Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Sáng Kiến Kinh Nghiệm Một Số Biện Pháp Giúp Học Sinh Lớp Ba Giải Bài Toán Bằng Hai Phép Tính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.14 KB, 14 trang )

I.Tên đề tài
MỘT SỐ BIỆN PHÁP
GIÚP HỌC SINH LỚP BA GIẢI BÀI TOÁN BẰNG HAI PHÉP TÍNH
II. Đặt vấn đề
1. Tầm quan trọng của giải bài toán bằng hai phép tính ở lớp 3:
Toán học là khoa học nghiên cứu một số mặt của thế giới hiện thực, có một hệ thống
kiến thức cơ bản và phương pháp nhận thức rất cần thiết cho việc học môn khác. Môn toán
có khả năng giáo dục nhiều mặt: phát triển tư duy logic, rèn luyện phương pháp suy nghĩ,
phương pháp giải quyết vấn đề có căn cứ khoa học. Góp phần phát triển trí thông minh, tư
duy độc lập, sáng tạo, giáo dục ý chí và những đức tính tốt như cần cù, nhẫn nại, ý thức tự
giác. Môn toán ở tiểu học là một môn học chiếm một vị trí quan trọng. Từ thực tế cuộc
sống, đòi hỏi đáp ứng yêu cầu giáo dục toàn diện cho HS tiểu học để các em có được kĩ
năng và phẩm chất cơ bản hòa nhập kịp vào thực tế cuộc sống.
Toán ở cấp tiểu học là cơ sở, là nền tảng để các em tiếp cận được môn toán ở các bậc
học cao hơn, đồng thời nó sẽ theo các em suốt quãng đời học tập và công tác về sau. Đối
với chương trình toán lớp 3 nó như mở ra một bước ngoặt mới là tiền đề, cơ sở vững chắc
để học sinh học các lớp trên. Với lứa tuổi ở lớp 3, giải toán bằng hai phép tính rất khó khăn
vì các em mới được tiếp cận, càng khó khăn hơn đối với học sinh học chậm. Đây là một
vấn đề rất nan giải, đòi hỏi mỗi giáo viên phải luôn trăn trở và quan tâm.
Tâm lí của học sinh tiểu học lại ngại khó và dễ thành thói quen nên sự thụ động, thiếu tự
tin trong học tập là vấn đề có thể xảy ra, làm ảnh hưởng đến con đường tương lai của các
em.
Việc thực hiện dạy học theo chuẩn kiến thức kĩ năng, hướng tới nội dung yêu cầu cần đạt
là các yêu cầu cơ bản tối thiểu mà tất cả học sinh cần phải đạt được sau khi học, đòi hỏi
mỗi giáo viên cần có cách tổ chức và dạy học phù hợp đối tượng học sinh.
Trăn trở với suy nghĩ trên tôi đã cố gắng theo dõi, tìm hiểu nguyên nhân và những khó
khăn của học sinh để tìm ra cách tổ chức và dạy học phù hợp đối tượng học sinh, nhằm tạo
cho các em niềm tin vững chắc trong học toán cũng như trong cuộc sống và đã đem lại kết
-1-



quả thật khả quan trong năm học 2014-2015. Năm học 2015-2016 tôi tiếp tục nghiên cứu
đề tài này nhằm áp dụng cho học sinh lớp 3 trường Tiểu học Nguyễn Ngọc Bình.
2. Những thực trạng liên quan đến vấn đề này:
Qua thực tế nhiều năm giảng dạy ở lớp 3, bản thân tôi đã rút ra những vấn đề sau:
- Học sinh lớp 3 mới tiếp cận chương trình về giải bài toán bằng hai phép tính, kĩ năng đọc
hiểu của các em chưa cao nên việc xác định đề gặp nhiều khó khăn.
- Các em không biết cách làm lời giải, không biết thực hiện phép tính theo yêu cầu, không
biết giải bài toán.
- Kĩ năng vận dụng kiến thức vừa học để giải bài tập còn hạn chế.
- Khả năng tư duy, suy nghĩ của các em còn yếu.
- Các em chưa xác định được dạng toán.
3. Lý do chọn đề tài:
Qua nhiều năm tôi miệt mài nghiên cứu, viết đề tài Một số biện pháp giúp học sinh
lớp 3 giải bài toán bằng hai phép tính, áp dụng thành công trong năm học 2014-2015 ở
lớp 3C trường Tiểu học Nguyễn Ngọc Bình và đã được HĐKH phòng GD & ĐT Đại Lộc
công nhận xếp loại B cấp huyện. Năm học 2015-2016, trong quá trình giảng dạy theo mô
hình trường học mới VNen, thì phương pháp dạy này có nhiều cái hay hơn và áp dụng
được cho tất cả HS khối lớp Ba của trường nên tôi tiếp tục nghiên cứu để bổ sung vào đề
tài này trong năm học 2015-2016 cho tất cả HS khối lớp Ba trường Tiểu học Nguyễn Ngọc
Bình nhằm giúp học sinh lớp 3 có kĩ năng vận dụng kiến thức đã học để biết phân tích, xác
định được yêu cầu đề bài và giải được các bài toán bằng hai phép tính một cách chính xác
về lời giải cũng như phép tính theo yêu cầu đề ra để giúp học sinh lớp 3 có kĩ năng vận
dụng kiến thức đã học để biết phân tích, xác định được yêu cầu đề bài và giải được các bài
toán bằng hai phép tính một cách chính xác về lời giải cũng như phép tính theo yêu cầu đề
ra, nhằm làm nền tảng để các em giải toán nhiều phép tính ở lớp 4,5,... Từ đó tôi luôn tìm
tòi, học hỏi, trao đổi kinh nghiệm cùng đồng nghiệp và đã áp dụng một số biện pháp vào
giảng dạy giải bài toán bằng hai phép tính ở lớp 3 để giúp các em thực hành được và tốt

-2-



hơn. Đó chính là lí do tôi chọn chuyên đề: Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải bài
toán bằng hai phép tính tiếp tục trong năm học này.
4. Giới hạn nghiên cứu đề tài:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài:
+ Học sinh lớp 3C năm học 2014-2015 của trường tiểu học Nguyễn Ngọc Bình.
+ Học sinh khối lớp Ba năm học 2015-2016 của trường tiểu học Nguyễn Ngọc Bình.
Thời gian nghiên cứu:
+ Năm học 2014-2015 và năm học 2015-2016
+ Nghiên cứu theo cách dạy hiện hành và cách dạy theo mô hình mới Trường tiểu
học VNEN.
III/ Cơ sở lý luận:
Trong hoạt động dạy và học muốn có hiệu quả cao thì trước hết người giáo viên phải
nắm vững được cấu trúc chương trình, sự liên đới trong toán học, nắm vững phương pháp
đặc trưng của từng phân môn, phải có sự chuẩn bị đầy đủ các phương tiện dạy học, phải
biết chắc lọc lựa chọn phương pháp dạy học phù hợp. Đặc biệt mỗi giáo viên trong quá
trình dạy học phải biết chú ý đến việc tiếp thu kiến thức của học sinh và sự hình thành kĩ
năng thực hành thì quá trình dạy học mới đem lại hiệu quả.
IV/ Cơ sở thực tiễn:
Theo chương trình toán lớp 3 hiện hành cũng như theo chương trình toán lớp 3
VNEN hiện nay mà Trường tiểu học Nguyễn Ngọc Bình đang dạy thí điểm thì tất cả các
tiết học toán đều có các bài toán có lời văn.
Thực trạng chung:
1. Thuận lợi:
- Trường Tiểu học Nguyễn Ngọc Bình có thư viện được công nhận thư viện tiên tiến theo
quyết định 01 nên tư liệu dạy học cũng như các loại sách tham khảo đầy đủ phục vụ cho
giáo viên cũng như học sinh.
- Theo chương trình dạy học VNEN hiện nay mà trường đang thực hiện về sách giáo khoa
đã thể hiện 3 trong 1, có các hình thức dạy học qua các logo cụ thể, nội dung chương trình
-3-



được nhẹ hóa so với chương trình hiện hành, mỗi bài học có mục tiêu cụ thể để phụ huynh,
giáo viên và các em học sinh nắm được yêu cầu cần đạt của bài.
- Học sinh được tiếp cận với phương pháp dạy học mới: dạy học theo hướng tích cực hoá
hoạt động của HS.
- Học sinh đã có nền tảng học các dạng toán đã học từ lớp dưới.
- Nội dung chương trình có sự sắp xếp thuận lợi, phần ôn tập củng cố kiến thức xen lẫn và
thường xuyên.
- Dạy học theo mô hình VNEN và đánh giá theo chuẩn kiến thức kĩ năng hiện nay đã tạo
cho các em sự mạnh dạn, tự tin, bày tỏ ý kiến về bất kì vấn đề nào với thầy cô cũng như
với bạn bè. Từ đó tạo cơ hội cho nhiều em tự tin, mạnh dạn, tự học, tự tìm tòi và trao đổi
để vươn lên.
- Hằng năm, giáo viên được tập huấn chương trình VNEN nên luôn có sự hướng dẫn, chỉ
đạo từ các cấp trên để có sự thay đổi thường xuyên, điều chỉnh về cách đánh giá cũng như
tài liệu hướng dẫn học ngày càng hợp lí, tròn trĩnh hơn để dần hoàn thiện về cách dạycách học- cách đánh giá.
2. Khó khăn:
- Các bài toán về giải bằng hai phép tính, HS lớp 3 mới được tiếp cận vào giữa học kì I
nhưng có rất nhiều dạng, lại xen kẽ với giải toán 1 phép tính nên đa số học sinh làm không
được vì chưa xác định được đề, còn quen với bài toán giải bằng 1 phép tính.
- Học sinh không đọc kĩ đề, không phân tích kĩ đề, không xác định được dữ liệu nào đã
cho, dữ liệu nào cần tìm và không biết nên bắt đầu tìm cái gì để giải được bài toán.
- Nhiều HS có tính không cẩn thận, thậm chí chưa có thói quen nháp bài trước khi làm
mà chỉ nhẩm rồi ghi kết quả vào, không chu đáo kiểm tra lại bài toán khi tính toán và khi
làm xong bài.
- Học sinh học chậm môn Tiếng Việt thì thường đọc đề không trôi chảy, khó hiểu đề,
viết lời giải lủng củng không sát với yêu cầu của đề.
- Đáp số cũng quan trọng nhưng nhiều HS ít chú ý, chỉ ghi đáp số cuối cùng mà không
quan tâm đến yêu cầu của đề hoặc không có tên đơn vị.
-4-



- Các em chưa có phương pháp tự học, tự suy nghĩ độc lập và chưa biết trao đổi, thực
sự giúp đỡ lẫn nhau trong học tập.
- Khả năng tiếp thu học sinh không đồng đều, nhiều học sinh khả năng tiếp thu còn hạn
chế.
- Học sinh chưa thực sự chăm chỉ trong học tập, chưa có động cơ trong học tập.
- Việc HS thực hành giải toán bằng hai phép tính còn có nhiều hạn chế về: nhận dạng
toán, lập kế hoạch giải bài toán, các bước giải bài toán, hạn chế về lời văn khi trình bày
giải toán. Do đó kết quả bài làm của HS chưa cao. Đa số học sinh chưa có thói quen trong
việc kiểm tra kết quả bài làm của mình.
- Một số phụ huynh thiếu sự quan tâm đến việc học con em, phó thác hết tất cả cho giáo
viên.
- Cụ thể qua theo dõi trong thời gian (Từ tuần 10 đến hết tuần 14), HS tiếp cận và làm
quen với giải toán bằng hai phép tính của lớp 3D tôi phụ trách chỉ có:
+ 30 % HS giải được các bài toán bằng hai phép tính ở mức độ cần đạt.
+ 40 % HS chưa xác định được dạng toán, lời giải chưa chính xác, tính toán sai,
nhầm lẫn hoặc chỉ tính có 1 phép tính.
+ 30 % HS chưa giải được bài toán bằng hai phép tính.
Các em rất ngại suy nghĩ khi làm bài, đặc biệt là các em HS học chậm, học trung bình việc
tính toán còn chậm thì giải toán bằng hai phép tính lại càng khó khăn hơn rất nhiều .
V. Nội dung nghiên cứu
- Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải toán bằng hai phép tính.
1 / Thực trạng ban đầu của học sinh
Số HS giải
Thời gian

Cuối tháng 11

-5-


Số HS chưa có

Số HS chưa

được toán bằng hiện phép tính

lời giải đúng

giải được toán

hai phép tính

theo yêu cầu

bằng hai phép

của đề
22,8 %

tính

30 %

Số HS thực
sai khi giải
17,2 %

30 %



Vào cuối tháng 11, khối 3 tổ chức khảo sát chất lượng, dựa vào kết quả làm bài của
học sinh tôi phân ra các loại đối tượng:
+ Chưa giải được bài toán bằng hai phép tính.
+ Giải bài toán bằng hai phép tính nhưng sai về lời giải.
+ Giải bài toán bằng hai phép tính nhưng sai về phép tính.
+ Giải được bài toán bằng hai phép tính.
Từ đó, giáo viên bố trí chỗ ngồi đều trong các nhóm cho phù hợp để học sinh hoạt
động thảo luận, trao đổi, học hỏi, giúp nhau giải toán. Tăng cường đôi bạn cùng tiến và
việc kiểm tra bài lẫn nhau.
2/ Giúp học sinh nắm được trình tự của việc giải một bài toán bằng hai phép tính.
Bước 1 : Đọc kĩ đề, tìm hiểu đề và xác định dạng toán.
Đây là bước quan trọng, giáo viên cần phải cho học sinh đọc thầm 2, 3 lần và giáo viên
đến từng nhóm hướng dẫn học sinh học chậm phân tích đề, nêu được đề bài yêu cầu gì?
Tìm ra đâu là dữ kiện đã biết, đâu là dữ kiện chưa biết và bài toán thuộc dạng nào?
Ví dụ 1 : Bài 3a /59 STN (Q1B)
Trong Hội khỏe Phù Đổng, đội tuyển của một tỉnh đã giành được 8 huy chương vàng, số
huy chương bạc nhiều gấp 3 lần số huy chương vàng, Hỏi đội tuyển đó đã giành được tất
cả bao nhiêu huy chương vàng và bạc?
- HS phải hiểu được :
+ Bài toán cho biết: Huy chương vàng là 8 cái, huy chương bạc nhiều gấp 3 lần số huy
chương vàng.(dạng toán gấp một số lên nhiều lần để tìm số huy chương bạc)
+ Bài toán yêu cầu tìm: Số huy chương vàng và bạc.(dạng toán tìm tất cả)
Ví dụ 2 : Bài 4b /43 STN (Q1B)
Nhà Hoa có 1kg đường, mẹ đã dùng 3 lần, mỗi lần hết 150g. Hỏi nhà Hoa còn lại bao
nhiêu gam đường?
- HS phải hiểu:

-6-



+ Bài toán cho biết: Số đường nhà Hoa có là 1kg. Vậy 1kg đường tương ứng với bao
nhiêu gam đường?, mẹ đã dùng 3 lần, mỗi lần hết 150g. Vậy phải tìm số đường mẹ đã
dùng 3 lần, thuộc dạng toán gấp một số lên nhiều lần.
+ Bài toán yêu cầu tìm: số đường nhà Hoa còn lại thuộc dạng toán tìm số còn lại.
Bước 2 : Tóm tắt bài toán
- Tập cho học sinh bước đầu có thói quen tóm tắt đề, xác định mối quan hệ giữa cái đã
cho và cái phải tìm bằng nhiều hình thức.
- Có nhiều cách tóm tắt đề : bằng hình vẽ, bằng ngôn ngữ ngắn gọn, bằng sơ đồ …
- Thông thường các dạng toán nhiều hơn, ít hơn, gấp l số lên nhiều lần, giảm 1 số đi nhiều
lần... thì tóm tắt bài toán theo sơ đồ đoạn thẳng rất dễ giải và dễ kiểm tra kết quả.
Ví dụ 1 :
Ta có sơ đồ

8

Huy chương vàng :

? huy chương

Huy chương bạc :
Ví dụ 2 :
Tóm tắt :


: 1kg = 1000g

Dùng: 3 lần, 1 lần: 150g
Còn : …kg?
Bước 3 : Phân tích bài toán để tìm ra cách giải.

- Từ tóm tắt của bài toán, một lần nữa học sinh nắm chắc mối quan hệ giữa dữ liệu đã
cho và dữ liệu cần tìm. Từ đó học sinh có thể suy luận tìm cách giải.
• Giáo viên đến các nhóm hướng dẫn các đối tượng cần lưu ý để giúp đỡ học sinh biết:
+ Xuất phát từ yêu cầu của đề ( tức là dữ liệu cần tìm ) rồi suy luận ngược lên cho đến
những điều đã biết.
Với ví dụ trên ta hướng dẫn học sinh suy luận như sau:
Ví dụ 1 :
Nhìn vào sơ đồ ta có thể suy luận được ngay :
-7-


- Muốn tìm số huy chương vàng và bạc ta lấy số huy chương vàng cộng với số huy
chương bạc.
- Số huy chương bạc chưa biết nên tìm số huy chương bạc.
- Số huy chương vàng gồm 1 phần tương ứng với 8 huy chương. Như vậy số huy chương
bạc gồm 3 phần thì tương ứng với 8 x 3 = 24 (huy chương)
Ví dụ 2 :
- Muốn tìm số đường nhà Hoa còn lại ta lấy số đường nhà Hoa có trừ cho số đường nhà
Hoa đã dùng.
- Số đường đã dùng chưa biết nên phải đi tìm.
- Dùng 1lần hết 150g như vậy dùng 3 lần (dạng toán gấp một số lên nhiều lần) nên ta lấy
150 x 3 = 450 (g)
+ Xuất phát từ yêu cầu của đề dữ kiện nào đã biết rồi thì thôi, còn dữ kiện nào chưa
biết ta phải đi tìm.
Ví dụ 1 :
Nhìn vào sơ đồ ta có thể thấy ngay :
- Số huy chương bạc chưa biết mà số huy chương bạc gấp 3 lần số huy chương vàng
(dạng toán gấp 1số lần lên nhiều lần) lấy 8 x 3 = 24(huy chương)
- Số huy chương vàng và bạc chưa biết(dạng toán tìm tất cả) lấy 8 + 24 = 32(huy
chương)

Ví dụ 2:
Nhìn vào tóm tắt ta có thể thấy ngay:
- Số đường đã dùng chưa biết (dạng toán gấp 1số lần lên nhiều lần) lấy 150 x 3 = 450(g)
- Số đường còn lại chưa biết (dạng toán tìm số còn lại) lấy số đường có trừ đi số đường đã
dùng, tức là lấy 1000 – 450 = 550(g)
* Nếu gặp bài toán có mối quan hệ và số liệu tương đối phức tạp thì giáo viên phải nghĩ ra
một hướng giải quyết dơn giản để hướng dẫn cho học sinh dễ hiểu. Giáo viên sẽ đến từng
em học chậm, có đưa thẻ “cứu trợ”để hướng dẫn cho học sinh. Sau khi đã hiểu, các em sẽ
vận dụng vào giải bài toán mà các em đang phải thực hiện.
-8-


Ví dụ2 : Bài 4b /43 STN (Q1B)
Nhà Hoa có 1kg đường, mẹ đã dùng 3 lần, mỗi lần hết 150g. Hỏi nhà Hoa còn lại bao
nhiêu gam đường?
Từ ví dụ 2 :
- Ta đưa bài toán về tình huống đơn giản là: có 1 chục trứng gà, mẹ đã luộc 3 lần, mỗi
lần 2 cái. Hỏi còn lại bao nhiêu cái trứng gà?
- HS dễ dàng nhận ra ăn 1lần 2 cái như vậy ăn 3lần sẽ hết 6 cái (lấy 2 x 3 = 6). Sau đó tìm
số trứng còn lại (lấy 1 chục = 10 cái – 6 cái = 4 cái)
Từ đó HS suy ra cách giải tương tự cho VD2
Bước 4 : Trình bày bài giải
Từ quá trình suy luận trên, HS tự trình bày bài giải
• Bước này giáo viên cần chú ý để học sinh độc lập làm bài và khắc sâu kiến thức.
• Giáo viên nhắc nhở HS về lời giải phải ngắn ngọn, rõ ràng và sát với yêu cầu của đề,
chữ viết, con số, dấu phép tính rõ ràng và đừng quên đáp số theo yêu cầu của đề.
Trình bày bài giải cho đẹp (lời giải cách lề đỏ 1ô, phép tính cách lề đỏ 2ô và đáp số
ghi dưới dấu bằng của phép tính thứ hai).
Bước 5 : Kiểm tra bài
Đây là bước không kém phần quan trọng nhưng nhiều em chưa có thói quen kiểm tra

lại, hễ làm bài xong là nộp ngay. GV yêu cầu HS đọc thầm từng lời giải và phép tính
kèm theo có phù hợp không, kiểm tra tính toán có đúng không. Từ đó giúp các em có
thói quen tự kiểm tra, đánh giá và sửa chữa.
3/ Rèn cho học sinh thói quen cần thiết trong quá trình học tập môn Toán
- Hình thành cho HS những thói quen cần thiết trong quá trình học tập môn Toán góp
phần giúp các em giải tốt các bài toán có lời văn nói chung, giải bài toán bằng hai phép
tính nói riêng.
+ Trước hết là tập cho các em có thời gian biểu học tập ở nhà, ở trường và bạn bè.
Ngay từ đầu năm tuỳ theo đặc điểm, hoàn cảnh của từng em mà giáo viên hướng dẫn học

-9-


sinh lập thời gian biểu học tập ở nhà khác nhau. Phân công đôi bạn cùng tiến để các em
học hỏi, trao đổi lẫn nhau, những em giỏi giúp những em chậm.
+ Giáo viên phối hợp chặt chẽ với phụ huynh để PH thường xuyên kiểm tra vở, bài
tập các em làm. Thông qua vở này, PH kết hợp cùng GV để giúp đỡ thêm cho con em
mình.
- Rèn luyện tính cẩn thận chu đáo trong học tập.
+ Tập cho HS viết chữ và số rõ ràng, sạch sẽ, trình bày bài đẹp.
+ Rèn HS nháp bài cẩn thận rồi mới ghi vào vở. Khi ghi vào vở phải cẩn thận, thật
chính xác.
- Rèn thói quen tự kiểm tra, kiểm tra đánh giá lẫn nhau và tự sửa bài.
- Rèn ý chí vượt khó khi làm bài, nhất là đối với học sinh học chậm phải sử dụng tín
hiệu cứu trợ để GV đến giúp đỡ kịp thời.
+ Cần áp dụng cách liên tưởng hoặc tưởng tượng ra một tình huống, một bài toán
có các dữ kiện hay số liệu đơn giản hơn và dạng toán đồng dạng với bài toán đã cho.
+ GV cần động viên, khuyến khích, tuyên dương HS kịp thời khi các em có tiến bộ
dù rất nhỏ. Luôn tạo không khí học tập nhẹ nhàng, vui vẻ sẽ giảm bớt rất nhiều khó
khăn.

4 / Thường xuyên củng cố và bổ sung kiến thức
- Ngay từ đầu năm học trong các tiết ôn tập về giải toán, tôi đã tích cực giúp HS hệ
thống kiến thức trọng tâm, đặc biệt cho HS nắm vững các dạng toán đã học và các bước
giải dạng toán đó. Trong quá trình cung cấp kiến thức mới về giải toán bằng hai phép
tính đã học, tôi lần lượt đưa các dạng toán vào để HS làm quen và đi đến giải thành thạo
hơn trong tính toán ( Đặc biệt sử dụng các tiết ôn luyện). Tăng cường việc tự kiểm tra
và kiểm tra lẫn nhau để học hỏi và rút kinh nghiệm.
- Thường xuyên ra đề kiểm tra theo mức độ đạt chuẩn kiến thức kĩ năng hoặc mở
rộng, phát triển đối với từng đối tượng học sinh.
5 / Giáo viên phải xử lý linh hoạt các hình thức dạy học

- 10 -


- Giáo viên luôn suy nghĩ, tìm tòi để thay đổi các hình thức dạy học trong tài liệu
hướng dẫn theo các logo cho phù hợp với đối tượng hs lớp mình.
- Nếu gặp những bài toán mà học sinh không hiểu thì nên đưa ra bài toán đồng dạng
với số liệu nhỏ để HS dễ nhận ra và làm được. Còn những bài chính khóa thì yêu cầu
em nào chưa hoàn thành thì về nhà làm lại vào vở.
- Bên cạnh đó, GV phải lập kế hoạch cụ thể cho từng bài dạy. Tuỳ theo nội dung mà
quy định thời gian cụ thể cho từng bài tập.Tuỳ theo từng đối tượng học sinh mà giao
việc, tránh để học sinh khá - giỏi chỉ dừng lại ở mức đạt kiến thức cơ bản tối thiểu.(ví
dụ trong tiết Toán các em này thường làm xong bài trước bạn trung bình –chậm nên hay
ngồi chơi, vậy giáo viên cần phát hiện nhờ các em đó đến kiểm tra bài giúp cô hoặc
giúp bạn làm bài).
6/ Các bài toán khó, dạng mới
GV cần để HS thảo luận nhóm lớn hoặc nhóm đôi để các em phân tích đề, tìm cách
giải. Sau đó tiếp tục cho các em làm cá nhân vào vở. Điều này tôi thấy đúng như câu nói
“Học thầy không tày học bạn”. Các em tự tìm hiểu, trao đổi, thảo luận thì các em dễ nhận
biết và nhớ lâu hơn. GV chỉ cứu trợ khi các em cần.

Ví dụ: Bài 4/ 24 (Tập 2A)
a) Đọc bài toán: Một cửa hàng ngày thứ nhất bán được 418l dầu, ngày thứ hai bán được số
lít dầu gấp đôi ngày thứ nhất. Hỏi cả hai ngày cửa hàng đã bán được bao nhiêu lít dầu?
b) Em trả lời các câu hỏi: Bài toán cho biết gì? Bài toán hỏi gì? Muốn tính cả hai ngày cửa
hàng đã bán được bao nhiêu lít dầu em phải làm gì? Phải làm phép tính nào?
c) Em giải bài toán.
- Điều chỉnh tài liệu bằng cách:
+ Việc 1: Đọc cá nhân
+ Việc 2: Trao đổi nhóm đôi
+Việc 3: Nhóm trưởng tổ chức cho các bạn trong nhóm nêu cách tính.
+ Việc 4: Cá nhân làm bài vào vở.
7 / Quan tâm đến mọi đối tượng học sinh và phối hợp với phụ huynh
- 11 -


- GV phải chú ý đến đặc điểm cá biệt của mỗi HS trên cơ sở quan tâm đến cả lớp.
Muốn vậy, GV phải nắm vững hoàn cảnh sống, đặc điểm tâm lí của HS để có biện pháp
giao việc thích hợp bằng cách thông qua thông qua phụ huynh HS, qua các lần họp PHHS
và qua các bạn trong lớp khi cần thiết.
- GV phân loại đối tượng cụ thể, chia nhóm, đôi bạn học tập sao cho thuận lợi về mọi
mặt để các em cùng nhau tiến bộ.
- Biết cách giao nhiệm vụ cho học sinh, cho phụ huynh kiểm tra giúp sẽ đỡ đi một phần
công việc mà HS thì được thúc đẩy làm việc thường xuyên, hoàn thành bài tốt hơn.
VI. Kết quả
- Nhờ sử dụng linh hoạt các giải pháp trên vào các tiết toán, chắc chắn chất lượng
giải toán bằng hai phép tính của các em sẽ nâng lên rõ rệt. Từ chỗ HS chưa chịu khó đọc
kĩ đề, chưa biết phân tích, tóm tắt đề … đến chỗ các em biết tóm tắt đề, suy luận và giải
được bài toán. Nhiều em giỏi còn tìm ra được cách giải nhanh gọn, hay hơn .
Cụ thể về so sánh kết quả thẫm định 2 năm học 2014-2015 (lớp 3C) và năm học
2015-2016 (lớp 3D) như sau :

Thời gian

Số HS giải

Số HS thực

Số HS chưa có

Số HS chưa

được toán

hiện phép tính

lời giải đúng

giải được toán

bằng hai

sai khi giải

theo yêu cầu

bằng hai phép

phép tính
của đề
tính
Cuối tháng 11/1014

30 %
17,2 %
22,8 %
30 %
Cuối tháng 11/1015
34,5 %
24,1 %
31,0 %
10,4 %
Cuối tháng 12/2014
72,5 %
10,3 %
6,9 %
10,3 %
Cuối tháng 12/1015
79,3%
10,4%
6,9%
3,4%
Cuối tháng 1&2/2015
82,7 %
3,5%
6,9 %
6,9 %
Cuối tháng 1&2/2016
89,8%
3,4%
3,4%
3,4%
- Từ kết quả trên cho thấy việc dạy học theo mô hình VNEN và đánh giá theo chuẩn kiến

thức kĩ năng có nhiều cái hay mà đặc biệt là tạo cho các em tính tự tin, độc lập suy nghĩ,
tính sáng tạo, cởi mở trong học tập. Chất lượng học tập không chỉ với môn Toán mà với
các môn học khác cũng sẽ tăng lên rõ rệt.
VII . Kết luận
- 12 -


Để giúp HS giải tốt các bài toán bằng hai phép tính GV cần :
1. Tìm hiểu tâm sinh lí HS, nắm được chỗ khiếm khuyết kiến thức và khả năng hiểu bài
của HS.
2. Giúp HS nắm vững và thực hiện tốt trình tự các bước giải bài toán bằng hai phép tính.
3. Rèn cho HS những thói quen cần thiết trong quá trình học tập môn Toán .
4. Thường xuyên củng cố và bổ sung kiến thức mà các em chưa nắm vững .
5. GV lập kế hoạch cụ thể cho từng tiết dạy; bài dạy; giao việc; kiểm tra, không để học
sinh chỉ dừng lại đạt kiến thức cơ bản tối thiểu và sử dụng linh hoạt các hình thức dạy học.
6. Quan tâm đến mọi đối tượng HS, phối hợp chặt chẽ với phụ huynh, cam kết với phụ
huynh về việc theo dõi, kiểm tra, giúp đỡ các em ở nhà qua các lần họp PHHS nhất là cuộc
họp đầu năm.
Trong thực tế giảng dạy không có phương pháp và giải pháp vạn năng nhưng người GV
biết kết hợp chặt chẽ, sáng tạo thì sẽ đem lại kết quả tốt cho HS.
VIII. Đề nghị:
Đề tài này không những áp dụng cho khối Ba mà còn áp dụng cho tất cả các khối lớp ở
Tiểu học nên nhà trường triển khai cho các khối lớp còn lại để vận dụng trong quá trình
dạy học đem lại hiệu quả tốt hơn trong công tác dạy học.
IX. Tài liệu tham khảo:
1. Phương pháp dạy học môn Toán ở Tiểu học
(Nhà xuất bản Giáo dục năm 2000)
2. Phương pháp giải toán ở tiểu học
(Nhà xuất bản Giáo dục)
3. Những bài toán đố hay dành cho học sinh tiểu học

( Nhà xuất bản Giáo dục)
X.
Mục
- 13 -

Mục lục
Tên từng tiêu đề

Trang


I
II
III
IV
V
VI
VII
VIII
IX
X

Tên đề tài
Đặt vấn đề
Cơ sở lí luận
Cơ sở thực tiễn
Nội dung nghiên cứu
Kết quả nghiên cứu
Kết luận
Đề nghị

Tài liệu tham khảo
Phần mục lục

1
1
3
3-7
7-11
11-12
12-13
13
13-16
17
Đại Hiệp, ngày 17 tháng 2 năm 2016
Người viết

Nguyễn Thị Thanh Liễu

- 14 -



×