Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

VĂN HỌC ÔN TẬP LỚP 12

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (252.28 KB, 27 trang )

ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP NGỮ VĂN 12 – KỲ 1
NĂM HỌC 2015 - 2016
PHẦN 1: ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN:
Để làm tốt dạng đề này, chúng ta phải nắm vững một số kiến thức trọng tâm sau:
1. Các phong cách ngôn ngữ chức năng.
2. Phương thức biểu đạt.
3. Biện pháp tu từ tiếng Việt.
4. Nắm nội dung và nghệ thuật các văn bản được học trong SGK Ngữ văn 12 – tập 1 –
cơ bản.
• Ví dụ 1:
Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi ở dưới:
“Chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào.
Chúng thi hành những luật pháp dã man. Chúng lập ba chế độ khác nhau ở Trung,
Nam, Bắc để ngăn cản việc thống nhất nước nhà của ta.
Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những người
yêu nước thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu.
Chúng ràng buộc dư luận, thi hành chính sách ngu dân.
Chúng dùng thuốc phiện, rượu cồn để làm cho nòi giống ta suy nhược.”
(“Tuyên ngôn độc lập” – Hồ Chí Minh)
a. Văn bản trên thuộc phong cách ngôn ngữ gì?
b. Biện pháp tu từ nào được sử dụng nhiều nhất trong văn bản trên? Nêu tác dụng của
biện pháp tu từ đó?
c. Hãy chỉ ra sự đồng bộ của việc sử dụng biện pháp tu từ trong câu: Chúng tắm các
cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu
d. Anh/ chị có suy nghĩ gì về sự việc trên.
• Ví dụ 2: Đọc đoạn thơ sau và trả lời câu hỏi ở dưới:
Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc
Khi lòng ta đã hóa những con tàu
Khi tổ quốc bốn bề lên tiếng hát
Tâm hồn ta là Tây Bắc, chứ còn đâu.
(“Tiếng hát con tàu” – Chế Lan Viên)


a. Nội dung của đoạn thơ trên?
b. Chỉ ra các biên pháp tu từ và nêu tác dụng của biện pháp tu từ đó.
c. Anh/chị có suy nghĩ gì về lí tưởng của nhân vật trữ tình trong đoạn thơ trên.
PHẦN 2: NGHỊ LUẬN XÃ HỘI
1. Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí:
I. Dàn ý bài nghị luận về một tư tưởng, đạo lí
1. Mở bài:
- Giới thiệu
- Nêu tư tưởng, đạo lí cần nghị luận
2. Thân bài
- Luận điểm 1: Giải thích rõ nội dung tư tưởng đạo lí (Bằng cách giải thích các từ ngữ,
các khái niệm..)


- Luận điểm 2: Phân tích các mặt đúng của tư tưởng đạo lí (Dùng dẫn chứng từ cuộc
sống và văn học để chứng minh)
- Luận điểm 3: Bác bỏ những biểu hiện sai lệch có liên quan đến tư tưởng đạo lí (Dùng
dẫn chứng từ cuộc sống và văn học để chứng minh)
- Luận điểm 4: Đánh giá ý nghĩa tư tưởng đạo lí đã nghị luận.
3. Kết bài:
- Khái quát lại vẫn đề cần nghị luận.
- Nêu ý nghĩa và rút ra bài học nhận thức từ tư tưởng đạo lí đã nghị luận
II. Đề bài tham khảo
Đề:
Nhà văn Nga Lép Tôn-xtôi nói: “Lý tưởng là ngọn đèn chỉ đường. Không có lý
tưởng thì không có phương hướng kiên định, mà không có phương hướng thì không có
cuộc sống”.
Anh (chị) hãy nêu suy nghĩ về vai trò của lý tưởng và lý tưởng riêng của mình.
2. Nghị luận về một hiện tượng đời sống:
I. Dàn ý bài nghị luận về một hiện tượng đời sống

1. Mở bài: Giới thiệu hiện tượng đời sống cần nghị luận
2. Thân bài
- Luận điểm 1: Nêu rõ hiện tượng đời sống cần nghị luận.
- Luận điểm 2: Phân tích các mặt đúng - sai, lợi - hại của hiện tượng đời sống đang
nghị luận (Dùng dẫn chứng từ cuộc sống để chứng minh)
- Luận điểm 3: Chỉ ra nguyên nhân dẫn đến hiện tượng đời sống trên ( Dùng dẫn
chứng từ cuộc sống để chứng minh)
- Luận điểm 4: Đánh giá hiện tượng đời sống đang nghị luận
3. Kết bài: - Khái quát lại vấn đề đang nghị luận.
- Bày tỏ thái độ của bản thân về hiện tượng đời sống đang nghị luận
II. Đề tham khảo
ĐỀ: Hãy viết một bài văn ngắn (khoảng 400 từ) nêu suy nghĩ của anh (chị) về
“bệnh vô cảm” trong một bộ phận thanh niên, học sinh hiện nay.
DÀN Ý THEO CẤU TRÚC.
1/ MB:
- Giới thiệu vấn đề liên quan:đất nước ngày càng phát triển, xã hội đang quan tâm nhiều
vấn đề như ATGT, ô nhiễm MT, bạo hành trẻ em…
- Nêu vấn đề: trong xã hội có hiện tượng thờ ơ, vô trách nhiệm trước mọi vịêc, đó là
“bệnh vô cảm”của một số thah niên, HS.
2/ TB:
a/ Thực trạng:
- “ Bệnh vô cảm” được hiểu là thái độ, hành động, cách cư xử thiếu thiện chí của con
người. Họ chỉ chăm lo cho lợi ích của bản thân, thờ ơ ,bỏ qua tất cả những gì xung
quanh, không biết đồng cảm, chia sẻ, giúp đỡ những người khác.
- Một số biểu hiện:
+ Đòi hỏi ba mẹ cung phụng tiền bạc cho việc chi tiêu của mình vô điều kiện mà không
quan tâm đến hòan cảnh gia đình, tình hình kinh tế.
+ Không biết đòan kết, giúp đỡ bạn bè khi khó khăn, sống theo khẩu hiệu “makeno”mặc kệ nó.
+ Ở lớp, không quan tâm đến việc chung, không đóng góp công sức cho tập thể.



+ Ăn chơi chỉ để thỏa mãn ham muốn cá nhân của mình.
+ Coi việc làm tốt của người khác là “việc bao đồng”, “ăn cơm nhà vác tù và hàng
tổng”.
b/ Những nguyên nhân của “bệnh vô cảm”.
- Cá nhân những TH, HS đó vốn ích kỉ, không có một quan niệm sống lành mạnh, hài
hòa.
- Việc giáo dục của gia đình có thể chưa tốt: nếu từ nhỏ, bố mẹ đã biết chỉ dẫn con làm
những việc tốt, gieo vào lòng con trẻ tình nhân ái thì hẳn sẽ không có hiện tượng này.
- Ở nhà trường việc nhắc nhở, tạo điều kiện cho HS làm việc tốt, biết được ý nghĩa của
việc làm tốt cũng chưa được quan tâm nhiều.
- Trong xã hội vẫn còn nhiều kẻ vô cảm mà chưa bị lên án, trừng phạt, nên TH,HS thấy
hành vi của mình cũng “ bình thường thôi.”
c/ Hậu quả của bệnh vô cảm.
- Bệnh vô cảm khiến người ta hành động như cái máy, biến trái tim con người (vốn
sinh ra để biết đồng cảm, sẻ chia) trở nên chai lì, trơ cứng.
- Bệnh này tàn phá tâm hồn con người, khiến người ta đánh mất ý nghĩa của cuộc sống.
- Về lâu dài, đối với TN, HS nó còn có thể gây chết người, làm xã hội chậm phát triển.
Vì nếu những TN, HS đó sau này mà làm bác sĩ, giáo viên, công chức thì sự vô cảm
của họ có thể làm bệnh nhân tử vong, nhân dân phiền tóai…
d/ Biện pháp khắc phục “bệnh vô cảm”.
- Mỗi cá nhân TN, HS hãy thay đổi suy nghĩ, hành động, vì khi lòng ta đóng khép thì
hạnh phúc của ta, nếu có, cũng trở nên nhỏ bé, vô nghĩa.
- Nhà trường, gia đình cần tổ chức, đưa nhiều thông tin về những hành động nhân ái, “
lá lành đùm lá rách” cho HS biết, làm theo.
- Xã hội cần lên án , trừng trị những hành động của các cá nhân, tổ chức thiếu tinh thần
trách nhiệm, vô cảm đối với đồng lọai, gây thiệt hại cho XH.
3/ KB:
- Đánh giá chung về hiện tượng: đây là căn bệnh tai hại, cần loại bỏ.
- Nêu mong muốn suy nghĩ của bản thân về căn bệnh này.

Đề: Suy nghĩ của em về hiện tượng hàng năm vào tháng 9, cả nước hưởng
ứng tháng cao điểm về an toàn giao thông.
DÀN Ý THEO CẤU TRÚC.
1/ MB:
Giới thiệu vấn đề liên quan: xã hội, nhà nước quan tâm như tình trạng thiên tai, lũ lụt,
việc y tế, giáo dục…
Nêu vấn đề: giao thông cũng là một vấn đề lớn ở nước ta, nên hàng năm vào tháng 9, cả
nước hưởng ứng tháng an tòan giao thông.
2/ TB:
a/ Thực trạng:
- Tháng cao điểm về ATGT là tháng tăng cường bảo đảm ATGT cho mọi người, mọi
phương tiện GT.
- Vào tháng 9, các cơ quan công an, CSGT tiến hành ra quân thực hiện tháng ATGT
bằng việc tăng cường tuần tra, kiểm sóat trên các con đường.
- Nhiều băng rôn biểu ngữ tuyên truyền cũng được treo ở nhiều nơi: đường phố, nơi
công cộng…
- Các trường học cũng mời cán bộ công an đến tuyên truyền luật GT cho HS.


- Các cơ quan, đài báo cũng tuyên truyền vận động nhân dân về tháng ATGT.
b/ Phân tích ý nghĩa, tác dụng:
- Việc làm này mang lại cho các tầng lớp nhân dân những hiểu biết về luật GT, nâng
cao ý thức chấp hành luật lệ GT cho mọi người.
- Tháng ATGT góp phần giảm thiểu thiệt hại do TNGT vốn đang diễn ra nghiêm trọng
ở nước ta.( ở VN, mỗi ngày khỏang 30 người chết vì TNGT).
- Tháng cao điểm về ATGT cũng tạo hiệu ứng tốt cho xã hội trong việc thực hiện tốt
luật GT, vì tháng 9 cũng là dịp hàng triệu HS bước vào năm học mới _ tham gia GT.
- Dịp này, nhiều đơn vị, công ty cũng có dịp thể hiện trách nhiệm xã hội của mình bằng
những chương trình từ thiện như: tài trợ mũ bảo hiểm cho HS, nhắn tin nhận quà khi
tham gia hỏi đáp luật GT…

c/ Phê phán những biểu hiện trái ngược:
- Dù là tháng cao điểm về ATGT, nhưng nhiều người vẫn vi phạm luật GT, gây hậu quả
nghiêm trọng…
- Nhiều nơi còn hưởng ứng theo kiểu phong trào, hình thức mà ít thực chất, sau đó “đâu
lại vào đấy.”
- Một số cán bộ, CSGT còn làm việc chưa nghiêm túc, thậm chí nhũng nhiễu, tiêu cực.
d/ Đề xuất phương hướng:
- Cần duy trì tháng cao điểm về ATGT trong tháng 9 vì nó mang lại nhiều lợi ích thiết
thực.
- Phải có cơ chế giám sát để tránh “bệnh hình thức”, “bệnh thành tích” trong dịp này.
- Mỗi người dân hãy là một đại sứ thiện chí, một tấm gương tốt cho chương trình này,
để giảm thiểu TNGT ở nước ta.
3/ Kết bài:
- Đánh giá chung về hiện tượng: tốt, ý nghĩa, cần phát huy.
- Nêu mong muốn của bản thân về tình hình GT của đất nước.
Đề: Anh (chị), hãy trình bày quan điểm của mình trước cuộc vận động “Nói không với
những tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục”.
Đề: Bày tỏ ý kiến của em về chương trình “tiếp sức mùa thi” vào dịp thi cao đẳng đại học
hàng năm.
Đề: Trình bày suy nghĩ về tình trạng bạo lực học đường.
Đề: Hãy viết một bài văn ngắn ( khoảng 400 từ) nêu suy nghĩ của anh (chị) về hiện tượng
hút thuốc lá trong học sinh hiện nay.
Đề: Hãy viết một bài văn ngắn ( khoảng 400 từ) nêu suy nghĩ của anh (chị) về hiện tượng
vi phạm giao thông của một số học sinh hiện nay.
PHẦN III. NGHỊ LUẬN VĂN HỌC:
1. CÁC BƯỚC LÀM BÀI
Bước 1: TÌM HIỂU ĐỀ
- Xác định đúng nội dung và nghệ thuật đoạn thơ cần nghị luận ( đoạn thơ viết về
cái gì? Nội dung ấy được thể hiện bằng những ý nào và được biểu đạt bằng những phương
tiện nghệ thuật nào ?) .

- Xác định thao tác nghị luận cần vận dụng ( phân tích, bình giảng)
- Xác định cần liên hệ với các bài thơ, đoạn thơ nào khác để đối chiếu, s/s bình ý.
Bước 2: LẬP DÀN Ý
1/ Mở bài:


- Giới thiệu xuất xứ của đoạn thơ cần nghị luận.( đoạn thơ trích trong bài thơ nào
của ai? Sáng tác trong thời điểm , hoàn cảnh nào?)
- Nêu khái quát nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ.
- Ghi lại đoạn thơ ( nếu dưới 10 dòng) .
2/ Thân bài:
2.1/ Nêu khái quát nội dung bài thơ và đoạn thơ.( Nếu đoạn thơ thì vẫn g/thiệu bài
thơ)
2.2/ Lần lượt phân tích, bình luận từng ý thơ (Căn cứ vào kết quả tìm ý ở từng câu,
từng khổ, liên hệ so sánh với 1số bài thơ khác có cùng đề tài để làm rõ hơn bài thơ đang
ph/tích )
* Lưu ý : Trong quá trình nghị luận, cần tránh diễn xuôi ý thơ , mà phải chú ý chọn
lọc và bám sát các phương tiện nghệ thuật ( từ ngữ, hình ảnh, âm điệu, giọng điệu, các
biện pháp tu từ về từ, tu từ về câu...để phân tích, bình giảng ...qua đó làm rõ ý thơ của
đoạn thơ , bài thơ)..
2.3/ Đánh giá khái quát nghệ thuật của đoạn thơ.
3/ Kết bài:
- Tóm lược nội dung đã nghị luận,
- Đánh giá những giá trị nổi bật về nội dung, tư tưởng và nghệ thuật của đoạn thơ...
* Ví dụ 1:
Phân tích, bình luận vẻ đẹp của người lính Tây Tiến qua hai câu thơ:
“...Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
1/ Mở:bài
- Đề tài về người lính là 1 trong những đề tài nổi bật của thơ ca kh/chiến. Ở đề tài này,

hình ảnh người lính đã kết tinh ở một số bài thơ làm xúc động lòng người.Một trong
những thi phẩm ấy là bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng (1948) , khi chia tay với đơn vị
cũ của mình là đoàn quân Tây Tiến.
- Đoạn thơ sau đây là một trong những đoạn tiêu biểu của bài thơ (chép lại hai câu thơ)
đã thể hiện vẻ đẹp can trường và tâm hồn hào hoa, lãng mạn của người chiến sĩ Tây
Tiến.
2 Thân bài :
- Hai câu thơ chỉ có 14 chữ, viết theo thể thơ thất ngôn, nhưng đã khắc họa sinh
động hai vẻ đẹp của người lính Tây Tiến :
a/: Vẻ đẹp của khí phách can trường và hào hùng
+ “ Mắt trừng ..biên giới” : Cách dùng từ ngữ tượng hình à Cái nhìn bao quát
hướng về tiền tuyến, luôn cảnh giác, ẩn chứa sức mạnh thiêu cháy quân thù, khao khát lập
công mãnh liệt; cái nhìn của một tráng sỹ.
b/ Vẻ đẹp của tâm hồn hào hoa, lãng mạn :
+ “ Mơ Hà Nội dáng kiều thơm” : Từ ngữ vừa gợi hình, biểu cảm...gợi cảm xúc về
một tâm hồn, tình yêu về quê hương xử sở, nơi ấy cố đô, mảnh đất văn hiến; in đậm kỷ
niệm, có những người thiếu nữ đẹp, duyên dáng à Một giấc mơ lãng mạn, bay bổng, đa
tình, hào hoa, rất đẹp.
( Liên hệ so sánh 1 số bài thơ khác cùng đề tài Viết về nỗi nhớ của người lính
+ So với bài “ Đồngchí” của Chính Hữu có nét khác nhau, vì đó là nỗi nhớ của người
lính xuất thân từ nông thôn.


+ So với bài “Đất nước” của Nguyễn Đình Thi nó có nét tương đồng ( “bỗng bồn chồn
nhớ mắt người yêu”) bởi trí thức Hà Nội. )
= > Hai câu thơ ngắn gọn, nhưng đẹp bởi sự cách sử dụng ngôn từ giàu sức tạo
hình, biểu cảm; âm hưởng thơ vừa rắn rỏi, vửa mềm mại vừa thể hiện được cái tráng
khí mạnh mẽ, quyết liệt của người lính, vừa thể hiện vẻ hào hoa, lãng mạng của
những trí thức Hà Thành..
3/ Kết bài :

- Tóm lại ,(Cám ơn) Quang Dũng đã cho ta một cái nhìn chân thực về người lính Tây
Tiến, về anh bộ đội Cụ Hồ một thời gian khổ mà hào hùng của dân tộc.
- Có được điều đó bởi nhà thơ đã vẽ lên bức chân dung của người lính với hai mặt tưởng
như đối lập mà lại thống nhất, hài hòa. Bức chân dung ấy của người lính kết tinh làm nên
bức tượng đài về người lính “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” trong những năm đầu
cuộc kháng chiến chống Pháp đau thương nhưng hào hùng của dân tộc.
* Ví dụ 2: Phân tích vẻ đẹp hào hoa, hào hung của người lính Tây Tiến (Tây Tiến _
Quuang Dũng). Qua đó hãy liên hệ lý tưởng sống của thanh niên ngày nay.
2. NỘI DUNG ÔN TẬP CỤ THỂ
Ôn tập các văn bản đã học ( Tây Tiến, Việt Bắc, Đất Nước, Sóng, Đàn ghita của
Lorca, Người lái đò sông Đà; Ai đã đặ tên cho dòng sông) về:
- Một số nét về tác giả và tác phẩm
- Hoàn cảnh ra đời;
- Ý nghĩa nhan đề/đề từ,
- Nội dung và nghệ thuật;
- Ý chính từng đoạn thơ).
2.1. Bài thơ “Tây Tiến” – Quang Dũng
Vấn đề 1: Phân tích đoạn thơ sau trong bài “Tây Tiến”(Quang Dũng)
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi…
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
a. Mở bài
- Giới thiệu vài nét về tác giả, tác phẩm
- Nêu vị trí và chủ đề của đoạn thơ “…”
b. Thân bài
Nhớ cuộc hành quân gian khổ của đoàn quân Tây Tiến và khung cảnh thiên
nhiên miền Tây hùng vĩ, hoang sơ, dữ dội.
*Đoạn mở đầu khái quát nỗi nhớ Tây Tiến:
“ Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi”
- Từ láy “chơi vơi”, hiệp vần “ơi” mở ra một không gian vời vợi của nối nhớ đồng

thời diễn tả tinh tế một cảm xúc mơ hồ, khó định hình nhưng rất thực.
Điệp từ “nhớ” tô đậm cảm xúc toàn bài, không phải ngẫu nhiên mà nhan đề ban đầu
của bài thơ tác giả đặt là Nhớ Tây Tiến. Nỗi nhớ trở đi trở lại trong toàn bài thơ tạo nên
giọng thơ hoài niệm sâu lắng, bồi hồi. Nỗi nhớ tha thiết, niềm thương da diết mà nhà thơ
dành cho miền Tây, cho đồng đội cũ của mình khi xa cách chan chứa biết bao.
* Nỗi nhớ về thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, dữ dội nhưng cũng thật êm đềm thơ
mộng.
- Nhớ những địa danh mà đoàn quân Tây Tiến đã đi qua, Sài Khao, Mường Lát, Pha
Luông, Mường Hịch, Mai Châu những địa danh khi đi vào thơ Quang Dũng nó không còn


mang màu sắc trung tính, vô hồn trên bản đồ nữa mà gợi lên không khí núi rừng xa xôi, lạ
lẫm, hoang sơ và bí ẩn.
- Nhớ con đường hành quân gập ghềnh, hiểm trở, đầy sự hiểm nguy giữa một bên là
núi cao với một bên là vực sâu thăm thẳm: Dốc khúc khuỷu, dốc thăm thẳm, Heo hút,
sương lấp. Không gian được mở ra ở nhiều chiều: chiều cao đến chiều sâu hút của những
dốc núi, chiều sâu của vực thẳm, bề rộng của những thung lũng trải ra sau màn sương. Các
từ láy giàu sức tạo hình khiến người đọc hình dung những con đường quanh co, dốc rồi lại
dốc, những đỉnh đèo hoang vắng khuất vào mây trời; Cách ngắt nhịp 4/3 của câu thơ thứ ba
tạo thành một đường gấp khúc của dáng núi; ba dòng thơ liên tiếp sử dụng nhiều thanh trắc
gợi sự vất vả nhọc nhằn.
- Nhớ những những ngôi nhà như trôi bồng bềnh trong không gian sương rừng mưa
núi, mưa giăng đầy biến thung lũng thành “xa khơi”.
- Nhớ âm thanh “gầm thét” của thác dữ, tiếng gầm gào của loài hổ dữ rình rập vồ
người mỗi khi chiều đến, đêm về. Thời gian buổi chiều, về đêm lại càng nhấn mạnh thêm
cảm giác hoang sơ của chốn “sơn lâm bóng cả cây già”. Những từ ngữ và hình ảnh nhân
hóa được nhà thơ sử dụng để tô đậm ấn tượng về một vùng núi hoang vu dữ dội.
-> Bức tranh của núi rừng miền Tây giàu được vẽ bằng bút pháp vừa hiện thực, vừa
lãng mạn, vừa giàu chất họa lại giàu chất nhạc. Nét vẽ vừa gân guốc, mạnh mẽ, dữ dội
nhưng lại cũng rất mềm mại tạo nên vẻ đẹp hài hòa cho bức tranh thiên nhiên vừa dữ dội

hung vĩ, vừa lãng mạn thơ mộng.
* Nỗi nhớ về đồng đội và những kỉ niệm trên đường hành quân:
- Nhớ cảm nhận lãng mạn về con đường hành quân trong đêm như đi trong hương
hoa và ánh sáng “hoa về trong đêm hơi”, nhớ cái tếu táo, lạc quan trong gian khổ với vẻ
đẹp hồn nhiên qua cách nói hóm hỉnh “súng ngửi trời”. Quang Dũng đã gợi được “chất
lính” trẻ trung, vẻ tươi mới, sức sống dạt dào trong tâm hồn của người lính Tây Tiến vốn
xuất thân từ những thanh niên trí thức trẻ Hà Nội.
- Nhớ những người đồng đội đã ngã xuống nhưng không bi luỵ. Nỗi mất mát, niềm
cảm thương được nói bằng giọng thơ ngang tàng, kiêu hãnh “gục bên súng mũ bỏ quên
đời”.
- Nhớ tình cảm quân dân giữa những người lính Tây Tiến và đồng bào Tây Bắc
“Nhớ ôi… thơm nếp xôi”. Họ dừng chân nơi xóm núi sau chặng đường dài vất vả, họ quây
quần trong niềm vui ấm áp, niềm hạnh phúc bên những nồi cơm còn thơm làn gạo mới.
Nhớ ôi!- nỗi nhớ da diết, đằm thắm, sự gắn kết tình nghĩa thủy chung, giữa những con
người miền Tây Bắc của tổ quốc với bộ đội kháng chiến.
* Nghệ thuật
+ Cảm hứng lãng mạn, bi tráng
+ Sử dụng ngôn từ đặc sắc: từ địa danh, từ tượng hình
+ Kết hợp chất nhạc và họa, phối âm, phối thanh, tạo hình đặc sắc.
* Đánh giá chung: Đoạn thơ chỉ là khúc dạo đầu của một bản nhạc về nỗi nhớ, song
cũng đã kịp ghi lại những vẻ đẹp rất riêng của thiên nhiên núi rừng Tây Bắc. Trên nền của
bức tranh thiên nhiên dữ dội mà thơ mộng ấy, những người lính Tây Tiến hiện lên can
trường dũng cảm nhưng cũng lãng mạn hào hoa. Sự gắn bó của nhà thơ với thiên nhiên và
con người nơi ấy là biểu hiện của tấm lòng gắn bó với quê hương, đất nước. Đồng thời là
tấm lòng trĩu nặng yêu thương của Quang Dũng với những người đồng đội, đồng chí của
mình.
c. Kết bài


1/ Nêu ND: Bao trùm bài thơ là nỗi nhớ, đoan thơ này là nỗi nhớ về h/ảnh đoàn quân

T/Tiến.
2/ Phân tích bình luận từng ý về ND và Ng/thuật
Ý 1: Vẻ đẹp của nét ngoại hình đầy ấn tượng
- Ngoại hình có nét khác thường: (không mọc tóc, dữ oai hùm).
+ “không mọc tóc”: Vì họ bị sốt rét làm rụng tóc, hoặc họ cạo trọc tóc để dễ đánh
giáp lá cà. Nhưng đó là cái lạ hoá, gân guốc bắt nguồn từ hiện thực đến từng chi tiết. «
Không mọc tóc » là hậu quả của trận sốt rét rừng. Rồi trải qua nơi rừng thiêng nước độc,
gian khổ thiếu thốn, thuốc men không có..
+ “ Quân xanh màu lá” :Tình trạng sức khỏe tồi tệ của họ.
Liên hệ: Nhiều bài thơ chống Pháp từng nói tới hiện thực này.
Giọt giọt mồ hôi rơi
Trên má anh vàng nghệ.
(Tố Hữu)
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt rung người vầng trán ướt mồ hôi”
(Chính Hữu)
- Toát lên vẻ đẹp oai phong dữ dội: “dữ oai hùm”. Thiên nhiên và hòan cảnh khắc nghiệt,
gian khổ chỉ có thể mài sắc ý chí chiến đấu, chứ không thể bẻ gãy hoặc làm nhụt chí họ.
Họ là những chiến binh dũng cảm, đáng gờm đối với kẻ thù.
Ý 2: Vẻ đẹp của tâm hồn hào hoa, lãng mạn.
- Trong gian khổ vẫn mộng mơ, mộng giết giặc, lập chiến công
- Mơ về quê hương với hình bóng những giai nhân tài sắc
Ý 3: Vẻ đẹp bi tráng của phẩm chất chiến đấu hy sinh quên mình vì Tổ quốc
- Câu « Rải rác biên cương mồ viễn xứ » gồm nhiều từ Hán Việt đã tạo nên âm hưởng
trang nghiêm, thiêng liêng khi nói về sự hi sinh. Họ là những người đã « quyết tử cho Tổ
quốc quyết sinh » trên chiến trường Tây Bắc. Và cho dù rất yêu cuộc sống, nhưng khi cần,
họ cũng biết chết cho Tổ quốc.
- Câu thơ « Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh » vang lên âm hưởng tráng sĩ thuở nào,
nhưng đó là một tâm trạng có thật của lớp thanh niên ra trận ngày ấy
- Bút pháp lãng mạn, cảm hứng bi tráng đã giúp tác giả dựng lên cái chết, sự hy sinh oanh

liệt của chiến sĩ Tây Tiến. Cụm từ “áo bào”, “thay chiếu” gần giống với điển tích trong thơ
văn xưa:
“Chí làm trai dặm nghìn da ngựa
Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao”.
(Chinh phụ ngâm)
Họ coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Nhưng nó cũng phản ánh một sự thật đau lòng: người
lính Tây Tiến ngã xuống không có một cỗ quan tài, không một tấm chăn, manh chiếu để
chôn, khi sống họ mặc như thế nào, khi chết thì chôn như thế. Cách nói “anh về đất” là để
giảm bớt sự bi thương, cái chết trở nên nhẹ nhàng.
- Sự hi sinh lớn lao anh dũng ấy hẳn là xứng đáng lãnh nhận một nghi lễ đưa tiễn hào hùng
của sông núi đất trời này. Sông Mã như thay mặt TQ tiễn những người con ưu tú của mình
về với đất bằng “khúc độc hành” sôi sục, bi tráng, rắn rỏi , vững vàng.
Ý 4: Nét độc đáo về nghệ thuật:
- Kết hợp bút pháp hiện thực và lãng mạn với nghệ thuật đối lập để khắc họa vẻ đẹp
kiêu hùng, lẫm liệt.


- Tô đậm cái bi hùng, bi tráng bằng 1loạt biện pháp nghệ thuật độc đáo (Dùng từ
Hán Việt diễn tả cái chết cao quý, nói giảm diễn tả cái chết nhẹ nhàng, 1câu bi xen 1câu
hùng để nói bi hùng bi tráng.
2.2. Đoạn trích: “Việt Bắc” – Tố Hữu
Vấn đề 1: Phân tích bức tranh tứ bình về thiên nhiên, con người Việt Bắc trong
đoạn thơ:
Ta về mình có nhớ ta
.....
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung
a. Mở bài :
- Tố Hữu là lá cờ đầu của thơ ca cách mạng với phong cách trữ tình chính trị. Bài
thơ Việt Bắc là một thành công xuất sắc của ông. Bài thơ thể hiện một cách tinh
tế tình cảm cách mạng giữa những người kháng chiến và người dân Việt Bắc

- Đoạn trích « … » là bức tranh tứ bình về thiên nhiên, con người Việt Bắc
b. Thân bài
- Hai dòng thơ đầu là lời khẳng định vể nỗi nhớ thương da diết và tình cảm thủy
chung của người ra đi dành cho quê hương Việt Bắc. Nỗi nhớ đã làm sống dậy trong tâm
tưởng hình ảnh thiên nhiên, con người nơi chiến khu cách mạng.
- Thiên nhiên Việt Bắc đẹp trong sự đan cài với vẻ đẹp của con người “hoa” cùng
“người”: Đoạn thơ có bốn cặp câu lục bát: câu 6 miêu tả thiên nhiên, câu 8 miêu tả con
người.
- Thiên nhiên Việt Bắc hiện lên trong vẻ đẹp bốn mùa:
+ Mùa đông trên nền xanh bạt ngàn cây lá bỗng bất ngờ hiện lên sắc màu đỏ tươi
của hoa chuối. Màu đỏ ấy làm ấm cả không gian
+ Mùa xuân với sắc trắng của hoa mơ- loài hoa đặc trưng của Việt Bắc, 1 màu trắng
miên man, tinh khiết, đẹp đến nao lòng.
+ Mùa hè, với tiếng ve kêu vang ngân và sắc vàng của rừng phách.
+ Mùa thu với ánh trăng chan hòa trên mặt đất, đem lại không khí bình yên.
- Hình ảnh con người đã trở thành tâm điểm của bức tranh tứ bình, tạo nên sức sống
của thiên nhiên cảnh vật. Những con người Việt Bắc hiện về trong nỗi nhớ thật thân quen,
bình dị, thầm lặng trong những công việc của đời thường:
+ Mùa đông trở nên ấm áp với “ánh nắng dao giài thắt lưng”.
+ Bức tranh mùa xuân hòa cùng với dáng vẻ cần mẫn chút chăm của “người đan
nón”
+ Bức tranh màu hè hoá dịu dàng với hình ảnh cô em gái hái măng một mình
+ Mùa thu là tiếng hát nghĩa tình thủy chung của con người cất lên giữa đêm trăng.
- Nghệ thuật : Đoạn thơ vừa cổ điển, vừa hiện đại
+ Sử dụng điêu luyện thể thơ lục bát truyền thống của dân tộc
+ Sử dụng điêu luyện cặp đại từ “mình ta” trong đoạn thơ
+ Nghệ thuật đối xứng, đan cài hai câu thơ lục và bát, hai bức tranh thiên
nhiên và con người trong bức tứ bình rất điêu luyện. Cứ sau câu thơ lục về nỗi nhớ cảnh,
lại đến một câu thơ bát về nỗi nhớ người. Nỗi nhớ này kéo theo nỗi nhớ kia, nỗi nhớ
cảnh khơi gợi nỗi nhớ người, cũng giống như một câu thơ lục chỉ tồn tại được khi có

một câu thơ bát. Hình ảnh con người đã trở thành tâm điểm, tạo nên vẻ đẹp, sức sống của
bức tranh.
- Đánh giá chung Đoạn thơ tuy chỉ ngắn gọn 10 câu, nhưng bằng tài nghệ của mình,


Tố Hữu đã vẽ được một bức tranh đẹp về thiên nhiên và con người VB trong
kháng chiến. Bức tranh tứ bình bằng thơ thể hiện phong cách thơ giàu tính dân tộc của Tố
Hữu
c. Kết bài
Vấn đề 2: Phân tích đoạn thơ tả cảnh Việt Bắc ra trận "Những đường Việt Bắc...núi
Hồng"
I.MB
Tố Hữu ( 1920-2002) được đánh giá là lá cờ đầu của nền văn nghệ cách mạng Việt
Nam .Ông để lại một sự nghiệp văn chương phong phú , giàu giá trị và một phong cách
nghệ thuật độc đáo mang tính trữ tình-chính trị sâu sắc , đậm đà tính dân tộc . Rất tiêu biểu
cho những tìm tòi sáng tạo không ngừng của nhà thơ là bài thơ Việt Bắc .Có thể nói , tinh
hoa của tác phẩm lắng đọng trong mười hai câu thơ diễn tả nỗi nhớ của người về xuôi với
cảnh Việt Bắc hùng tráng trong kháng chiến :
“ Những đường Việt Bắc của ta
………………………………..
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng”.
II.TB
1.Giới thiệu chung
Việt Bắc được Tố Hữu sáng tác vào tháng 10-1954 , ngay sau khi cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp thắng lợi , các cơ quan trung ương Đảng và chính phủ từ Việt Bắc về
lại thủ đô Hà Nội . Tố Hữu cũng là một trong số những cán bộ kháng chiến từng sống gắn
bó nhiều năm với Việt Bắc , nay từ biệt chiến khu để về xuôi . Bài thơ như được viết trong
buổi chia tay lưu luyến đó .
Hoàn cảnh sáng tác tạo nên một sắc thái tâm trạng đặc biệt , đầy xúc động bâng
khuâng . Tố Hữu đã vận dụng thành công thể thơ lục bát truyền thống , sử dụng sáng tạo

cặp đại từ nhân xưng mình-ta , lối đối đáp quen thuộc của ca dao , giọng thơ tâm tình ngọt
ngào , lời thơ đậm sắc thái dân gian để mở ra bao nỗi niềm nhớ thương , bao kỉ niệm về
một thời kháng chiến gian khổ mà anh hùng . Qua đó nghĩa tình gắn bó thắm thiết thuỷ
chung của những người kháng chiến với nhân dân, với Việt Bắc , với đất nước được bộc lộ
một cách thấm thía , chân thành , cảm động .
Phần đầu của bài thơ , dưới hình thức đối đáp giữa mình và ta , đã tập trung khắc hoạ
một khung cảnh tiễn đưa đầy thương nhớ , bịn rịn , bồn chồn , lưu luyến của kẻ ở người đi .
Qua lời đối đáp ân tình , cảnh và người Việt Bắc hiện lên thật đẹp .
2.Phân tích đoạn thơ
Và có lẽ đẹp nhất trong nỗi nhớ Việt Bắc là ấn tượng không phai về những con đường
kháng chiến:
Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Các từ chỉ số nhiều về không gian ( những đường) , về thời gian( đêm đêm ) , về chủ
thể sở hữu ( của ta ) kết hợp với biện pháp so sánh , cách điệp phụ âm r đã tái dựng lại một
không khí kháng chiến đông vui , nhộn nhịp , mạnh mẽ của một lực lượng , một tập thể lớn
, khiến cho đất trời rung chuyển . Không khí của câu thơ khiến ta hồi tưởng lại hào khí
Đông A ngút trời “ Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu” ngày nào .
Sức mạnh ấy trước hết toả ra từ đoàn quân hùng hậu :


Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan.
Tác giả sử dụng nghệ thuật tách từ “trùng điệp” thành hai từ láy trùng trùng điệp điệp
để ghi lại ấn tượng về những cuộc hành quân không nghỉ của một đoàn quân đông đảo như
trải dài vươn rộng trong khắp núi rừng Việt Bắc . Hình ảnh hoán dụ “ ánh sao đầu súng” ,
“mũ nan” kết hợp với biện pháp nhân hoá “ ánh sao bạn cùng mũ” vừa tả thực vừa gợi ra
một vẻ đẹp thơ mộng về đoàn quân kháng chiến . Những hình ảnh này diễn tả sự sát cánh
kề vai của mọi lực lượng trên đất nước VN , từ bộ đội chính quy đến dân quân du kích , từ
con người đến thiên nhiên sông núi vũ trụ , tất cả hợp thành một khối đoàn kết vững vàng ,

có sức mạnh vũ bão . Hình ảnh “ ánh sao đầu súng” gợi nhắc đến vẻ đẹp của những chiến
sĩ kiên trung mà vẫn lãng mạn yêu đời trong thơ Chính Hữu “ Đêm nay rừng hoang sương
muối-Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới-Đầu súng trăng treo”.
Hình ảnh những người dân công phục vụ kháng chiến cũng được Tố Hữu tô đậm:
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay
Những từ chỉ số nhiều “ từng đoàn”, “muôn tàn lửa” kết hợp với các động từ đỏ
đuốc , bước chân , nát đá, lửa bay , kết hợp với phép cường điệu “bước chân nát đá” đã ca
ngợi lòng nhiệt tình , sự hăng hái , sự đông đảo và sức mạnh khiến thiên nhiên phải khuất
phục của những đoàn dân công.Sức mạnh bạt núi san rừng , tinh thần làm việc bất kể đêm
ngày của họ khiến cho núi cao cũng phải cúi đầu , đêm tối cũng phải bừng sáng .
Những đoàn xe vận tải càng làm cho không khí những con đường kháng chiến thêm
phấn chấn :
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên
Tác giả sử dụng những từ chỉ số nhiều “ nghìn đêm” kết hợp với các từ láy thăm thẳm
để khắc hoạ những khó khăn gian nan của kháng chiến nhưng với sức mạnh và lòng quyết
tâm , những đoàn xe vận tải vẫn vượt qua đêm tối , đèo cao mây mù , sương dày để vận
chuyển vũ khí lương thực tới tiền tuyến . Biện pháp so sánh phóng đại “ đèn pha bật sáng
như ngày mai lên” vừa thể hiện khí thế sôi nổi , hào hùng , vừa bộc lộ niềm vui sướng hi
vọng , tin tưởng vào tương lai tất thắng .
Tám câu thơ trên sử dụng nhiều từ láy , nhiều hình ảnh so sánh phóng đại , sử dụng
một loạt những từ chỉ số nhiều , những hình ảnh giàu sức gợi , âm điệu và nhịp điệu thơ
khoẻ khắn , dồn dập đã tái hiện sự hùng tráng , khí thế sôi nổi của Việt bắc trong kháng
chiến . Sự hào hùng ấy biểu hiện rõ trên con đường Việt Bắc trải dài bất tận , có sự hoà hợp
tiếp nối của mọi lực lượng từ bộ đội du kích dân công đến những đoàn xe vận tải . Con
đường đi đến tiền tuyến là con đường đến chiến thắng .
Tin vui chiến thắng trăm miền
……………………………..
Vui lên VB , đèo De , núi Hồng

Trong 4 câu thơ , tác giả đã liệt kê một loạt 8 địa danh , kết hợp với điệp từ vui , nhịp
thơ nhan , mạnh , dồn dập bộc lộ 1 cách sâu sắc niềm sung sướng về chiến thắng của dân
tộc . Chiến thắng ấy trải dài khắp mọi miền Tổ quốc tạo nên ngày hội chiến thắng của toàn
thể dân tộc ta .
Những đoạn thơ tiếp theo , tác giả tiếp tục nhớ về Việt Bắc , đặc biệt là hình ảnh Bác
Hồ , vai trò của chiến khu và thể hiện niềm tin tưởng vào tương lai đât nước .
III . Kết luận .


Đoạn thơ 12 câu diễn tả khí thế hào hùng sục sôi của Việt Bắc kháng chiến . Qua đó ,
đoạn thơ bộc lộ niềm tự hào sâu sắc của nhà thơ về về sức mạnh đoàn kết vĩ đại của dan
tộc . Đoạn thơ có âm điệu sôi nổi , dồn dập , mạnh mẽ , sử dụng nhiều hình ảnh phóng đại ,
là đạon thpơ tiêu biểu cho phong cách thơ trữ tình chính trị của Tố Hữu .
2.3. Đoạn trích “Đất Nước” – Nguyễn Khoa Điềm
Vấn đề 1: Cảm nhận của anh(chị) về đoạn thơ sau:
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
……
Đất nước có từ ngày đó”
Hướng dẫn:
I/ Mở bài :
- Nguyễn Khoa Điềm (1943) thuộc thế hệ nhà thơ chống Mỹ cứu nước.Đất nước, nhân
dân, cách mạng luôn là nguồn cảm hứng phong phú của thơ ông.
- “Đất nước” là một đọan trích thuộc chương V trong bản trường ca “Mặt đường khát
vọng” của Nguyễn Khoa Điềm, sáng tác năm 1971, tại chiến trường Bình Trị Thiên.
- Chín câu thơ đầu của đọan thơ :
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
……………………………………
Đất Nước có từ ngày đó”.
Là những cảm nhận sâu sắc của nhà thơ về sự sinh thành và phát triển của Đất nước
qua những hình tượng cụ thể, sinh động,gợi cảm sôi nổi và thiết tha.

II/ Thân bài :
* Tòan đọan thơ có chín câu, được viết theo thể thơ tự do, hình ảnh thơ giàu sức liên
tưởng…, nhà thơ giúp cho người đọc có những suy nghĩ, cảm nhận về cội nguồn và sự
hình thành của Đất nước một cách sâu sắc.
* Trước hết,ở hai câu thơ đầu của đọan thơ, Tác giả đi tìm sự lý giải về sự sinh thành
của đất nước.Đất nước có từ bao giờ ? Để trả lời cho câu hỏi này, nhà thơ đã viết :
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi,
Đất Nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể”.
- Tham vọng tính tuổi của Đất nước của nhà thơ thật khó bởi chính cái “ngày xửa
ngày xưa” ( thời gian nghệ thuật thường thấy trong truyện cổ tích) có tính phiếm chỉ, trừư
tượng, không xác định. Đó là thời gian huyền hồ, hư ảo, thời gian mang màu sắc huyền
thoại.
Song chính ở “cái ngày xửa ngày xưa” đó, nhà thơ đã giúp cho chúng ta nhận thức được:
Đất Nước đã có từ rất lâu, rất xa, từ bao giờ chẳng biết .Chỉ biết rằng : khi ta cất tiếng
khóc chào đời, thì Đất Nước đã hiện hữu.
- Không dừng lại ở khát vọng đo đếm tuổi của đất nước, nhà thơ còn nỗ lực hình
dung về khởi đầu và quá trình trưởng thành của đất nước:
“Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn,
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”
+Phải chăng, khởi thủy của đất nước là văn hóa được kết tinh từ tâm hồn và tính
cách anh hùng của con người Việt Nam. Ở đây,hình ảnh “miếng trầu” đã là một hình tượng
nghệ thuật giàu tính thẩm mỹ từng xuất hiện trong các câu chuyện cổ tích,ca dao,tục
ngữ.Bởi lẽ,“miếng trầu”là hiện thân của tình yêu thương, lòng thủy chungcủa tâm hồn dân


tộc.Từ truyền thuyết dân gian đến tác phẩm thơ văn hiện đại, cây tre đã trở thành biểu
tượng cho sức mạnh tinh thần dân tộc quật cường đánh giặc cứu nước và giữ nước.
- Và còn nữa, trong quá trình trưởng thành, đất nước còn gắn liền với với đời sống
văn hóa tâm linh, bằng phong tục tập quán lâu đời còn truyền lại và bằng chính cuộc sống
lao động cần cù vất vả của nhân dân :

“Tóc mẹ búi sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên,
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, dần ,sàng…”.
+ Đọan thơ, bằng những ý thơ giàu sức liên tưởng , nhà thơ đã đưa người đọc trở về
với những nét đẹp văn hóa một thời của người phụ nữ Việt Nam bằng hình ảnh “tóc mẹ búi
sau đầu”, gợi tả một nét đẹp thuần phong mỹ tục của người Việt; và những câu ca dao xưa
ca ngợi vẻ đẹp đậm tình nặng nghĩa trong cuộc sống vợ chồng “cha mẹ thương nhau bằng
gừng cay muối mặn”.
+ Không những vậy, hình ảnh thơ còn thể hiện sự cảm nhận về đất nước gắn với nền
văn hóa nông nghiệp lúa nước, lấy hạt gạo làm gia bản…
=>- Có thể nói,
- Đọan thơ mở đầu trả lời cho câu hỏi về cội nguồn đất nước - một câu hỏi quen
thuộc, giản dị bằng cách nói cũng rất giản dị, tự nhiên nhưng cũng rất mới lạ : nhà thơ
không tạo ra khỏang cách sử thi để chiêm ngưỡng và ca ngợi đất nước hoặc dùng những
hình ảnh mĩ lệ , mang tính biểu tượng để cảm nhận và lý giải , mà dùng cách nói rất đỗi
giản dị,tự nhiên với những gì gần gũi , thân thiết , bình dị nhất.
- Gịong thơ thâm trầm, trang nghiêm; cấu trúc thơ theo lối tăng cấp :Đất nước đã có;
Đất Nước bắt đầu; Đất Nước lớn lên; Đất Nước có từ… giúp cho người đọc hình dung cả
quá trình sinh ra, lớn lên, trưởng thành của đất nước trong thời gian trường kỳ của con
người Việt Nam qua bao thế hệ. Đặc biệt là cách nhà thơ viết hoa hai từ Đất Nước ( vốn là
một danh từ chung) cũng đã giúp ta cảm nhận tình yêu và sự trân trọng của nhà thơ khi nói
về đất nước , quê hương của mình.
III/ Kết bài :
- Tóm lại, chín câu thơ mở đầu cho đọan trích “Đất Nước” đã thật sự để lại những ấn
tượng và cảm xúc sâu sắc cho người đọc về sự sinh thành và trưởng thành của đất nước.
+ Bởi lẽ, đọan thơ đã giúp cho tất cả mọi người, đặc biệt là thế hệ trẻ, những ai mà
còn có những nhận thức mơ hồ về đất nước mình thật sự phải suy gẫm.
+ Bởi lẽ, đọan thơ còn cho chúng ta hiểu được đất nước thật thân thương và gần gũi
biết nhường nào .Từ đó đọan thơ bồi dưỡng thêm cho chúng ta về tình yêu đất nước, quê

hương mình và biến tình yêu ấy bằng thái độ, hành động dựng xây , bảo vệ đất nước.
Vấn đề 2: Cảm nhận của anh(chị) về đoạn thơ sau:
Những người vợ nhớ chồng góp cho Đất Nước những núi Vọng phu
………
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta
Hướng dẫn:
I/ Mở bài :
- Nguyễn Khoa Điềm (1943) thuộc thế hệ nhà thơ chống Mỹ cứu nước.Đất nước,
nhân dân, cách mạng luôn là nguồn cảm hứng phong phú của thơ ông.


- “Đất nước”là một đọan trích thuộc chương V trong bản trường ca “Mặt đường khát
vọng” của Nguyễn Khoa Điềm, sáng tác năm 1971, tại chiến trường Bình Trị Thiên.
- Đọan thơ sau đây là sự khẳng định của nhà thơ về vai trò của nhân dân trong việc
làm nên không gian địa lý - bức tranh văn hóa đất nước muôn màu muôn vẻ :
“ Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi vọng phu,
…………………………………………………………………………
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta”.
II. Thân bài
- Tư tưởng “Đất Nước của nhân dân” là tư tưởng bao trùm của chương “Đất Nước”
cũng như của cả trường ca: ca ngợi vai trò và sự hi sinh to lớn của nhân dân trong công
cuộc dựng nước và giữ nước.
Đoạn thơ từ câu:
“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu…
… Những cuộc đời đã hoá núi sông ta…”
là một trong những đoạn thơ tiêu biểu thể hiện tư tưởng này.
- Đoạn thơ gọi tên các danh lam thắng cảnh trên khắp các miền đất nước, trải dài từ
Bắc vào Nam. Từ Bình Định, Lạng Sơn, Thanh Hoá với núi Vọng Phu, hòn Trống Mái đến
con cóc, con gà ở Hạ Long, chín mươi chín con voi về dựng đất Tổ Hùng Vương đến Đà
Nẵng với núi Bút, non Nghiên, miền Nam với những cánh đồng Ông Đốc, Ông Trang, Bà

Đen, Bà Điểm.
- Những thắng cảnh thiên nhiên hiện lên như một phần tâm hồn, máu thịt của nhân
dân. Những thắng cảnh này là sự hoá thân xả thân từ những gì có thật.
+ Từ tình yêu giữa vợ và chồng: nàng Tô Thị bồng con ngóng chồng ngày đêm mỏi
mòn hoá đá.
+ Từ sự son sắt thuỷ chung tha thiết của tình yêu lứa đôi. Trong cái riêng nhất của
đời sống vẫn canh cánh trong lòng tình yêu đất nước.
+ Từ những hiện tượng, thiên nhiên, địa lý lặng lẽ âm thầm như dòng sông, ao đầm
đến những mảnh đất thiêng liêng như đất Tổ Hùng Vương đều có tiếng nói riêng kêu gọi
hướng về cội nguồn nòi giống.
+ Cảm động nhất là những con người, con vật quê hương đều có chung ý nghĩ làm
giàu đẹp sang trọng cho đất nước.
Cả đoạn thơ như sự huy động lực lượng tối đa để kiến tạo nên một đất nước riêng của
mình. Nguyễn Khoa Điềm hiểu đến tận cùng những ký thác mà lịch sử cha ông để lại.
Những địa danh trên không chỉ là tên gọi của những cảnh trí thiên nhiên thuần tuý mà
được cảm nhận thông qua cảnh ngộ số phận của người dân. Dáng hình Đất Nước được tạc
nên từ bao mất mát, đau thương vui buồn hạnh phúc… của nhân dân. Chính họ đã đặt tên,
ghi dấu vết cuộc đời mình lên mỗi ngọn núi, dòng sông, tấc đất.
- Từ những hình ảnh, cảnh vật, hiện tượng cụ thể nhà thơ đúc kết thành một khái quát
sâu sắc:
“ Và đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình… núi sông ta”
Tư tưởng “Đất Nước của nhân dân” chi phối cách nhìn của nhà thơ khi nghĩ về lịch sử
4000 năm của đất nước: không nói tới các triều đại hay những người anh hùng được lưu
danh mà ca ngợi người dân- những con người vô danh giản dị mà phi thường:
“Họ đã sống và chết


Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên

Chính họ đã làm ra Đất Nước”
à Mạch cảm xúc dồn tụ dần và kết thúc bật lên tư tưởng chủ đạo của cả chương thơ và
bản trường ca:
“Để Đất Nước này là Đất Nước của nhân dân
Đất Nước của nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại
- Nghệ thuật: Tư tưởng chủ đạo của chương được thể hiện bằng hình thức trữ tình
chính luận. Nguyễn Khoa Điềm đưa ra để thuyết phục người đọc thật giản dị: chính người
dân-những con người vô danh đã kiến tạo và bảo vệ Đất Nước, xây dựng truyền thống văn
hóa lịch sử ngàn đời. Lý lẽ ấy không phát biểu một cách khô khan mà bằng hình ảnh gợi
cảm, giọng thơ sôi nổi tha thiết.
- Đánh giá chung:
+ Qua những vần thơ kết hợp giữa cảm xúc và nghĩ suy, trữ tình và chính luận,
Nguyễn Khoa Điềm muốn thức tỉnh ý thức tinh thần dân tộc, tình cảm gắn bó với người
dân, đất nước của thế hệ trẻ thời kỳ chống Mỹ.
+ Đoạn thơ trên đã thể hiện rõ quan niệm “Đất Nước của nhân dân”- tư tưởng chủ
đạo, tạo nên cảm hứng bao trùm, mở ra những khám phá sâu và mới của nhà thơ về Đất
Nước ngay cả ở những chỗ đã rất quen thuộc.
+ Quan niệm ấy thực ra đã có ngọn nguồn từ trong dòng tư tưởng và văn chương
truyền thống của dân tộc ta. Nhưng đến thời hiện đại, tư tưởng ấy lại càng trở nên sâu sắc
và được thể hiện phong phú trong thơ ca.
III/ Kết bài:
- Đoạn thơ thể hiện được đặc điểm tiêu biểu của trường ca “Mặt đường khát
vọng” của Nguyễn Khoa Điềm : chất chính luận hài hòa chất trữ tình, giọng thơ tự sự ;
ngôn từ, hình ảnh đẹp, giàu sức liên tưởng.
- Viết về đề tài đất nước - một đề tài quen thuộc, nhưng thơ Nguyễn Khoa Điềm
vẫn mang những nét riêng, mới mẻ, sâu sắc . Những nhận thức mới mẻ về vai trò của nhân
dân trong việc làm nên vẻ đẹp của đất nước ở góc độ địa lý-văn hóa càng gợi lên lòng yêu
nước, tinh thần trách nhiệm với đất nước cho mỗi người.
Vấn đề 3: Cảm nhận của anh/ chị về đoạn thơ sau:
Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng….

Đi trả thù mà không sợ dài lâu
Hướngdẫn:
* Qua đoạn thơ tác giả đã biểu dương, ngợi ca vai trò của lịch sử, sức mạnh lớn
lao kì diệu của nhân dân trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước
- Trong sự nghiệp dựng nước, nhân dân là người kiến tạo và bảo tồn những giá trị
văn hoá tinh thần, truyền thống của dân tộc:
~ Cách dung từ họ: đại từ xưng hô số nhiều chỉ nhân dân- những con người bé nhỏ,
bình thường thuộc đám đông trong xã hội, chứ không phải là các cá nhân anh hùng
~ Hệ thống các từ: giữ, truyền, gánh, đắp, be, dạy… được sử dụng đan dày trong
đoạn thơ ghi nhận sự đóng góp lớn lao của nhân dân đối với sự nghiệp kiến quốc. Nhân
dân, bằng những việc làm cụ thể, bé nhỏ,rất đỗi bình dị mà thiết thực, ý nghĩa đã làm nên
Đất Nước.
~ Các hình ảnh gắn với chuỗi động từ này: hạt lúa, lửa, giọng nói, tên xã, tên làng,
đập, bờ… một mặt tiếp tục thể hiện sự khám phá mới mẻ, độc đáo của nhà thơ về Đất


Nước trong bề rộng không gian địa lí và tầng sâu của những truyền thống văn hoá, tạo nên
sự thống nhất trong cách thể hiện Đất Nước ở toàn bộ chương V; mặt khác còn khẳng định
nhân dân chính là lực lượng đông đảo vừa kiến tạo bảo tồn. lưu giữ truyền thống giàu tình
nghĩa, giàu tình yêu thương, cần cù lao động- đó là những giá trị văn hoá tinh thần cao quý
của Đất Nước.
- Trong cuộc đấu tranh giữ nước cũng chính là nhân dân chứ không ai khác viết lên
trang sử bi tráng.Nhân dân, những con người “có ngoại xâm thì chống ngoại xâm/ có nội
thù thì vùng lên đánh bại” khẳng định đầy tự hào và sức mạnh lớn lao của nhân dân chống
thù trong, giặc ngoài. Chính nhân dân đã hun đúc nên truyền thống kiên cường, bất khuất.
* Để truyền tải tư tưởng Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại,
người viết đã tìm đến nguồn chất liệu dồi dào và vô cùng thích hợp: nguồn chất liệu văn
hóa, văn học dân gian.
- Đoạn thơ có sự đan dệt của những ca dao, tục ngữ, hang loạt truyện cổ và vô vàn
những tập quán, phong tục một cách sang tạo. Người viết có khi chỉ trích nguyên văn một

câu ca dao: yêu em từ thủơ trong nôi, song phần lớn chỉ sử dụng ý, hình ảnh ca dao: Biết
quý công cầm vàng những ngày lặn lội; biết trồng tre đợi ngày thành gậy/ Đi trả thù mà
không sợ dài lâu.
- Với thể thơ tự do, vận dụng linh hoạt, nhuần nhuyễn, sang tạo chất liệu văn hoá,
văn học dân gian; giọng điệu thơ có sự kết hợp giữa chính luận và trữ tình, suy tưởng và
cảm xúc, đoạn thơ đã thể hiện được những nét riêng, độc đáo của Nguyễn Khoa Điềm khi
biểu dương tôn vinh vai trò lịch sử, sức mạnh kì diệu của nhân dân trong suốt trường kì
lịch sử.
2.4. Bài thơ “Sóng” – Xuân Quỳnh
Vấn đề 1: Phân tích hình tượng sóng trong bài thơ “Sóng” của Xuân Quỳnh.
Dàn ý chi tiết:
I. Mở bài:
-Tình yêu là đề tài muôn thuở của thơ ca. Từ xưa đến nay, nhiều thi sĩ đã viết về tình yêu
bằng những cảm xúc phong phú làm rung động lòng người.
-Đặc biệt trong thơ Xuân Quỳnh, tình yêu đặt ra bao nhiêu trăn trở, suy tư.
- Một trong những bài thơ tình nỗi tiếng của Xuân Quỳnh là bài “Sóng”
- Tứ thơ toàn bài xoay quanh một hình tượng sáng tạo có giá trị thẩm mĩ- hình tượng
sóng- thể hiện nhưẽng trạng thái của tình yêu thấm đẫm chất trữ tình trong sáng.
II. Thân bài:
1. Hình tượng sóng qua âm điệu của bài thơ:
- Hình tượng sóng trong bài thơ diễn tả những cảm xúc, những sắc thái tình cảm vùă
phong phú đa dạng, vừa thiết tha sôi nổi của một trái tim đang rao rực yêu đương. Hình
tượng sóng hiện lên qua hình ảnh và nhịp điệu nhịp nhàng, lúc sôi nổi dồ dập, lúc dịu êm
sâu lắng như nhịp sóng sau lắng ngoài biển khơi, cũng la fnhịp của những con sóng tình
cảm của một trái tim khao khát yên đương:
“Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ…”
- Âm điệu những dòng thơ năm tiếng như những đợth sóng vỗ suốt chiều dài của bài
thơ. Trên mặt đại dương, sóng nước triền miên, trong cuộc đời thường, tình yêu luôn hiện
hữu và vĩnh hằng. Sóng co skhi dâng lên dữ dội, tình yêu sôi nổi nồng nàn, sóng có lúc dịu

êm, tình yêu sâu lắng thiết tha:
“Con sóng dưới lòng sâu,


Con sóng trên mặt nước…”
2. Hình tượng sóng thể hiện tâm trang của nhân vật trữ tình trong thơ:
- Những câu hỏi:
“Sóng bắt đầu từ gió,
Gió bắt đầu từ đâu?
Thể hiện tâm trạng của người đang yêu lắng suy tư về sự huyền diệu, cái bí ẩn của tình
yêu, cô gắng tìm ngọn nguồn của tình yêu nhưng không có được lời giải đáp. Vì tình yêu
vốn không tuân theo quy luật của lí trí. Câu trả lời không phải để giải đáp, mà chỉ là một
cảm nhận chân thành, như một lời thú nhận:
“ Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau…”
- Hình tượng sóng gợi nỗi nhớ của người đang yêu:
“Ôi con sóng nhớ bờ..”
Nỗi nhớ ấy thiết tha mãnh liệt, tràn ngập cả không gian nhiều phương nhiều hướng,
chiếma hữu cả thời gian ngày đem, ngay trong giấc mơ:
“Con sóng dưới lòng sông
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được…”
Nỗi nhớ không chỉ trong ý thức, tiềm thức mà dường như ở tận cùng vô thức:
“Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức…”
- Vẫn hình tượng sóng biểu hiện niềm tin và lòng thủy chung của những người đang
yêu. Nếu:
“Ở ngoài kia đại dương
Trăm ngàn con sóng đó

Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở…”
thì người con gái đang yêu:
“Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh một phương”
Niềm tin và lòng chung thủy thật cảm động. Con sóng lúc nào cũng hướng tới bờ, tình
yêu chung thủy nhất định cũng sẽ tới bến hạnh phúc, dù thời gian có chia cách, không gian
có ngăn trở.
- Hình tượng sóng- tình yêu mang ý nghĩa thật cao đẹp. Tình yêu gắn liền với cuộc sống,
chan hòa với cuộc đời lớn lao mở rộng, “giữa biển lớn tình yêu”, và vĩnh viễn với thời gian
“để ngàn năm còn vỗ”. Khác vọng của tình yêu cũng là khát vọng được sống, gắn bó với
cuộc đời như những con sóng hòa vào biển rộng bao la.
III. Kết bài:
Hình tượng sóng đã thể hiện tâm trạng của nhân vật trữ tình trong bài thơ. Hình tượng
sóng cùng âm điệu thơ khi mãnh liệt sôi nổi, khi sâu lắng dịu dàng đã thể hiện khát vọng
yêu thương và được thương yêu trong trái tim của những người tuổi trẻ hồn hậu và trong
sáng
Vấn đề 2: Cảm nhận của anh/chị về vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu thể
hiện qua bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh.
Gợi ý:


Tìm hiểu đề
(?) Nội dung vấn đề cần nghị luận:
Vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu.
(?) Kiểu bài và thao tác lập luận:
– Kiểu bài: Nghị luận về một bài thơ (về khía cạnh giá trị trong bài).
– Thao tác lập luận chính: Cảm nhận (phân tích, chứng minh, bình luận); Thao tác lập
luận hỗ trợ: Giải thích, so sánh.
(?) Phạm vi tư liệu và dẫn chứng:

Bài thơ Sóng (Xuân Quỳnh).
Dàn ý chi tiết
1. Mở bài
– Giới thiệu về tác giả, tác phẩm: Xuân Quỳnh là một trong những nhà thơ nữ tiêu biểu
nhất thời chống Mĩ cứu nước. Thơ Xuân Quỳnh là tiếng nói đầy cảm xúc, có sắc thái rất
riêng, đậm chất nữ tính của một tâm hồn phụ nữ rất thông minh, sắc sảo, giàu yêu thương.
Sóng được sáng tác năm 1967, là bài thơ đặc sắc viết về tình yêu, rất tiêu biểu cho phong
cách thơ Xuân Quỳnh.
– Giới thiệu về luận đề: Bài thơ Sóng là tiếng lòng chân thành, bộc lộ vẻ đẹp tâm hồn
của người phụ nữ trong tình yêu.
2. Thân bài
– Giới thiệu hình tượng sóng: là một sáng tạo độc đáo của Xuân Quỳnh. Sóng là sự ẩn
thân, hóa thân của nhân vật trữ tình “em”. Qua hình tượng sóng, Xuân Quỳnh diễn tả cụ
thể, sinh động những trạng thái, cung bậc tình cảm, tâm hồn của người phụ nữ trong tình
yêu: nhân hậu, khao khát yêu thương và luôn hướng tới một tình yêu cao thượng, lớn lao.
– Cảm nhận về vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong tình yêu:
+ Thể hiện tiếng nói của trái tim tuổi trẻ mang khát vọng tình yêu muôn thuở (Ôi con
sóng ngày xưa/ Và ngày sau vẫn thế/ Nỗi khát vọng tình yêu/ Bồi hồi trong ngực trẻ).
+ Khao khát khám phá sự bí ẩn của qui luật tình yêu nhưng không tìm thấy câu trả lời
(Em cũng không biết nữa/ Khi nào ta yêu nhau).
+ Bộc lộ một tình yêu sôi nổi, đắm say, nồng nàn, mãnh liệt, một nỗi nhớ cồn cào, da
diết, chiếm lĩnh cả thời gian và không gian (Con sóng dưới lòng sâu/Con sóng trên mặt
nước … Lòng em nhớ đến anh/ Cả trong mơ còn thức… ).
+ Luôn hướng tới một tình yêu thủy chung, son sắt (Nơi nào em cũng nghĩ/ Hướng về
anh – một phương).
+ Ước vọng có một tình yêu vĩnh hằng, bất tử để làm đẹp cho cuộc đời (Làm sao được
tan ra/ Thành trăm con sóng nhỏ/ Giữa biển lớn tình yêu/ Để ngàn năm còn vỗ).
– Đặc sắc nghệ thuật: ẩn dụ (mượn hình tượng sóng để thể hiện tình yêu một cách sinh
động, gợi cảm); thể thơ năm chữ với nhịp điệu linh hoạt, nhịp nhàng gợi âm vang của
sóng; ngôn từ giản dị, trong sáng, hình ảnh thơ giàu sức gợi.

– Bàn luận chung: Bài thơ đã thể hiện nổi bật vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ trong tình
yêu: chân thành, say đắm, nồng nàn, mãnh liệt, thủy chung, trong sáng, cao thượng. Nó
vừa mang nét đẹp tình yêu của người phụ nữ Việt Nam truyền thống, vừa có nét táo bạo,
chủ động đến với tình yêu của người phụ nữ Việt Nam hiện đại.
3. Kết bài:
– Đánh giá chung: Sóng là bài thơ tiêu biểu của Xuân Quỳnh và của thơ ca Việt Nam
hiện đại viết về đề tài tình yêu.


– Khẳng định: Giá trị nhân văn của bài thơ chính là sự khắc họa vẻ đẹp tâm hồn người
phụ nữ trong tình yêu.
2.5. BÀI ĐÀN GHI-TA CỦA LOR-CA – THANH THẢO
Khi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn ghita (F.G.Lorca)

ĐỀ 1: Phân tích đoạn thơ sau trong bài thơ “Đàn ghi-ta của Lor-ca” của Thanh
Thảo:
những tiếng đàn bọt nước
áo choàng bê bết đỏ
Tây-ban-nha áo choàng đỏ gắt
Lorca bị điệu về bãi bắn
li-la li-la li-la
chàng đi như ngươời mộng du
đi lang thang về miền đơn độc
tiếng ghi-ta nâu
với vầng trăng chếnh choáng
bầu trời cô gái ấy
trên yên ngựa mỏi mòn
tiếng ghi-ta lá xanh biết mấy
Tây-ban-nha
tiếng ghi-ta tròn bọt nước vỡ tan

hát nghêu ngao
tiếng ghi-ta ròng ròng
bỗng kinh hoàng
máu chảy
* Phần Làm văn:
A. Lập dàn ý :
I/ Mở bài : Giới thiệu Thanh Thảo dẫn vào bài thơ “Đàn ghi-ta của Lor-ca”. Nêu
vấn đề : Bài thơ có giá trị sâu sắc về nội dung và nghệ thuật, tiêu biểu là đoạn thơ sau : (
chép đoạn thơ vào)
II/ Thân bài :
1/ Khái quát về bài thơ, đoạn thơ :
- Giới thiệu vài nét về Lor-ca...
-Nêu hoàn cảnh sáng tác, nội dung, bố cục vị trí đoạn thơ ở đề bài.
2/ Phân tích nội dung, nghệ thuật đoạn thơ :
a/ Khổ thơ đầu giới thiệu về Lor-ca ( trích thơ)
- "Tây-ban-nha áo choàng đỏ gắt" là biểu tượng của đất nước Tây Ban Nha
- "Những tiếng đàn bọt nước...trên yên ngựa mỏi mòn"và âm thanh tiếng đàn là biểu
tượng về Lor-ca cùng cây đàn với cuộc đấu tranh giữa khát vọng dân chủ với nền chính
trị độc tài, khát vọng cách tân nghệ thuật già nua, ở góc độ nào cũng thấy Lor-ca mong
manh, đơn độc.
b/ Khổ thơ thứ hai diễn tả cái chết của Lor-ca. Trích thơ, phân tích các ý:
- "Tây Ban Nha, hát nghêu ngao " là biểu tượng Lor-ca, người nghệ sĩ tự do.
- Hình ảnh Lor-ca bị sát hại được diễn tả ấn tượng "áo choàng bê bết đỏ...như người
mộng du", cụm từ "bỗng kinh hoàng"chỉ cái chết đến với Lor-ca thật bất ngờ
c/ Khổ thơ cuối vẫn là hình ảnh Lor-ca bị sát hại được diễn tả ấn tượng theo lối
tượng trưng. Trích thơ, phân tích các ý
- "Tiếng ghi ta nâu...lá xanh"là biểu tượng tâm hồn nghệ sĩ với tình yêu tha thiết,yêu
đời, gắn bó với thiên nhiên, đất nước, thiên nhiên.
- "Tiếng ghi ta bọt nước...máu chảy" là hình ảnh Lor-ca bị huỷ diệt
- Điệp ngữ "tiếng ghi ta" là cảm xúc nghẹn ngào của nhà thơ Thanh Thảo.

III/ Kết bài : Kết luận chung về hình tượng Lor-ca, cảm nghĩ về bài thơ.
ĐỀ 2 : Phân tích đoạn thơ sau trong bài thơ “Đàn ghi-ta của Lor-ca” của Thanh
Thảo:


không ai chôn cất tiếng đàn
tiếng đàn như cỏ mọc hoang
giọt nước mắt vầng trăng
long lanh trong đáy giếng
đường chỉ tay đã đứt
dòng sông rộng vô cùng

Lorca bơi sang ngang
trên chiếc ghi ta màu bạc
chàng ném lá bùa cô gái di-gan
vào xoáy nước
chàng ném trái tim mình
vào lặng yên bất chợt
li-la li-la li-la…

* Phần Làm văn:
A. Lập dàn ý :
I/ Mở bài : Giới thiệu Thanh Thảo dẫn vào bài thơ “Đàn ghi-ta của Lor-ca”. Nêu
vấn đề : Bài thơ có giá trị sâu sắc về nội dung và nghệ thuật, tiêu biểu là đoạn thơ sau : (
chép đoạn thơ vào)
II/ Thân bài :
1/ Khái quát về bài thơ, đoạn thơ :
- Giới thiệu vài nét về Lor-ca...
-Nêu hoàn cảnh sáng tác, nội dung, bố cục vị trí đoạn thơ ở đề bài.
2/ Phân tích nội dung, nghệ thuật đoạn thơ :

a/ Bốn câu thơ đầu là suy ngẫm của nhà thơ Thanh Thảo về cuộc đời và sự
nghiệp của Lor-ca. Trích thơ, phân tích các ý:
- "Khi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn" là lời di chúc của Lor-ca
- "Không ai chôn cất tiếng đàn....mọc hoang" là nỗi xót thương cái chết của một
thiên tài, xót tiếc cho hành trình cách tân dang dở của Lor-ca và nghệ thuật Tây Ban Nha
- "Giọt nước mắt....đáy giếng"là cái chết không thể tiêu diệt được tâm hồn và sáng
tạo nghệ thuật của Lor-ca
b/ Những câu thơ còn lại tiếp tục là những suy tư của nhà thơ Thanh Thảo về
cái chết, cuộc giã từ của Lor-ca. Trích thơ, phân tích các ý:
- Đường chỉ tay bé nhỏ, dòng sông rộng mênh mang, hay là phận người thì ngắn
ngủi mà thế giới thì vô cùng. Lor-ca đi vào cõi khác với hình ảnh: “Lor-ca bơi sang ngang
- trên chiếc ghi ta màu bạc”.
- Các hành động ném lá bùa, ném trái tim vào xoáy nước, vào cõi lặng yên đều mang
nghĩa tượng trưng cho sự giã từ và giải thoát, chia tay thực sự vời những ràng buộc và hệ
luỵ trần gian...
c/ Nghệ thuật :
- Bút pháp vừa tả thực, vừa tượng trưng
- Chuỗi âm “li-la li-la li-la” kết thúc bài thơ gợi lên tiếng vang của chùm hợp âm vĩ
thanh, sau khi phần chính của bản nhạc đã được diễn tấu xong, hoặc khi ca khúc đã dừng
lời.
III/ Kết bài : Kết luận chung về hình tượng Lor-ca, cảm nghĩ về bài thơ,
B. Bài văn tham khảo:( chú ý: dòng chữ in đậm đứng là ý chính, in đậm nghiêng là
trích từ ngữ tiêu biểu để phân tích)
2.6. BÀI NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ ( NGUYỄN TUÂN)
ĐỀ: Phân tích hình tượng ông lái đò trong tác phẩm Người lái đò Sông Đà của nhà văn
Nguyễn Tuân (phần trích trong Ngữ văn 12 Cơ bản, Tập một, NXB Giáo dục – 2009)
A/ Lập dàn ý :
I/ Mở bài : Giới thiệu Nguyễn Tuân, bài tuỳ bút, nêu vấn đề theo đề bài



II/ Thân bài :
1/ Khái quát về bài tuỳ bút : Nêu hoàn cảnh sáng tác, xuất xứ, tóm tắt nội dung
bài tuỳ bút
2/ Phân tích hình tượng ông đò:
a/ Ông lái đò có những ngoại hình và tố chất khá đặc biệt: tay "lêu nghêu", chân
"khuỳnh khuỳnh", "giọng ào ào như tiếng nước trên mặt ghềnh", "nhỡn giới vòi vọi như
lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó"… Đặc điểm ngoại hình và những tố chất này
đợc tạo nên bởi nét đặc thù của môi trường lao động trên sông nước.
b/ Ông lái đò là người tài trí, dũng cảm trong chuyến vượt thác đầy nguy hiểm
c/ Ông lái đò là người tài hoa nghệ sĩ
Qua hình tượng này, Nguyễn Tuân muốn phát biểu quan niệm: người anh hùng
không phải chỉ có trong chiến đấu mà còn có cả trong cuộc sống lao động thường ngày.
Ông lái đò chính là một người anh hùng như thế.
2. Những nét độc đáo trong cách miêu tả nhân vật ông lái đò của Nguyễn
Tuân:
- Nguyễn Tuân chú ý tô đậm nét tài hoa, nghệ sỹ của ông lái đò. Đây là cách viết
phù hợp với quan niệm nghệ thuật về con người của nhà văn, phù hợp với cái nhìn rộng
mở của ông về phẩm chất tài hoa, nghệ sỹ.
- Nguyễn Tuân có ý thức tạo nên tình huống đầy thử thách để nhân vật bộc lộ rõ
phẩm chất của mình. Nhà văn phải huy động tới vốn hiểu biết khá uyên bác của mình về
nhiều lĩnh vực, đặc biệt là quân sự và võ thuật…
- Nguyễn Tuân đã sử dụng ngôn ngữ miêu tả đầy cá tính, giàu chất tạo hình, hoàn
toàn phù hợp với đối tượng. Tác phẩm có rất nhiều từ dùng mới mẻ cùng lối nhân hoá độc
đáo và ví von bất ngờ mà vô cùng chính xác .
III/ Kết bài : Tóm lược về hình tượng, ý nghĩa của hình tượng, mở rộng : liên hệ
thực tế.
- Cảm nghĩ về tác giả.
1. Hoàn cảnh sáng tác
+ Người lái đò sông Đà là một áng văn trong tập tùy bút Sông Đà (1960) – thành quả nghệ
thuật đẹp đẽ của Nguyễn Tuân trong chuyến đi gian khổ và hào hùng tới miền Tây Bắc rộng lớn

của Tổ quốc. Sông Đà gồm 15 thiên tùy bút và một bài thơ ở dạng phác thảo.
+ Mục đích chính của chuyến đi tới Tây Bắc của nhà văn đồng thời cũng là cảm hứng chủ
đạo của cả tập bút ký là tìm kiếm chất vàng của thiên nhiên Tây Bắc và nhất là chất vàng mười –
“thứ vàng đã được thử lửa” ở tâm hồn những con người lao động, chiến đấu trên miền núi sông
hùng vĩ và thơ mộng.
2. Vẻ đẹp hung bạo và trữ tình của hình tượng con sông Đà
* Vẻ hung bạo, dữ dằn :
- Cảnh đá bờ sông “dựng vách thành”, có quãng lòng sông bị thắt hẹp lại như cái yết hầu.
- Những quãng dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió cuồn cuộn luồng gió gùn
ghè suốt năm…
- Những “hút nước” chết người luôn sẵn sàng nhấn chìm và đập tan chiếc thuyền nào lọt vào.


- Tiếng nước thác sông Đà với nhiều cung bậc dữ dội khác nhau
- Quãng sông Đà với bao đá nổi, đá chìm, phối hợp cùng sóng thác như dàn thạch trận, lập
nhiều phòng tuyến… sẵn sàng “ăn chết” con thuyền và người lái đò.
* Vẻ trữ tình, thơ mộng :
- Từ trên cao nhìn xuống, dòng chảy uốn lượn của con sông như mái tóc của người thiếu nữ
diễm kiều.
- Nhìn ngắm con sông từ nhiều thời gian, không gian khác nhau, Nguyễn Tuân đó phát hiện
những sắc màu tươi đẹp và đa dạng của màu nước sông Đà. Nó biến đổi theo mùa, mỗi mùa có
một vẻ đẹp riêng.
- “Nhìn sông Đà như một cố nhân”, nhà văn cảm nhận rõ nét cái chất “đằm đằm ấm ấm” thân
quen của con sông và nhất là cái chất thơ như ngấm vào trong từng cảnh sắc thiên nhiên sông Đà.
- Từ điểm nhìn của một khách hải hồ trên dòng sông, nhà văn đó quan sát và khắc họa những
vẻ đẹp hết sức đa dạng và nên thơ của cảnh vật ven sông.
3.Hình tượng người lái đò
- Là người tinh thạo trong nghề nghiệp
+ Ông lão nắm vững qui luật khắc nghiệt của dòng thác sông Đà “Nắm chắc quy luật của
thần sông thần đá”.

+ Ông thuộc lòng những đặc điểm địa hình của Sông Đà “ nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào
tất cả các luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở”, Sông Đà “như một thiên anh hùng ca
mà ông đò thuộc đến cả những cái chấm than, chấm câu và những đoạn xuống dòng”.
- Là người trí dũng tuyệt vời:Ông sẵn sàng đối mặt với thác dữ, chinh phục “cửa tử”, “cửa
sinh”, vượt qua trận thuỷ chiến với đá chìm, đá nổi, với những trùng vi thạch trận và phòng tuyến
đầy nguy hiểm. Ông lái đò vượt qua bằng những hành động táo bạo và chuẩn xác. Ông hiện lên
như một vị chủ huy dày dạn kinh nghiệm:
+ Ở trùng vây thứ nhất:thần sông dàn ra năm cửa đá thì có đến bốn cửa tử, cửa sinh duy
nhất nằm sát bờ trái và huy độg hết sức mạnh của sóng thác đánh vỗ mặt con thuyền. Luồng song
hung tợn “liều mạng vào sát nách mà đá trái, mà thúc gối vào bụng và hông thuyền”. Thậm chí
còn đánh đòn tỉa, đánh đòn âm… nhưng người lái đò bình tĩnh giữ chắc mái chèo giúp con thuyền
“khỏi bị hất khỏi bờm song trận địa phóng thẳng vào mình”. Ngay cả lúc bị trúng đòn hiểm, mặt
méo bệch đi nhưng ông vẫn tỉnh táo chỉ huy con thuyền lướt đúng vào luồng sinh.
+ Ở trùng vây thứ 2, dòng sông đã thay đổi sơ đồ phục kích và cả chiến thuật. Vòng vây
thứ 2 này tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào. Cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ
hữu ngạn. Nhưng ông đò đã “nắm chắc quy luật của thần sông thần đá” nên lập tức cũng thay đổi


chiến thuật theo, nhận ra cạm bẫy của bọn thuỷ quân nơi cửa ải nước này. Ông không né tránh mà
đưa con thuyền cưỡi lên sóng thác”“cưỡi lên thác Sông Đà, phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ”.
“Nắm chắc được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái, bám chắc lấy luồng nước
đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường chéo vào cửa đá ấy”. Người lái đò tả
xung, hữu đột như một chiến tướng dày dạn kinh nghiệm trận mạc có thừa lòng quả cảm đã đưa
được con thuyền vượt qua tập đoàn cửa tử khiến cho những bộ mặt đá hung hăng dữ tợn phải
xanh lè, thất vọng.
+ Ở trùng vây thứ 3, thạch trận ít cửa tử hơn những bên phải bên trái đều là luồng chết cả,
cửa sinh lại nằm giữa lòng sông và bọn đá hậu vệ canh giữ. Nhưng ông đò không hề bất ngờ trước
mưu mô hiểm độc của bọn chúng, tiếp tục chỉ huy con thuyền vượt qua trùng vây thứ 3.
- Là người tài hoa nghệ sĩ:
+ Ông đối đầu với ghềnh thác cuồng bạo bằng sự tự tin, ung dung nghệ sĩ. Tay lái linh

hoạt, khéo léo, tài hoa như một nghệ sĩ trên sông nước : “ông đò vẫn nhớ mặt bọn này, đứa thì
ông tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến”, “Vút,
vút…thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước”. Dưới bàn tay chèo lái điêu luyện
của ông con thuyền đã hoá thành con tuấn mã hiểu ý chủ- khi thì khéo léo né tránh luồng sóng dữ,
khi thì phóng thẳng vào cửa đá có 3 tầng cổng “cánh mở, cánh khép”. Con thuyền như bay trong
không gian, ông đò luôn nhìn thử thách bằng cái nhìn giản dị mà lãng mạn.
+ Sau cuộc vượt thác gian nan, ông đò lại có phong thái ung dung của một nghệ sĩ “Đêm
ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nước ống cơm lam và toàn bàn tán về cá anh vũ, cá dầm
xanh…”.
 Đây là hình ảnh về một người lao động mới mang vẻ đẹp khác thường. Người lái đò
hiện lên như là vị chỉ huy dày dạn kinh nghiệm, tài trí và luôn có phong thái ung dung pha chút
nghệ sĩ. Ông chỉ huy cuộc vượt thác một cách tài tình, khôn ngoan và biết nhìn thử thách đó qua
bằng cái nhìn giản dị mà không thiếu vẻ lãng mạn. Hình ảnh ông lái đò cho thấy Nguyễn Tuân đó
tìm được nhân vật mới cho mình, những con người đáng trân trọng, đáng ngợi ca, không thuộc
tầng lớp thượng lưu đài các một thời vang bóng mà ngay trong quần chúng lao động bình thường
xung quanh ta. Qua hình tượng người lái đò sông Đà, nhà văn muốn phát biểu quan niệm : người
anh hùng không phải chỉ có trong chiến đấu mà còn có trong cuộc sống lao động thường ngày.
- Đoạn văn tả trận thủy chiến, tập trung khắc họa hình tượng ông lái đò một lần nữa cho thấy sự
uyên bác, lịch lãm của Nguyễn Tuân. ở đây có tri thức, có ngôn ngữ sống động của quân sự, thể
thao, võ thuật, điện ảnh…
4. Nghệ thuật


- Những ví von, so sánh, liên tưởng, tưởng tượng độc đáo, bất ngờ và rất thú vị của tác giả.
- Ngôn ngữ đa dạng, sống động, giàu hình ảnh và có sức gợi cảm cao.
- Câu văn có nhịp điệu, lúc thì hối hả, mau lẹ, khi thì chậm rãi, như tãi ra để diễn tả vẻ đẹp trữ
tình rất nên thơ của con sông.
5. Chủ đề:
Qua hình tượng sông Đà và người lái đò, Nguyễn Tuân muốn thể hiện niềm yêu mến thiết
tha với thiên nhiên đất nước và ngợi ca những con người lao động - chất vàng mười của cuộc

sống.
HƯỚNG DẪN LUYỆN TẬP:
Câu 1. Nêu hoàn cảnh sáng tác bài tuỳ bút “Người lái đò sông Đà(Nguyễn Tuân)
Câu 2. Cảm nhận của anh (chị) về hình tượng sông Đà trong bài tuỳ bút “Người lái đò sông
Đà” (Nguyễn Tuân)
Câu 3. (5 điểm): Cảm nhận của anh (chị) về hình tượng người lái đò trong bài tùy bút “Người
lái đò sông Đà”(Nguyễn Tuân)
Bài Ai đã đặt tên cho dòng sông (Hoàng Phủ Ngọc Tường)
I. Tác giả
- HPNT một trí thức yêu nước, gắn bó mật thiết với xứ Huế, có vốn hiểu biết sâu sắc trên nhiều
lĩnh vực
- Sở trường về tuỳ bút, bút kí
- Lối viết: sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và chất trữ tình với những liên tưởng
mạnh mẽ và một lối hành văn mê đắm, tài hoa trong sáng tác
II. Tác phẩm
1.Hoàn cảnh ra đời, vị trí, bố cục của đoạn trích
* “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” là bài kí xuất sắc được viết tại Huế ngày 4-1- 1981 và
sau đó được in trong tập sách cùng tên.
* Bài bút kí có 3 phần, đoạn trích là phần thứ nhất.
* Đoạn trích gồm hai phần :
- Phần đầu (từ đầu đến “quê hương xứ sở”) : Thủy trình của Hương giang
+ Sông Hương ở thượng lưu (“Trong những dòng sông đẹp… chân núi Kim Phụng”)


+ Sông Hương ở ngoại vi thành phố Huế (“Phải nhiều thế kỉ qua… bát ngát tiếng
gà”)
+ Sông Hương giữa lòng thành phố và khi tạm biệt thành phố: (“Từ đấy… quê
hương xứ sở”)
- Phần cuối (đoạn còn lại) : Sông Hương - dòng sông của lịch sử và thi ca
+ Sông Hương với lịch sử dân tộc (“Hiển nhiên… một lời thề”)

+ Sông Hương với cuộc đời và thi ca (“Sông Hương là vậy” đến hết).
2.Vẻ đẹp của hình tượng sông Hương trong bài bút kí
- Sông Hương ở thượng lưu :
+ Sông Hương - “bản trường ca của rừng già”. ở nơi khởi nguồn của dòng chảy,
gắn liền với đại ngàn Trường Sơn hùng vĩ, con sông toát lên vẻ đẹp của một sức sống mãnh liệt,
vừa hùng tráng vừa trữ tình, như bản “trường ca” bất tận của thiên nhiên.
+ Sông Hương - "cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại". Ví sông Hương với
những cô gái Di-gan, Hoàng Phủ Ngọc Tường muốn tô đậm vẻ đẹp hoang dại nhưng cũng rất tình
tứ của con sông ở thượng nguồn.
+ Sông Hương – “người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở”. Sông Hương
được coi như là một khởi nguồn, một sự bắt đầu của không gian văn hóa Huế. Nó góp phần tạo
nên, gìn giữ và bảo tồn văn hóa của một vùng thiên nhiên xứ sở.
- Sông Hương ở ngoại vi thành phố Huế :
+ Sông Hương - người gái đẹp bừng tỉnh sau một giấc ngủ dài. Sông Hương giống
như “người gái đẹp nằm ngủ mơ màng” giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại được người tình
mong đợi đến đánh thức. Thủy trình của sông Hương khi nó bắt đầu về xuôi tựa “một cuộc tìm
kiếm có ý thức” người tình nhân đích thực của một người con gái đẹp trong câu chuyện tình yêu
lãng mạn nhuốm màu cổ tích.
+ Sông Hương - “vẻ đẹp trầm mặc”, “như triết lí, như cổ thi”. Con sông hiền hòa ở
ngoại vi thành phố Huế như đang nép mình bên “giấc ngủ nghìn năm của những vua chúa” được
phong kín trong lòng "những dòng sông u tịch". Chảy bên những di sản văn hóa ấy, sông Hương
như khoác lên mình tấm áo “trầm mặc” mang cái "triết lí cổ thi” của cổ nhân. Dòng sông hay
chính là dòng chảy của lịch sử vẫn bền bỉ chảy qua năm tháng và đang vọng về trong ngày hôm
nay.
- Sông Hương giữa lòng thành phố Huế :
+ Sông Hương - "điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế”. Sông Hương chảy chậm,
điệu chảy lững lờ vì nó quá yêu thành phố của mình, nó không muốn dời xa thành phố thân



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×