Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm SKKN một số giải pháp phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội để xây dựng trường chuẩn quốc gia mức độ 2 đạt hiệu quả

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (431.56 KB, 18 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

ĐỀ TÀI:
"MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHỐI HỢP GIỮA NHÀ TRƯỜNG, GIA
ĐÌNH VÀ XÃ HỘI ĐỂ XÂY DỰNG TRƯỜNG CHUẨN QUỐC GIA
MỨC ĐỘ 2 ĐẠT HIỆU QUẢ"

1


A. ĐẶT VẤN ĐỀ:
Trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước, phát triển GD&ĐT là một trong
những động lực quan trọng thúc đẩy Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước, là điều
kiện để phát huy nguồn lực con người - Yếu tố để phát triển xã hội. Thực tế cho thấy hiện
nay khoa học đang ngày càng phát triển như vũ bão, đất nước ta đang rất cần những con
người có đủ đức, đủ tài để phục vụ bản thân, gia đình và xã hội. Chính vì lẽ đó mà giáo
dục toàn diện cho học sinh Tiểu học có vị trí, vai trò vô cùng to lớn trong nền giáo dục
phổ thông. Hiện nay, Đảng và nhà nước ta đang chỉ đạo thực hiện đổi mới căn bản toàn
diện nền giáo dục nhằm đổi mới nội dung chương trình dạy học phù hợp với sự phát triển
của xã hội; đổi mới PPDH, đổi mới cách học, cách đánh giá học sinh, dạy học hướng vào
người học để các em tự tìm tòi kiến thức, tự phát huy năng lực sở trường của bản thân và
đặc biệt là các em được học toàn diện các môn, được giáo dục để phát triển năng khiếu và
các kỹ năng sống, kỹ năng ứng xử. Thông qua những đổi mới đó nhằm thực hiện thắng
lợi mục tiêu của giáo dục Tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu
cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kỹ năng
cơ bản để học sinh tiếp tục học lên trung học cơ sở. Vì vậy giáo dục toàn diện cho học
sinh là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng của trường tiểu học. Để giáo dục toàn diện cho
học sinh và thực hiện đổi mới căn bản toàn diện về giáo dục đạt hiệu quả trong giai đoạn
hiện nay thì xây dựng trường đạt chuẩn Quốc gia là việc làm cấp thiết của mỗi nhà
trường, đặc biệt là xây dựng trường đạt chuẩn Quốc gia mức độ 2. Để xây dựng thành
công trường chuẩn Quốc gia mức độ 2 thì việc đầu tiên là phải tuyên truyền để nâng cao


nhận thức từ cấp uỷ, chính quyền địa phương, các đoàn thể xã hội, nhân dân và cán bộ,
giáo viên phải nhận thức sâu sắc việc xây dựng trường tiểu học đạt chuẩn quốc gia mức
độ 2 là một yêu cầu bức thiết, tất yếu để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho bậc
tiểu học trong giai đoạn hiện nay mà đối tượng được thụ hưởng trước hết chính là con em
họ. Hầu hết nhân dân và cán bộ đều nhận thức được muốn thoát nghèo thì cách tốt nhất là
đầu tư cho giáo dục và phải được phát triển từ phong trào xã hội hoá giáo dục. Bên cạnh
đó nhà trường làm tốt công tác tham mưu với chính quyền địa phương để xã thành lập
Ban chỉ đạo xây dựng trường chuẩn. Trưởng ban chỉ đạo là đồng chí Chủ tịch UBND xã,
phó trưởng ban và các thành viên là đại diện của ngành giáo dục, các ban ngành cấp xã.
Từ đó xây dựng một kế hoạch, một lộ trình vừa mang tính cụ thể vừa mang tính ổn định
lâu dài cả trong quy hoạch và xây dựng. Nhà trường căn cứ trên các tiêu chí của trường
chuẩn phải xây dựng được đề án cụ thể làm cái gì trước, cái gì sau, biết ưu tiên những
điều kiện nào về CSVC, về con người để học sinh được thụ hưởng trước hết, nhằm nâng
cao chất lượng, tạo sức thuyết phục đối với phụ huynh và học sinh. Thông qua xây dựng
trường chuẩn mức độ 2 các địa phương, các nhà trường, ngành giáo dục của huyện nhà,
phụ huynh và học sinh phải chăm lo toàn diện về 5 tiêu chuẩn: Tổ chức và quản lý nhà

2


trường; đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên; cơ sở vật chất và trang thiết bị dạy
học; sự phối hợp giữa nhà trường, gia đình, xã hội; tổ chức các hoạt động giáo dục đạt
hiệu quả. Thực tế tại trường Tiểu học Đặng Sơn, nhà trường đã đạt chuẩn Quốc gia mức
độ 1 năm 2009 và đã được UBND huyện giao nhiệm vụ xây dựng trường chuẩn mức độ 2
trong giai đoạn 2010 – 2015. Sau khi đạt chuẩn Quốc gia mức độ 1 nhà trường cơ bản có
đầy đủ cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên, cơ cấu các bộ máy đầy đủ theo điều lệ
trường tiểu học. Để thực hiện thành công xây dựng trường chuẩn quốc gia mức độ 2, nhà
trường cần tập trung hoàn thiện xây dựng cơ sở vật chất và trang thiết bị dạy học hiện
đại; nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện. Đặc biệt, để hoàn thành đúng tiến độ các nội
dung công việc đề ra và nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện thì việc phối hợp giữa

nhà trường, gia đình và xã hội là công việc nhà trường chú trọng và quan tâm thường
xuyên để thúc đẩy mọi hoạt động đạt hiệu quả. Tuy nhiên việc phối hợp 3 môi trường có
lúc có thời điểm chưa thường xuyên, hiệu quả chưa cao, thiếu tính đồng bộ; một số đoàn
thể chưa tích cực chưa phát huy hết khả năng của mình để phối hợp trong công tác giáo
dục và xây dựng trường chuẩn mức độ 2 của nhà trường. Xuất phát từ thực tế của địa
phương xã nhà và yêu cầu cần thiết của xã hội hiện nay, từ thực tế của trường Tiểu học
Đặng Sơn - Đô Lương, để hoàn thành lộ trình xây dựng trường chuẩn Quốc gia mức độ 2
đúng thời gian nhằm góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh, đáp
ứng được mục tiêu của Giáo dục tiểu học đã đề ra, tôi chọn vấn đề: “Một số giải pháp
phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội để xây dựng trường chuẩn Quốc gia mức độ
2 đạt hiệu quả” để nghiên cứu.
B. NỘI DUNG:
I. Khái quát đặc điểm tình hình địa phương và nhà trường:
1. Đặc điểm tình hình địa phương và quá trình phát triển của nhà trường:
Đặng Sơn là xã nằm ven sông Lam, trên trục đường 7 từ Đô Lương đi Anh Sơn.
Diện tích tự nhiên là 453 ha. Dân cư có 5412 khẩu, 1313 hộ cư trú trên địa bàn 7 xóm.
Đời sống nhân dân chủ yếu dựa vào nông nghiệp; đánh bắt cá và trồng dâu nuôi tằm; Có
làng nghề Ươm tơ dệt lụa và nghề truyền thống đan lát. Tình hình chính trị địa phương
ổn định.
Trường Tiểu học Đặng Sơn được thành lập năm 1930 - thời kỳ bị thực dân pháp cai
trị. Địa điểm xây dựng trường tại làng Đặng Lâm Tổng Đặng Sơn, nay là công sở xã
Đặng Sơn. Khi mới thành lập trường là ngôi nhà cấp 4 hai gian, 2 lớp học 3-4. Mỗi năm
chỉ tuyển dụng 50- 60 học sinh phần đa con những gia đình quyền quý.
Cách mạng tháng 8 thành công, nhân dân ta ai cũng có cơm no áo ấm ai cũng được
học hành. Từ đó giáo dục Đặng Sơn phát triển mạnh, được nhân dân xây dựng thêm một

3


ngôi trường mới 5 phòng học khang trang, sạch đẹp. Hàng năm con em của nhân dân

được tuyển dụng đến trường để học tập. Năm 1950 phát triển thêm 3 lớp học tại đình làng
Đặng Thượng, năm 1970 xây dựng thêm 4 lớp tại làng Phú Nhuận, năm 1966 đế quốc
mỹ chống phá miền Bắc ác liệt, trường sơ tán về các xóm học dưới hầm để đảm bảo an
toàn tính mạng cho thầy và trò. Năm 1979 sát nhập trường cấp 2 đổi tên là trường THCS
Đặng Sơn. Năm 1992 trường được tách cấp đổi tên là trường Tiểu học Đặng Sơn, lúc này
trường được học cơ sở mới tại xí nghiệp tơ tằm, địa điểm cũ dành cho xã xây dựng công
sở.
Thực hiện phong trào xây dựng trường chuẩn Quốc gia giai đoạn 2005 -2010, mặc
dù những năm đó kinh tế địa phương còn gặp nhiều khó khăn, nguồn thu nhập chủ yếu
dựa vào nông nghiệp, nhưng với truyền thống cần cù chịu khó, đồng lòng của nhân dân,
sự quyết tâm cao và đoàn kết nhất trí của lãnh đạo địa phương trong việc xác định phải đi
lên bằng con đường giáo dục nên đã tập trung đầu tư để xây dựng trường đạt chuẩn quốc
gia mức độ 1.Trường được chuyển về địa điểm mới tại vùng Be Ne; ở khu vực trung tâm
xã, thoáng mát. Rất thuận lợi đối với Đặng Sơn đó là trong giai đoạn này UBND huyện
Đô Lương đã và đang thực hiện đề án xây dựng trường chuẩn QG và chương trình kiên
cố hoá trường học và trường TH Đặng Sơn đã được thụ hưởng 12 phòng học dãy nhà cao
tầng của chương trình kiên cố hoá từ năm học 2006 – 2007 với tổng trị giá trên 1,5 tỷ
đồng. Trường đạt chuẩn QG mức độ 1 vào năm 2009. Cũng chính từ đó mà nhận thức
của toàn đảng, toàn dân về giáo dục ngày càng được nâng cao, tất cả đều vào cuộc, đều
chăm lo cho sự nghiệp giáo dục. Sự đầu tư không ngừng của đảng bộ và nhân dân xã nhà
đã được đền đáp xứng đáng: Chất lượng học sinh ngày càng được nâng cao; số lượng học
sinh giỏi, giáo viên giỏi các cấp ngày càng nhiều; Cả ba cấp học trong xã liên tục đạt
danh hiệu tiên tiến và TTXS cấp Huyện, cấp Tỉnh. Từ năm 2010 đảng bộ và nhân dân địa
phương lại tiếp tục xây dựng trường chuẩn Quốc gia mức độ 2 với quyết tâm cao và tập
trung tích cực để sớm hoàn thành theo lộ trình của UBND huyện đề ra.
2. Đặc điểm tình hình của trường tiểu học Đặng Sơn năm học 2013 - 2014:
Là một địa bàn có nhiều thuận lợi cho sự phát triển chất lượng giáo dục, trường
Tiểu học Đặng Sơn được kế thừa và phát huy phong trào những năm qua đó là: phong
trào dạy giỏi, học giỏi, xây dựng trường chuẩn Quốc gia, công sở văn hoá được Chủ tịch
UBND tỉnh tặng danh hiệu tập thể LĐXS, trường đạt công sở văn hoá cấp Tỉnh, được

nhận nhiều bằng khen, giấy khen của các cấp.
Ban giám hiệu và đội ngũ giáo viên nhiệt tình, tinh thần trách nhiệm cao, luôn trăn
trở tìm tòi những sáng tạo trong chỉ đạo, không ngừng học tập để nâng cao trình độ, đổi
mới dạy học để nâng cao chất lượng toàn diện cho học sinh.
Tổng số cán bộ giáo viên, công nhân viên: 30 người.

4


Trong đó: Ban giám hiệu: 2 người; Giáo viên: 24 người; Hành chính: 4 người
Chi bộ nhà trường có: 25 đảng viên; Trong đó: Nữ : 23
Tổ chức công đoàn: 30 đoàn viên. trong đó nữ: 28
Trình độ chuyên môn: Đại học: 12 người; Cao đẳng: 14 người; Trung cấp: 4 người
Trường có 12 lớp với 319 học sinh.
Trong đó: Khối 1: 2 lớp; Khối 2: 3 lớp; Khối 3: 2 lớp; Khối 4: 3 lớp; Khối 5: 2 lớp
Học sinh khuyết tật: 5 em;

Học sinh có hoàn cảnh khó khăn: 38 em.

Tình hình cơ sở vật chất phục vụ dạy học: Có 18 phòng học để tổ chức dạy học 2
buổi/ ngày. Bàn ghế và các trang thiết bị phục vụ học tập đầy đủ theo quy định. Sách
giáo khoa và các tài liệu tham khảo đầy đủ để giáo viên và học sinh sử dụng trong quá
trình dạy học.
Đồ dùng dạy học từ lớp 1 đến lớp 5 được bàn giao đến tận từng lớp và đầy đủ để
giúp đỡ giáo viên và học sinh tìm hiểu bài; làm các thí nghiệm, phục vụ trong các hoạt
động ngoài giờ lên lớp; Có phòng dạy các môn năng khiếu riêng như: Phòng Âm nhạc,
Mỹ thuật, Tin học, Tiếng Anh, Phòng đọc…
II. Thực trạng về công tác phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội trong
quá trình xây dựng trường chuẩn quốc gia mức độ 2 tại trường tiểu học Đặng Sơn.
1. Ưu điểm:

- Công tác phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội được thực hiện thường xuyên,
khá hiệu quả, toàn diện về mọi mặt. Các tổ chức đoàn thể, các cá nhân luôn quan tâm đến
hoạt động của nhà trường, tích cực thực hiện các chức năng, nhiệm vụ phù hợp với đặc
thù của mình.
- Lãnh đạo địa phương luôn quan tâm đến phong trào giáo dục của xã nhà nói chung,
phong trào xây dựng trường chuẩn Quốc gia nói riêng của nhà trường; Luôn quan tâm
thường xuyên đến chất lượng giáo dục của nhà trường; Chỉ đạo sát sao các nội dung
trong việc xây dựng trường đạt chuẩn Quốc gia mức độ 2, thường xuyên nắm bắt tình
hình, lắng nghe những đề xuất của nhà trường, của phụ huynh để thống nhất cách giải
quyết đạt hiệu quả sớm nhất.
- Công tác phối hợp 3 môi trường khá đồng bộ, toàn diện về mọi mặt từ công tác huy
động và duy trì sĩ số, giúp đỡ học sinh có hoàn cảnh khó khăn, phối hợp giáo dục đạo đức
lối sống, giáo dục văn hoá, vận động tự nguyện xây dựng CSVC, mua sắm trang thiết bị
dạy học, chăm sóc cảnh quan xanh sạch đẹp….Tất cả đều được phụ huynh và các đoàn
thể, lãnh đạo địa phương quan tâm khá kịp thời, hiệu quả.

5


- Phụ huynh học sinh quan tâm thường xuyên đến việc học tập của con cháu, thường
xuyên được nắm bắt thông tin từ nhà trường, từ giáo viên, từ xã hội để phối hợp giáo dục
học sinh kịp thời, đặc biệt trong việc đánh giá kết quả học tập của học sinh, trong việc
giáo dục đạo đức, các hành vi ứng xử của học sinh.
- Nhà trường chú trọng công tác phối kết hợp 3 môi trường để giáo dục HS đạt hiệu
quả cao nhất, huy động tối đa sức lực và sự đóng góp tiền của của toàn xã hội đầu tư cho
giáo dục, nhằm xây dựng ngôi trường có đầy đủ CSVC hiện đại, góp phần giáo dục toàn
diện cho học sinh.
2. Những hạn chế:
- Sự phối hợp 3 môi trường đã được quan tâm kịp thời song trong quá trình thực hiện
xây dựng trường chuẩn mức độ 2 một số nội dung thúc đẩy còn chậm, chưa đảm bảo kịp

tiến độ đề ra như: Việc bê tông hoá con đường đi vào trường, xây dựng hệ thống nhà ăn
bán trú, mua sắm cơ sở vật chất phục vụ bán trú…
- Cơ sở vật chất còn thiếu thốn, chưa đúng yêu cầu quy định của trường chuẩn mức độ
2: Thiếu diện tích sân chơi, bãi tập; thiếu phòng dạy Tiếng Anh, số lượng máy vi tính còn
quá ít, tủ đựng thiết bị các lớp đã xuống cấp trầm trọng; đồ dùng các phòng chức năng
còn thiếu; trang trí trong các phòng học chưa đẹp.
- Công tác huy động và duy trì sĩ số hiệu quả chưa cao. Có một số học sinh ở xóm 6;7
sống trên sông nước có nguy cơ bỏ học cao, đi học không chuyên cần, đang nặng về
chăm lo kinh tế gia đình mặc dầu tuổi các em còn nhỏ. Một số gia đình thiếu quan tâm
đến việc học hành của con em, còn phó thác cho nhà trường, không quan tâm đến đồ
dùng sách vở của con em mình, vì vậy chất lượng còn thấp.
- Cảnh quan nhà trường chưa thực sự đẹp mắt để thu hút học sinh; sau khi trường đạt
chuẩn mức độ 1, cây xanh, cây cảnh còn ít, chưa phát triển do trường mới chuyển về địa
điểm mới; sân chơi bãi tập chưa đảm bảo.
- Công tác phối hợp để giáo dục toàn diện cho học sinh chưa được chú trọng thường
xuyên: HS chưa được tham gia hành trình tri ân các di tích lịch sử trong tỉnh, việc tổ chức
các HĐTT nội dung chưa đổi mới, chưa hấp dẫn, việc giáo dục học sinh thông qua nói
chuyện truyền thống tổ chức mang tính hình thức, thiếu hấp dẫn…
- Các tổ chức đoàn thể chưa quan tâm thường xuyên để động viên các đối tượng học
sinh nghèo vượt khó, học sinh khuyết tật, học sinh có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn.
3. Nguyên nhân của hạn chế:
- Công tác tham mưu của nhà trường đối với địa phương chưa thường xuyên, chưa tích
cực, một số nội dung tham mưu hiệu quả chưa cao.

6


- Kinh phí của địa phương cũng như của nhà trường còn eo hẹp, hạn chế đến quá trình
xây dựng, mua sắm, tu sửa cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học và một số công trình để
xây dựng trường chuẩn.

- Một số đoàn thể địa phương hoạt động thiếu sự phối hợp, đang theo mùa vụ, chưa
nắm bắt kịp thời tình hình của nhà trường để có kế hoạch phối hợp đạt hiệu quả.
- Công tác vận động nhân dân chưa khéo léo, chưa thu hút được những nguồn lực trên
địa bàn hỗ trợ xây dựng trường chuẩn quốc gia.
III. Một số giải pháp phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội trong quá
trình xây dựng trường chuẩn Quốc gia mức độ 2:
1. Giải pháp thứ nhất: Tổ chức ký cam kết giữa nhà trường với phụ huynh học
sinh và địa phương để duy trì sĩ số học sinh đạt hiệu quả.
Tại xã Đặng Sơn có 2 xóm Vạn Chài (Xóm 6;7) chủ yếu gia đình học sinh sống trên
sông nước nên những năm trước thường có hiện tượng học sinh bỏ học, học sinh đi học
không chuyên cần, có một số em còn nghỉ học để phụ giúp gia đình. Ngoài ra, trẻ khuyết
tật, đặc biệt là trẻ có hoàn cảnh khó khăn cũng khá nhiều. Chính vì vậy, hàng năm, nhà
trường tham mưu với ủy ban nhân dân xã tổ chức tọa đàm, cam kết và kí biên bản giữa
nhà trường với các tổ chức đoàn thể, cha mẹ học sinh về việc huy động tối đa trẻ trong độ
tuổi đi học. Những năm sau này, nhà trường mời phụ huynh học sinh đến họp cùng với
lãnh đạo địa phương, đại diện các tổ chức đoàn thể để ký cam kết, cùng có trách nhiệm
trong việc vận động học sinh tham gia học tập chuyên cần và duy trì sĩ số, đặc biệt là
những học sinh có hoàn cảnh khó khăn và học sinh khuyết tật. Vì vậy, lãnh đạo địa
phương đã giao trách nhiệm cho ban mặt trận, phụ nữ, các bí thư xóm trưởng chịu trách
nhiệm theo dõi việc tham gia học tập của học sinh, vận động học sinh ra lớp. Nếu học
sinh có dấu hiệu nghỉ học, các tổ chức kiểm tra, giúp đỡ và phối hợp với phụ huynh, nhà
trường để động viên các em kịp thời. Do đó, trong những năm qua đã chấm dứt tình trạng
học sinh bỏ học giữa chừng hoặc đi học không chuyên cần. Số lượng trẻ 6 tuổi được huy
động vào lớp một chiếm 100%. Phụ huynh đổi mới trong nhận thức của mình, luôn tạo
điều kiện cho con em tham gia học tập nghiêm túc, đảm bảo đầy đủ theo chương trình. Vì
vậy, tỉ lệ phổ cập luôn đảm bảo và công tác phổ cập đạt mức độ 2.
2. Giải pháp thứ hai: Đẩy mạnh c ng tác tham mưu c a nhà trường với cấp y
Đảng ch nh quyền và phối h p với các tổ chức đoàn thể c a địa phương.
Để thực hiện tốt công tác tham mưu với cấp ủy Đảng, chính quyền và phối hợp với
các tổ chức đoàn thể địa phương thì hiệu trưởng phải bám vào lộ trình xây dựng trường

chuẩn của đơn vị mình để xác định mục tiêu, thời gian, đối tượng thực hiện từng nội dung
thật cụ thể. Đầu mỗi năm học, hiệu trưởng tổ chức rà soát các nội dung, tiêu chí và thực

7


tế hiện có của trường để xác định cần làm gì? Vào thời gian nào? Giao nội dung đó cho
ai?…
Ví dụ: Về nội dung phối hợp với gia đình giao trách nhiệm chính cho giáo viên chủ
nhiệm, cho ban chấp hành hội phụ huynh, cho bí thư và xóm trưởng các xóm để theo dõi,
liên lạc với nhau thường xuyên, nắm bắt tình hình của học sinh hàng ngày, nhà trường
chịu trách nhiệm chỉ đạo trong việc ký các cam kết và xử lý thông tin để giáo dục học
sinh kịp thời. Sau đó những nhận xét đánh giá hàng ngày của từng học sinh được nêu cụ
thể thông qua các cuộc họp phụ huynh để gia đình và giáo viên, phụ huynh nắm bắt, điều
chỉnh trong công tác phối hợp giáo dục từng em đạt hiệu quả.
Về nội dung phối hợp các đoàn thể XH, hiệu trưởng chịu trách nhiệm ký cam kết
phối hợp, tham mưu với cấp uỷ đảng và chính quyền về nhiệm vụ của từng tổ chức đoàn
thể để bàn bạc thông qua hội nghị giáo dục cấp xã, hiệu trưởng giao trách nhiệm cho các
tổ chức công đoàn, chi đoàn, tổng phụ trách Đội, trách nhiệm từng đồng chí cán bộ giáo
viên trong công tác phối hợp để xây dựng từng mảng hoạt động đạt kết quả. Lãnh đạo địa
phương giao nhiệm vụ phối hợp cho các đoàn thể như sau: Đoàn thanh niên hỗ trợ công
tác đoàn - Đội trường học; Hội phụ nữ chăm lo công tác huy động và duy trì sỹ số; Hội
CCB chăm lo công tác giáo dục đạo đức, truyền thống, lịch sử cha ông. Ban an ninh hỗ
trợ trong công tác bảo vệ an ninh trường học. Ban mặt trận tổ quốc quan tâm động viên,
kêu gọi tích cực trong hoạt động xây dựng trường chuẩn. Hội khuyến học hỗ trợ học sinh
khuyết tật và học sinh có hoàn cảnh khó khăn, trao thưởng các giáo viên và học sinh đạt
thành tích xuất sắc. Hội người cao tuổi, cựu giáo chức, các ban ngành chăm sóc cảnh
quan xanh sạch đẹp......Mỗi tổ chức nắm bắt tình hình từ giáo viên chủ nhiệm, từ nhà
trường, từ gia đình để có kế hoạch làm tốt nhiệm vụ của mình và có biện pháp phối hợp
giáo dục kịp thời về các lĩnh vực, cùng góp sức trong công tác giáo dục toàn diện cho con

em.
Về xây dựng cơ sở vật chất: Tham mưu xây dựng các nhà chức năng, mở rộng khuôn
viên; làm đường bê tông; xây dựng cảnh quan xanh sạch đẹp, thân thiện.....trách nhiệm
hiệu trưởng nhà trường phải tham mưu với lãnh đạo địa phương để có lộ trình phù hợp và
hoàn thành đúng tiến độ từng nội dung công việc. Bên cạnh đó huy động lực lượng hội phụ
huynh để vận động tích cực trong nhân dân cả về nguồn lực, vật lực để hoàn thành sớm
nhất các công trình, đáp ứng yêu cầu dạy học.
Từ kế hoạch đã xây dựng, hiệu trưởng tổ chức họp lãnh đạo mở rộng và mời Thường
vụ Đảng ủy tham gia để tranh thủ sự đồng tình và chủ trương của địa phương. Sau khi
được thống nhất và có chủ trương của địa phương thì Ban giám hiệu tổ chức tuyên truyền
tham mưu tại hội nghị GD xã, triển khai và giao nhiệm vụ tại HN CBVC. Mỗi cán bộ,

8


giáo viên từ nhiệm vụ đó cụ thể hoá cho bản thân và tích cực thực hiện nhiệm vụ, làm tốt
công tác phối kết hợp với các đoàn thể để đạt hiệu quả cao hơn.
Từ năm 2011 đến 2013, trường đã hoàn thành xây dựng thêm phòng học Tiếng Anh,
trang trí lại các phòng học đẹp, mua sắm các thiết bị dạy học. Đặc biệt đã xây dựng đủ các
phòng học Mĩ thuật, Âm nhạc, Tin học với các đồ dùng dạy học đẹp, hiện đại. Nhà trường
tích cực phối hợp với các đoàn thể ở địa phương để hỗ trợ vật liệu để làm các đồ dùng cho
các trò chơi dân gian, các đồ dùng dạy học đơn giản, trang trí các sân chơi, bãi tập, sân
bóng....tạo cho học sinh có những trò chơi vui vẻ, thoải mái, tạo không khí “ Học mà chơi,
chơi mà học”.
Một khó khăn trong công tác xây dựng cơ sở vật chất đó là việc mở rộng khuôn
viên nhà trường vì một ngôi trường hiện đại cần có nhà đa chức năng, sân chơi, bãi tập bố
trí xa lớp học để không ảnh hưởng đến các giờ học trên lớp, mà kinh phí để chi trả cho
nhân dân trong việc thu hồi đất là trên 100 triệu đồng; thực tế kinh phí địa phương còn eo
hẹp và gặp nhiều khó khăn. Chúng tôi đã gặp những người dân sản xuất ở khu vực đất
cần mở rộng và tâm sự trong việc xây dựng trường chuẩn, nắm bắt được sự đồng thuận

của phụ huynh nên đã mạnh dạn làm tờ trình đề nghị mở rộng khuôn viên với lãnh đạo
địa phương. Với sự chỉ đạo của Đảng uỷ, UBND, UBMTTQ, xã mở các cuộc họp cùng
với cấp uỷ nhà trường mời các hộ có đất ở khu vực trước cổng trường để vận động hiến
đất cho nhà trường. Rất vui là tất cả các hộ dân đều đồng ý hiến đất cho trường và kí
ngay vào biên bản hiến đất để xây dựng trường chuẩn quốc gia. Kết quả diện tích đất
được mở rộng là trên 2000 mét vuông. Hiện nay tổng diện tích đất của trường là 7100
mét vuông, bình quân 21,13 mét vuông/1 học sinh. Với khuôn viên rộng rãi, thoáng mát,
do nhân dân tự hiến đất đã giúp nhà trường tháo gỡ được nhiều khó khăn trong quá trình
dạy học. Học sinh được học tập, vui chơi thoải mái, không ảnh hưởng đến các hoạt động
trên lớp học, vì vậy chất lượng ngày càng được nâng cao. Bên cạnh đó, con đường đi vào
trường còn lầy lội, đường trơn, học sinh dễ ngã, mà đầu năm học đã kêu gọi phụ huynh
ủng hộ để tu sửa lại CSVC trong các phòng học, các tủ đựng đồ dùng....Theo quy định
một năm học nhà trường không được kêu gọi sự ủng hộ xây dựng CSVC hai lần. Trước
tình hình đó, nhà trường đã phối hợp với hội phụ huynh tổ chức họp phụ huynh lần thứ
hai và vận động nhân dân đóng góp để làm đường, làm sao phụ huynh nhất trí chủ trương
để thực hiện, còn kinh phí sẽ vận động vào năm học tới. Được sự nhất trí của lãnh đạo địa
phương, sự đồng thuận của nhân dân nên con đường vào trường đã được bê tông hoá với
trị giá gần 100 triệu đồng từ sự huy động phụ huynh đóng góp, tuy còn khó khăn nên
công trình phải làm nợ chờ đến năm học 2013 – 2014 huy động nhân dân để thanh toán.
Từ đó học sinh đi lại đảm bảo an toàn, sạch sẽ.
3. Giải pháp thứ ba: Tăng cường huy động nguồn lực trong nhân dân để tu sửa
bổ sung mua sắm TBDH các phòng chức năng.

9


Vào đầu năm học, nhà trường tham mưu với địa phương trình kế hoạch huy động và
dự kiến mua sắm, tu sửa các công trình để hoàn thành các hạng mục xây dựng trường
chuẩn; tổ chức họp ban chấp hành hội phụ huynh để thông qua kế hoạch cụ thể, tuyên
truyền công tác huy động đến từng phụ huynh, đến các nhà hảo tâm, các cơ quan doanh

nghiệp trên địa bàn và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực xã hội để xây dựng cơ sở vật
chất, bổ sung phương tiện, thiết bị dạy học.
Để XD CSVC trường lớp, XD trường chuẩn Quốc gia mức 2, nhà trường kết hợp
với địa phương, hội phụ huynh thành lập ban vận động làm tốt công tác tuyên truyền
được các bậc phụ huynh tự nguyện đóng góp trong 4 năm với số tiền: 181.950.000 đồng.
Kinh phí được dùng để xây dựng nhà thường trực, phòng y tế, nhà ăn bán trú. Các bậc
phụ huynh còn tự nguyện xe đất làm bồn hoa, đắp sân bóng ( mỗi em 1 xe ) trong năm:
799 xe ( mỗi xe 40.000 đồng ). Tổng giá trị: 31.960.000 đồng. Các bậc dâu rể của trường
tự nguyện mua cây cảnh, làm sân bóng chuyền để cho các thầy cô giáo vui chơi giải trí
hàng ngày với số tiền 11 triệu đồng. Chưa tính lao động sống của các bậc phụ huynh
giúp nhà trường rào cây, cuốc cỏ, san sân bóng. Hàng năm còn được các bậc phụ huynh
đóng góp công sức tiền của XD lớp học thân thiện như trang trí lớp, tân trang sơn lại lớp
học. Riêng năm học 2012 – 2013 phụ huynh đóng góp xây dựng CSVC tự nguyện với số
tiền 67 230 000 đồng để mua sắm thêm máy vi tính và tủ đựng đồ dùng sách vở phục vụ
dạy học. Năm học 2013 – 2014 phụ huynh tự nguyện đóng góp gần 100 triệu đồng để
thanh toán con đường bêtông từ quốc lộ bảy vào cổng trường, hoàn thành công trình làm
nợ từ năm học trước. Một số doanh nghiệp tư nhân trên địa bàn đã hỗ trợ kinh phí để
mua sắm các đồ dùng bán trú như tủ lạnh; bếp ga; giường cho học sinh ngủ trưa.....Nhờ
huy động tốt nguồn lực trong nhân dân nên đã xây dựng cơ sở vật chất khang trang, phục
vụ dạy học hiệu quả và phục vụ công tác bán trú toàn diện hơn, tốt hơn.
4. Giải pháp thứ tư: Thường xuyên quan tâm các đối tư ng học sinh có hoàn
cảnh khó khăn để động viên các em vươn lên trong học tập.
Nhà trường tích cực phối hợp với các đoàn thể địa phương để trao tặng quà cho học
sinh có hoàn cảnh khó khăn, học sinh khuyết tật vươn lên trong học tập. Hàng năm,
Đoàn xã và Hội đồng đội xã tặng chăn ấm cho học sinh nghèo, mỗi năm 5 em trị giá
1200 000 đồng. Hội phụ nữ trao tặng quà cho học sinh con hộ nghèo và cận nghèo nhân
dịp Tết trung thu, mỗi năm trị giá 2 000 000 đồng. Hội khuyến học xã trao quà cho học
sinh nghèo vượt khó nhân dịp khai giảng năm học mới và tặng quà cho đối tượng học
sinh giỏi các cấp nhân dịp tổng kết năm học, trị giá quà tặng mỗi năm trên 3 000 000
đồng.

Đối với học sinh khuyết tật, học sinh có hoàn cảnh đặc biệt nhà trường miễn giảm
hoàn toàn các khoản đóng góp cho các em; đối với học sinh có hoàn cảnh khó khăn nhà

10


trường miễn giảm 1/2 số tiền học tăng buổi để động viên các em đến trường học tập tích
cực và chuyên cần. Hàng năm, nhà trường phối hợp với công đoàn tổ chức phong trào “
Áo ấm tặng em” vào dịp đón tết nguyên đán; trao tặng sách vở, đồ dùng học tập cho học
sinh vào dịp khai giảng năm học mới. Kinh phí được vận động từ lòng hảo tâm của các
thầy cô giáo, các em học sinh để cùng chia sẻ với học sinh thân yêu, với bạn bè đang gặp
khó khăn hoạn nạn. Mỗi lần trao tặng trị giá gần 4 triệu đồng. Nhà trường còn tổ chức
cho học sinh quyên góp quần áo cũ để tặng bạn, qua đó giúp nhiều em học sinh có hoàn
cảnh khó khăn được mặc ấm, đảm bảo sức khoẻ hơn để học tập. Từ đó, giáo dục học
sinh tình thương yêu giúp đỡ lẫn nhau, biết chia sẻ với bạn bè cùng trang lứa.
Thực hiện học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, đồng chí Trần
Văn Long – Bí thư Đảng uỷ xã đã tiết kiệm chi tiêu số tiền của mình, dành dụm và hỗ trợ
tiền học tăng buổi cho 5 học sinh có hoàn cảnh khó khăn, trị giá mỗi tháng 330 000
đồng. Với việc làm cảm động, đầy ý nghĩa đó đã cổ vũ các em vươn lên trong học tập,
động viên tinh thần các thầy cô vượt mọi khó khăn để dạy thật tốt, tất cả vì học sinh thân
yêu.
5. Giải pháp thứ năm: Phối h p hiệu quả với các tổ chức đoàn thể để giáo dục
học sinh về truyền thống lịch sử văn hoá dân tộc.
Hàng năm, thực hiện phong trào thi đua xây dựng THTT, HSTC, nhà trường giao
cho chuyên môn phối hợp với Liên đội tham mưu xây dựng kế hoạch tổ chức các hoạt
động NGLL một cách cụ thể và có tính thiết thực khả thi cho cả năm học, từng đợt thi
đua và theo các chủ điểm, ngày lễ trong năm. Trên cơ sở kế hoạch đã được phê duyệt,
Ban giám hiệu chỉ đạo các tổ chức như Liên đội, tổ chuyên môn...chủ động thực hiện nội
dung nhiệm vụ đã được phân công. Nhân các ngày lễ 22/12, 30/4, kỷ niệm 50 năm thành
lập huyện 19/4, Liên đội chủ động phối hợp với Hội Cựu chiến binh để nói chuyện truyền

thống nhằm giáo dục học sinh hiểu rõ hơn về lịch sử dân tộc, thêm yêu quê hương, đất
nước. Phối hợp với đoàn xã trong hoạt động chăm sóc các di tích lịch sử tại địa phương:
Nhà trường chỉ đạo liên đội tổ chức cho học sinh chăm sóc, vệ sinh nhà bia tưởng niệm
của xã; chăm sóc Đình Phú Nhuận, phối hợp với địa phương luyện tập đội hình, văn nghệ
để tham gia trong lễ hội Đền Tiên Đô vào ngày 7/1 âm lịch đạt kết quả; tổ chức trao tặng
quà cho học sinh con thương binh trên địa bàn xã. Bên cạnh đó, thường xuyên phối hợp
với cụm chuyên môn để học sinh giao lưu bằng hình thức thi Rung chuông vàng tìm hiểu
về truyền thống của huyện, tìm hiểu lịch sử địa phương và hiểu biết về thế giới xung
quanh để các em được mở mang kiến thức, qua đó giáo dục tình yêu quê hương đất nước,
lòng tự hào dân tộc cho các em.
Mỗi khối lớp thực hiện nghiêm túc các hoạt động ngoài giờ lên lớp đã quy định.
Chương trình hoạt động ngoài giờ lên lớp được thực hiện theo thời khoá biểu đã hướng

11


dẫn. Ngoài ra, các tổ chuyên môn phải xây dựng nội dung các hoạt động ngoại khoá phù
hợp với chủ đề từng năm học và triển khai có thể theo khối hoặc tổ chuyên môn. Nội
dung các hoạt động ngoại khoá phải vừa sức học sinh, phong phú mọi lĩnh vực và hình
thức tổ chức hấp dẫn. Mục đích tổ chức các hoạt động là học sinh được mở mang nhiều
kiến thức gắn với xung quanh các em, được ôn lại kiến thức các môn học một cách nhẹ
nhàng mà toàn diện, học sinh được giao tiếp và ứng xử linh hoạt, trao đổi hỏi đáp lẫn
nhau để tìm ra những điều lý thú, hấp dẫn trong từng hoạt động. Hoạt động ngoại khoá có
thể thực hiện ở trường, ở địa phương hoặc tham quan các di tích lịch sử trong huyện,
trong tỉnh. Việc tham quan các di tích lịch sử đã để lại cho học sinh sự xúc động thực sự,
qua đó giáo dục cho học sinh về lòng biết ơn, sự kính trọng các anh hùng liệt sỹ, cha ông
ta đã hy sinh xương máu để bảo vệ Tổ quốc.
Trong những năm qua, trường chúng tôi đã phối hợp với hội phụ huynh, với BCH
đoàn xã, Hội đồng đội xã tổ chức nhiều hoạt động ngoại khoá thành công và nhận được
nhiều sự ủng hộ từ đồng nghiệp, từ phụ huynh học sinh. Với hoạt động ngoại khoá “

Trung thu ngày hội” ; “ Quê hương trong em” đã giúp các em thực sự xúc động khi được
đón một trung thu tập thể với tinh thần thoải mái, vui vẻ. Các em được hiểu biết hơn về
Chú Cuội, chị Hằng…và được rước đèn ông sao, tham gia chơi các trò chơi dân gian bổ
ích mà lý thú. Các em hiểu biết thêm về quê hương của mình khi được tìm hiểu các hoạt
động hiện nay của địa phương. Đồng thời các em biết rõ trách nhiệm của mình đối với
địa phương và góp phần xây dựng địa phương ngày càng giàu mạnh. Tổ chức cho học
sinh tham quan di tích lịch sử Truông Bồn; Đền Quả Sơn; hành trình tri ân về quê Bác –
Quãng trường – Đền Quang Trung – Bảo tàng quân khu IV. Hoạt động tham quan giúp
các em hiểu thêm về quãng đời hoạt động cách mạng của Bác Hồ kính yêu, các em càng
hiểu thêm tình cảm thiêng liêng Bác dành cho các cháu thiếu niên nhi đồng, các em càng
cố gắng học tập tốt để xứng đáng là cháu Bác Hồ kính yêu.
Việc tổ chức hoạt động ngoại khoá đã đem lại cho học sinh sự thích thú, các em
được học mà chơi, chơi mà học, được hiểu biết toàn diện mọi mặt, được giáo dục kỹ năng
ứng xử trong tập thể. Tuy nhiên, khi tổ chức hoạt động cần có sự phối hợp nhịp nhàng
với địa phương, phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng giáo viên ở từng lĩnh vực thì mới
đạt hiệu quả cao.
6. Giải pháp thứ sáu: xây dựng cảnh quan xanh sạch đẹp an toàn, tạo ng i
trường thân thiện thu hút học sinh yêu th ch đến trường.
Công tác xây dựng cảnh quan nhà trường luôn được cán bộ giáo viên và học sinh
quan tâm song sau khi đạt chuẩn giai đoạn 1, do trường mới chuyển về địa điểm mới nên
cây xanh còn quá ít, khuôn viên chưa đẹp mắt. Nhà trường đã phối hợp với các đoàn thể
địa phương kêu gọi trồng cây xanh, cây cảnh, các bồn hoa để tạo ra bóng mát, cảnh đẹp

12


trong khuôn viên vừa thu hút học sinh, vừa tạo ra không gian đẹp cho nhà trường. Với sự
quan tâm sâu sát và tích cực ủng hộ việc xây dựng trường chuẩn mức độ 2 nên các đoàn
thể Mặt trận; phụ nữ; người cao tuổi, hội cựu giáo chức, đoàn xã, nông dân.... đều vào
cuộc; mỗi tổ chức đều trồng những hàng cây cảnh như cây phượng, bàng, xà cừ, cau

vua....., trồng những bồn hoa với nhiều màu sắc, tặng một số chậu cây cảnh... Tất cả trên
60 cây cảnh đẹp trị giá trên 10 triệu đồng. Với bàn tay chăm sóc hàng ngày của các đoàn
thể nên cây trồng xanh tốt. Hiện nay nhà trường đã được phủ bởi màu xanh của cây cỏ và
những màu vàng, đỏ, tím của các loài hoa tạo ra cảnh quan thân thiện, gần gũi, đẹp mắt,
giúp cho học sinh luôn tích cực chăm sóc và giữ gìn cây cảnh xanh đẹp.
Bên cạnh đó, nhà trường đã giao nhiệm vụ cho chi đoàn trang trí thư viện vườn
trường thật đẹp mắt, tạo ra không gian đọc sách đẹp, thu hút học sinh đọc sách mỗi ngày.
Vận dụng sự khéo léo của các đồng chí giáo viên dạy âm nhạc, mĩ thuật, với sức trẻ của
đoàn viên các đồng chí đã tạo ra những mảng màu, những bức tranh sinh động xung
quanh không gian phòng đọc sách; những bộ bàn ghế với hình thù ngộ ngĩnh được các
đồng chí đoàn viên lao động tự nguyện cùng làm ra sản phẩm đẹp, tạo vị trí ngồi đọc sách
hấp dẫn, đẹp mắt. Với không gian lạ mắt, hàng ngày luôn thu hút học sinh đọc sách
thường xuyên, từ đó các em vừa được giải trí vừa tìm hiểu nhiều điều mới lạ qua kho
tàng trí thức ở sách vở. Hoạt động đọc sách được duy trì thường xuyên, được cán bộ thư
viện thiết bị theo dõi, đánh giá và kiểm tra nội dung các cuốn sách các em đã đọc, tổ chức
thi giới thiệu sách vào giờ chào cờ để đánh giá học sinh.
Công tác vệ sinh luôn được nhà trường chú trọng từ vệ sinh cá nhân đến vệ sinh
trường lớp. Các em được kiểm tra vệ sinh cá nhân thường xuyên để nhắc nhở kịp thời.
Các lớp hoàn thành các khu vực vệ sinh hàng ngày và được đánh giá thi đua hàng tuần.
Học sinh ăn ở bán trú được đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, có phòng ăn phòng ngủ
riêng biệt, đảm bảo chế độ dinh dưỡng tốt, sức khoẻ tốt. Khu gom rác thải và hệ thống
thoát nước hợp lý, vì vậy cảnh quan trong trường luôn xanh sạch đẹp, luôn thu hút học
sinh yêu thích đến trường.
7. Giải pháp thứ bảy: Tổ chức có hiệu quả hoạt động c a Ban đại diện cha mẹ
học sinh.
Vào đầu mỗi năm học, trong cuộc họp phụ huynh đầu năm, nhà trường chỉ đạo kiện
toàn Ban đại diện cha mẹ học sinh các lớp. Giáo viên chủ nhiệm mỗi lớp có nhiệm vụ tìm
hiểu, định hướng và thỏa hiệp với lớp để cử người có tâm huyết, quan tâm đến học sinh,
đến sự phát triển của nhà trường, có trách nhiệm cao trước tập thể làm Chi hội trưởng.
Đặc biệt là hiệu trưởng cần tìm hiểu để định hướng lựa chọn Ban thường trực đại diện

cha mẹ học sinh thực sự là cánh tay đắc lực cho hiệu trưởng trong công tác phối kết hợp
với nhà trường để giáo dục toàn diện học sinh. Ban thường trực phải biết cách tuyên

13


truyền, vận động tập thể phụ huynh ủng hộ chủ trương của nhà trường cũng như có thể
tham gia đóng góp ý kiến cho nhà trường trong công tác giáo dục cũng như xây dựng cơ
sở vật chất. Sau khi thành lập được Ban thường trực thì hiệu trưởng cùng phối hợp với
Ban dựa vào Điều lệ của Ban đại diện cha mẹ học sinh để lập kế hoạch và quy chế hoạt
động cụ thể cho cả năm học, từng học kì và từng đợt trong năm học, đồng thời nhà
trường cần tạo điều kiện tốt nhất cho Ban hoạt động để đạt hiệu quả cao. Năm học 2013 –
2014 nhà trường có 12 chi hội trưởng của 12 lớp và có ban thường vụ hội gồm 3 người.
Mỗi lớp có 1 chi hội trưởng. Ban đại diện cha mẹ học sinh hoạt động có hiệu quả, phối
hợp thường xuyên với nhà trường trong mọi hoạt động. Nhà trường luôn định hướng
những nội dung trọng tâm cần tập trung để Ban đại diện cha mẹ học sinh hoạt động, tạo
điều kiện tốt nhất để hoạt động có hiệu quả; các thành viên trong ban luôn tích cực,
thường xuyên nắm bắt hoạt động của nhà trường để phối hợp tốt trong mọi công việc.
Nhà trường tổ chức các cuộc họp giữa nhà trường với cha mẹ học sinh, ban đại diện
cha mẹ học sinh mỗi năm 3 lần vào dịp đầu năm học, cuối học kỳ 1 và cuối năm học.
Thông qua các cuộc họp nhà trường triển khai đến từng phụ huynh học sinh về công tác
quản lý của nhà trường, các biện pháp giáo dục học sinh, các nội dung phối hợp giữa nhà
trường với phụ huynh trong công tác giáo dục học sinh, các chỉ tiêu biện pháp trong từng
năm học của trường, của các lớp, của học sinh....giải quyết các kiến nghị của cha mẹ học
sinh, góp ý kiến cho hoạt động của Ban đại diện cha mẹ học sinh để ngày càng đạt hiệu
quả cao. Tuyên truyền để tăng thêm sự hiểu biết trong cộng đồng về nội dung, phương
pháp và cách đánh giá học sinh tiểu học, tạo điều kiện cho cộng đồng tham gia thực hiện
mục tiêu và kế hoạch giáo dục tiểu học. Tổ chức truyền thông qua sổ liên lạc, qua điện
thoại, qua cuộc họp gặp gỡ các hội nghị ở trường, ở địa phương để tăng thêm sự hiểu biết
trong cộng đồng về mục tiêu GD tiểu học, về nội dung, phương pháp và cách đánh giá

HS, thực hiện cuộc vận động “ Hai không” của Bộ GD – ĐT. Vào cuối học kỳ 1 và cuối
năm học, nhà trường tổ chức về họp phụ huynh theo khối xóm, được các đồng chí bí thư
xóm trưởng tổ chức chu đáo. Qua cuộc họp, kết quả học tập, rèn luyện, hành vi ứng xử,
kỹ năng sống của từng em được đánh giá cụ thể, rõ ràng, được phụ huynh đồng tình ủng
hộ cao và nhất trí phối hợp, thông tin kịp thời đầy đủ với giáo viên, với nhà trường để
giáo dục học sinh ngày càng tốt hơn, toàn diện hơn. Đặc biệt, qua trao đổi với phụ huynh
giúp các bậc làm cha làm mẹ hiểu rõ hơn về công tác giáo dục toàn diện cho học sinh,
không gây áp lực cho con em mình, không coi trọng riêng môn toán hay tiếng việt mà
phụ huynh đã tạo sự thoải mái cho các em, tôn trọng năng khiếu của từng học sinh và
động viên các em tham gia nhiều hoạt động vui chơi, hoạt động tập thể bổ ích tạo ra sự lý
thú, học mà chơi, chơi mà học cho học sinh. Từ đó các em tiếp thu bài học được tốt hơn,
hiệu quả giáo dục được nâng cao.
IV.Những kết quả đạt được và bài học kinh nghiệm:

14


1. Những kết quả đạt được:
Với sự đồng thuận cao trong tập thể cán bộ công nhân viên nhà trường, với sự nỗ
lực hết mình của nhà trường của địa phương, các bậc phụ huynh; sự quan tâm phối hợp
thường xuyên, hiệu quả giữa nhà trường với địa phương và hội cha mẹ học sinh, đặc biệt
từ năm 2010 đến nay nên cơ sở vật chất của nhà trường đã thay đổi hoàn toàn, địa
phương đã đầu tư xây thêm các phòng chức năng phục vụ dạy học các môn Âm nhạc, Mĩ
thuật, Tin học và Tiếng Anh; đầu tư xây dựng nhà bán trú, nhà thường trực, ghép gạch
Blôc sân trường; bê tông hoá đường vào trường và các khu vực sân chơi với tổng trị giá
gần 1 tỉ đồng.
Dưới sự chỉ đạo quyết liệt của cấp uỷ Đảng, các thành phần đều vào cuộc, các
đồng chí lãnh đạo địa phương luôn dành thời gian đến trường để kiểm tra, đôn đốc việc
hoàn thành các công trình để hoàn thành đúng theo tiến độ, do đó đến ngày 15/ 3/ 2013
trường TH Đặng Sơn đã có đầy đủ phòng học và phòng chức năng, trang thiết bị dạy học

đầy đủ của 18 phòng học. Ngoài đầu tư xây dựng các phòng học, phòng chức năng cần
thiết, địa phương còn đầu tư gần 700 triệu đồng để xây dựng các công trình khác như:
cổng trường, nhà vệ sinh; nâng cấp dãy nhà cấp 4, nâng cấp sân chơi bãi tập; làm mới nhà
xe GV, HS và mua sắm bàn ghế, trang thiết bị dạy học phục vụ yêu cầu ngày càng cao
của việc dạy và học. Khuôn viên nhà trường được mở rộng, đẹp, thoáng mát, đường đi lối
lại, sân chơi được bê tông hoá sạch đẹp tạo khuôn viên đẹp, thu hút học sinh đến trường.
Tháng 5/2013, trường được đón đoàn thẩm định của Sở Giáo dục và Đào tạo, ấn
tượng đầu tiên của đoàn khen trường đẹp, nhỏ nhỏ, xinh xinh nhưng đầy đủ theo các tiêu
chuẩn quy định; có sự thay đổi vượt bậc so với chuẩn 1 trong thời gian ngắn (3 năm);
đoàn ghi nhận sự nỗ lực trong công tác quản lí của Ban giám hiệu với các loại hồ sơ đầy
đủ, khoa học; qua khảo sát học sinh các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết, giao tiếp, các hoạt
động ngoài giờ lên lớp, các trò chơi dân gian đã làm các thầy cô hài lòng. Trường được
đoàn ghi nhận đạt chuẩn quốc gia mức độ 2 vững chắc. Với sự nỗ lực phấn đấu không
mệt mỏi, kết quả đạt được 3 năm qua như sau:
Về tập thể : Chi bộ luôn luôn đạt Trong sạch vững mạnh, nhà trường nhiều năm
liền đạt danh hiệu Tập thể lao động tiên tiến xuất sắc cấp huyện cấp tỉnh, được UBND
huyện, UBND tỉnh tặng bằng khen. Đạt danh hiệu đơn vị văn hoá. Công đoàn xếp loại
Vững mạnh xuất sắc, được LĐLĐ tỉnh, công đoàn giáo dục Việt Nam, Tổng LĐLĐ
Việt Nam tặng Bằng khen. Đoàn Thanh niên và Đội TNTP nhiều năm liền đạt xuất sắc.
Về đội ngũ CBGV: 3 năm lại nay có 1 đ/c đạt CSTĐ cấp Tỉnh, 2 đ/c đạt danh hiệu
GVDG Tỉnh, 13 lượt đ/c đạt CSTĐ cấp cơ sở, 18 lượt đ/c GVDG cấp huyện, 91 lượt đ/c
đạt LĐTT, không có CBGV xếp loại yếu kém.

15


Về hoạt động giáo dục và kết quả giáo dục của HS vượt các chỉ tiêu quy định của
chuẩn. Nhà trường chú trọng chỉ đạo quan tâm hoạt động giáo dục toàn diện, 100% học
sinh học 2 buổi/ ngày, chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy học, quan tâm mua sắm các
dụng cụ các trò chơi dân gian (Các lớp có đủ các đồ dùng các trò chơi như: cà kheo; bộ

sạp; ô ăn quan, bao bố, kéo co…. và chủ yếu các em tự làm và tặng nhà trường ), chú
trọng rèn kĩ năng giao tiếp, ứng xử, kinh nghiệm sống, tổ chức các HĐNGLL đạt hiệu
quả. Qua khảo sát của đoàn thẩm định Sở giáo dục, được đánh giá cao trong việc tổ chức
dạy học toàn diện cho học sinh. Vì vậy, có thể nói rằng trong những năm qua, nhà trường
đã khẳng định được vị thế của mình, từ chất lượng đại trà cho đến chất lượng mũi nhọn
và các cuộc thi năng khiếu khác ngày càng đi lên vững chắc, chất lượng giáo dục toàn
diện ngày càng cao.
Trong 3 năm lại nay có 1 học sinh giỏi cấp quốc gia; 3 học sinh giỏi cấp tỉnh, 48
học sinh giỏi huyện và hàng trăm học sinh giỏi toàn diện. Kết quả xếp loại giáo dục cuối
năm đạt được cụ thể như sau:
Số Số HS Xếp Số HS Xếp Số HS Xếp Số HS Xếp Số HS Lên
loại Khá loại TB
loại Yếu
lớp thẳng
Năm Học loại giỏi
học
sinh SL Tỉ lệ SL Tỉ lệ SL Tỉ lệ SL Tỉ lệ SL Tỉ lệ
2010 2011 360

95 26.3 162 45

98

27.3

5

1.4

355


98.6

2011 343
2012

90 26.2 156 45.4 93

27.2

4

1.2

339

98.8

25.3

3

0.9

332

99.1%

2012 2013 336 92


27.4 156 46.4 85

Trong các thế hệ HS đã từng học tập và rèn luyện dưới mái trường Tiểu học Đặng
Sơn đã có rất nhiều em là học trò xuất sắc của các trường chuyên, nhiều em xuất sắc
trong lĩnh vực thể thao với môn bóng đá cấp Tỉnh của thiếu niên và nhi đồng, nhiều em
đã trưởng thành và thành đạt đang cống hiến xây dựng đất nước, quê hương. Với những
thành tích ấy, nhà trường đã tạo được niềm tin đối với Cấp uỷ Đảng, Chính quyền và
nhân dân. Chính vì vậy, chủ trương xây dựng trường Tiểu học đạt chuẩn Quốc gia Mức
2 được nhân dân đồng tình và ủng hộ mạnh mẽ và đã đạt được hiệu quả sớm nhất.
2. Bài học kinh nghiệm:

16


Để công tác xây dựng trường chuẩn quốc gia mức độ 2 thành công thì công tác
phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội là hoạt động cần được nhà trường quan tâm
hàng đầu và đề ra các giải pháp phối hợp, hoạt động thường xuyên, phù hợp và tích cực.
Trước tiên là sự chỉ đạo kịp thời, sâu sát, phù hợp thực tế và thường xuyên của lãnh đạo
địa phương. Đặc biệt là việc chăm lo, giải quyết kịp thời các vấn đề nhà trường tham mưu
và cấp trên chỉ đạo để hoàn thành các tiêu chuẩn. Nhà trường cần đề ra những vấn đề
tham mưu phù hợp và đúng hướng của nhà trường với các cấp về những vấn đề cần tập
trung hoàn thành. Đặc biệt vai trò của người hiệu trưởng rất lớn trong tham mưu đó là
phải liên tục, không nản chí, quyết tâm để hoàn thành nhiệm vụ. Tích cực động viên,
khuyến khích sự ủng hộ nhiệt tình của nhân dân, của phụ huynh để hỗ trợ về vật chất,
tinh thần, chăm sóc cảnh quan nhà trường, mua sắm các trang thiết bị dạy học, hoàn
chỉnh các nội dung về cơ sở vật chất. Tập thể cán bộ, giáo viên, nhân viên nhà trường
luôn đồng sức, đồng lòng, đoàn kết và tập trung xây dựng trường chuẩn với quyết tâm
cao. Đặc biệt là sự năng động, lo lắng, nhiệt tình, trách nhiệm cao của cán bộ quản lý nhà
trường trong công tác tham mưu, phối hợp, thực hiện lộ trình hoàn thành đúng tiến độ.
C. KẾT LUẬN:

Sự nỗ lực phấn đấu không biết mệt mỏi của tập thể cán bộ quản lý, giáo viên, nhân
viên nhà trường; sự phối hợp tích cực giữa nhà trường – gia đình – xã hội nên sau 3 năm
công tác xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia mức độ 2 tại trường Tiểu học Đặng Sơn đã
hoàn thành. Trong đó việc phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội là nội dung cần
thiết và góp phần quyết định không nhỏ cho thành công này. Trong giai đoạn hiện nay,
một ngôi trường đạt chuẩn Quốc gia mức độ 2 là nơi để rèn luyện học sinh trở thành
người phát triển toàn diện, là một môi trường để các em được thể hiện mình trong các
môn học từ kiến thức đến kỹ năng sống, đến các môn năng khiếu các em yêu thích. Các
em được tự tìm tòi kiến thức bằng hoạt động “ tự học”, giao lưu với bạn, chia sẻ với bạn,
học thông qua các hoạt động NGLL, các buổi đọc sách, giao lưu câu lạc bộ..... Từ đó các
em trở thành những con người phù hợp với thời đại mới để xây dựng đất nước. Tuy
nhiên, để đạt hiệu quả cao và đạt mục tiêu dạy học trong giai đoạn mới đòi hỏi sự quan
tâm, phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội ngày càng phải gắn kết, cụ thể, thường
xuyên, nhịp nhàng và với tinh thần trách nhiệm cao, tất cả vì học sinh thân yêu và sự miệt
mài của từng cá nhân đến các tổ chức đoàn thể trong công tác “ trồng người”, quan tâm
đồng đều, toàn diện về dạy người, dạy chữ, dạy nghề để học sinh trở thành những con
người mới phù hợp với thời đại mới và sánh vai với các cường quốc năm châu như lời
Bác Hồ đã dặn.
Trên đây là những giải pháp phối hợp giữa nhà trường gia đình và xã hội để xây
dựng trường chuẩn quốc gia mức độ 2 đạt hiệu quả. Bước đầu đã có những kết quả khả
quan, đáng ghi nhận song không thể tránh khỏi những thiếu sót, khiếm khuyết. Kính

17


mong sự góp ý, bổ sung của Hội đồng khoa học các cấp và các bạn đồng nghiệp để bản
sáng kiến được trọn vẹn và toàn diện hơn. Xin chân thành cảm ơn./.

18




×