Tải bản đầy đủ (.doc) (5 trang)

Luyện thi: Đôi mắt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (30.01 KB, 5 trang )

Đôi mắt
Nam Cao
Trong tập “ Nhật kí ở rừng “ , Nam Cao có kể rằng nhà văn đã dùng mấy ngày nghỉ Tết đầu
năm 1948 để viết một truyện ngắn “ cho đỡ nhớ “ ( chữ dùng của chính Nam Cao ). Truyện
ngắn đó, như mọi người đều biết, mang tên “ ********* thằng Tào Tháo”. Nhưng ngay sau
đó, tên truyện đó đã được đổi thành “Đôi mắt “ để “ cho nó đứng đắn hơn “. Nhưng nghó cho
kó, sự thay đổi tên truyện ấy không chỉ liên quan đến sự đứng đắn hay không đứng đắn,
nghiêm chỉnh hay không nghiêm chỉnh. Thay đổi một tựa đề như thế, dường như Nam Cao
còn muốn quan niệm và muốn người đọc cùng quan niệm tác phẩm của mình không như
một truyện ngắn tính cách mà như một truyện ngắn luận đề. Và luận đề đã được Nam Cao
nêu lên ở đây không thể là gì khác hơn ngoài luận đề “Đôi mắt “.
Lẽ dó nhiên không ai , không người đọc nào có thể hiểu một cách quá thật thà, ngây thơ
rằng chữ “đôi mắt “ dùng trong tác phẩm này là để chỉ một cơ quan cảm giác. Và những
chữ “đôi mắt “ấy chắc cũng không liên quan gì đến ý niệm mà những người yêu thích sự
lãng mạn, trữ tình hay nói đến, rằng đó là “ cửa sổ tâm hồn”. Theo cách dùng của Nam
Cao, đơn giản chỉ là một hình thức để diễn đạt điều mà chúng ta vẫn gọi là cách nhìn, cách
nhận thức về con người và cuộc sống. Mà trong tác phẩm này, đó trước hết là cách nhìn về
cuộc kháng chiến và những người dân kháng chiến. Nhưng Nam Cao là một nhà văn, vì thế
luận đề nói trên phải được ông biểu hiện theo cách riêng của nhà văn, nghóa là bằng hình
tượng và thông qua hình tượng. Hình tượng giúp nhà văn nhiều nhất trong việc giải quyết
vấn đề “đôi mắt “, nhưng hình tượng chứa đựng nhiều nhất thông điệp mà Nam Cao muốn
gửi tới mọi người rõ ràng chỉ có thể là hình tượng của hai người văn só : Độ và Hoàng.
Nam Cao đã xây dựng nhân vật Hoàng trong vai trò của một phản đề, một người có đôi
mắt, cách nhìn mà nhà văn cho là “ không nên có”. Tuy nhiên, Nam Cao lại không muốn
người văn só tản cư về nông thôn trong những năm kháng chiến ấy hiện lên chỉ như là một
phản đề tầm thường, đơn giản, dễ dãi. Trong thiên truyện đó, Hoàng nổi bật lên trước hết
bởi đôi mắt nhìn tinh tường, sắc sảo, đúng là của một văn só có tài, người đàn anh trong văn
giới. Hoàng đã nhìn thấy cái mà những người khác không dễ dàng nhìn thấy và nói ra
những điều mà mình quan sát thấy theo cách mà nếu không phải là một nhà văn tài tình
khó có thể nhận ra. Bởi con người ấy không bao giờ chòu dừng lại ở những nhận xét chung.
Bao giờ Hoàng cũng tìm cho được những nhận xét chung ấy phải hiện hiện lên trong những


biểu hiện chi tiết cụ thể.Và tài quan sát, diễn tả những điều quan sát đã góp phần lớn làm
nên sự thú vò, lôi cuốn của “Đôi mắt “,ít nhất là ở nửa đầu thiên truyện. Mặt khác, không
nên coi những điều Hoàng kể với Độ là một sự xuyên tạc hay vu khống.Hoàn toàn tin được
rằng những điều Hoàng kể đều là có thật, bởi Nam Cao cho thấy trong “Đôi mắt”, không
một người nào, kể cả Độ tỏ ra hoài nghi về sự chân thực của những lời Hoàng nói. Nhưng
chính vì thế cho nên nhân vật Hoàng trong tác phẩm mới thực sự là một phản đề đặc sắc,
một phản đề không dễ bác bỏ, không dễ vượt qua. Chính vì vậy khi Nam Cao có thể vượt
qua, bác bỏ phản đề đặc sắc ấy thì phần chính ấy mới có thể hiện ra càng sâu xa , lớn lao
và đẹp đẽ hơn.
Nhưng cái nhìn của Hoàng có đặc sắc đến đâu thì Hoàng trong câu chuyện vẫn chỉ là một
phản đề. Như vậy nghóa là về cơ bản, cách nhìn ấy là sai lệch. Có thể đúng trên hiện tượng
nhưng vẫn sai về bản chất. Bởi Hoàng chỉ sắc sảo khi nhìn vào những cái xấu của người
dân. Vì thế những người dân kháng chiến trong con mắt của Hoàng chỉ là tập hợp của một
loạt những thói mà Hoàng thấy là đáng chê cười : ngu dốt, tham lam, bần tiện, ích kỷ...
Người nhà quê đối với Hoàng có rất nhiều thói xấu, nhưng cái khiến Hoàng khó chòu nhất,
hằn học nhất và từ đó đem ra giễu cợt một cách độc đòa và hả hê nhiều nhất lại là cái thói
“đã ngố lại còn nhặng xò “ : không biết chữ lại cứ hay hỏi giấy ; ngờ nghệch nhưng thích rình
mò, nấp nom; dốt nhưng hay nói chữ : Mở miệng ra là thấy “đề nghò, yêu cầu, phê bình,
cảnh cáo, thực dân, phát xít, phản động, xã hội chủ nghóa, dân chủ” với cả “ tân dân chủ “ ;
chẳng biết gì về lý luận nhưng lại đọc làu làu “ ba giai đoạn “ về cuộc kháng chiến toàn
dân,... Như vậy nghóa là con người ấy ngay cả lúc sống rất gần nhân dân trong không gian
nhưng vẫn rất xa cách họ trong tâm tưởng. Con người ấy sống giữa lòng dân, nhờ cậy vào
dân nhưng với họ lại chỉ thấy một sự ác cảm, coi thường, khinh rẻ. Và cái mà Hoàng khó
nhìn thấy nhất, khó chấp nhận nhất, giễu cợt chua cay nhất lại chính là những biểu hiện
của sự đổi mới, lột xác vươn mình của những người dân trong kháng chiến. Vì thế Hoàng
chỉ nhìn được người dân từ một phía, mà lại là phía xấu. Con người có đôi mắt như thế là
thông minh, mà sao không tỏ được lẽ đời ? Con người có thể có học thức nhưng cũng
không sao nhận thức được những điều quan trọng nhất trong thực tế. Vì thế con người hay
chê cười ấy, bằng cách đó lại tự biến mình thành đối tượng của sự chê cười. Tất cả những
điều nói trên, Hoàng đã trực tiếp bộc lộ với Độ trong cuộc trò chuyện về những người dân.

Thế nhưng Nam Cao đã không dừng cuộc câu chuyện của mình sau cuộc trò chuyện đó,
bởi nhà văn vẫn còn hứng thú đi đến tận cùng vấn đề, tận cùng tính cách, muốn lộn trái
nhân vật để có thể xem xét một cách kó càng. Như vậy, truyện ngắn “Đôi mắt “ mới có phần
thứ hai, phần thể hiện nhiều nhất những suy nghó sâu sắc và khả năng sáng tạo nghệ thuật
của nhà văn. Bởi Hoàng đã sẵn sàng đến với những người mà Hoàng coi thường, nhưng lại
không chòu đến với nhân dân. Mà hơn thế, Nam Cao còn để Hoàng tự tìm đến những kẻ
cặn bã kia trong khi vẫn dứt khoát đóng cửa, quay lưng lại với mọi hoạt động của nhân dân,
kháng chiến dù cho họ đã chủ động tìm đến. Chi tiết ấy đủ để thấy Hoàng đã xa rời nhân
dân đến mức như thế nào. Nam Cao cũng lại để Hoàng bình luận với Độ về Hồ Chủ Tòch.
Chi tiết này không chỉ có ý nghóa đề cao hình ảnh Bác Hồ bởi người xa lánh kháng chiến
như Hoàng cũng không phủ nhận sự vó đại của Bác. Và phải có chi tiết này để chứng tỏ
Hoàng cũng không phản động, và về cơ bản Hoàng vẫn đứng về phía đất nước, dân tộc
mình, về phía kháng chiến, vẫn gọi đất nước là “ mình “ và kêu bọn thực dân là “ nó “.Nhưng
điều ấy không có nghóa là Nam Cao đã đi lạc chủ đề. Tác giả đã không quên để chúng ta
thấy trong khi Hoàng ca ngợi Hồ Chủ Tòch một cách thành tâm nhất, anh cũng vẫn đối lập
Bác với nhân dân. Sự ca ngợi Bác Hồ cũng là một cách để anh bày tỏ sự khinh mạn đối với
nhân dân. “ Hồ Chí Minh đáng lẽ phải cứu vãn một đất nước như thế nào kia, mới xứng tài.
Phải cứu một nước như nước mình kể cũng khổ cho ông cụ lắm. “ Song cách nhìn sai lệch
của Hoàng đối với nhân dân lại được soi chiếu từ một góc độ mới mẻ khác. Nhà văn đã lật
đi lật lại góc nhìn của Hoàng : đối với những người chính diện và cả những người không
phải chính diện.
Nhưng không phải tình cờ mà Nam Cao kết thúc truyện ngắn Đôi Mắt bằng một chi tiết kể
về một lần đọc Tam Quốc của vợ chồng Hoàng. Bởi Hoàng đã bộc lộ mình rất thật, khác
hẳn với những đoạn trên. Không lúc nào trong ngày hôm đó mà Hoàng lại mãn nguyện,
thoả thích như thế. Anh “ vỗ đùi “, rồi chửi yêu “ ********* anh Tào Tháo”. Nhưng chính thế
Hoàng mới đáng cười và cả đáng thương. Hoàng không thể tìm thấy sự yêu thương trong
thế giới quanh mình. Và phải có câu nói cuối cùng thì chúng ta mới thấy Hoàng lạc lõng
đến thế nào. Đôi mắt của chính Hoàng đã đưa anh đến một tình cảnh bơ vơ như thế nào
trong cuộc sống này. Con người ấy đã không chỉ không hoà nhập được với nhân dân, với
kháng chiến mà cả với cuộc đời.

Nếu Hoàng là một phản đề thì người đóng vai trò chính đề trong truyện ngắn của Nam Cao
sẽ không thể là ai khác hơn ngoài Độ. Nam Cao đã gửi gắm vào nhân vật văn só này quan
niệm về một đôi mắt, về một cách nhìn mà theo ông, những con người lúc bấy giờ cần phải
có. Nhưng một lần nữa, Nam Cao cũng không muốn giải quyết luận đề của mình một cách
giản đơn. Nhà văn đã làm một điều mà không phải tác giả nào cũng đủ bản lónh và táo bạo
để dám làm và có thể làm. Bởi Độ- chính đề ấy trong tác phẩm lại là một con người khiêm
nhường đến rụt rè, người mà hình như chỉ lẳng lặng lắng nghe Hoàng và nghó ngợi. Thỉnh
thoảng lắm anh mới đưa ra một vài lời phản đối nhẹ nhàng. Nhà văn đã cố ý không dành
cho Độ vai trò một người lấn át, một người hăng hái đấu tranh. Độ cũng không làm cho
Hoàng nhận ra sai lầm lệch lạc của mình. Có vẻ như trong sự đối chọi của hai quan niệm
về con người và cuộc sống, văn só Độ có phần lép vế. Nhưng cái rất giỏi của Nam Cao là
trong một cục diện như thế, nhà văn vẫn có thể cho ta nhận thấy không phải Hoàng- con
người tỏ ra rất tự tin kia, mà lại là Độ- người văn só hiền lành ấy, mới là người có cách nhìn
đúng đắn, người có đôi mắt đáng được noi theo. Độ là người có thể nhìn thấy những điều
mà Hoàng đã thấy, những nhận xét Hoàng đã nói ra bằng giọng tự tin, tự mãn về sự tinh
tường, sắc sảo của mình thì Độ cũng có thể nói ra một cách khiêm nhường nhưng cũng sâu
xa và lý thú không hề kém. Độ cũng hiểu rằng những người dân trước Cách Mạng và kể cả
lúc đã tham gia kháng chiến thì vẫn còn không ít những hạn chế. Những người trước kia
nhút nhát, nhòn nhục nhưng khi đã vào kháng chiến rồi vẫn không mất đi hình hài răng đen,
mắt toét, vẫn không thể phát âm cho đúng từ “ lựu đạn “ mà nhất đònh đọc thành “ nựu đạn
“ và không hát cho đúng “ Tiến Quân Ca “ mà hát như “một người buồn ngủ cầu kinh”.Thế
nhưng dù rất ít nói, dù chỉ bộc lộ ra trước người đàn anh trong văn giới là Hoàng một thái độ
nhũn nhặn, trân trọng, rụt rè thì Nam Cao vẫn cho chúng ta thấy người hiền lành ấy vẫn
nhận ra những điều mà Hoàng không thể nhận ra. Hoàng chỉ thấy những người dân quê
đáng chê cười nhưng Độ còn thấy giấu đằng sau đó là những phẩm chất anh hùng. Họ
xung trận một cách dũng cảm. Cái mà Hoàng cho là tất cả nhân dân thì Độ chỉ thấy một
phần, mà phần ấy không thuộc về bản chất. Hoàng chỉ thấy anh thanh niên đọc thuộc lòng
bài “ ba giai đoạn “ là một con vẹt nhưng Độ lại thấy bó tre trên vai anh ta để đi đánh quân
thù. Hoàng chỉ thấy khó chòu về những kẻ hay rình mò, nấp nom nhưng Độ lại thấy được
tinh thần trách nhiệm của họ. Hoàng chỉ nhìn cuộc đời một phía với cái nhìn phiến diện. Độ

mới có cái nhìn toàn diện. Hoàng cho mình là sắc sảo nhưng chỉ có thể với một phía của sự
thật. Chỉ có Độ mới có cách nhìn thật sự nhân hậu và công bằng. Đôi mắt của Hoàng có vẻ
như mù loà trước sự đổi thay nhưng Độ lại là người cảm nhận được sự đổi thay của thời đại
với một sự tinh tường mà Hoàng không thể có. Và do đó, Độ có một cái nhìn có sức thuyết
phục hơn hẳn đôi mắt lệch lạc của Hoàng- điều mà ai đọc Đôi Mắt cũng không thể không
nhận thấy.
Nam Cao còn cho thấy cách nhìn của Hoàng đã trở nên lạc lõng, vô tích sự. Ngay cả trong
đòa hạt sở trường của anh, Hoàng cũng không viết gì nhưng chỉ mơ ước hão huyền.Trong
khi đó, cách nhìn của Độ đã làm cho anh thành một người có ích, một người dấn thân cho
kháng chiến, tìm thấy vò trí và ý nghóa sống cho mình. Không phải vì Độ có tài văn chương
hơn so với Hoàng. Độ cũng luôn coi Hoàng là bậc đàn anh trong văn giới. Vậy nguyên nhân
phải tìm là ở chỗ đứng và tấm lòng của Độ đối với con ngøi và cuộc sống. Và sự hiểu biết
lại do Độ gần gũi với người dân hơn, cảm thông và chia sẻ nhiều hơn. Đó chính là lý do vì
sao Hoàng nhất quyết đóng cửa với nhân dân, kháng chiến, trong khi Độ sẵn sàng đắp
chung chăn với anh em thợ thuyền. Hoàng chỉ có thể ngủ trong chăn ấm “ thoang thoảng
nước hoa” nhưng Độ sẵn sàng ngủ trong tiếng máy chạy ầm ầm. Xét cho cùng, vấn đề đôi
mắt của hai nhân vật chỉ là vấn đề lập trường đối với nhân dân và kháng chiến.
Mặt khác, trong khi Hoàng khư khư giữ một cách nhìn cũ với cuộc đời mới thì Độ luôn luôn ý
thức được sự đổi thay, góp phần làm nên sự đổi thay.Vì thế mà Độ có được cái mà Hoàng
tuyệt đối không có : sự ý thức về sự đổi mới mà Cách Mạng và kháng chiến có thể đem lại
cho nhân dân và cho chính bản thân mình.
Có thể thấy Độ cũng là một sự phân thân một phần của Nam Cao nhưng lại là phần đúng
đắn là ít phức tạp hơn cả, phần mà nhà văn muốn giữ gìn hơn cả. Vì thế trong “Đôi mắt “,Độ
chứ không phải Hoàng mới là hình tượng được nhà văn đặt vào vò trí nhân vật xưng “ tôi” ,
tương đương như một người đại diện. Nhưng Độ không chỉ là Nam Cao mà còn là hiện thân
của những văn nghệ só đã tích cực tham gia kháng chiến. Độ không chỉ là bản sao của một
nhân vật có thật mà còn như một lý tưởng, một mẫu mực mà cả Nam Cao và con người thời
đó vẫn phải noi theo.
*Ý nghóa, giá trò của tác phẩm “Đôi mắt “:
Để hiểu được giá trò của truyện ngắn này, ta không thể không đặt lại tác phẩm vào thời

điểm mà nó được sáng tạo nên. Đó là lúc mà lớp văn nghệ só như Nam Cao đã đi vào cuộc
Cách Mạng và kháng chiến như đi trên một con đường mới mẻ, như trong một quá trình còn
đang phải “ nhận đường” với một bước chân còn nhiều chuệnh choạng, đầu óc còn day
dứt ,hoang mang. Những người như Hoàng vào thời điểm ấy vẫn còn không quá ít và nhiều
người vẫn còn đi vào kháng chiến với ý nghó là mình phải từ bỏ và hy sinh nghệ thuật.
Trong bối cảnh ấy, Đôi Mắt là một câu trả lời kiên quyết và dứt khoát, xứng đáng là tuyên
ngôn của những người cầm bút quyết tâm đem ngòi bút phục vụ cho kháng chiến. Nam
Cao đã sớm nêu lên hình ảnh người văn nghệ só của nhân dân, hình ảnh về một nền văn
nghệ của nhân dân từ trước khi những khẩu hiệu tuyên truyền được đặt ra như :
Cách mạng hoá tư tưởng
Quần chúng hoá sinh hoạt
Nhưng nhà văn vẫn không chòu nhìn vấn đề một cách giản đơn. Nam Cao không dễ dãi cho
rằng để trở thành một người làm văn nghệ kháng chiến, để viết nên những tác phẩm mang
tính chất nhân dân thì người nghệ só chỉ cần xách ba lô đến với quần chúng hay đi thực tế.
Nam Cao phát hiện ra rằng còn có một vấn đề quan trọng không kém là phải xác đònh một
cách nhìn và cách sống. Bởi Nam Cao đã thấy rằng nếu không có một cách nhìn đúng đắn,
nếu chỉ nhìn cuộc đời từ một phía thì càng đi sâu vào quần chúng càng chỉ cảm thấy chua
cay.. Đó chính là vai trò quyết đònh của thế giới quan đối với sáng tác.
Nhưng vấn đề “Đôi mắt “ không chỉ là vấn đề của thời điểm ấy, không chỉ có giá trò nhất
thời, bởi mối quan hệ mật thiết giữa nghệ thuật và nhân dân là chân lý của mọi thời. Vì thế,
“Đôi mắt “đến nay vẫn không hề cũ.
Mặt khác, vấn đề đôi mắt của Nam Cao không chỉ quan hệ trong phạm vi những người làm
nghệ thuật. Có một đôi mắt đúng đắn đối với cuộc đời là điều cần thiết cho tất cả mọi
người. Đôi mắt là tuyên ngôn nghệ thuật nhưng không chỉ là tuyên ngôn nghệ thuật. Thông
điệp đó nhằm gửi tới những người nghệ só và không chỉ là những người nghệ só. Chính giá
trò ấy mới làm cho chúng ta suy nghó...

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×