Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Tư liệu tham khảo GDCD 11.Bài 7

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (537.91 KB, 16 trang )

KINH TẾ NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã khẳng đònh: kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo và cùng
với kinh tế tập thể ngày cảng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân của nước ta. Để có được
quan điểm sâu sắc như trên, Đảng ta đã trải qua một quá trình hoàn thiện nhận thức về vai trò của kinh tế nhà
nước.
Trong hơn 20 năm qua, quá trình cải tổ của các nước thuộc hệ thống Xã hội Chủ nghóa (XHCN) đã đi theo hai
con đường khác nhau. Các nước XHCN ở châu Âu lựa chọn con đường quay trở lại chế độ tư bản chủ nghóa
(TBCN). Tuy nhiên, sự quay trở lại con đường TBCN đã không đem lại cho các nước này kết quả mong muốn.
Ngược lại, nhiều nước rơi vào tình trạng suy thoái, hỗn loạn, bò xâu xé bởi các mâu thuẫn dân tộc và âm mưu phá
hoại của các thế lực thù đòch. Việt Nam lựa chọn con đường xây dựng nền kinh tế thò trường (KTTT) đònh hướng
XHCN, tức là xây dựng nền kinh tế, trong đó thừa nhận các loại hình và chế độ sở hữu khác nhau, nhưng công
hữu giữ vai trò chủ đạo, thừa nhận KTTT, thậm chí hội nhập vào nền kinh tế thế giới, theo “luật chơi” của các
nước tư bản, nhưng về mặt chính trò vẫn duy trì nền tảng chính trò của CNXH, trong đó mấu chốt là Đảng cộng
sản cầm quyền, xây dựng nhà nước XHCN có khả năng thi hành các chính sách đònh hướng XHCN. Những thành
tựu trong phát triển kinh tế, ổn đònh xã hội, cải thiện mức sống và nâng cao vò thế quốc gia; trong giữ vững độc
lập, tự chủ, tự quyết đònh các vấn đề đối nội và đối ngoại của Việt Nam ... đã khẳng đònh sự lựa chọn đường lối
phát triển đất nước là đúng đắn.
Tuy nhiên để có được sự nhận thức rõ ràng về kinh tế nhà nước như hiện nay là cả một quá trình hoàn thiện
nhận thức của Đảng ta, bắt đầu từ ý tưởng về xây dựng nền kinh tế XHCN dựa trên chế độ công hữu thuần khiết
được xác đònh trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản Đông Dương, đến tư tưởng xây dựng kinh tế XHCN dựa trên
sở hữu toàn dân và tập thể của Đại hội Đảng lần thứ III... Và, mặc dù đến Đại hội Đảng lần thứ VI, khi đưa ra
chính sách kinh tế nhiều thành phần vẫn chưa có khái niệm "kinh tế nhà nước", song chủ trương của Đảng vẫn là
"đi đôi với phát triển kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, tăng cường nguồn tích luỹ tập trung của Nhà nước và
tranh thủ vốn ngoài nước, cần có chính sách sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế khác"
(1)
.
Đến Đại hội Đảng lần thứ VII, đồng thời với nhận thức về chế độ đa dạng hóa các loại hình sở hữu đã rõ nét
hơn, Đảng đã chuyển sang quan điểm công hữu giữ vai trò chủ đạo, nhưng chưa phân biệt rõ doanh nghiệp nhà
nước và kinh tế nhà nước, nên còn gọi chung sở hữu nhà nước dưới thuật ngữ “kinh tế quốc doanh”. Cùng với đổi
mới quan điểm về chế độ sở hữu, Đại hội Đảng lần thứ VII cũng đưa ra quan điểm rõ ràng hơn về KTTT: "Đổi


mới về kinh tế, chuyển nền kinh tế mang nặng tính tự cấp, tự túc với cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp
sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thò trường có sự quản lý của Nhà nước”; “Cơ
chế vận hành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo đònh hướng XHCN là cơ chế thò trường có sự quản lý
của Nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác”
(2)
; và phân đònh rõ phạm vi quản lý của
Nhà nước và phạm vi tác động của cơ chế thò trường.
Tới Đại hội Đảng lần thứ VIII, ngoài sự khẳng đònh rõ ràng mục tiêu vận hành nền kinh tế theo cơ chế thò
trường có sự quản lý của Nhà nước, theo đònh hướng XHCN do Đại hội VII nêu ra, lần đầu tiên Đảng đưa ra khái
niệm kinh tế nhà nước và vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước: "Kinh tế nhà nước thực hiện tốt vai trò chủ đạo
và cùng với kinh tế hợp tác xã trở thành nền tảng trong nền kinh tế. Kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư
nhân chiếm tỷ trọng đáng kể. Kinh tế nhà nước dưới các hình thức khác nhau tồn tại phổ biến"
(3)
. Đại hội VIII
đồng thời cũng có một số thay đổi đối với các thành phần kinh tế khác, các thành phần kinh tế đều là bộ phận
cấu thành cùng tồn tại lâu dài, tư tưởng kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, cùng kinh tế hợp tác dần trở thành
nền tảng đã cơ bản được hình thành ở Đại hội Đảng lần thứ VIII.
Tới Đại hội Đảng lần thứ IX, lần đầu tiên mô hình KTTT đònh hướng XHCN được chính thức đưa vào văn
kiện của Đảng: " Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh
tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thò trường, có sự quản lý của Nhà nước theo đònh hướng
XHCN; đó chính là nền kinh tế thò trường đònh hướng XHCN"
(4)
. Sự khẳng đònh mô hình KTTT đònh hướng XHCN
là mục tiêu của đất nước ta trong Đại hội IX có hai ý nghóa sâu sắc: một là, khẳng đònh tính nối tiếp của quá trình
đổi mới của nước ta từ Đại hội VI; hai là, xác đònh rõ tính chất thò trường, tính chất nhiều thành phần, trong đó
Nhà nước không những thực thi vai trò chính trò mang bản chất XHCN, mà còn là một thành phần kinh tế cùng
với thành phần kinh tế tập thể tạo nền tảng của chế độ kinh tế mới. Đồng thời, Đại hội IX cũng phân đònh kinh tế
nhà nước có nội hàm rộng lớn hơn so với doanh nghiệp nhà nước, phân đònh sở hữu, thành phần và hình thức tổ
chức kinh doanh, phân đònh quyền chủ sở hữu của Nhà nước và quyền kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước.
Với việc chính thức hoá các đặc điểm nêu trên, Đại hội IX đã đưa ra quan điểm mới về thành phần kinh tế nhà

nước. Thứ nhất, thành phần kinh tế nhà nước dựa trên chế độ sở hữu nhà nước; thứ hai, sở hữu nhà nước có thể
nằm trong tài sản của doanh nghiệp, có thể nằm dưới hình thức khác như ngân sách nhà nước, tài sản công…; thứ
ba, chỉ với toàn bộ sức mạnh của sở hữu nhà nước hậu thuẫn cho chính sách kinh tế của Nhà nước, cho quản lý
của Nhà nước, cho doanh nghiệp nhà nước ...thì Nhà nước mới có thể đònh hướng và điều tiết vó mô nền kinh tế,
điều chỉnh cơ cấu kinh tế…, tức thực thi vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Ngoài ra, Đại hội Đảng lần thứ IX
một lần nữa lại khẳng đònh tư tưởng công hữu phải là nền tảng của chế độ kinh tế XHCN, nhưng quá trình hình
thành nền kinh tế XHCN phải dần dần, trong đó cần phát huy tối đa khả năng sản xuất của các thành phần kinh
tế khác nhằm xây dựng nước ta thành một nước “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Cùng với quá trình đổi mới, phát triển kinh tế của đất nước, sự nhận thức về tổ chức kinh tế nhà nước của
Đảng ngày càng hoàn thiện, thể hiện rất rõ nét tại Đại hội Đảng lần thứ X dưới ba khía cạnh:
Thứ nhất, Đại hội X của Đảng đã phân biệt rõ chế độ sở hữu, thành phần kinh tế và hình thức tổ chức sản
xuất, kinh doanh. Khi nói chế độ sở hữu là nói về quyền của các chủ thể đối với tài sản nằm trong cơ cấu của cải
xã hội. Chế độ sở hữu của nước ta gồm ba loại: toàn dân, tập thể, tư nhân. Như vậy, lần đầu tiên Đảng ta thừa
nhận nền kinh tế quá độ của nước ta là nền kinh tế hỗn hợp, gồm nhiều loại hình sở hữu, mỗi chế độ sở hữu đều
là yếu tố hợp thành chế độ kinh tế chung.
Thành phần kinh tế là tổng hợp sức mạnh có tổ chức của lực lượng kinh tế dựa trên một chế độ sở hữu nhất
đònh. Thành phần kinh tế nhà nước dựa trên sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện, xuất hiện dưới hình thức sở
hữu nhà nước. Thành phần kinh tế tập thể dựa trên sở hữu chung của một nhóm, một tập đoàn người, một cộng
đồng dân cư nhất đònh. Thành phần kinh tế tư nhân dựa trên sở hữu của tư nhân. Đại hội lần thứ X chỉ rõ hai
thành phần kinh tế đặc biệt, đó là thành phần kinh tế tư bản nhà nước dựa trên sở hữu hỗn hợp giữa Nhà nước
XHCN và tư bản tư nhân. Tuy nhiên, ở đây không thể gọi nó là thành phần kinh tế nhà nước vì nó không hoạt
động trực tiếp vì lợi ích toàn dân, cũng không thể gọi nó là thành phần kinh tế tư bản tư nhân vì nó chòu sự chi
phối mang tính XHCN của Nhà nước. Ngoài ra, cần thiết phải tách thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
ra khỏi thành phần kinh tế tư nhân, nhấn mạnh tính đặc thù của thành phần kinh tế này ở chỗ nó chòu sự chi phối
của nước chủ đầu tư. Như vậy, thành phần kinh tế không chỉ bao hàm giác độ sở hữu, mà còn bao hàm sức mạnh
tổ chức, sức mạnh hợp tác của các tổ chức kinh tế hoạt động dựa trên một chế độ sở hữu nhất đònh. Thành phần
kinh tế nhà nước không chỉ bao gồm doanh nghiệp nhà nước, mà còn bao hàm sức mạnh kinh tế đứng đằng sau
các chính sách và hoạt động quản lý kinh tế của Nhà nước, bao hàm khả năng tổ chức và hoạch đònh chính sách
đúng đắn của Nhà nước, sự gắn kết hợp lý của hệ thống doanh nghiệp nhà nước, tài chính nhà nước, luật pháp và
hiệu lực quản lý của Nhà nước. Như vậy, thành phần kinh tế nhà nước đã được hiểu tổng hợp hơn so với các kỳ

Đại hội Đảng trước đây.
Hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh là sự tập hợp tư liệu sản xuất dưới một hình thức nào đó được pháp
luật thừa nhận để trực tiếp tiến hành sản xuất, kinh doanh. Nói cách khác, đó là các loại hình doanh nghiệp khác
nhau. Một doanh nghiệp có thể dựa trên một hoặc nhiều hình thức sở hữu, là công cụ trong tay thành phần kinh tế
đầu tư vốn vào doanh nghiệp để phục vụ cho mục tiêu của chủ đầu tư. Đặc biệt, Đại hội Đảng lần thứ X nhấn
mạnh tầm quan trọng của loại hình doanh nghiệp cổ phần, coi chúng là hình thức doanh nghiệp phổ biến. Thông
qua các doanh nghiệp, thông qua các tổ chức đại diện cho chế độ sở hữu, các thành phần kinh tế phát huy vai trò
của mình trong nền kinh tế. Đại hội nhấn mạnh tầm quan trọng của doanh nghiệp, doanh nhân trong phát triển
kinh tế và tôn vinh những doanh nhân có tài, có đức, thành đạt, làm giàu cho mình và cho Tổ quốc. Cùng với
chính sách cho phép đảng viên được làm kinh tế tư nhân và quyết đònh của Nhà nước coi ngày 13 - 10 hàng năm
là ngày doanh nhân, Đảng, Nhà nước ta đã chính thức thừa nhận vai trò to lớn của doanh nghiệp, doanh nhân nói
chung, doanh nghiệp, doanh nhân tư nhân nói riêng.
Thứ hai, Đại hội Đảng lần thứ X khẳng đònh lại vai trò chủ đạo, nền tảng trong chế độ kinh tế XHCN của kinh
tế nhà nước: “Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước đònh hướng và
điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và thúc đẩy các thành phần kinh tế khác cùng phát triển. Kinh tế nhà nước
cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân"
(5)
. Mặc dù khẳng đònh
lại quan điểm của các kỳ Đại hội trước, nhưng Đại hội Đảng lần thứ X cũng làm rõ nội hàm của khái niệm chủ
đạo của kinh tế nhà nước: Một là, kinh tế nhà nước là lực lượng vật chất giúp Nhà nước đònh hướng XHCN nền
kinh tế quốc dân; hai là, kinh tế nhà nước là sức mạnh đằng sau các chính sách điều tiết của Nhà nước; ba là,
hoạt động của kinh tế nhà nước nhằm để tạo môi trường chung cho mọi thành phần kinh tế, chứ không phải chỉ
cho doanh nghiệp nhà nước; bốn là, khẳng đònh lại một lần nữa kinh tế nhà nước có nội hàm rộng hơn doanh
nghiệp nhà nước, hay nói cách khác, doanh nghiệp nhà nước chỉ là một bộ phận quan trọng của kinh tế nhà nước.
Cùng với việc khẳng đònh vai trò to lớn của kinh tế nhà nước, Đại hội cũng tuyên bố rõ ràng rằng: “Các thành
phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền KTTT đònh hướng XHCN,
bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh”
(6)
Đảng lãnh đạo Nhà nước
thi hành các chính sách kinh tế không phân biệt đối xử với các hình thức sở hữu. Đây là một bước tiến mới về

quan điểm kinh tế nhiều thành phần của Đại hội Đảng X so với các Đại hội trước đây. Hơn nữa, Đại hội chủ
trương đưa hệ thống doanh nghiệp nhà nước ra hoạt động trong môi trường công khai, minh bạch, cạnh tranh thực
sự, xoá bỏ độc quyền, đặc quyền sản xuất, kinh doanh và buộc các doanh nghiệp nhà nước phải hoạt động hiệu
quả mới được tồn tại. Nói cách khác, Đảng quán triệt quan điểm doanh nghiệp nhà nước chỉ nên tồn tại ở những
nơi nó có hiệu quả cá biệt hoặc hiệu quả kinh tế quốc dân, nghóa là tính ưu việt của quan hệ sản xuất XHCN phải
được chứng minh trong môi trường bình đẳng với các quan hệ sản xuất khác. Đại hội cũng nêu rõ các điều kiện
để doanh nghiệp nhà nước có thể phát huy ưu thế của mình, đó là doanh nghiệp nhà nước được giao quyền tài
sản, được thực sự tự chủ, tự chòu trách nhiệm theo nguyên tắc thò trường và pháp luật, tạo cơ chế gắn trách nhiệm
và lợi ích của cán bộ quản lý doanh nghiệp nhà nước với hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, tổ chức lại hệ
thống doanh nghiệp nhà nước hiện có… Như vậy, mặc dù vẫn nói là kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, nhưng
cách thức chủ đạo của kinh tế nhà nước thể hiện ở Đại hội Đảng lần thứ X có nhiều điểm mới so với trước.
Thứ ba, Đại hội Đảng lần thứ X đặt kinh tế nhà nước nói chung, doanh nghiệp nhà nước nói riêng trong môi
trường thò trường đồng bộ, cạnh tranh và hội nhập. Có nghóa là, kinh tế nhà nước nói chung, doanh nghiệp nhà
nước nói riêng phải thích nghi và buộc phải hoạt động trong môi trường KTTT, chấp nhận luật chơi của các tổ
chức kinh tế quốc tế, chấp nhận cạnh tranh trong điều kiện bảo hộ của Nhà nước giảm đến mức tối thiểu. Cụ thể,
" Phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành của các loại thò trường cơ bản theo cơ chế cạnh tranh
lành mạnh. Phát triển thò trường hàng hoá và dòch vụ. Thu hẹp lónh vực nhà nước độc quyền kinh doanh, xoá bỏ
độc quyền doanh nghiệp,…Phát triển vững chắc thò trường tài chính bao gồm thò trường vốn và thò trường tiền tệ
theo hướng đồng bộ, có cơ cấu hoàn chỉnh…..Phát triển thò trường bất động sản, bao gồm thò trường quyền sử dụng
đất và bất động sản gắn liền với đất….Phát triển thò trường lao động trong mọi khu vực kinh tế…Phát triển thò
trường khoa học công nghệ trên cơ sở đổi mới cơ chế, chính sách để phần lớn sản phẩm khoa học, công nghệ trở
thành hàng hoá"
(7)
và “ Đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại, hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn với các thể chế
kinh tế toàn cầu, khu vực và song phương, lấy phục vụ đất nước làm mục tiêu cao nhất”
(8)
. Quan điểm chỉ đạo
kiên quyết này đặt ra cho quản lý của Nhà nước và doanh nghiệp những yêu cầu mới: một là, Nhà nước phải chủ
động thay đổi những phương thức hành động không phù hợp với KTTT và các cam kết quốc tế bằng các phương
thức phù hợp và có hiệu quả hơn. Để làm được như vậy, Nhà nước phải có tiềm lực tài chính lớn, có nghóa là vai

trò của kinh tế nhà nước không giảm đi, ngược lại có thể tăng lên; hai là, doanh nghiệp nhà nước phải được cải tổ
nhanh và chuyển sang các hình thức hoạt động có hiệu quả để tồn tại và đem lại cho Nhà nước một công cụ đònh
hướng, điều tiết tốt. Để làm được như vậy, Đại hội chỉ rõ, “Đẩy mạnh việc sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu
quả doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là cổ phần hoá. Cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, tập trung vào một số
lónh vực kết cấu hạ tầng, sản xuất tư liệu sản xuất và dòch vụ quan trọng của nền kinh tế, vào một số lónh vực
công ích…Thúc đẩy hình thành một số tập đoàn kinh tế mạnh, tầm cỡ khu vực...”
(9)
; ba là, bộ máy nhà nước phải
thích ứng với vai trò mới theo hướng:
- Nhà nước tập trung làm tốt các chức năng vó mô như đònh hướng bằng các chiến lược, kế hoạch, quy hoạch,
cơ chế, chính sách có chất lượng trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc của thò trường; tạo môi trường cho các chủ
thể phát huy tối đa các nguồn lực; hỗ trợ phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội; bảo đảm tính bền vững và
tích cực của các cân đối vó mô…;
- Nhà nước tác động đến thò trường chủ yếu thông qua cơ chế, chính sách và các công cụ kinh tế;
- Thực hiện quản lý nhà nước bằng hệ thống pháp luật, giảm tối đa sự can thiệp hành chính vào hoạt động
của thò trường và doanh nghiệp;
- Tách chức năng quản lý hành chính của Nhà nước ra khỏi chức năng quản lý kinh doanh của doanh nghiệp,
xoá bỏ “chế độ chủ quản”;
- Tách hệ thống hành chính ra khỏi hệ thống các cơ quan đơn vò hoạt động sự nghiệp;
Bốn là, đội ngũ cán bộ công chức nhà nước phải có trình độ chuyên môn giỏi hơn, chuyên nghiệp hơn và nhất
là phải thành thạo ngoại ngữ và sử dụng các phương tiện làm việc hiện đại như công nghệ thông tin, luật pháp
quốc tế...
Tóm lại, quan điểm của Đại hội Đảng lần thứ X về kinh tế nhà nước vừa là sự kế thừa quan điểm của chủ
nghóa Mác – Lê-nin, quan điểm của các kỳ Đại hội trước, vừa phát triển lên một mức cao hơn và giải thích rõ hơn
các nội dung liên quan đến kinh tế nhà nước như mối quan hệ của nó với thành phần kinh tế khác, cấu thành của
kinh tế nhà nước, vai trò và nội dung chủ đạo của kinh tế nhà nước, phương thức hoạt động của kinh tế nhà nước
trong nền kinh tế thò trường, hội nhập và quan hệ giữa nhà nước kinh tế và nhà nước chính trò… Những điểm phát
triển này tạo cơ sở lý luận và nhận thức đúng đắn cho các đảng viên, nhất là các đảng viên giữ vai trò lãnh đạo,
quản lý. Song, có thể nhận thấy, thực tiễn vận hành kinh tế nhà nước sẽ còn đặt ra nhiều yêu cầu mới phải tiếp
tục nghiên cứu và hoàn chỉnh về lý luận.

Trần Thò Minh Châu

(1)
Văn kiện Đại hội đại biểu taòn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, H.1987, tr 56.
(2)
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, H.1991,tr 55.
(3)
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trò quốc gia, H.1996,tr 81.
(4)
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trò quốc gia, H.2001,tr 68.
(
5
)
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trò quốc gia, Hà Nội. 2006, tr83
(
6
)
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trò quốc gia, Hà Nội . 2006, tr 83.
(
7
)
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trò quốc gia, H.2006, tr 80-82.
(
8
)
Sđ d tr 113-114.
(
9
)
Sđ d tr 85

Nhà Thuỷ điện Hoà Bình.

PHÁT TRIỂN HP TÁC XÃ Ở NƯỚC TA TRONG GIAI ĐOẠN MỚI
I. Tình hình hợp tác xã hiện nay
Phát triển kinh tế tập thể mà nòng cốt là hợp tác xã là một tất yếu khách quan. Điều đó đã được khẳng đònh
trong đường lối phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước ta. Các hình thức hợp tác xã cũng đã ra đời từ
rất sớm ở nước ta. Trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp, điển hình có hợp tác xã dân chủ ở Thái
Nguyên, cách nay đã gần 60 năm. Quá trình phát triển kinh tế hợp tác xã trải qua các giai đoạn cách mạng đã có
những đóng góp to lớn vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, vào sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước.
Bước vào thời kỳ đổi mới, từ năm 1986 đến cuối những năm 90 của thế kỷ XX, do nhiều nguyên nhân, nhưng
chủ yếu là chuyển đổi cơ chế quản lý, thay đổi cơ cấu tổ chức quản lý của hệ thống hợp tác xã, những yếu kém,
khuyết tật và bất cập của mô hình cũ trong điều kiện mới, ... nên khu vực hợp tác xã đã lâm vào một cuộc khủng
hoảng sâu sắc, nhiều hợp tác xã tan rã. Đến tháng 12-1996, trước khi thực hiện Luật Hợp tác xã, cả nước chỉ còn
lại 17.462 hợp tác xã (so với trên 79.000 hợp tác xã thời điểm trước năm 1986). Trong đó, giảm nhiều nhất là các
hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp, hợp tác xã tín dụng, số hợp tác xã mua bán còn lại không đáng kể.
Luật Hợp tác xã được ban hành và có hiệu lực từ năm 1997, nhất là sau khi có Nghò quyết số 13-NQ/TW ngày
18-3-2002 Hội nghò Trung ương 5, khóa XI về "Tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập
thể", khu vực hợp tác xã đã dần khắc phục tình trạng yếu kém, tạo những bước phát triển mới, thể hiện trên các
mặt, như sau:
Đến tháng 6-2007, cả nước có trên 320.000 tổ hợp tác, so với 2001 tăng 32,6%, gấp hơn 2,5 lần so với năm
1997. Có 17.599 hợp tác xã, trong đó số hợp tác xã mới được thành lập chiếm tới 57,59 %; 39 liên hiệp hợp tác
xã tăng so với năm 2001 là 17,8%. Các tổ hợp tác, hợp tác xã thu hút trên 12,5 triệu xã viên.
+ Số lượng đã tăng lên đáng kể. Tiếp tục khẳng đònh các tổ hợp tác, hợp tác xã vẫn là khu vực kinh tế - xã
hội rộng lớn nhất. Đến tháng 6-2007, cả nước có trên 320.000 tổ hợp tác, so với 2001 tăng 32,6%, gấp hơn 2,5 lần
so với năm 1997. Có 17.599 hợp tác xã, trong đó số hợp tác xã mới được thành lập chiếm tới 57,59 %; 39 liên
hiệp hợp tác xã tăng so với năm 2001 là 17,8%. Các tổ hợp tác, hợp tác xã thu hút trên 12,5 triệu xã viên. Trong
lónh vực nông, lâm, diêm nghiệp, có 8.535 hợp tác xã và trên 100.000 tổ hợp tác, với khoảng 8,3 - 8,5 triệu xã
viên, hộ xã viên tham gia. hợp tác xã cũng có xu thế phát triển mạnh trong lónh vực tín dụng nhỏ, giao thông vận
tải, tiểu thủ công nghiệp. Có 934 quỹ tín dụng nhân dân với gần 1,1 triệu thành viên và trên 150.000 các tổ tín
dụng.

+ Các hợp tác xã cũ cơ bản đã được chuyển đổi xong theo quy đònh của Luật Hợp tác xã; giải thể các hợp tác
xã hình thức, không còn hoạt động. Thời gian qua, cả nước đã chuyển đổi 8.700 hợp tác xã cũ; từ năm 2000 đến
nay đã giải quyết được gần 4.000 hợp tác xã cũ, trong đó tiếp tục chuyển đổi trên 1.400 hợp tác xã, giải thể trên
2.300 yếu kém, không còn hoạt động. Đến nay, cả nước chỉ còn tồn tại trên 300 hợp tác xã (chủ yếu là hợp tác xã
nông nghiệp) chưa làm xong các thủ tục giải thể, nhưng cũng không còn hoạt động.
+ Các hợp tác xã mới phát triển mạnh theo hướng nâng cao hiệu quả, đa dạng hơn. Đến nay, cả nước đã có
5.200 hợp tác xã mới được thành lập. Bên cạnh các lónh vực truyền thống, nhiều mô hình hợp tác xã trong các
ngành, nghề mới xuất hiện, như hợp tác xã vệ sinh môi trường, hợp tác xã nước sạch, hợp tác xã điện, hợp tác xã
quản lý kinh doanh chợ... Cũng xuất hiện các mô hình hợp tác xã gắn với đáp ứng nhu cầu đời sống, kinh tế của
các giới, các tầng lớp, các nhóm đối tượng khác nhau, như hợp tác xã của phụ nữ, của thanh niên, của những
người tàn tật, của cựu chiến binh, do nhà chùa, nhà thờ... Từ kinh nghiệm quốc tế, một số mô hình mới cũng đang
được Liên minh Hợp tác xã Việt Nam nghiên cứu triển khai ở một số nơi, như hợp tác xã trường học, hợp tác xã
nhà ở, hợp tác xã y tế...
+ Các tổ hợp tác tuy có các tên gọi khác nhau (tổ hợp tác, tổ tín dụng và trợ vốn, tổ và tập đoàn sản xuất,
nhóm sản phẩm, câu lạc bộ, hiệp hội ngành nghề...), nhưng về bản chất vẫn là các tổ chức hợp tác xã, được hình
thành xuất phát từ nhu cầu thực sự của người dân, phát triển mạnh trong các lónh vực tín dụng, sản xuất nông
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp. Nhiều tổ hợp tác đã được tổ chức chặt chẽ và tuân thủ các nguyên tắc của hợp tác
xã.
+ Các hợp tác xã (chuyển đổi cũng như thành lập mới) nhìn chung đã tuân thủ các nguyên tắc, quy đònh của
Luật Hợp tác xã. Các hợp tác xã được củng cố một bước về tổ chức quản lý, vốn quỹ, về trách nhiệm và quan hệ
giữa xã viên với hợp tác xã. Hoạt động của các hợp tác xã được đổi mới, thiết thực gắn với lợi ích của các thành
viên. Phần lớn hợp tác xã có kế hoạch, phương án hoạt động cụ thể. Các hợp tác xã nông nghiệp đã làm được các
khâu dòch vụ cơ bản, phục vụ sản xuất nông nghiệp; số các hợp tác xã làm các dòch vụ tổng hợp có xu hướng
tăng, hoạt động có hiệu quả hơn.
+ Liên kết giữa các hợp tác xã với nhau bước đầu được tăng cường, nhất là giữa các hợp tác xã cùng ngành
nghề và trên cùng đòa bàn. Một số hợp tác xã đã hợp nhất lại với nhau thành các hợp tác xã lớn hơn hoặc liên kết
lại với nhau về tổ chức, thành lập các liên hiệp hợp tác xã hoặc hiệp hội ngành nghề để tăng khả năng cạnh
tranh và hiệu quả hoạt động. Trong 5 năm gần đây, cả nước đã có 540 hợp tác xã hợp nhất lại thành 144 hợp tác
xã lớn hơn; có 39 liên hiệp hợp tác xã thu hút hơn 300 hợp tác xã thành viên (năm 2001 có 8 liên hiệp hợp tác
xã).

+ Các tổ hợp tác, hợp tác xã tập hợp trên 12,5 triệu người lao động, hộ kinh tế gia đình, kinh tế cá thể, tiểu
chủ, các cơ sở sản xuất, kinh doanh nhỏ phân bố trên một khu vực kinh tế - xã hội rộng lớn có tác động quan
trọng, không thể thay thế được đối với nhiều ngành, nhiều lónh vực kinh tế, nhất là những ngành nghề như nông
nghiệp, thủy hải sản, tín dụng nhỏ, tiểu thủ công nghiệp, vận tải hàng hóa, hành khách... và có tác dụng thiết
thực đến đời sống, công ăn việc làm, thu nhập của khoảng 47 - 50 triệu người, chủ yếu ở khu vực nông thôn và
những tầng lớp có thu nhập thấp. Các tổ chức hợp tác xã còn đóng góp to lớn trong xây dựng kết cấu hạ tầng kinh
tế - xã hội, nhất là ở nông thôn, như xây dựng cơ sở vật chất cho giáo dục tiểu học, mẫu giáo, y tế.
Nhìn chung, hoạt động của hợp tác xã không những phục vụ các nhu cầu kinh tế, đời sống của xã viên, hộ xã
viên và phát triển cộng đồng là chủ yếu, mà còn đóng góp tới 6,83% GDP của đất nước. Thông qua các hoạt
động của mình, các tổ hợp tác, hợp tác xã đã khẳng đònh được vai trò quan trọng không chỉ đối với sản xuất, kinh
doanh, mà còn trở thành nhân tố không thể thay thế, góp phần thúc đẩy dân chủ hóa, bảo đảm an sinh xã hội, ổn
đònh chính trò ở cơ sở.
Tuy có những chuyển biến tích cực như đã nêu ở trên, nhưng cũng phải thừa nhận rằng hợp tác xã vẫn chưa
thoát khỏi tình trạng yếu kém, còn nhiều khó khăn và bất cập lớn. Cụ thể là:

×