằm
khơi gợi trí tưởng tượng, khả năng sáng tạo của học sinh khi làm bài, góp phần nâng cao
chất lượng giáo dục, đáp ứng nhu cầu của đất nước.
Ngữ văn những năm gần đây là đề thi được ra theo hướng đề mở. Bên cạnh những
dạng đề truyền thống, nhiều đề kiểm tra định kì trong năm học, đề thi học sinh giỏi cấp
trường, cấp cụm, cấp tỉnh, đề thi đại học, cao đẳng cũng ra đề theo hướng mở. Cách ra đề
tạo nhiều hứng thú cho học sinh, nhất là học sinh khá, giỏi, kích thích được sự say mê,
sáng tạo của các em đó là dạng đề so sánh văn học. Dạng đề này khi mới xuất hiện trong
đề thi đại học năm học 2008-2009 đã được báo chí và dư luận đánh giá cao là bởi học


sinh không chỉ đơn thuần sao chép, tái hiện lại kiến thức đã học một cách máy móc, mà
học sinh phải tư duy sáng tạo dựa trên suy nghĩ cá nhân mới có thể làm tốt được bài.
Dạng đề này rất phù hợp với học sinh khá, giỏi và cần thiết khi muốn phân hóa đối tượng
người học
So sánh văn học là một kiểu bài khá mới mẻ nên chưa được cụ thể hóa thành một
bài học riêng trong chương trình Ngữ văn bậc trung học phổ thông, cũng không có nhiều
tài liệu, bài viết để tham khảo. Dạng bài này chưa “lộ diện” trong sách giáo khoa nên
không ít giáo viên tỏ ra lúng khi hướng dẫn học sinh viết bài, điều đó cũng ảnh hưởng ít
nhiều đến chất lượng làm bài thi của học sinh. Xuất phát từ thực tiễn giảng dạy cũng như
vai trò của một giáo viên tâm huyết với nghề văn, đồng thời góp phần tháo gỡ những khó
khăn trên, tôi đã lựa chọn đề tài : Hướng dẫn học sinh trung học phổ thông cách làm
dạng đề so sánh văn học..

2


II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Đưa ra đề tài này, thông qua việc hướng dẫn các em cách làm bài, chúng tôi muốn
nâng cao chất lượng làm bài dạng so sánh văn học trong các kì thi của học sinh THPT nói
chung, học sinh trường THPT Dương Quảng Hàm nói riêng, nhất là các em thi học sinh
giỏi môn Văn, các em thi Đại học, cao đẳng khối C, khối D tự tin hơn khi bước vào kì thi.
Theo chúng tôi thiên chức của người giáo viên dạy văn không chỉ giúp các em “khơi
những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có” mà dạy cho các em phương
pháp, kĩ năng làm bài vì thế mục đích chính của đề tài này :
- Giúp học sinh hiểu thế nào là dạng đề so sánh văn học
- Các loại so sánh văn học thường gặp trong thi cử
- Phương pháp, cách thức làm dạng đề này đạt kết quả cao.
- Góp phần nâng cao chất lượng bộ môn, đáp ứng yêu cầu thực tiễn
- Đề tài này cũng có thể coi tài liệu để các giáo viên tham khảo khi dạy các tiết ôn
tập, ôn thi tốt nghiệp, ôn thi đại học, ôn thi học sinh giỏi.

III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
- Học sinh trung học phổ thông
- Dạng đề so sánh văn học
IV. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Trong văn học thực tế có rất nhiều các dạng đề so sánh văn học mà tôi chưa thể
thống kê hết được. Song tôi đã cố gắng nghiên cứu và khái quát thành các dạng đề
thường gặp và đưa ra cách làm bài, ví dụ minh họa các bước khi làm dạng đề so sánh.
Phạm vi nghiên cứu là các đề văn có dạng so sánh mà học sinh trung học phổ
thông (nhất là học sinh lớp 11, 12) thường gặp trong các kì thi như: So sánh hai chi tiết
trong tác phẩm văn học, so sánh hai đoạn thơ, so sánh hai đoạn văn, so sánh hai hình
tượng trong tác phẩm văn học...
V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Sáng kiến đã sử dụng các phương pháp sau
- Phương pháp thống kê
- Phương pháp phân tích, tổng hợp
- Phương pháp so sánh
- Phương pháp điều tra
3


VI.THỜI GIAN BẮT ĐẦU NGHIÊN CỨU VÀ HOÀN THÀNH ĐỀ TÀI
- Thời gian bắt đầu tìm hiểu, nghiên cứu đề tài này đã diễn ra từ năm 2009. Đề tài
được bổ sung hàng năm qua quá trình dạy chuyên đề ôn thi đại học, cao đẳng và đội
tuyển học sinh giỏi cấp cụm, cấp Tỉnh.
- Báo cáo tháng 2 năm 2014 và hoàn thiện tháng 4 năm 2014
VII. ĐỊA ĐIỂM NGHIÊN CỨU
Học sinh lớp 11, 12 trường THPT Dương Quảng Hàm, Văn Giang, Hưng Yên

4



PHẦN NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1. So sánh là một thao tác tư duy rất cơ bản. Trong cuộc sống, khi ta tư duy, ta đã
dùng đến thao tác này rất thường xuyên như một phần tất yếu. Văn học cũng là một lĩnh
vực của tư duy, của nhận thức, mang tính đặc thù, cho nên việc sử dụng thao tác so sánh
trong sáng tác và nghiên cứu văn học là một điều hết sức tự nhiên. Từ khi có văn học,
nhất là văn học viết đến nay, các nhà nghiên cứu đã có ý thức so sánh khi tìm hiểu văn
chương, đặc biệt là khi có những hiện tượng song hành trong văn học. Có thể nhắc đến
những hiện tượng song hành tiêu biểu trong văn học Việt Nam: Nguyễn Trãi và Nguyễn
Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du và Nguyễn Đình Chiểu, Cung Oán Ngâm và Chinh Phụ
Ngâm,… So sánh các hiện tượng văn chương trở thành một phương pháp nghiên cứu văn
chương. Ở đây tôi không nhắc tới so sánh văn học như một bộ môn khoa học mà được
hiểu như một kiểu bài nghị luận văn học, một cách thức trình bày khi viết bài nghị luận.
2. Khái niệm so sánh văn học cần phải được hiểu theo ba lớp nghĩa khác nhau. Thứ
nhất, so sánh văn học là “một biện pháp tu từ để tạo hình ảnh cho câu văn” . Thứ hai, nó
được xem như một thao tác lập luận cạnh các thao tác lập luận như: phân tích, bác bỏ,
bình luận đã được đưa vào sách giáo khoa Ngữ văn 11. Thứ ba, nó được xem như “một
phương pháp, một cách thức trình bày khi viết bài nghị luận”, tức là như một kiểu bài
nghị luận bên cạnh các kiểu bài nghị luận về một đoạn trích, tác phẩm thơ; nghị luận về
một đoạn trích, tác phẩm văn xuôi… ở sách giáo khoa Ngữ văn 12. Ở đề tài này chúng ta
nghiên cứu vấn đề ở góc nhìn thứ ba.
3. So sánh là phương pháp nhận thức trong đó đặt sự vật này bên cạnh một hay
nhiều sự vật khác để đối chiếu, xem xét nhằm hiểu sự vật một cách toàn diện, k lưỡng,
rõ nét và sâu sắc hơn. Tuy nhiên, so sánh văn học như một kiểu bài nghị luận văn học lại
chưa được cụ thể bằng một bài học độc lập, chưa xuất hiện trong chương trình sách giáo
khoa. Vì vậy, từ việc xác lập nội hàm khái niệm kiểu bài, mục đích, yêu cầu, đến cách
thức làm bài cho kiểu bài này thực sự rất cần thiết song lại gặp không ít khó khăn.
4. Kiểu bài viết so sánh văn học yêu cầu thực hiện cách thức so sánh trên nhiều
bình diện: đề tài, nhân vật, tình huống, cốt truyện, cái tôi trữ tình, chi tiết nghệ thuật,

nghệ thuật trần thuật… Quá trình so sánh có thể chỉ diễn ra ở các tác phẩm của cùng một
tác giả, nhưng cũng có thể diễn ra ở những tác phẩm của các tác giả cùng hoặc không
cùng một thời đại, giữa các tác phẩm của những trào lưu, trường phái khác nhau của một
nền văn học.

5


5. Mục đích cuối cùng của kiểu bài này là yêu cầu học sinh chỉ ra được chỗ giống
và khác nhau giữa hai tác phẩm, hai tác giả, từ đó thấy được những mặt kế thừa, những
điểm cách tân của từng tác giả, từng tác phẩm; thấy được vẻ đẹp riêng của từng tác phẩm;
sự đa dạng muôn màu của phong cách nhà văn. Không dừng lại ở đó, kiểu bài này còn
góp phần hình thành kĩ năng lí giải nguyên nhân của sự khác nhau giữa các hiện tượng
văn học – một năng lực rất cần thiết góp phần tránh đi khuynh hướng “bình tán” khuôn
sáo trong các bài văn của học sinh hiện nay. Lẽ hiển nhiên, đối với đối tượng học sinh
trung học phổ thông, các yêu cầu về năng lực lí giải cần phải hợp lí, vừa sức. Nghĩa là
các tiêu chí so sánh cần có mức độ khó vừa phải, khả năng lí giải sự giống và khác nhau
cũng cần phải hợp lí với năng lực của các em.
II. THỰC TRẠNG CỦA DẠNG ĐỀ SO SÁNH VĂN HỌC HIỆN NAY
1. Như phần đặt vấn đề chúng tôi có giới thiệu, dạng đề so sánh văn học đã xuất
hiện thường niên trong các kì thi đại học, cao đẳng, các kì thi học sinh giỏi. Thậm trí
trong các nhà trường phổ thông trung học dạng đề này cũng thường xuyên được các thầy
cô sử dụng cho các bài kiểm tra định kì của các trường THPT. Minh chứng cho điều này
tôi giới thiệu vắn tắt một số câu hỏi thuộc phần 5 điểm trong SGK Ngữ văn 11, 12, trong
các đề thi học sinh giỏi tỉnh Hưng Yên và một số câu hỏi trong đề thi đại học, cao đẳng từ
năm 2009 đến nay của Bộ giáo dục đào tạo:
- Đề thi học sinh giỏi môn Văn tỉnh Hưng Yên: (Câu 2- 6 điểm)
+ Năm học 2009-2010: Cảm nhận của anh/chị về hai đoạn văn sau:
“Còn xa lắm mới đến cái thác dưới ........ nó nằm tùy theo sở thích tự động của đá
to đá bé...” (Trích Người lái đò sông Đà – Nguyễn Tuân)

“Rời khỏi kinh thành,.....ấy là tấm lòng người dân Châu Hóa xưa mãi mãi chung
tình với quê hương xứ sở....” (Trích Ai đã đặt tên cho dòng sông ?– Hoàng Phủ Ngọc
Tường)
+ Năm học 2010-2011: Cảm nhận của anh/chị về hai đoạn thơ:
“ Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ
....Nhưng trọn đời con nhớ mãi ơn nuôi”
(Trích Tiếng hát con tàu- Chế Lan Viên)
“Có biết bao người con gái, con trai
...Để đất nước này là Đất Nước nhân dân”
(trích Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm)

6


+ Năm học 2011-2012: Đề ra cảm nhận về hai đoạn văn trong bài Vợ nhặt của Kim
Lân và Vợ chồng APhủ của Tô Hoài
+ Năm học 2012-2013: Cảm nhận của anh/chị về hai đoạn thơ sau:
“Những đường Việt Bắc của ta
.....Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng” (Trích Việt Bắc – Tố Hữu)
“Ngày nắng đốt theo đêm mưa dội
.....Rũ bùn đứng dậy sáng lòa”
+ Năm học 2013-2014: Cảm nhận của anh/chị về hai đoạn thơ trong bài Tràng
giang (Huy Cận) và bài Đây thôn Vĩ Dạ Hàn Mặc Tử)
- Đề thi đại học, cao đẳng của Bộ giáo dục:
+ Đề thi tuyển sinh đại học năm 2009, khối D (câu 3a) như sau:
Cảm nhận của anh/chị về vẻ đẹp khuất lấp của nhân vật người vợ nhặt (Vợ nhặt Kim Lân) và nhân vật người đàn bà hàng chài (Chiếc thuyền ngoài xa - Nguyễn Minh
Châu).
+ Đề thi tuyển sinh đại học khối C năm 2009: Cảm nhận của anh/chị về hai đoạn
văn sau:
“Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình,..... lừ lừ cái màu đỏ giận

dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về”
(Người lái đò Sông Đà – Nguyễn Tuân, Ngữ văn 12 Nâng cao)
“Từ Tuần về đây, sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn, ..... .....“sớm
xanh, trưa vàng, chiều tím” như người Huế thường miêu tả”
(Ai đã đặt tên cho dòng sông – Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngữ văn 12 Nâng cao)
+ Đề thi Tuyển sinh đại học khối D (câu 3b) năm 2010: Cảm nhận của anh/chị về
chi tiết “bát cháo hành” mà nhân vật thị Nở mang cho Chí Phèo (Chí Phèo – Nam Cao)
và chi tiết “ấm nước đầy và nước hãy còn ấm” mà nhân vật Từ dành sẵn cho Hộ (Đời
Thừa – Nam Cao).
+ Đề thi Tuyển sinh đại học khối D năm 2012: Truyện ngắn Chí Phèo của Nam
Cao kết thúc bằng hình ảnh:
Đột nhiên thị thấy thoáng hiện ra một cái lò gạch cũ bỏ không, xa nhà cửa, và vắng
người lại qua… (Ngữ văn 11, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2011, tr.155) Truyện
ngắn Vợ nhặt của Kim Lân kết thúc bằng hình ảnh:
7


Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới…
(Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2011, tr.32)
Cảm nhận của anh/chị về ý nghĩa của những kết thúc trên.
2. Các đề thi trong khoảng 5 năm trở lại đây xuất hiện với mật độ dày như vậy,
chúng tôi chưa tính đến thực tế trong các trường phổ thông nhiều bài viết thường xuyên
và định kì giáo viên cũng ra dạng đề này. Đặc biệt trong sách giáo khoa của lớp 11 và lớp
12 cũng xuất hiện các đề so sánh yêu cầu giáo viên và học sinh tìm hiểu, điển hình như:
Bài viết số 2 Nghị luận văn học lớp 11, SGK giới thiệu đề thuộc so sánh văn học
Hình ảnh người phụ nữ Việt nam thời xưa qua các bài Bánh trôi nước, Tự tình(II) của Hồ
Xuân Hương và Thương Vợ của Trần Tế Xương.
Bài Ôn tập phần văn học lớp 12 học kì I đưa ra hệ thống câu hỏi trong đó có 3 câu
hỏi với kiểu đề so sánh để thầy cô và các em tìm hướng giải quyết.
Câu 8: Phân tích vẻ đẹp của hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến của

Quang Dũng, so sánh với hình tượng người lính trong bài thơ Đồng chí của Chính Hữu
Câu 9: Những khám phá riêng của mỗi nhà thơ về đất nước quê hương qua bài thơ
Đất nước (Nguyễn Đình Thi) và đoạn trích Đất Nước trong trường ca Mặt đường khát
vọng (Nguyễn Khoa Điềm)
Câu 12: So sánh Chữ người tử tù (Ngữ văn 11, tập một) với Người lái đò Sông Đà,
nhận xét những điểm thống nhất và khác biệt của phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân
trước và sau Cách mạng tháng Tám năm 1945).
Bài viết số 6 trong SGK Ngữ văn 12 cũng có đề so sánh về hai bài thơ của Nguyễn
Đình Thi và Nguyễn Khoa Điềm
3. Thực trạng đề thi có dạng so sánh xuất hiện phong phú như vậy nhưng trong
chương trình sách giáo khoa môn Ngữ văn của trung học phổ thông lại không có một
kiểu bài dạy riêng để hướng dẫn cho thầy cô giáo cũng như các em học sinh nắm được
phương pháp làm dạng đề nay một cách hiệu quả nhất. Chính vì vậy mà như đã trình bày
ở phần lí do chọn đề tài nhiều em học sinh tỏ ra rất lúng túng khi đứng trước đề bài so
sánh văn học, còn không ít thầy cô thì băn khoăn về phương pháp làm bài. Đứng trước
thực trạng đó, bằng kinh nghiệm của bản thân qua những năm dạy đội tuyển học sinh
giỏi, dạy chuyên đề đại học cũng như trao đổi với đồng nghiệp, tôi đề xuất cách làm dạng
đề so sánh này.
III. ĐỀ XUẤT CÁCH LÀM DẠNG ĐỀ SO SÁNH VĂN HỌC
1.Xác định các loại đề so sánh văn học thường gặp
8


Thực tế cho thấy dạng bài so sánh văn học có rất nhiều loại nhỏ. Bằng sự trải
nghiệm của bản thân và dựa vào tổng kết các đề thi của những năm gần đây, tôi thống kê
và khái quát lại thành những cấp bậc đề so sánh văn học cơ bản và đưa ra một vài ví dụ
mang tính chất minh họa cho mỗi loại nhỏ:
- So sánh hai chi ti t trong hai tác ph m văn học:
Ví dụ 1: Đề khối D 2010: So sánh chi tiết ấm nước đầy và còn ấm mà Từ dành
chăm sóc Hộ và chi tiết bát cháo hành của Thị Nở dành cho Chí Phèo

Ví dụ 2: Cảm nhận của anh/chị về chi tiết “tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá!”
mà nhân vật Chí Phèo cảm nhận được sau đêm gặp thị Nở (Chí Phèo - Nam Cao, Ngữ
văn 11) và chi tiết “Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha bổi hổi” mà nhân vật Mị nghe
được trong đêm tình mùa xuân (Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài, Ngữ văn 12)
- So sánh hai đoạn th
Ví dụ 1: Đề khối C 2008 (diễn tả nỗi nhớ) trong hai bài: Tây Tiến của Quang Dũng
và Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên
Ví dụ 2: Cảm nhận của anh/chị về hai đoạn thơ sau:
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất;
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.
(Vội vàng– Xuân Diệu, Ngữ văn 11,
Tập 2, NXB Giáo dục 2011)
Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời.
(Từ ấy– Tố Hữu, Ngữ văn 11,
Tập 2, NXB Giáo dục 2011)
- So sánh hai đoạn văn
Ví dụ 1: Đề khối C 2010 (khắc họa vẻ đẹp hai dòng sông) trong hai bài kí: Người
lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân và Ai đã đặt tên cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc
Tường
Ví dụ 2: Cảm nhận về hai đoạn văn sau: “Ngày tết, Mị cũng uống rượu. Mị nén lấy
hũ rượu cứ uống ừng ựng từng bát. Rồi say, Mị lịm mặt ngồi đấy nhìn mọi người nhảy

9



đồng, người hát, nhưng lòng Mị thì đang sống về ngày trước. Tai Mị văng vẳng tiếng sáo
gọi bạn đầu làng...” (Vợ chồng APhủ - Tô Hoài)
“ Phải uống thêm chai nữa. Và hắn uống. Nhưng tức quá, càng uống lại càng tỉnh
ra. Tỉnh ra chao ôi buồn! Hơi rượu không sặc sụa, hắn cứ thoang thoảng thấy hơi cháo
hành. Hắn ôm mặt khóc rưng rức...” ( Chí Phèo –Nam Cao)
- So sánh hai nh n vật
Ví dụ 1: Đề thi đại hoc –khối C 2009 Vẻ đẹp khuất lấp của: người vợ nhặt trong Vợ
nhặt của Kim Lân và người đàn bà hàng chài trong Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn
Minh Châu.
Ví dụ 2: So sánh nhân vật Đan Thiềm trong trích đoạn Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài
của Nguyễn Huy Tưởng và viên quản ngục trong Chữ Người tử tù của Nguyễn Tuân.
Ví dụ 3: Bi kịch của Vũ Như Tô (Vũ Như Tô – Nguyễn Huy Tưởng) và Hộ (Đời
thừa – Nam Cao)
- So sánh cách k t thúc hai tác ph m:
Ví dụ 1: Đề thi đại học 2012: So sánh kết thúc tác phẩm truyện ngắn Chí Phèo của
Nam Cao và kết thúc tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân
Ví dụ 2: So sánh cách kết thúc hai tác phẩm Hai đứa trẻ của Thạch Lam và Chí
Phèo của Nam Cao
- So sánh phong cách tác giả:
Ví dụ: So sánh Chữ người tử tù (Ngữ văn 11, tập một) với Người lái đò Sông Đà,
nhận xét những điểm thống nhất và khác biệt của phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân
trước và sau Cách mạng tháng Tám năm 1945.
- So sánh, đánh giá hai lời nhận định về một tác ph m
Đề thi đại học khối C năm 2013 cũng có thể xem là một dạng của so sánh: Về hình
tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng có ý kiến cho rằng: người lính
ở đây có dáng dấp của tráng sĩ thuở trước; ý kiến khác thì nhấn mạnh: hình tượng người
lính mang đậm vẻ đẹp của người lính thời kì kháng chiến chống Pháp.Từ cảm nhận của
mình về hình tượng này, anh chị hãy bình luận những ý kiến trên.
Đề thi đại học 2013 yêu cầu người viết hiểu đúng, hiểu sâu nhưng quan trọng là tự
bày tỏ hiểu biết tùy theo năng lực nhận thức, không lệ thuộc tài liệu hay bài giảng của

thầy cô. Đáp án chấp nhận cả quan điểm khác hướng dẫn chấm nhằm khuyến khích thí
sinh mạnh dạn viết về vấn đề với cảm nhận từ nhiều điểm nhìn khác nhau, trình độ khác

10


nhau. Vấn đề quan trọng quyết định đánh giá chất lượng bài thi văn lại chính là k năng
phân tích, so sánh, bình luận làm rõ vấn đề của học sinh.
2. Các cách làm bài dạng đề so sánh văn học
- Đứng trước một đề văn thường có rất nhiều cách triển khai, giải quyết vấn đề,
song đối với kiểu đề so sánh văn học dù là ở dạng so sánh hai chi tiết , hai đoạn thơ, hai
đoạnh văn, hay hai nhân vật .... phương pháp làm bài văn dạng này thông thường có hai
cách:
Nối ti p : Lần lượt phân tích hai văn bản rồi chỉ ra điểm giống và khác nhau
Song song : Tìm ra các luận điểm giống và khác nhau rồi lần lượt phân tích từng
luận điểm kết hợp với việc lấy song song dẫn chứng của cả hai văn bản minh họa.
* Cách 1: Phân tích theo kiểu nối tiếp. Đây là cách làm bài phổ biến của học sinh
khi tiếp cận với dạng đề này, cũng là cách mà Bộ giáo dục và đào tạo định hướng trong
đáp án đề thi đại học - cao đẳng. Bước một lần lượt phân tích từng đối tượng so sánh cả
về phương diện nội dung và nghệ thuật, sau đó chỉ ra điểm giống và khác nhau. Cách này
học sinh dễ dàng triển khai các luận điểm trong bài viết. Bài viết rõ ràng, không rối kiến
thức nhưng cũng có cái khó là đến phần nhận xét điểm giống và khác nhau học sinh
không thành thạo kĩ năng, nắm chắc kiến thức sẽ viết lặp lại những gì đã phân tích ở trên
hoặc suy diễn một cách tùy tiện. Mô hình khái quát của kiểu bài này như sau:
Mở bài:
- Dẫn dắt (mở bài trực tiếp không cần bước này)
- Giới thiệu khái quát về các đối tượng so sánh
Thân bài
- Làm rõ đối tượng so sánh thứ 1 (bước này vận dụng kết hợp nhiều thao tác lập luận
nhưng chủ yếu là thao tác lập luận phân tích)

- Làm rõ đối tượng so sánh thứ 2 (bước này vận kết hợp nhiều thao tác lập luận
nhưng chủ yếu là thao tác lập luận phân tích)
- So sánh:
+ Nhận xét nét tương đồng và khác biệt giữa hai đối tượng trên cả các bình diện
như chủ đề, nội dung hình thức nghệ thuật...(bước này vận dụng kết hợp nhiều thao tác
lập luận nhưng chủ yếu là thao tác lập luận phân tích và thao tác lập luận so sánh)
+ Lý giải sự khác biệt: Thực hiện thao tác này cần dựa vào các bình diện: bối cảnh
xã hội, văn hóa mà từng đối tượng tồn tại; phong cách nhà văn; đặc trưng thi pháp của
11


thời kì văn học…(bước này vận nhiều thao tác lập luận nhưng chủ yếu là thao tác lập
luận phân tích)
K t bài:
- Khái quát những nét giống nhau và khác nhau tiêu biểu
- Có thể nêu những cảm nghĩ của bản thân.
*Cách 2: Phân tích song song được hiểu song hành so sánh trên mọi bình diện của
hai đối tượng. Cách này hay nhưng khó, đòi hỏi khả năng tư duy chặt chẽ, lôgic, sự tinh
nhạy trong phát hiện vấn đề học sinh mới tìm được luận diểm của bài viết và lựa chọn
những dẫn chứng tiêu biểu phù hợp của cả hai văn bản để chứng minh cho luận điểm đó.
Ví dụ, khi so sánh hai bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi và trích đoạn Đất nước
của Nguyễn Khoa Điềm. ng dụng cách viết này học sinh không phân tích lần lượt từng
tác phẩm như cách một mà phân tích so sánh song song trên các bình diện: Xuất xứ cảm hứng - hình tượng - chất liệu và giọng điệu trữ tình, mô hình khái quát của kiểu bài
này như sau:
Mở bài:
- Dẫn dắt (mở bài trực tiếp không cần bước này)
- Giới thiệu khái quát về các đối tượng so sánh
Thân bài:
- Điểm giống nhau
+ Luận điểm 1 (lấy dẫn chứng cả hai văn bản)

+ Luận điểm 1 (lấy dẫn chứng cả hai văn bản)
+ Luận điểm .....
- Điểm khác nhau
+ Luận điểm 1 (lấy dẫn chứng cả hai văn bản)
+ Luận điểm 1 (lấy dẫn chứng cả hai văn bản)
+ Luận điểm .....
K t bài
- Khái quát những nét giống nhau và khác nhau tiêu biểu
- Có thể nêu những cảm nghĩ của bản thân.

12


* Hai cách làm bài của kiểu đề so sánh văn học là vậy, mỗi cách làm đều có mặt
mạnh, mặt yếu khác nhau. Trong thực tế không phải đề nào chúng ta cũng có thể áp dụng
theo đúng khuôn mẫu cách làm như đã trình bày ở trên. Phải tùy thuộc vào cách hỏi trong
mỗi đề cụ thể mà ta áp dụng theo cách nào và áp dụng sao cho linh hoạt, phù hợp. Cũng
có khi vận dụng đầy đủ các ý của phần thân bài, cũng có khi phải cắt bỏ một phần cho
hợp với yêu cầu trọng tâm của đề, hay dụng ý của người viết.
3. Hướng dẫn thực nghiệm
Để minh họa cho các bước làm một đề so sánh văn học tôi đưa ra hai ví dụ để ứng
dụng. Ví dụ 1 sẽ được làm theo cách làm bài số 1 – Phân tích nối tiếp; ví dụ 2 sẽ được
làm theo cách làm bài số 2 – Phân tích song song. Hai ví dụ được vận dụng xuyên xuốt
trong phần thực nghiệm để chúng ta kiểm chứng lại lí thuyết về cách làm bài và tiện đối
chiếu mặt mạnh, mặt yếu của từng cách làm.
* Ví dụ 1: Sự tư ng phản giữa ánh sáng và bóng tối trong truyện ngắn Hai đứa
trẻ của Thạch Lam và Chữ người tử tù của Nguyễn Tu n.
* Ví dụ 2: Hình tượng người lính trong thời kì kháng chi n chống Pháp qua
hai bài th Tây Tiến của Quang Dũng và Đồng chí của Chính Hữu.
3.1. Hướng dẫn học sinh tìm hiểu đề

- Thông thường giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu đề qua ba ý
+ Xác định kiểu đề
+ Nội dung, ý cơ bản
+ Phạm vi dẫn chứng
Nếu chỉ dừng lại ở lẽ thường trên thì có lẽ chưa đủ với cách tìm hiểu đề của dạng so
sánh này. Bởi thực tế cho thấy nhiều em học sinh chỉ cần đọc qua đề xác định đó đúng là
dạng đề so sánh văn học là bắt tay vào viết ngay, gặp gì viết lấy, cốt bài dài dài là được.
Ví dụ cứ thấy đề bàn về nhân vật nào, tác phẩm nào là mang tất cả những gì hiểu biết về
tác phẩm ấy đưa vào bài viết. Thực ra thì hoàn toàn không phải là thế. Mỗi đề văn, nhất là
đề văn hay phải vừa “lạ” vừa “quen”, người ra đề ngoài những yêu cầu bình thường còn
cài đặt trong đó một ẩn ý sâu xa mà học sinh chịu khó tìm hiểu, suy nghĩ mới có thể đáp
ứng được yêu cầu. Chính vì vậy mà ngay bước khởi đầu này giáo viên cần lưu ý các em
phải biết cách nhận thức đề cho đúng và trúng – nghĩa là tìm cho đúng trọng tâm yêu cầu
đề.
- Thường đề hỏi theo hai cách: dạng hỏi có định hướng (có luận điểm sẵn trong đề
như ví dụ 1) và dạng hỏi không có định hướng (không có sẵn luận điểm trong đề mà mà
13


học sinh phải tự đi tìm như ví dụ 2) Nếu xác định không trúng trọng tâm yêu cầu đề thi
bài viết sẽ lạc hướng và ngược lại nếu xác định đúng và trúng thì bài viết sẽ bám sát yêu
cầu đề và đem lại hiệu quả cao hơn.
Ví dụ 1: Sự tương phản giữa ánh sáng và bóng tối trong truyện ngắn Hai đứa trẻ
của Thạch Lam và Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân.
Đây là dạng đề có định hướng: tìm hiểu ánh sáng và bóng tối trong hai tác phẩm,
kiểu đề so sánh hai chi tiết trong tác phẩm. Tuy nhiên nếu học sinh không nghiền ngẫm
đề sẽ chỉ lao vào phân tích ánh sáng và bóng tối của hai tác phẩm rồi tìm ra điểm giống
và khác nhau. Nhưng đề không đơn thuần là như vậy, các em học sinh cần hiểu yêu cầu
đề nhấn mạnh đến sự tương phản giữa ánh sáng và bóng tối . Nghĩa là dụng ý của người
ra đề còn muốn nhấn mạnh đến mục đích của các nhà văn khi khi xây dựng sự tương

phản giữa hai loại ánh sáng đó. Từ đó tìm ra nét tương đồng và khác biệt của từng tác
phẩm. Nếu hiểu được đúng yêu cầu đề như vậy bài viết chắc sẽ tốt hơn.
Ví dụ 2: Hình tượng người lính trong thời kì kháng chiến chống Pháp qua hai bài
thơ Tây Tiến của Quang Dũng và Đồng chí của Chính Hữu.
Giáo viên cần xác định cho học sinh đây là dạng hỏi không có định hướng hay nói
một cách khác là một dạng của đề mở. Với đề bài này người viết tự tìm ra luận điểm sao
cho phù hợp, dù luận điểm xác định như nào thì nhất thiết người đọc cũng phải thấy được
nét tương đồng và khác biệt trong hai tác phẩm. Đề này có thể thấy điểm giống nhau trên
các bình diện: thời đại, hình tượng, lí tưởng...điểm khác nhau về bút pháp, nguồn gốc
xuất thân...
3.2. Hướng dẫn học sinh lập dàn ý chi ti t
- Trước một đề văn, phân tích tìm hiểu đề cho kĩ càng đã khó, xây dựng được một
dàn ý cho tương đối hoàn chỉnh và đúng đắn lại càng khó hơn. Bởi trước một vấn đề của
văn chương không ít cách tiếp cận. Trước một câu hỏi văn chương ít khi có một lời đáp
duy nhất, nhất là các dạng đề mở. Tuy nhiên, nói như thế không có nghĩa là trước một đề
văn ai nói gì thì nói mà ta cũng phải tuân thủ theo những nguyên tắc nhất định. Một bài
văn làm theo hình thức tự luận thì bất kì đề thi thuộc kiểu, dạng gì cũng thường có đủ ba
phần: Đặt vấn đề (mở bài), giải quyết vấn đề (thân bài), kết thúc vấn đề(kết bài).
- Nội dung tiếp theo của SKKN tôi sẽ giới thiệu cách làm ba phần trong một bài
viết, có dàn ý chi tiết minh họa cho hai cách làm bài như đã trình bày ở trên. Còn bài viết
chi tiết tôi sẽ minh chứng bằng bài viết của học sinh ở phần Phụ lục của SKKN
3.2.1.Đặt vấn đề

14


- Không phải không có lí khi có ý kiến cho rằng: văn hay chỉ cần đọc mở bài. Tất
nhiên nếu chỉ đọc mở bài thì không thể đánh giá được toàn bộ bài văn. Nhưng mở bài có
tầm quan trọng thực sự đối với bài viết. Người ta thường nói “Vạn sự khởi đầu nan”. Khi
viết văn có được một mở bài hay, tự nhiên “dòng văn” như được khơi chảy, tuôn trào.

Mở bài lúng túng, trục trặc sẽ khiến bài văn thiếu sinh khí, văn phong không liền mạch, ý
tứ sẽ trở nên rời rạc.
- Đối với dạng đề so sánh văn học, học sinh càng lúng túng hơn khi viết mở bài vì
liên qua tới hai tác giả, hai tác phẩm. Qua thực tế chấm bài của học sinh làm tôi thấy
nhiều học sinh mở bài so sánh chưa đúng nguyên tắc. Các em thường mắc phải lỗi giới
thiệu tuần tự hai tác giả, hai tác phẩm một cách rời rạc khiến người chấm có cảm giác
như có hai mở bài. Vì vậy dạy đề văn dạng này giáo viên cần lưu ý cho học sinh cách mở
bài:
+ Các em nên bắt đầu từ những điểm chung có liên quan đến hai tác giả, hai tác
phẩm, thời đại, đề tài, các nhận định liên quan...để dẫn dắt vào vấn đề
+ Để có một mở bài hay các em cần mở bài ngắn gọn, đầy đủ (các thông tin cơ
bản), độc đáo (gây được sự chú ý của người đọc về vấn đề mình sẽ viết) và phải tự nhiên.
* Ví dụ 1:
- Thạch Lam và Nguyễn Tuân là hai nhà văn thuộc dòng văn học lãng mạn, sinh ra
trong một thời đại có nhiều biến động…
- Ánh sáng và bóng tối trong hai truyện ngắn được sử dụng như một nguyên tắc tạo
tình huống truyện mà còn vươn đến ý nghĩa biểu tượng về sự đối lập giữa thiện và ác và
tốt và xấu, giữa hiện thực tăm tối và tương lai tươi sáng…
* Ví dụ 2: Đặt vấn đề
- Đề tài về người lính là đề tài quen thuộc của thơ ca kháng chiến chống Pháp
- Cùng viết về một đề tài song vẻ đẹp của hình tượng người lính trong Đồng chí
qua cảm nhận của Chính Hữu và vẻ đẹp của hình tượng người lính trong Tây Tiến qua
cảm nhận của Qung Dũng lại khác nhau.
3.2.2 Giải quy t vấn đề
- Giải quyết vấn đề được xem là phần quan trọng nhất trong một bài viết vì nó
chiếm số lượng điểm nhiều nhất của toàn bài. Chính vì vậy mà phần này giáo viên không
chỉ trang bị kiến thức lí luận, kiến thức về tác giả, kiến thức sâu, rộng về tác phẩm mà
phải hướng dẫn cho các em các kĩ năng viết bài: lập dàn ý, cách bám sát yêu cầu đề cũng

15



như là nghệ thuật hành văn, kĩ thuật xoáy trọng tâm để khi thực hành các em làm được
bài ở phong độ tốt nhất.
- Quy trình thực hiện lập dàn ý chi tiết phần giải quyết vấn đề dạng bài so sánh có
thể phân lập theo các bước sau. Đề bao giờ cũng đưa ra các đối tượng để so sánh: hai
đoạn thơ, hai đoạn văn, hai nhân vật, hai chi tiết…
+ Trước hết, cần phân lập đối tượng thành nhiều bình diện để đối sánh. Bước này
nhằm phát huy trí tuệ sắc sảo và mĩ cảm của học sinh. Trên đại thể, hai bình diện bao
trùm là nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật.
Tùy từng đối tượng được yêu cầu so sánh mà có cách chia tách ra các khía cạnh
nhỏ khác nhau như: ngôn từ, hình ảnh, chi tiết, kết cấu, âm hưởng, giọng điệu đến đề tài,
chủ
đề,

tưởng

cảm
hứng
nghệ
thuật.....
+ Sau đó cần nhận xét, đối chiếu để chỉ ra điểm giống và khác nhau. Bước này đòi hỏi
học sinh cần có sự quan sát tinh tường, phát hiện chính xác và diễn đạt thật nổi bật, rõ
nét, tránh nói chung chung, mơ hồ.
Khi nhận xét về điểm giống và khác nhau, giáo viên cũng cần định hướng cho các
em tìm trên các bình diện để so sánh như :
-> Thời đại, hoàn cảnh ra đời
-> Đề tài, chủ đề
-> Phong cách sáng tác
-> Nội dung tư tưởng

-> Đặc sắc nghệ thuật
->Vị trí đóng góp của tác phẩm, tác giả.....
Nếu các em đối chiếu hai đối tượng (văn bản) được so sánh trên các bình diện trên
để khái quát vấn đề chắc chắn các em sẽ tìm thấy điểm giống và khác nhau. Vì người ra
đề thi dạng so sánh thường dựa trên những vấn đề có liên quan tới nhau để ra đề.
+ Cuối cùng là đánh giá, nhận xét và lí giải nguyên nhân của sự giống và khác nhau
đó. Bước này đòi hỏi những tiêu chuẩn chắc chắn và bản lĩnh vững vàng cùng những hiểu
biết sâu sắc ngoài văn bản để tránh những suy diễn tùy tiện, chủ quan, thiếu sức thuyết
phục. Đây là một luận điểm khó nhất trong bài viết nên không nhất thiết đề thi nào cũng
yêu cầu học sinh phải làm được, mà chỉ là khuyến khích học sinh tìm ra để thưởng điểm.
Vì vậy giáo viên cũng không nên quá nặng nề khi đạt ra yêu cầu thực hiện ở học sinh.
Thực tế cho thấy đa phần đáp án đề thi đại học, cao đẳng, đề thi học sinh giỏi những năm
qua cũng không bắt buộc phải có ý này.
16


* Ví dụ 1:
- Ph n tích đối tượng so sánh 1: Sự tư ng phản giữa ánh sáng và bóng tối
trong truyện ngắn Hai đứa trẻ
+ Bóng tối: Dày đặc, bao trùm cả phố huyện và được lặp đi, lặp lại nhiều lần: Một
đêm mùa hạ êm như nhung; đường phố và các ngõ con dần dần chứa đầy bóng tối; tối
hết cả con đường thăm thảm ra sông, con đường qua chợ về nhà; các ngõ vào làng lại
càng sẫm đen hơn nữa; đêm trong phố tĩnh mịch và đầy bóng tối.... biểu trưng cho cuộc
sống tăm tối, tù đọng, quẩn quanh nơi phố huyện... (đó cũng chính là hình ảnh của xã hội
Việt Nam những năm 1930 - 1945).
+ Ánh sáng: Ánh sáng tương phản với bóng tối nhằm tô đậm thêm bóng tối.
Ánh sáng nơi phố huyện: nhỏ nhoi, yếu ớt, thưa thớt chỉ là những quầng sáng leo
lét, những hột sáng, những vệt sáng, những khe sáng,... tượng trưng cho số phận leo lét,
mòn mỏi của những con người nơi đây...
Ánh sáng Hà Nội trong hoài niệm của nhân vật Liên: Hà Nội rực sáng....vừa là quá

khứ, vừa là ước mơ về tương lai của chị em Liên
Ánh sáng từ đoàn tàu vụt qua nhanh: các toa đèn sáng trưng; các cửa kính sáng;
đồng và kền lấp lánh.... ánh sáng của đoàn tàu khác hẳn với ánh sáng nhỏ nhoi, yếu ớt
của phố huyện, hướng con người tới tương lai tươi sáng...
-> Kết quả của sự tương phản giữa ánh sáng và bóng tối: Biểu tượng cho những
kiếp người sống leo lét vô danh trong một xã hội tù đọng tăm tối nhưng vẫn không nguôi
hướng về một tương lai tươi sáng hơn
- Ph n tích đối tượng so sánh 2: Sự tư ng phản giữa ánh sáng và bóng tối
trong truyện ngắn Chữ người tử tù
- Bóng tối: “mặt đất tối”, “ một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng
nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián”…. hiện thân cho một không gian nhà tù tăm
tối, một cuộc sống tù đọng, tối tăm đầy cái ác, cái xấu nơi nhà ngục thực dân, phong kiến.
Đồng thời bóng tối cũng tượng trưng cho cái ác trong cuộc sống cũng như trong bản chất
con người.
- Ánh sáng: “ một ngôi sao Hôm nhấp nháy”, “một ngôi sao chính vị từ biệt vũ
trụ”, “vuông lụa trắng”, “ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu”…là ánh sáng của
chân lí, của tâm hồn con người, của cái đẹp tài hoa, của một nhân cách thanh cao…
-> Kết quả của sự tương phản giữa ánh sáng và bóng tối là sự chiến thắng của thiên
lương con người trước cái xấu cái ác, trước cái cao cả với cái thấp hèn…
17


- Nhận xét điểm tư ng đồng và khác biệt
+Điểm tư ng đồng
+ Cả hai tác giả đều sử dụng ánh sáng và bóng tối - một thủ pháp nghệ thuật tương
phản, đối lập mà văn học lãng mạn hay sử dụng nhằm tạo tình huống truyện. Đây là các
chi tiết nhỏ nhưng góp phần chuyển tải nội dung tư tưởng, chủ đề tác phẩm
+Ánh sáng và bóng tối trong hai tác phẩm tác phẩm vừa mang ý nghĩa tả thực vừa
mang ý nghĩa biểu tượng cao. Bóng tối tượng trưng cho cái xấu, còn ánh sáng tượng
trưng cho cái tốt.

+ Điểm khác biệt
+ Sự tương phản gữa ánh sáng và bóng tối được xây dựng trên sự đối lập gay gắt,
có sự chuyển biến bất ngờ, đột ngột. Thủ pháp nghệ thuật này dẫn dắt tình huống truyện
đi đến kết thúc là sự chiến thắng của ánh sáng đối với bóng tối, của chân lí, cái đẹp, cái
thiên lương với cái xấu cái ác. Qua đó nhà văn thể hiện rõ thái độ trân trọng cái Đẹp
+Sự tương phản giữa ánh sáng và bóng tối không có sự chuyển biến bất ngờ. Ánh
sáng của phố huyện nhỏ bé, ánh sáng từ đoàn tàu qua nhanh nên ánh sáng chỉ càng làm
cho bóng tối trở nên dày đăc hơn, tô đậm thêm cái ngột ngạt, tăm tối của cuộc sống nơi
đây. Qua đó nhà văn bày tỏ lòng cảm thông đối với những con người nhỏ bé, đặc biệt là
số phận trẻ thơ trong xã hội cũ- những con người sống trong tăm tối nhưng không nguôi
hướng về ngày mai tươi sáng.
+Lí giải sự khác biệt
Cả hai nhà văn đều xuất hiện trong giai đoạn văn học 1930-1945, trong một xã hội
đầy biến động tuy nhiên phong cách sáng tác khác nhau
Nguyên Tuân: Đại biểu của dòng văn học lãng mạn, một nhà văn xuốt đời
đi tìm cái đẹp. Cảm hứng thẩm mĩ của ông thường hướng tới cái đẹp lớn lao, cái cao cả,
những nhân cách lớn.... vì thế sự tương phản giữa ánh sáng và bóng đối lập bất ngờ, cuối
cùng ánh sáng, cái Đẹp phải chiến thắng.
Thạch Lam: Là thành viên của nhóm Tự lực văn đoàn nhưng sáng tác của ông
không theo hướng lãng mạn mà tác phẩm có sự hòa trộn cả lãng mạn và hiện thực. Đặc
biệt Thạch Lam hay quan tâm đến những cái nhỏ bé, giản dị, đời thường, thế giới của trẻ
thơ.... nên ánh sáng và bóng tối không có sự chuyển biến bất ngờ, ánh sáng không hoàn
toàn thắng thế.
* Ví dụ 2:
- Giống nhau:
18


+ Luận điểm 1: Hai tác phẩm cùng ra đời năm 1948, là những hình ảnh người lính
đang sống, chiến đấu vì lí tưởng cao đẹp – bảo vệ tổ quốc

+ Luận điểm 2: Họ đều là những anh lính bộ đội cụ Hồ sống chiến đấu trong buổi
đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp trải qua bao gian nan thử thách, khắc
nghiệt nhưng sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn:
Với người lính Tây Tiến : Họ vượt lên thiên nhiên hiểm trở, dữ dội (Dốc lên khúc
khuỷu, dốc thăm thẳm; Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người) cuộc sống thiếu thốn,
bệnh tật ( Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc...)
Với người lính trong Đồng chí là tinh thần chịu đựng gian khổ (áo anh rách vai,
quần tôi có vài mảnh vá, chân không dày, đêm rét chung chăn,...) chịu chung những cơn
sốt rét (anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh; Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi...)
+ Luận điểm 3: Cả hai người lính đã không bị gian khổ đẩy lùi mà họ lớn lên với
tầm vóc lớn lao, đầy sức mạnh, một tinh thần lạc quan: Trong Tây Tiến trước thiên nhiên
khắc nghiệt họ không hề chìm đi mà nổi lên hiên ngang, thách thức (Heo hút cồn mây
súng ngửi trời...) Trong Đồng chí cũng là vẻ đẹp hiên ngang trong đêm canh gác ( Đứng
cạnh bên nhau chờ giặc tới; Đầu súng trăng treo)
- Khác nhau:
+ Luận điểm 1: Bút pháp
Hình tượng người lính “Tây Tiến” được vẽ bằng bút pháp lãng mạn
Hình tượng người lính trong bài Đồng chí được thể hiện bằng bút pháp tả thực
+ Luận điểm 2: Hoàn cảnh xuất th n
Người lính Tây Tiến ra đi từ những phố phường, mái trường, công sở, là những
thanh niên tri thức hà thành nên họ mang theo vào cuộc chiến đấu giấc mơ của một tâm
hồn lãng mạn (Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm)
Người lính trong Đồng chí xuất thân từ những mái tranh nghèo, từ những vùng quê,
đất mặn đồng chua, đất cày lên sỏi đá (Quê hương anh nước mặn đồng chua; Làng tôi
nghèo đất cày lên sỏi đá) nên họ mang vào cuộc chiến đấu cái dáng vẻ lam lũ của những
miền quê.
+ Luận điểm 3: Vẻ đẹp của t m hồn:
Người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp hào hùng nhưng cũng rất hào hoa (Mắt trừng gửi
mộng qua biên giới./Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm) Tâm hồn bay bổng trước vẻ đẹp
của thiên nhiên (Heo hút cồn mây súng ngửi trời). Một tâm hồn nghệ sĩ trong sinh hoạt


19


tinh thần (Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa; Kìa em xiêm áo tự bao giờ; Khèn lên man
điệu nàng e ấp; Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ)
+ Vẻ đẹp tâm hồn của người lính trong Đồng chí lại được nhấn mạnh đến tình đồng
chí đồng đội giữa những người lính . Cơ sở làm nên tình cảm của họ là có chung một
hoàn cảnh nghèo khổ nên họ dễ đồng cảm, có chung một chí hướng (Đêm rét chung chăn
thành đôi tri kỷ), chung tấm lòng yêu quê hương đất nước... Chính tình đồng đội, đồng
chí đó đã tạo nên sức mạnh chiến đấu.
3.2.3 K t thúc vấn đề
- Kết bài là khâu cuối cùng để hoàn thành bài viết. Trải qua khâu chấm thi chúng
tôi nhận thấy các em học sinh thường xem nhẹ kết bài. Với tâm lí “đầu xuôi thì đuôi khắc
lọt”, thêm vào đó một lí do sắp hết giờ nên chỉ cần có “đóng lại” bằng cách tóm lại một
vài ý đã trình bày ở trên là được. Đứng trước thực trạng đó nên giáo viên cần hướng dẫn
cho học sinh cách kết bài, nhất là cách kết bài của dạng đề so sánh vốn mang tính đặc thù
riêng.
- Một kết bài đúng nguyên tắc, hay không chỉ ngắn gọn, khép lại những vấn đề đã
bàn luận ở trên mà học sinh có thể kết bài mở, kết bài phát triển, kết bài theo hướng nâng
cao, mở rộng để gợi ra nhiều suy nghĩ liên tưởng mới nơi người đọc
Ví dụ 1:
- Hai nhà văn, hai phong cách nhưng đều gặp nhau trong việc sử dụng thủ pháp đối
lập giữa ánh sáng và bóng tối để thể hiện những dụng ý nghệ thuật riêng.
- Đây là những chi tết nhỏ nhưng làm lên giá trị lớn....
Ví dụ 2:
- Hai hình tượng người lính này mang những vẻ đẹp khác nhau nhưng đã hoàn
chỉnh bức chân dung anh bộ đội Cụ Hồ trong buổi đầu cuộc kháng chiến chống Pháp.
- Hình tượng người lính đã sống lại trong lòng người đọc về một thời khổ nhục
nhưng vĩ đại của dân tộc.

* Như chúng tôi đã trình bày, kiểu bài so sánh văn học có yêu cầu so sánh khá
phong phú, đa dạng khó có thể tìm ra một dàn bài khái quát thỏa mãn tất cả các dạng đề
bài. Trong yêu cầu của từng đề bài cụ thể thuộc kiểu bài này, học sinh cần linh hoạt, sáng
tạo, không nhất thiết phải tuân thủ nghiêm ngặt qui trình trên. Caccs em có thể phối hợp
nhiều bước cùng một lúc. Chẳng hạn, đồng thời vừa phân tích làm rõ đối tượng, vừa thực
hiện nhiệm vụ so sánh trên hai bình diện nội dung và nghệ thuật, vừa lí giải nguyên nhân
vì sao khác nhau hoặc chỉ trong bước so sánh, học sinh có thể kết hợp vừa so sánh vừa lí
20


giải... .Vấn đề cốt tủy của mọi bài nghị luận là làm thế nào để vừa “đúng” vừa “trúng”
vừa “hay”. Nguyên tắc trình bày một bài nghị luận so sánh văn học cũng không đi ra
ngoài mục đích đó.
3.3. Một số đề luyện tập tham khảo
Phần này tôi giới thiệu một số đề so sánh văn học và gợi ý đáp án để chúng ta cùng
tham khảo khi hướng dẫn ôn tập cho học sinh. Vì dung lượng có hạn của một sáng kiến
kinh nghiệm nên tôi không trình bày đầy đủ các ý cần có theo yêu cầu đề mà chủ yếu gợi
ý điểm giống và khác nhau – luận điểm khó nhất của bài viết. Thiết nghĩ các luận điểm
khác học sinh có thể làm tốt được.
Đề 1: Cảm nhận về bài th Độc Tiểu Thanh kí của Nguyễn Du và bài th Đàn
ghi ta của Lor- ca (Thanh Thảo)
Gợi ý
* Nét tư ng đồng:
- Đề tài: Hai bài thơ viết ở hai thời điểm khác nhau nhưng cùng hướng về một đề
tài: con người tài hoa bạc mệnh.
+Tiểu Thanh một người con gái tài sắc, làm lẽ, bị vợ cả ghen bắt ra ở một mình
trên núi Cô Sơn –Trung Quốc. Buồn khổ, nàng lâm bệnh và chết trong nỗi cô đơn khi
mới 18 tuổi. Tập thơ của nàng cũng bị người vợ cả ghen tuông đốt sạch.
+Thanh Thảo một nhân cách lớn, nhà thơ cách tân thiên tài của đất nước Tây Ban
Nha, người đã hát lên bằng thơ tiếng hát tự do nhưng đã bị bọn phát xít Phrăng-cô sát hại,

thủ tiêu mất xác.
- Cảm xúc: Hai bài thơ các tác giả cùng có chung một cảm xúc: thương cảm cho
những kiếp người tài hoa mà bạc mệnh, trân trọng và ngưỡng mộ tài năng của họ.
+Nguyễn Du thương cho nàng Tiểu Thanh tài sắc mà Nửa chừng xuân thoắt gãy
cành thiên hương
+Thanh Thảo cảm thương cho Lor-ca, người nghệ sĩ, thi sĩ, nhạc sĩ đấu tranh cho
tự do nhưng số phận bi tráng
*Điểm khác biệt:
-Về nghệ thuật:
+ Nguyễn Du sử dụng thể thơ thất ngôn bát cú, hình ảnh thơ có tính chất ước lệ,
tượng trưng, lối đối chặt chẽ.

21


+ Thanh Thảo sử dụng thể thơ tự do, hình ảnh thơ chịu ảnh hưởng của bút pháp
tượng trưng, siêu thực, câu thơ giàu nhạc tính, miên man như một bản nhạc giao hưởng
bởi cả bài thơ không một dấu chấm câu.
- Nội dung:
+ Nguyễn Du từ thương người mà đến thương mình, tự nhận mình là người cùng
hội cùng thuyền với Tiểu Thanh và gửi lại niềm băn khoăn đến hậu thế.
+Thanh Thảo từ tình thương, sự cảm thông con người có số mệnh nghiệt ngã mà
ngưỡng mộ thiên tài, khẳng định sức sống bất diệt của tiếng đàn, của nghệ thuật.
- Lí giải sự khác biệt: Cội nguồn của sự khác biệt ấy là do đặc trưng của văn
chương, do phong cách nghệ thuật cũng như cá tính sáng tạo của người nghệ sĩ khác
nhau.
Đề 2: Vẻ đẹp xứ Hu qua hai tác ph m Đây thôn Vĩ Dạ (Hàn Mặc Tử) và Ai đã
đặt tên cho dòng sông ? (Hoàng Phủ Ngọc Tường)
Gợi ý
*Nét tư ng đồng:

- Cả hai nhà thơ đều lấy những địa danh nổi tiếng của xứ Huế (Vĩ Dạ và sông
Hương) làm điểm nhấn và khởi hứng cảm xúc.
- Cùng tái hiện được vẻ đẹp của thiên nhiên, cảnh sắc con người xứ Huế rất riêng,
rất thơ mộng. Có được điều đó chứng tỏ mảnh đất, con người Huế đã chiếm chỗ sâu bền
nhất trong lòng các tác giả.
- Cả hai đều là những cây bút tài hoa, tinh tế, nhạy cảm trong văn chương, có tâm
hồn hết sức lãng mạn, phong phú.
*Nét khác biệt:
- Đây thôn Vĩ Dạ: Bài thơ được gợi cảm hứng từ tấm bưu thiếp mà Hoàng Cúc gửi
cho Hàn Mặc Tử nên điểm nhìn cảm xúc trong một không gian hẹp, cái nhìn từ kí ức.
Cảnh vật của xứ Huế hiện lên với những nét đặc trưng rất bình dị, quen thuộc, gần gũi
nhưng cũng thật lãng mạn: cảnh vườn tược xanh mướt như ngọc, sông trăng huyền ảo,
con người với vẻ đẹp đằm thắm, dịu dàng...cảnh vật in đậm cảm xúc về tình đời, tình
người.
- Ai đã đặt tên cho dòng sông?: Hoàng Phủ Ngọc Tường chọn điểm nhìn là sông
Hương, đặt trong một không gian phóng khoáng, rộng lớn hơn. Vẻ đẹp của xứ Huế hiện
lên ở rất nhiều góc độ từ quá khứ cho đến hiện tại, từ lịch sử, thơ văn đến địa lí, văn
hóa....Vì thế vùng đất cố đô hiện lên toàn diện hơn, hiện thực hơn bởi sông Hương chính
22


là linh hồn của Huế, là nơi tích tụ những trầm tích văn hóa lâu đời của mảnh đất kinh
thành cổ xưa.
- Lí giải sự khác biệt
+ Xuất phát từ đặc điểm của thể loại thơ và bút kí là khác nhau. Thơ nghiêng về
cảm xúc, tâm trạng. Bút kí không chỉ đòi hỏi có cảm xúc mà ít nhiều có tính xác thực và
khách quan.
+ Đối với Hàn Mặc Tử, Huế là nơi tác giả từng gắn bó, giờ đã trở thành kỉ niệm.
Còn Hoàng Phủ Ngọc Tường là người con của xứ Huế nên chất Huế đã thấm sâu vào tâm
hồn máu thịt của ông.

Đề 3: Cảm nhận của anh/chị về hai đoạn thơ sau:
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất;
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.
(Vội vàng– Xuân Diệu, Ngữ văn 11,
Tập 2, NXB Giáo dục 2011)
Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời.
(Từ ấy– Tố Hữu, Ngữ văn 11,
Tập 2, NXB Giáo dục 2011)
Gợi ý
* Nét tư ng đồng:
- Hai bài thơ ra đời cùng thời (1938).
- Nhân vật trữ tình trong hai bài thơ đều là hình tượng cái tôi tác giả vì thế nó thể
hiện đầy đủ những nét độc đáo thế giới tinh thần của hai nhà thơ.
- Cái tôi trẻ trung giàu nhiệt huyết, tâm hồn sôi nổi, nồng nhiệt trong tình cảm cùng
giọng điệu lãng mạn.
- Đều hướng đến cuộc đời, con người bằng tình yêu chân thành, mãnh liệt và gửi
vào đó những lẽ sống đẹp.
* Sự khác biệt
- Khổ thơ của Tố Hữu :
23


+ Đối tượng hướng đến là tầng lớp quần chúng nhân dân cần lao.
+Thái độ tha thiết gắn bó bằng một trái tim tự nguyện
+Mục đích chia sẻ, đồng cảm giữa cá nhân với cộng đồng tạo thành một khối đời

vững chắc
-> Cái tôi tận hiến
-> Tố Hữu một người say mê lí tưởng, sẵn sàng dâng hiến nhiệt huyết tuổi trẻ cho lí
tưởng cộng sản. Bộc lộ mình là nhà thơ cách mạng
- Khổ thơ của Xuân Diệu
+ Đối tượng hướng đến là tất cả những gì thuộc về sự sống ở trần gian, ngay trong
tầm tay với.
+Thái độ khao khát giao cảm mãnh liệt.
+Mục đích: chiếm lĩnh và hưởng thụ trọn vẹn hương sắc của cuộc đời, vẻ đẹp của
trần gian
-> Cái tôi tận hưởng
-> Xuân Diệu một tâm hồn nhạy cảm, giàu rung động trước vẻ đẹp của cuộc sống
trần gian. Một cái tôi chân thành mãnh liệt trong cảm xúc, một cái tôi công khai bộc lộ
khát vọng cá nhân, bộc lộ mình là nhà thơ lãng mạn.
Đề 4: So sánh hai bài th Đ t nư c của Nguyễn Đình Thi và trích đoạn Đ t
nư c (Trích Trường ca mặt đường khát vọng Nguyễn Khoa Điềm).
- Về xuất xứ: Đất nước của Nguyễn Đình Thi là một chỉnh thể sáng tạo tổng
hợp từ hai bài thơ trước đó và nó có dáng dấp như một trường ca thu nhỏ. Trong khi đó,
Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm là một mảnh nhỏ vỡ ra từ chỉnh thể trường ca lớn
-Về cảm hứng: Nguyễn Đình Thi gửi gắm những suy tư, tâm niệm về sức sống
diệu kì của dân tộc Việt Nam anh hùng còn Nguyễn Khoa Điềm nghiêng về cắt nghĩa lí
giải các câu hỏi: Đất nước có tự bao giờ? Đất nước là gì? Ai đã làm lên Đất nước ? Mối
quan hệ giữa con người và đất nước?...
- Hình tượng: Nguyễn Đình Thi khắc họa bằng hai hệ thống hình ảnh chính của
giang sơn tổ quốc là đất và trời thì Nguyễn Khoa Điềm hướng đến đất và nước như hai
yếu tố khởi thủy hợp lại. Với Nguyễn Đình Thi, nhân dân là những con người trong một
cuộc hành trình trường chinh máu lửa vươn vai như những thiên thần còn với Nguyễn
Khoa Điềm là đám đông vô danh bốn nghìn thế hệ, hòa nhập vào nhau để hóa thành đất
nước trong hình tượng mang màu sắc huyền thoại.
24



-Về chất liệu: Nguyễn Đình Thi sử dụng chất liệu thi ca từ chi tiết đời sống
bằng vốn sống và ấn tượng chủ quan trực tiếp còn Nguyễn Khoa Điềm nhào nặn tài tình
vốn văn hóa dân gian trong ca dao, truyền thuyết, cổ tích…
-Về giọng điệu: Nguyễn Đình Thi như đang phát ngôn giữa quảng đại quần
chúng nên bài thơ có giọng tráng ca hào sảng dõng dạc. Với Nguyễn Khoa Điềm, đó là
giọng trữ tình của một chàng trai trong lời tâm tình với người yêu, thân mật mà nghiêm
trang, cảm xúc đan cài suy tư, triết lí làm nên giọng triết luận tâm tình.
IV. KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM
Các kết quả thống kê dưới đây là 3 năm nhưng các năm thống kê không liên tiếp là
bởi 2 năm học 2010-2011 và 2011-2012 tôi đi học Cao học. Tôi không thường xuyên dạy
học và kiểm tra theo dõi kết quả một cách sát thực được.
1. K t quả đại trà
- Thực hiện ý tưởng của mình, trên cơ sở bám sát chương trình phân môn. Trong
các bài kiểm tra thường xuyên và định kì về nghị luận văn học của học sinh, tôi đã kiểm
tra dạng đề so sánh văn học. Đồng thời tôi đã trao đổi với đồng nghiệp về cách làm bài
dạng so sánh, được các thầy cô ủng hộ và cũng nhân rộng ra các lớp, nhất là các lớp học
chuyên đề Văn. Sau ba năm ứng dụng và thống kê điều tra kết quả như sau:
Năm Lớp

Tổng
số
HS
điều
tra

Khi chưa giới thiệu PP Sau khi giới thiệu PPlàm
làm bài
bài

Số
chưa Số biết cách Số
còn Số đã biết
biết cách làm bài
lúng túng, cách làm
làm bài
chưa biết bài
cách làm
bài
SL

%

SL

%

SL

%

SL

%

2009 11

90

65


72.2

25

27.8

35

38.9

55

61.1

12

89

51

57.3

38

42.7

20

22.5


79

77.5

2012 11

124

98

79

26

21

45

36.3

79

63.7

12

126

72


57.1

54

42,9

32

25.4

94

74.6

25


×