Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

VẬN DỤNG KIẾN THỨC LIÊN MÔN ĐỂ GIẢI QUYẾT CÁC TÌNH HUỐNG THỰC TIỄN tình huống Giới thiệu về mảnh đất Từ Liêm yêu dấu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.26 MB, 22 trang )

BÀI DỰ THI
VẬN DỤNG KIẾN THỨC LIÊN MÔN
ĐỂ GIẢI QUYẾT CÁC TÌNH HUỐNG THỰC TIỄN
DÀNH CHO HỌC SINH TRUNG HỌC
MÔN: LỊCH SỬ

- Sở Giáo dục và Đào tạo Thành Phố Hà Nội
- Phòng Giáo Dục và Đào tạo Quận Nam Từ Liêm
- Trường: Trung học cơ sở Mễ Trì
- Địa chỉ: Phường Mễ Trì, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội
- Điện thoại: 043.7851576
- Email:
- Tên tình huống: “Giới thiệu về mảnh đất Từ Liêm yêu dấu”
- Môn học chính được HS vận dụng trong giải quyết tình huống:
Lịch Sử
- Các môn học tích hợp: Địa lý, Lịch sử, Ngữ văn
- Thông tin về học sinh:
1. Họ và tên: Ngô Phương Anh
Ngày sinh: 25/06/2002

Lớp: 7A4

2. Nguyễn Thị Thu Hường
Ngày sinh: 11/11/2002

Lớp: 7A4

1


MỤC LỤC


Thông tin chung:...................................................................................................1
1. Tên tình huống:.................................................................................................3
2. Mục tiêu giải quyết tình huống:........................................................................3
3. Tổng quan về các nghiên cứu liên quan đến việc giải quyết tình huống...........3
4. Giải quyết tình huống:.......................................................................................4
5. Thuyết minh tiến trình giải quyết tình huống:...................................................4
6. Ý nghĩa của việc giải quyết tình huống:..........................................................17

2


1. TÊN TÌNH HUỐNG
Năm 2013, đoàn cán bộ UBND huyện, cán bộ giáo viên và học sinh của
huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn - huyện miền núi vùng sâu vùng xa của tỉnh Lạng
Sơn - đơn vị mà giữa năm 2013 Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Từ Liêm đã
lên thăm và tặng quà cho các bạn học sinh nghèo, học sinh người dân tộc thiểu số
về thăm, làm việc và giao lưu với giáo viên và học sinh trường THCS Mễ Trì và
một số trường khác trên địa bàn Từ Liêm, Hà Nội. Các bác lãnh đạo, các thầy cô
giáo và các bạn học sinh của tỉnh bạn rất muốn biết về Lịch sử văn hoá Từ Liêm.
Thật vinh dự và tự hào biết bao khi em được thay mặt cho các bạn học sinh các
trường, “Giới thiệu về mảnh đất Từ Liêm yêu dấu” với các thầy cô giáo và các
bạn học sinh.
2. MỤC TIÊU GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG
- Giúp các thầy, cô giáo và các bạn học sinh huyện Bình Gia, tỉnh Lạng
Sơn có thểm những hiểu biết sâu rộng về quê hương Từ Liêm của những học
sinh như chúng em.
- Nhằm nâng cao lòng tự hào và bồi đắp tình yêu với quê hương.
- Khơi gợi ý thức trách nhiệm trong việc xây dựng, giữ gìn và phát huy
những thành quả của cha ông đối với mỗi vùng đất nói riêng.
3. TỔNG QUAN VỀ CÁC NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC GIẢI

QUYẾT TÌNH HUỐNG
Để các thầy cô giáo và các bạn học sinh huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn
có được những hiểu biết về quê hương Từ Liêm, em đã vận dụng kiến thức các
môn học sau:
- Môn Địa lý: Bài 20. Vùng đồng bằng sông Hồng với phần “Đặc điểm tự
nhiên và khí hậu đồng bằng sông Hồng”.
- Môn Lịch sử: Lịch sử địa phương Hà Nội; Bài 12. Đời sống kinh tế văn
hoá thời Lý; Bài 15. Sự phát triển kinh tế, văn hoá thời Trần (lớp 7)
- Môn Ngữ văn: Thuyết minh về một di tích lịch sử - danh lam thắng
cảnh; Chương trình địa phương Phần văn, các bài văn thơ đã học…
- Giáo dục Công dân: Bảo vệ di sản văn hoá, Xây dựng đời sống văn hoá
ở khu dân cư

3


- Sưu tầm tài liệu từ các trang web: /> …..
4. GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG
Để giải quyết tình huống, em đã vận dụng kiến thức liên môn đã được học
tập trong nhà trường kết hợp với những hiểu biết của bản thân về mảnh đất
Thăng Long – Đông Đô – Hà Nội và đặc biệt là Lịch sử hình thành, phát triển Từ
Liêm để giới thiệu với các thầy, cô giáo và các bạn học sinh huyện Bình Gia,
Lạng Sơn. Việc giới thiệu có thể tiến hành dưới ba hình thức:
- Một là: Có thể giới thiệu đến các thầy cô giáo và các bạn học sinh thông
qua việc thuyết trình trong hội trường, kết hợp với các hình ảnh để các quý vị đại
biểu có thể nắm sơ lược về lịch sử hình thành và phát triển của mảnh đất Từ
Liêm, một số danh làm thắng cảnh, di tích lịch sử tiêu biểu của Từ Liêm, giới
thiệu một số đặc sản của Từ Liêm thông qua bài thuyết trình và kết hợp với các
đoạn video.
- Hai là: Giới thiệu Lịch sử Từ Liêm với những nét đặc sắc tiêu biểu nhất

thông qua việc cùng với đoàn đến thăm một số địa điểm tiêu biểu của Từ Liêm
- Ba là: Trước khi đoàn đến giao lưu, làm việc với trường THCS Mễ Trì,
sẽ gửi trước nội dung các bài thuyết trình kèm tư liệu để đoàn tìm hiểu trước rồi
để có thể bước đầu có niềm yêu thích và hiểu biết về Từ Liêm…
5. THUYẾT MINH TIẾN TRÌNH GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG
Kính thưa các thầy, cô giáo và các bạn học sinh!
Từ Liêm đầu công nguyên thuộc huyện Luy Lâu, sau thuộc quận Giao
Chỉ.Đến năm 621 SCN lập huyện Từ Liêm cùng hai huyện Ô Diên và Vũ Lập
thuộc Từ Châu.
Dưới thời Lý, Trần huyện Từ Liêm thuôc quận Vĩnh Khang. Năm Minh
Mệnh thứ 12 (1831) nằm 1 trong 3 huyện của phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Nội.
Năm 1888, Thực dân Pháp thành lập thành phố Hà Nội, 1 số xã thuộc
huyện Từ Liêm trước đây được cắt vào khu ngoại thành Hà NỘi, đến năm 1915
khu vực này đổi thành huyện Hoàn Long – Tỉnh Hà Đông. Sau đó vua Khải định
ra đạo dụ (26-12 – 1918) quy định các phủ ngang các huyện thì huyện Từ Liêm
bỏ đi chỉ còn phủ Hoài Đức thuộc tỉnh Hà Đông.

4


Sau cách mạng tháng 8 năm 1945, chính quyền cách mạng chia ra nhiều
hành đơn vị hành chính nhỏ sau nhiều lần đổi tên :
Tháng 5-1946, ngoại thành chia thành 5 khu : Lãng Bạc, Đại La, Đống Đa,
Đề Thám, Mê Linh.
Đầu năm 1947, địch chiếm một số vùng ở ngoại thành nên năm khu được
tổ chức thành ba quận: khu Lãng Bạc và Đại La xác nhập thành quận 4: Chia
Khu Đống Đa, Đề Thám, Mê Linh thành hai quận 5 và 6.

Thiếu nữ Hà Thành xưa


Người dân Hà Nội sau giải phóng

Từ tháng 12-1949 đến tháng 10-1953 thông nhất 3 quận IV ,V,VI thành
quận ngoại thành. Dưới quận ngoại thành được chia thành 9 miền có kí hiệu A,
B, C, D, E, G, H, I, K.Các miền A, B, C là địa bàn của huyện Từ Liêm.
Từ xưa huyện Từ Liêm đã có đường giao thông đương thủy thuận tiện:
+Phía bắc có sông Hông và hai nhánh sông Tô và sông Nhuệ chạy
dọc theo chiều dài huyện.
+Trên tuyến đê sông Hồng có các bến đò cổ: Chèm, Sù, Kẻ qua
sông sang xứ Kinh Bắc.
Từ năm 1010,Từ Liêm là cửa ngõ chính cua thủ đô. Do đặc điểm vị trí mà
Từ Liêm trở thành địa bàn có ý nghĩa cơ động và chiến lược về mặt quân
sự. Miền đất này vừa là vành đai, áo giáp bảo vệ thủ đô, vừa là cửa ngõ miền
trung du, trung tâm quân sướn Tây, căn cứ địa Việt Bắc xuống đồng bằng Bắc
bộ, tiến vào thành phố.Với vị trí như vậy Từ Liêm vừa xây dựng căn cứ, phòng
thủ vừa tiến công kẻ thù.
Từ Liêm nằm trong vùng đồng bằng phì nhiêu của các dòng sông Hồng,
sông Nhuệ nên nơi đây là một trong những địa bàn sinh tụ của cư dân Văn Lang
thời dựng nước.

5


Từ Liêm thuộc châu thổ Sông Hồng

Từ Liêm lưu dấu nhiều di chỉ

Qua khai quật các di chỉ khảo cổ học ở thôn Ngọc Long cho thấy những di
chỉ này thuộc văn hóa Phùng Nguyên-đầu thời kì đồng thau cách ngày nay
khoảng 4000-3500 năm trươc Công nguyên.

Kết quả khai quật, nghiên cứu các di chỉ khảo cổ trên địa bàn huyện do
Viện Khảo cổ học việt Nam tiến hành trong những năm 1968-1969 cho thấy:
Tại di chỉ Vinh Quang trong tầng văn hóa lớp trên đã thấy nhiều dụng cụ
như lưỡi dìu chiến, búa chiến, mũi tên...
Những đồng tiền bán lạng Lữ Hậu (178 – 180 TCN. .)

Công cụ sản xuất của người dân

Một số mũi tên, dao cổ

Kết quả khai quật, nghiên cứu các di chỉ khảo cổ trên địa bàn huyện do
Viện Khảo cổ học việt Nam tiến hành trong những năm 1968-1969 cho thấy:
Tại di chỉ Vinh Quang trong tầng văn hóa lớp trên đã thấy nhiều dụng cụ
như lưỡi dìu chiến, búa chiến, mũi tên...
Những đồng tiền bán lạng Lữ Hậu (178 – 180 TCN. .) đẩy mạnh sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội và cũng trực tiếp chống Mỹ khi Mỹ thực hiện kế
hoạch leo thang ra miền Bắc.
6


Sọ người khai quật được ở Từ Liêm

Một số mảnh gốm còn sót lại

Ở tầng văn hóa lớp dưới đã thấy nhiều công cụ sản xuất đồ trang sức, tiền
ốc, các loại đồ gốm có màu sắc, hoa văn trang trí phong phú và 11 sọ người niên
đại các - bon phóng xạ di chỉ là 1095 năm trước Công Nguyên.
Kết quả khai quật, nghiên cứu các di chỉ khảo cổ trên địa bàn huyện do
Viện Khảo cổ học việt Nam tiến hành trong những năm 1968-1969 cho thấy:
Tại di chỉ Vinh Quang trong tầng văn hóa lớp trên đã thấy nhiều dụng cụ

như lưỡi dìu chiến, búa chiến, mũi tên...
Những đồng tiền bán lạng Lữ Hậu (178 – 180 TCN. .
Ngôi mộ cổ khai quật ở khu vực Cầu Giếng có niên đại khoảng 200 năm
TCN. Những viên gạch được tráng men nâu mỏng xác định từ thế kỷ thứ l đến
thế kỷ thứ III, cách đây khoảng 2000 năm. Nhiều ngôi mộ cổ được phát hiện
dưới lòng đất làng Chèn, Vẽ, đó là khu mộ Hán có niên đại từ thế kỷ I đến thế kỷ
VI sau công nguyên, thời nước ta thuộc đông Hán.
Di vật trong lăng mộ gồm: Kiếm sắt, kiếm đồng, nhẫn vàng bạc, bình đồng
tiền vò, cốc chén và cả mồ hình nhà, giếng nước, bếp lò bằng gạch nung. Như
vậy huyện Từ Liêm thời ấy đã có người sinh sống.
Ngay từ buổi đầu lịch sử của dân tộc, cư dân nơi đây chung lưng đấu cật,
cùng nhau khai phá đất đai, chống chọi với thiên nhiên, lập xóm làng sống sung
túc. Nghề nghiệp chính của họ là sản xuất nông nghiệp, cấy lúa, trồng màu, nuôi
tằm, chăn nuôi ... Các di vật cho thấy lúc đó đã có một bộ phận cư dân sinh sống,
trở thành nước Văn Lang của các vua Hùng chủ nhân của nền văn minh sông
Hồng rực rỡ.
Từ Liêm trước năm 1831 là một huyện thuộc phủ Quốc Oai của tỉnh Sơn
Tây. Sau khi thành lập tỉnh Hà Nội thì Từ Liêm là một huyện của phủ Hoài Đức.
7


Huyện Từ Liêm được thành lập trên cơ sở sáp nhập hai quận 5 và 6 của Hà Nội
cũ (bao gồm các xã Cổ Nhuế, Xuân Đỉnh, Đông Ngạc, Thụy Phương, Xuân La,
Nhật Tân, Quảng An, Phú Thượng, Xuân La (thuộc quận 5 cũ), Dịch Vọng, Mai
Dịch, Nghĩa Đô, Mễ Trì, Mỹ Đình, Nhân Chính, Yên Lãng (thuộc quận 6 cũ))
cùng với một số xã như Trung Văn, Tây Tựu, Liên Mạc, Phú Diễn, Minh Khai,
Thượng Cát, Xuân Phương, Hữu Hưng của hai huyện Hoài Đức và Đan Phượng,
theo quyết định số 78/QĐ ngày 31 tháng 5 năm 1961 của Chính phủ Việt Nam,
gồm 26 xã: Cổ Nhuế, Dịch Vọng, Đông Ngạc, Hữu Hưng, Liên Mạc, Mai
Dịch, Mễ Trì, Minh Khai, Mỹ Đình, Nghĩa Đô, Nhân Chính, Nhật Tân, Phú

Diễn, Phú Thượng, Quảng An, Tây Tựu, Thượng Cát, Thụy Phương, Trung
Hòa, Trung Văn, Tứ Liên, Xuân Đỉnh, Xuân La, Xuân Phương, Yên Hòa, Yên
Lãng.
Ngày 19 tháng 2 năm 1964, chia xã Hữu Hưng thành 2 xã: Tây Mỗ và Đại
Mỗ. Ngày 9 tháng 8 năm 1973, chuyển xã Yên Lãng về quận Đống Đa quản lý
(sau chia thành 2 phường: Láng Hạ và Láng Thượng). Ngày 20 tháng
4 năm 1978, 2 xã Phú Diễn và Minh Khai hợp nhất thành xã Phú Minh
Ngày 13 tháng 10 năm 1982, thành lập 3 thị trấn: Cầu Giấy (trên cơ sở
tách ra từ xã Dịch Vọng), Cầu Diễn (trên cơ sở tách ra từ các xã Mai Dịch, Mỹ
Đình và Phú Minh), Nghĩa Đô (trên cơ sở giải thể xã Nghĩa Đô)
Ngày 17 tháng 9 năm 1990, thành lập thị trấn Mai Dịch (trên cơ sở giải thể
xã Mai Dịch và điều chỉnh một phần diện tích thị trấnCầu Diễn) và chia lại
xã Phú Minh thành 2 xã cũ là Phú Diễn và Minh Khai.
Ngày 17 tháng 4 năm 1992, chia thị trấn Nghĩa Đô thành 2 thị trấn: Nghĩa Đô
và Nghĩa Tân.
Đến cuối năm 1994, huyện Từ Liêm có 5 thị trấn: Cầu Giấy, Nghĩa Đô,
Nghĩa Tân, Mai Dịch, Cầu Diễn và 24 xã: Thượng Cát, Liên Mạc, Thụy Phương,
Đông Ngạc, Phú Thượng, Nhật Tân, Tứ Liên, Tây Tựu, Minh Khai, Phú Diễn,
Cổ Nhuế, Xuân Đỉnh, Xuân La, Quảng An, Xuân Phương, Tây Mỗ, Đại Mỗ, Mỹ
Đình, Mễ Trì, Dịch Vọng, Yên Hòa, Trung Hòa, Nhân Chính, Trung Văn.

8


Ngày 28 tháng 10 năm 1995, tách 5 xã: Tứ Liên, Nhật Tân, Quảng An,
Xuân La, Phú Thượng với tổng diện tích đất tự nhiên 1.619,9 ha và 32.080 nhân
khẩu để thành lập quận Tây Hồ
Ngày 22 tháng 11 năm 1996, tách xã Nhân Chính với diện tích đất tự
nhiên 160,9 ha và 9.229 nhân khẩu để thành lập quận Thanh Xuân; 4 thị trấn
(Cầu Giấy, Mai Dịch, Nghĩa Đô, Nghĩa Tân) và 3 xã (Dịch Vọng, Yên Hòa,

Trung Hòa) với tổng diện tích đất tự nhiên 1.210 ha và 82.914 nhân khẩu đã tách
khỏi huyện để thành lập quận Cầu Giấy
Ngày 27 tháng 12 năm 2013, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam đã ký ban
hành Nghị quyết 132/NQ-CP điều chỉnh địa giới hành chính huyện Từ Liêm để
thành lập hai quận mới là Bắc Từ Liêm và Nam Từ Liêm
Nói đến Từ Liêm là nói đến những giá trị văn hoá vô cùng đặc sắc của một
vùng miền.Trải qua quá trình hình thành và phát triển lâu dài, Từ Liêm xưa và
nay luôn là vùng đất gắn bó chặt chẽ với Thăng Long – Hà Nội. Bên cạnh cư dân
bản địa từ xa xưa, có cư dân từ các địa phương, qua nhiều thời đại đến sinh sống,
bảo vệ lẫn nhau. Ở địa bàn tiếp giáp với kinh kì, trải qua hàng ngàn năm lao động
với đôi bàn tay khéo léo và sáng tạo, người dân Từ Liêm đã sản xuất ra những
sản phẩm nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp nổi tiếng như:
+ Cốm Vòng, gạo tám Mễ Trì
+ Tương bần, húng Láng còn gì ngon hơn.
+ Nói đến rau, quả không thể không nhắc đến: su hào, bắp cải, cà chua,dưa
hấu Tây Tựu; ngoài cam Canh đã được ghi nhận vào sử sách ngàn xưa,
nay thêm bưởi Phú Diễn, Minh Khai, hồng Xiêm Xuân Đỉnh làm giàu cho
cây trái Thủ đô.

Cốm Vòng

Cam Canh
9


Với truyền thống lao động cần cù, đôi tay khéo léo người dân Từ Liêm còn
chế biến ra các món ăn ngon như giò Chèm, nem Vẽ, bánh đúc làng Kẻ, bánh tẻ
làng Diễn, bánh trung thu…..
Về tiểu thủ công nghiệp, nghề dệt thêu ren đạt kĩ nghệ tinh xảo ở Miêu
Nha, Đại Mỗ; làng Vẽ, làng Dộc Cơ thạo nghề hàng nan với các sản phẩm: chè

quang song, đan mũ nan, quạt lá đề, đĩa mây; liềm seo giấy, đan bồ ở Ngọc Trục,
ép dầu ở Đống Ba, làm thừng, đậu phụ ở Đại Cát.

Đậu phụ làng Đại Cát

Bánh tẻ làng Diễn

Cùng với đó từ xưa nghề rèn ở Hòe Thị đã kéo ra phố Lò Rèn và các cửa ô
để sản xuất dao, kéo, lưỡi liềm …phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân.về sau
sản xuất bu lông làm cầu Long Biên và đường xe lửa Hà Nội - Lang Sơn. Lang
Thị Cấm, ngọc Mạnh có nghề tráng gương, thơ kim hoàn làm vàng bạc và các đồ
trang sức.
Nghề may Cổ Nhuế tuy mới xuất hiện đầu thế kỉ XX nhưng phát triển
nhanh, trở thành một làng chuyên may quần áo binh lính. Sự tác động của quan
hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa vào Từ Liêm những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ
XX đã làm thay đổi cơ cấu xã hội, nhiều ngành nghề mới xuất hiện, càng gắn
liền Tư Liêm với Hà Nội của thực dân Pháp ở Đông Dương.

10


Cổ Nhuế nổi tiếng với nghề may

Nghề rèn Hoè Thị

Bên cạnh đó, Từ Liêm là vùng đất có nhiều di tích lịch sử văn hóa, kiến
trúc tạo hình, gắn liền với những doanh nhân quê hương. Nhiều di tích lịch sử
văn hóa được nhà nước công nhận là những di tích cấp quốc gia và được coi là
một trong những huyện có nhiều di tích lịch sử văn hóa. Những nhân vật lịch sử
đã trở thành các vị thần thành hoàng làng và các sinh hoạt văn hóa lễ hội sinh

động cũng thấy nổi nổi lên quá trình lịch sử phát triển của quê hương. Lịch sử
văn hóa nhà đã được nhà nước công nhận là những di tích quốc gia và được coi
là một trong những huyện có nhiều di tích lích sử văn hóa. Tiêu biểu là ngôi đình
Chèm được xây dựng từ thế kỷ IX thờ Lý Ông Trọng, nét đặc sắc nhất là năm
1917 hiệp thợ Vương Văn Định. Các ngôi đình Thượng Cát, Đại Cát thờ các thủ
lĩnh của Hai Bà Trưng. Đây là các di tích kiến trúc thời Lê đồ sộ. Đáng chú ý là
cụm di tích xã Đại Mỗ với nhiều di tích đươc bảo quản chu đáo.

Đền thờ Lý Ông Trọng - Chèm

Đình Thượng Cát

11


Đền thờ Nguyễn Quý Đức - Đại Mỗ

Đình Chèm hướng ra sông Hồng

Cùng với những di tích nổi tiếng, nhân dân Từ Liêm có những hoạt động luôn
gắn liền với những lễ hội. Tiêu biểu nhất là các làng quê ở phía tây đồng bằng
Bắc Bộ với các lễ hội đã thành câu ca, câu:
“Bơi Đăm, rước Giá, hội Thầy
Vui thì vui vậy, chẳng tày giã La”
Theo truyền thống mọi sự chuẩn bị cho ngày hội bơi Đăm được tiến hành
từ đầu năm. Ngày mồng 9-3 là ngày mở đầu cho lễ hội. Nghi thức quan trọng
nhất của ngày hôm đó là đám rước Thánh từ miếu xuống đình. Sau khi tế lễ ở
đình, làm lễ cáo yết ở miếu là rước ngai của Thánh về đình. Đám rước long trọng
với đủ lệ bộ và nghi trượng cùng những vị có trọng trách trong ngày hội với đông
đảo dân làng. Đám rước đi theo đường làng từ miếu Thượng về đình. Tới đình,

kiệu của ngài đặt ở chính ngự ngoài. Sau đó, các tay đô cùng bô lão rước ngai
của ngài vào đình và ngự tại đó.
Ngày hội bắt đầu bằng cuộc tế lễ long trọng của hội đồng bô lão trong
làng. Mọi nghi thức tế lễ được thực hiện từ chính ngự trong qua quãng sân trước
cửa đình vào đến trong đình. Các bước tế lễ của mỗi tuần tế đều bắt đầu từ chính
ngự trong vào đình. Trong lúc các bô lão tiến hành tế lễ, trong đình ở hai gian
cạnh có trải sẵn chiếu để khách thập phương và bà con dân làng chuẩn bị dâng lễ
lên bàn thờ Thánh. Người ra vào nườm nượp với đủ các loại lễ vật…
Một hồi chiêng trống nổi lên, một số trai kiệu cùng các cụ rước ngai thánh
từ trong đình ra chính ngự trong. Kiệu đi thẳng từ chính ngự trong qua chính ngự
ngoài tới đường làng trước ao đình. Tới trước cửa Thủy đình, kiệu hạ xuống, các
12


trai kiệu cùng các cụ rước kiệu vào đặt tại bệ giữa nhà Thủy tạ, cờ quạt, chấp
kích được đặt trước mặt kiệu thánh, hướng mặt ra sông. Một hồi chiêng trống nổi
lên, pháo ở nhà Thủy tạ, hai bên bờ sông và trong đình được đốt nổ giòn giã báo
hiệu ngài đã an vị.

Hiệu lệnh chuẩn bị đua thuyền là khi tiếng chiêng, trống và tiếng pháo nổ
giòn giã lúc kiệu thánh đã an vị ở Thủy tạ. Các thuyền đua ở các ngả từ từ tiến
vào gần Thủy tạ trong tiếng reo hò vang dậy của người dân 3 thôn cổ vũ cho
thuyền đua làng mình.

Ba thôn Thượng, Trung Hạ, mỗi thôn có hai thuyền đua. Xưa có thêm một
thuyền thứ 7 gọi là thuyền quan. Thuyền quan không đua mà chỉ làm nhiệm vụ
bơi theo quan sát cuộc đua. Thuyền đua dài tới 15 m gồm 18 trai bơi và 6 người
khác là ông lái (người lái thuyền), ông dô (người bắt nhịp, chỉ huy), ông phất cờ,
ông phất cờ, ông cầm lạng (người cầm sào, một đầu có móc sắt hình chữ U để
chống và đẩy thuyền khi thuyền sát vào thuyền khác), một người tát nước và một

trọng tài có nhiệm vụ chỉ huy ngồi theo dõi các trai bơi và những người trong
thuyền không được vi phạm các luật lệ quy định. Trai bơi được chọn trong độ
tuổi từ 20-35 có kinh nghiệm và khỏe mạnh. Mỗi cuộc đua được tiến hành qua 6
vòng. Sáng ngày 10-3 bơi hai vòng, chiều một vòng. Ngày 11-3 bơi ba vòng và
kết thúc hội bơi, trao giải. Thuyền được giải có vinh dự chở ngai của Thánh từ
Thủy tạ về miếu Thượng. Khác với các lễ hội bơi chải khác, ở Lễ hội bơi Đăm
công tác tuyển chọn khá khắt khe: các tay bơi phải có độ tuổi 29-35, mạnh khỏe,
13


tư cách đạo đức tốt. Trai bơi sẽ được nhân dân đóng góp trong xã nuôi ăn trong
20 ngày trước lễ hội. Hội bơi Đăm được tổ chức trên dòng sông Nhuệ đoạn chảy
qua xã Tây Tựu. Trước đó, hai bên bờ sông được thực hiện tổng vệ sinh, giải
phóng các hàng quán trái phép hai bên bờ, khai thông dòng chảy. Đồng thời,
trong những ngày diễn ra đua thuyền, trên mặt đất diễn ra những trò thả chim, thi
cờ người, chọi gà.
Lễ hội bơi Đăm truyền thống nhằm phát huy những truyền thống tốt đẹp,
lâu đời chống giặc ngoại xâm, bảo vệ đất nước, bảo vệ đất nước, ghi nhớ công
lao to lớn của các anh hùng dân tộc, các thế hệ cha ông, những người có công với
nước với dân, kế thừa tiếp thu những tinh hoa văn hóa lịch sử truyền thống, trong
sáng và quý giá, giáo dục con người phát huy những bản chất tốt đẹp, uống nước
nhớ nguồn, sống thủy chung, tình nghĩa. Lễ hội được tổ chức là nguồn cổ vũ
động viên mạnh mẽ, thắt chặt tình đoàn kết tôn vinh màu sắc làng hoa Tây Tựu
trên mảnh đất nghìn năm văn hiến.
Những hoạt động văn hóa trong ngày hội đã thể hiện nét đẹp văn hóa, tình
thần thương võ sự thông minh và bàn tay tài hoa của những thế hệ truớc.
Đặc biết, Từ Liêm là vùng đất có nhiều người học giỏi đỗ cao và tiêu biểu
nhất vùng Mỗ, La, Canh, Cót. Đồng sĩ tam giáp có hàng chục người trúng tam
khôi. Một số người đỗ Thám Hoa. Sau tam khôi có 13 người đỗ hoàng giáp, 108
người đỗ tiến sĩ, 347 người đỗ cử nhân. Từ Liêm còn là vùng đất sinh ra nhiều

nhân tài lỗi lạc nổi tiếng.

Thám hoa Nguyễn Quý Đức

Danh nhân văn hoá Phan Phu Tiên

Nói về nhân tài, người xưa có câu “Nhất Mỗ. Nhì La thứ ba Canh Cót”. Ấy
là câu tục ngữ ca ngợi các làng của huyện Từ Liêm có nhiều người tài giỏi thành
14


danh. Trong cái nhất Mỗ (tức Đại Mỗ) thì ba đời của Tể tướng Nguyễn Qúy Đức
đứng đầu, đã góp phần làm rạng danh không những cho huyện Từ Liêm mà còn
cho nước nhà.
Nguyễn Quý Đức ((1648-1720), tên hiệu là Đường Hiên, người làng Thiên Mỗ
huyện Từ Liêm (nay là làng Đại Mỗ, xã Đại Mỗ, huyện Từ Liêm, ngoại thành Hà
Nội). Thuở nhỏ, ông nổi tiếng hiếu học, năm lên 8 tuổi, ông đã theo đến học ông
chú họ là Tri huyện Vọng Doanh (tự là Đạo Thông). Học cùng với quan Tri huyện
chỉ mới năm sáu năm mà nghĩa lý, bút pháp của ông đều hết sức tinh thông. Ông
thông minh, đĩnh ngộ khác thường, nên người đương thời khen là "kỳ đồng". Năm
Bính Thìn đời Lê Hy Tông, niên hiệu Vĩnh Trị 1 (1676), ông thi đình đỗ Thám hoa
(Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ đệ tam danh).
Năm ấy ông 29 tuổi, được bổ ngay làm Hàn lâm viện Đãi chế. Biết được tài
năng và tư cách của ông, các vua Lê chúa Trịnh liên tục thăng chức cho ông. Năm
Tân Dậu (1681) niên hiệu Chính Hoà thứ 2 đời Lê Hy Tông, ông được phong
Thiêm sai Bồi tụng và thăng luôn Lễ khoa Cấp sự trung.
Năm Canh Ngọ (1690) niên hiệu Chính Hoà thứ 11, ông được sung làm
Chánh sứ làm việc đi tuế cống. Mùa thu năm ấy đi sang nhà Thanh, khi về ông
được thăng Hình bộ tả thị lang, tước Liêm Đường nam và nhiều chức vị khác. Năm
1691 (niên hiệu Chính Hoà 12), ông được cử đi sứ Trung Quốc.


Ông làm quan đến Lại bộ thượng thư kiêm Đông các đại học sĩ, tước Liêm
15


quận công. Năm Đinh Sửu (1697) niên hiệu Chính Hoà thứ 18, ông vâng mệnh
soạn tập Đại Việt sử kí tục biên và đem khắc ván in. Từ đó ông được tham dự vào
nhiều việc cơ mật của triều đình. Năm Quý Mùi (1703) niên hiệu Chính Hoà thứ
24, chúa Trịnh Căn cùng triều đình bàn luận chọn người nối nghiệp, song chưa biết
lập ai, ông chỉ nói một lời mà ngôi chúa liền được quyết định, bèn lập chắt đích tôn
là Trịnh Cương lên làm chúa.
Ông được kiêm chức Phụ tá, được tặng kim bài khắc 8 chữ Thuỷ chung
toàn nghĩa, dữ quốc đồng hưu. Năm ông 61 tuổi, ông vẫn được thăng chức Binh bộ
Thượng thư, đứng đầu bách quan kiêm tri Quốc tử giám, nắm giữ then chốt giúp
nước. Vì thế mà dân có câu khen: "Tể tướng Quý Đức, thiên hạ hưu tức" (Nghĩa là:
Quý Đức là Tể tướng, thiên hạ được yên nhàn). Sinh thời, ông lấy việc giáo dục
anh tài làm trách nhiệm của mình, thường hay hội họp học trò trường Giám để bình
văn suốt ngày không mỏi, cuối cùng làm cho văn thể của nho học trở lại thuần hậu
tốt lành hơn. Ông có công tu tạo Văn Miếu - Quốc Tử Giám, chủ trì việc biên soạn
văn bia và dựng nhiều tấm bia tiến sĩ ở đây. Chúa Trịnh có lần nói với thị thần:
"Tài văn học của người này hiện nay hiếm có, ngoài cái tính cố chấp ngang ngạnh
thì có thể nói là một người toàn diện".
Năm ông 70 tuổi, lấy cớ già yếu, ba lần dâng sớ xin hưu mới được triều
đình phê chuẩn. Được gia tặng Thái tể Quốc lão tham dự triều chính, trí sĩ. Ngày
vào bệ kiến từ tạ, nhà vua đã ngự bút ban cho hai bài thơ, một cỗ xe bồ luân, một
đôi ngựa, lại sức cho dân các xã các tổng trong huyện (quê ông) phải đi nghênh
đón, lại ban cho 30 mẫu ruộng để tỏ rõ ân nghĩa lâu dài. Khi về trí sĩ, ông đi tiêu
dao thăm thú sơn thuỷ, có xây một toà đình đặt tên là Lạc Thọ đình (tại thôn Ba
Lật, nay là Gò Thượng ở làng Phú Thứ). Ông cùng Quốc lão Đặng Đình Tướng và
Thượng thư Nguyễn Đương Bao, xã Tây Mỗ thường xướng họa thơ văn ở đây. Sau

ông lại cho mời người Tây Dương về vẽ truyền thần một bức chân dung. Ông có
làm một số bài thơ Nôm đề Lạc Thọ đình (Đề thơ ở đình Thọ Lạc) rất giản dị mà
thâm thúy, bày tỏ được tấm lòng trung hậu vẹn toàn của mình:
Quê kệch hãy còn đeo cổ thể
Khôn ngoan chửa chút hợp thời trang.
Vốn hay hai chữ gìn hai chữ
16


Ngại học một đường làm một đường.
Nay thẳng ơn trên đà xét biết
Cho nên được dự bậu xênh xang.
Ông tuy đã trí sĩ về nhà, nhưng hàng tháng vẫn được tuyên triệu vào triều để
hỏi han công việc. Có thể nói, ông được triều đình trọng dụng cho đến tận lúc lìa
xa cuộc đời. Ông mất tại chính tẩm, hưởng thọ 73 tuổi. Nghe tin ông mất, triều
đình vô cùng thương tiếc, liền sai các quan đến điếu viếng và tuyên bá dụ tế rằng:
"Công lịch sĩ tam triều, trung cần vị quốc, công lao đa tại, kim nhật cự nhĩ tức thế,
thậm ai tích chi. (Ông trải thờ ba triều vua, trung cần vì nước, công lao còn lại
nhiều, nay vội vàng lìa đời, rất là thương tiếc). Triều đình dành cho ông nhiều nghi
thức đặc biệt, truy tặng nhiều tước hiệu và ban cho nhiều bổng lộc cho con cháu
và cho dân làng. Âu cũng là sự báo đền xứng đáng cho một vị quan thanh liêm tài
năng có công với dân với nước.
Điều đặc biệt và cao quý hơn cả là Ông được dân làng Đại Mỗ phong làm
Phúc thần, thờ phụng như thành hoàng làng, trải qua các triều đều có phong tặng
sắc là Dực bảo trung hưng chi thần, xếp vào hàng Trung đẳng phúc thần. Ông là
một vị quan thanh liêm mẫu mực cứng cỏi, đồng thời cũng là một vị Nho học tài
giỏi có những vần thơ uyển chuyển tinh tế. Sinh thời, ngoài viết sử, đề tựa sách
Việt sử thông khảo, ông còn sáng tác nhiều thơ văn. Hiện trong kho thư tịch cổ còn
lưu giữ được một số tập thơ của ông, như Thi châu tập, Hoa trình thi tập và 72 bài
thơ chép trong Toàn Việt thi lục cùng rất nhiều thơ Nôm chép trong Nguyễn Qúy

thị văn phả. Hiện ở đình làng Đại Mỗ còn lưu giữ bản thần tích ghi về hành trạng
của ba vị công thần triều Lê (dòng họ Tể tướng Nguyễn Quý Đức) có công với
nước và nhất là với làng Đại Mỗ.
Ông là một vị quan thanh liêm do tài năng và đức độ, có công lao lớn với
nước với dân nên được phong làm Phúc thần ở làng, vì thế trong bản thần tích đã
ghi chép một số yếu tố ly kỳ. Chẳng hạn, nói về việc sinh ra ông, bản thần tích viết
rằng: "Bà phu nhân có lần đi gánh nước đêm, chợt thấy một ngôi sao sa vào thùng
nước, từ đó phu nhân có thai, mang thai đủ 13 tháng thì sinh ra ngài." Khi mới sinh
ra, hai tay đều có nốt ruồi, một nốt ở gan bàn tay trái và một nốt ở lưng bàn tay
phải. Có lẽ yếu tố truyền kỳ này không ngoài dụ ý ca ngợi tư chất kỳ tài của ông
17


ngay từ lúc lọt lòng, để rồi khi ông mất đi và cho tới ngày nay, dân làng vẫn tôn
kính thờ cúng để ghi nhớ công ơn. Hiện nay ở địa phương còn truyền tụng về dòng
họ Nguyễn Qúy rằng:
Đỉnh giáp nhất môn thiên hạ hữu
Phúc thần tam diệp thế gian vô.
Nghĩa là:

Khoa giáp một cửa tập trung, chỉ có trong thiên hạ
Phúc thần ba đời tiếp nối, chưa từng thấy ở thế gian.

Con Nguyễn Quý Đức là Nguyễn Quý Ân và cháu là Nguyễn Quý Kính đều đố
tiến sĩ và đều thành đạy trên quan trường.

Ngoài ra đất mảnh đất Từ Liêm còn rất nhiều những nét đẹp văn hoá khác
để cùng với những làng nghề truyền thống, những sản phẩm thủ công đầy tinh
xảo như ở các địa phương khác như gốm Bát Tràng, lụa La Khê, đồ đồng Ngũ
Xã, sơn mài Hà Thái... cùng những làng hoa, cây cảnh nổi tiếng như Nhật Tân,

Quảng Bá, Nghi Tàm tạo lên nét đẹp văn hiến cũng như sự phát triển đa dạng
mọi mặt của Hà Nội. Đến với Từ Liêm, người ta không thể bỏ qua cơ hội thưởng
thức những món ăn đặc trưng vùng miền, những di tích lịch sử, đình đền lễ hội
truyền thống cũng như không thể không đến những địa danh nổi tiếng mới được
xây dựng trong những năm gần đây như: Sân vận động quốc gia Mỹ Đình, Bảo
tàng Hà Nội….Mong rằng sẽ có dịp để em giới thiệu nhiều hơn nữa đến các thầy
cô giáo và các bạn học sinh trong các bài giới thiệu khác.

Từ Liêm đang đổi mới từng ngày

Sân vận động Mỹ Đình

18


Bảo tàng Hà Nội

Đại lộ Thăng Long

6. Ý NGHĨA CỦA VIỆC GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG
Bài giới thiệu của em đã giúp các thầy cô giáo và các bạn học sinh huyện
Bình Gia, Lạng Sơn thêm hiểu biết sâu sắc, yêu mến tự hào về Thủ đô Hà Nội
yêu dấu cũng như có những trải nghiệm trên mảnh đất Từ Liêm xưa và Nam Từ
Liêm nay, ý thức rõ hơn về vai trò, trách nhiệm của mình trong việc bảo vệ, giữ
gìn và phát huy những giá trị văn hóa và tiềm năng sẵn có của Thủ đô, của quê
hương từ đó tạo sự gắn kết giữa 2 vùng đất giàu ân nghĩa, giàu truyền thống văn
hóa: Nam Từ Liêm – Bình Gia. Bài giới thiệu cũng giúp em tự tin, vững vàng
hơn với những kiến thức được học về các bộ môn Địa lí, Lịch sử, Ngữ văn, Giáo
dục Công dân...nhận thức đầy đủ hơn về ý nghĩa việc “Học đi đôi với hành”.
Do sự hiểu biết còn nhiều hạn chế nên bài trình bày của em không tránh

khỏi còn những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự chỉ bảo, bổ sung ý kiến từ
các thầy giáo, cô giáo và các bạn học sinh!
Em xin trân trọng cám ơn!
Nam Từ Liêm, ngày 24 tháng 11 năm 2014
Nhóm tác giả
Ngô Phương Anh
Nguyễn Thị Thu Hường

19


20


Học sinh trình bày
Học sinh thuyết trình

Thăm quan chùa Mễ Trì Thượng

Thắp hương mộ Tổ họ Đỗ

Thăm đền thờ ông Hoàng Ba

Thăm quan đình Mễ Trì Thượng

PHỤ LỤC
MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

21



Bài thu hoạch của học sinh

Bài thu hoạch của học sinh

22



×