Tải bản đầy đủ (.docx) (48 trang)

TÁI HIỆN XÃ HỘI HỌC VĂN HÓA XHH VĂN HÓA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (311.04 KB, 48 trang )

TÁI HIỆN XÃ HỘI HỌC VĂN HÓA
Chương I : Đối tượng, chức năng và nhiệm vụ của Xã Hội Học Văn Hóa
 Vấn đề 1 : Xã hội học Văn hóa là gì?

1.1.1) Xã hội học trong tiến trình văn hóa hiện nay
Ngay từ khi ra đời, các nhà Xã hội học tiền bối sáng lập ra môn khoa học này
đã chú ý tới những thành tố của văn hoá như: tôn giáo, giáo dục, đạo đức... thông qua
các công trình nổi tiếng: “ Các hình thái cơ bản của đời sống tôn giáo” (E.Durkheim),
“Đạo đức tin lành và tinh thần chủ nghĩa tư bản”(Marx Weber), “khảo sát về quà
tặng”(M.Mauss)...Tuy nhiên, phải tới giữa những năm bảy mươi, Xã hội học văn hoá
mới bắt đầu đựơc hình thành và khẳng định sự tồn tại độc lập của nó bên cạnh các
ngành khác của Xã hội học...Phải đến năm 1985 quá trình này mới hoàn thành và cũng
chỉ gần đây thôi, vào đầu những năm 90 này, Xã hội học văn hoá mới thực sự cho thấy
tầm vóc những biến đổi của nó, buộc các ngành còn lại của bộ môn Xã hội học phải
thừa nhận nó như một ngành Xã hội học chuyên biệt.Sự chậm trễ được chú ý của Xã
hội học văn hoá trong ngành Xã hội học là do cách mà nó được định vị trong các lý
thuyết Xã hội học kinh điển. Mặc dù các nghiên cứu lịch sử của Max Weber về ảnh
hưởng của tôn giáo tới các thiết chế xã hội và kinh tế rất có ảnh hưởng trong Xã hội
học, nhưng lại tác động trước hết tới Xã hội học văn hóa qua sự ưu tiên cho Xã Hội
Học tôn giáo. Sự thừa nhận của giới Xã hội học với chuyên ngành Xã hội học văn hoá
vào đầu những năm 1990 chủ yếu là ở Mỹ, song nó vẫn chưa được coi là nội dung
chính của Xã hội học. Trái ngược với Mỹ, các nhà Xã hội học Pháp tuy ít chú ý tới sự
hình thành một ngành khoa học riêng biệt về văn hoá, song nơi đây lại có nhiều công
trình nghiên cứu .Xã hội học văn hoá đồ sộ. Điều này cho thấy, các nhà Xã hội học
văn hoá đã chịu ảnh hưởng tư tưởng của các nhà XHH kinh điển khi tập trung vào
việc nghiên cứu tôn giáo và cấu trúc xã hội.Trong những công trình nghiên cứu về
Xã hội học văn hoá (từ đầu những năm 1990), các nhà Xã hội học văn hoá đã
phân chúng thành hai mảng chính là: văn hoá ẩn và văn hoá hiện. Văn hoá ẩn là văn
hoá không được ghi lại và văn hoá hiện là văn hoá được ghi lại.



Ở Việt Nam, những nghiên cứu về văn hoá đã có từ năm 1938 với cuốn
“Việt Nam văn hoá sử cương”của Đào Duy Anh với quan niệm: phong cách sống,
được tiếp cận theo chiều lịch sử. Năm 1943, Nguyễn Văn Huyên cũng có cuốn: “Văn
minh An Nam” bàn tới khái niệm rộng: văn minh Việt Nam trong tiến trình lịch sử.
Những nghiên cứu về văn hoá dưới góc độ Xã hội học chỉ thực sự có và phát triển ở
Việt Nam từ sau năm 1975 khi phân ban Xã hội học được hình thành Viện khoa học Xã
hội (ở T.P Hồ Chí Minh năm 1977), Uỷ ban KHXH Việt Nam (ở Hà nội năm 1978) và
đặc biệt là việc đưa Xã Hội Học văn hoá vào trong giảng dạy với tư cách là một
chuyên ngành Xã hội học các Khoa tại một sốtrường Đại học lớn Việt Nam.Từ cuối
những năm 1990 đến nay, nhiều công trình nghiên cứu dưới chiều cạnh văn hóa cũng đã
được quan tâm và triển khai song chưa nhiều.
Xem xét những biến động xã hội trong bối cảnh thười đại nói chung, của Việt
Nam ngày nay nói riêng dưới góc độ xã hội học và xã hội học văn hóa cho thấy Xã
Hội Học văn hóa đóng vai trò quan trọng trong việc tìm hiểu thực trạng (những giá trị
xã hội, giá trị kinh tế, giá trị phát triển trong các yếu tố văn hóa, sự vận hành của văn
hóa trong cuộc sống hiện tại và tương lai..), phân tích những nguyên nhân, dự đoán,
dự báo hàng loạt các vấn đề văn hóa nảy sinh trong đời sống xã hội nhầm đáp ứng
những mong đợi của xã hội, đưa ra những giải pháp và có những khuyến nghị mang
tính khả thi.

1.1.2) Xã hội học văn hóa là gì?
a) Khái niệm:
 Khái niệm XHH:

XHH là môn khoa học các khoa học xã hội, nghiên cứu các khoa học xã hội,
nghiên cứu các tương tác xã hội, đặc biệt đi sâu nghiên cứu một cách hệ thống sự phát
triển, cấu trúc, mối tương quan XH và các hành vi hoạt động của con người trong các
tổ chức, nhón xã hội
Trong quan niệm thông thường, văn hoá được coi là những hành vi tuân thủ
những nguyên tắc hay quy phạm đạo đức, xã giao của các cá nhân một cách tự nhiên,

là cách xử lý những người vi phạm quy tắc một cách chính xác và tế nhị, là trình độ
học vấn, những tri thức, sự thành thục, lão luyện mà con người có được trong hoạt
động nhận thức và các hoạt động xã hội.
2


 Khái niệm văn hóa:



Văn là đẹp – hóa là giáo hóa, dạy dỗ
Hóa là bày ra, phô ra, làm ra, thể hiện, biểu đạt
Có rất nhiều định nghĩa về văn hóa, sở dĩ như vậy là do VH là 1 khái niệm rộng

bao trùm lên tòan bộ đời sống XH và nó được rất nhiều ngành khoa học nghiên cứu,
mỗi ngành có mục đích khác nhau, lối tiếp cận khác nhau, do đó mà định nghĩa về nó
cũng khác nhau. Một cách khái quát người ta chia làm 2 loại định nghĩa:
• Nghĩa rộng : (triết học) Văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con
người sáng tạo trong quá trình lịch sử của mình(hay trong quá trình thực hiện)
• Nghĩa hẹp: ( học giả Đào Duy Anh )cho rằng văn hóa là sinh hoạt(hạn chế định nghĩa
này là không đồng nhất văn hóa và xã hội)
Ở Phương Đông, từ “văn hoá” được tách ra thành 2 khái niệm riêng là
“Văn”và “hoá”. “Văn” là màu sắc, đường nét giao nhau,là lễ nghĩa, là sự giáo dục
bằng đạo đức, là những cái tốt đẹp của cuộc sống đã được đúc kết lại ở dạng ký hiệu
biểu tượng. “Hoá”là sự cải biến hoá sinh (là quy luật của tạo hoá sinh sôi nảy nở,là sự
hoá dục, là sự giao thoa của hai sự vật dẫn tới một hoặc cả hai sự vật biến đổi, là đem
những điều đã đúc kết được đó hoá thân trở lại cuộc sống. Như vậy, từ “Văn hoá”
được dùng để chỉ một quá trình gồm hai giai đoạn: xuất phát từ kinh nghiệm sống và
quy luật tự nhiên để trở thành cái văn của con người (nhân văn) và giai đoạn hai là
đem cái “nhân văn” ấy hoá thành cuộc sống (nhân văn hoá thành thiên hạ)”

Từ lúc sơ khai cho tới nay, các nhà Xã hội học đã luôn nhấn mạnh vào sự cần
thiết phải giải thích đời sống xã hội một cách khoa học và vì thế hăn hoá hay nói đúng
hơn là những thành tố của văn hoá như: tôn giáo, đạo đức, giáo dục... đã trở thành đối
tượng của Xã hội học thông qua các công trình nổi tiếng của các nhà sáng lập ra bộ
môn khoa học này như: E.Durkheim, M. Werber, M.Mauss... Có người, nhấn mạnh
“văn hóa” vào phương diện giá trị, có ngườinhấn vào mô hình các thể chế xã hội, vào
nếp sống xã hội, vào phương thức ứng xử, vảo kết quả của hoạt động người, vào hoạt
động sáng tạo trong lịch sử, vào sự thích ứng của con người với môi trường tự nhiên,
vào miêu tả và vào phương diện chức năng của văn hoá.Như vậy, có thể nhận thấy
“văn hoá” (dưới góc độ Xã hội học) có những điểm cơ bản như sau:

3




Là một trong những măt cơ bản của đời sống xã hội-Là một hệ thống hình thái biểu
hiện giá trị của một xã hội, là cấu trúc-chức năng xã hội, kỹ thuật, thể chế, các hệ tư
tưởng... được hình thành trong quá trình hoạt động sáng tạo của con người, được
bảo tồn và truyển lại cho các thế hệ sau.



Là khuôn mẫu chuẩn mực qui định các hành vi xã hội. Mỗi cá nhân muốn trở
thành con người xã hội phải tiếp thu, tuân thủ theo các chuẩn mực đó.( Về phương
diện này có thể coi văn hoá của xã hội là mục tiêu của quá trình xã hội hoá cá nhân và



nhóm)

Đối với phương Tây từ văn hóa xuất phát từ chữ Latinh Văn hóa: là sự trao dồi nhân
cách và sự rèn luyện của bản thân. XHH tiếp cận văn hóa theo lối tiếp cận giáo dục, do
đó VH được hiểu là những khuôn mẫu hành vi và sựđịnh hướng giá trị, được con
người tiếp thu từ rất sớm, nó là cái dùng để kiểm soát suy nghĩ và hành động củacon
người, tạo cho con người có đựơc sự an toàn được sống chung (Max Weber).



Với cách nhìn văn hoá như vậy nên XHH Văn hoá chính là một lĩnh vực tri thức Xã
hội học ứng dụng nghiên cứu các vấn để sản xuất tinh thần, xây dựng và truyền bá
giá trị tinh thần. Nói cách khác, nó nghiên cứu sự vận hành xã hội của văn hoá trong
xã hội phân tầng và đối tượng nghiên cứu của XHH văn hoá được thể hiện trên hai
bình diện:
 Cấu trúc-chức năng xã hội của những hình thái biểu thị giá trị xã hội-bình
diện tĩnh.
 Quá trình xã hội của hoạt động sản xuất, phân phối, bảoquản, tiêu thụ các
hình thái biểu thị giá trị xã hội ấy và mối quan hệ biện chứng giữa các khâu

với nhau-bình diện động.
• Mặt khác XHH tiếp cận văn hóa theo lối mở với cái nhìn xuyên VH do đó VH được
hiểu là sản phẩm của con người là cách con người quan niệm về cuộc sống, tổ chức
cuộc sống và sống cuộc sống ấy:
 Điều kiện sống: điều kiện tự nhiên (nhiệt độ gió mùa)
 Điều kiện xã hội Lịch sử Văn hóa ( Nho giáo- lão giáo- phật giáo)
b)Xã hội học văn hóa là gì?
Các mối quan tâm xã hội học văn hóa văn hóa-thông thường hiểu là tập hợp các
ý nghĩa nhận thức, vì nó được thể hiện trong xã hội.Đối với Georg Simmel, văn hóa
4



được gọi là "tu luyện của cá nhân thông qua cơ quan của hình thức bên ngoài đã được
hình thành trong quá trình lịch sử".
Văn hóa xã hội học đầu tiên xuất hiện ở Weimar Đức, nơi mà nhà xã hội học
như Alfred Weber sử dụng các Kultursoziologie hạn (văn hóa xã hội học). Văn hóa xã
hội học sau đó đã được "tái tạo" trong thế giới nói tiếng Anh như là một sản phẩm của
các "biến hóa" của những năm 1960, mà mở ra structuralist và cái gọi là "hậu hiện
đại" cách tiếp cận với khoa học xã hội. Đây là loại xã hội học văn hoá lỏng có thể
được coi như là một phương pháp tiếp cận kết hợp phân tích văn hóa và lý thuyết quan
trọng. Văn hóa xã hội học có xu hướng loại bỏ các phương pháp khoa học, thay vì tập
trung vào các từ hermeneutically, hiện vật và biểu tượng. "Văn hóa" đã trở thành một
khái niệm quan trọng trên nhiều ngành xã hội học, bao gồm cả kiên quyết lĩnh vực
khoa học như sự phân tầng xã hội và phân tích mạng xã hội. Kết quả là, đã có một làn
sóng gần đây của các nhà xã hội học định lượng cho lĩnh vực này. Vì vậy, bây giờ có
một nhóm đang phát triển của xã hội học văn hóa người, gây nhầm lẫn, không phải xã
hội học văn hóa. Những học giả từ chối các khía cạnh trừu tượng hóa hậu hiện đại của
xã hội học văn hoá, và thay vì tìm một sự ủng hộ lý thuyết trong các tĩnh mạch khoa
học hơn của tâm lý học xã hội và khoa học nhận thức.
"Văn hóa xã hội học" là một trong những phần lớn nhất của Hiệp hội Xã hội
học Mỹ. Việc thành lập của Anh nghiên cứu văn hóa có nghĩa là sau này thường được
dạy như một kỷ luật lỏng lẻo-biệt ở Anh.
 Vấn đề 2 : Đối tượng nghiên cứu của Xã Hội Học văn hóa ?

1.2.1) Khái niệm văn hóa ?
Cho đến nay người ta đã thống kê có tới hàng trăm định nghĩa văn hoá. Có thể nói
có bao nhiêu nhà nghiên cứu thì có bấy nhiêu khái niệm về văn hoá. Nhưng ta có thể
hiểu sơ lược về hai từ văn hoá là một sản phẩm của loài người, văn hóa được tạo ra và
phát triển trong quan hệ qua lại giữa con người và xã hội. Song, chính văn hóa lại
tham gia vào việc tạo nên con người, và duy trì sự bền vững và trật tự xã hội. Văn hóa
được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua quá trình xã hội hóa. Văn hóa
được tái tạo và phát triển trong quá trình hành động và tương tác xã hội của con người.

Văn hóa là trình độ phát triển của con người và của xã hội được biểu hiện trong các

5


kiểu và hình thức tổ chức đời sống và hành động của con người cũng như trong giá trị
vật chất và tinh thần mà do con người tạo ra.
Văn hóa là khái niệm mang nội hàm rộng với rất nhiều cách hiểu khác nhau, liên
quan đến mọi mặt đời sống vật chất và tinh thần của con người. Nghĩa ban đầu của
văn hóa trong tiếng Hán là những nét xăm mình qua đó người khác nhìn vào để nhận
biết và phân biệt mình với người khác, biểu thị sự quy nhập vào thần linh và các lực
lượng bí ấn của thiên nhiên, chiếm lĩnh quyền lực siêu nhiên.
 Quan niệm của các xã hội Phương Tây

Ở Phương Tây, từ “văn hoá” bắt nguồn từ động từ tiếng Lating: “Colo”, “Colere”
sau chuyển thành “Cultura” có nghĩa là cày cấy, vun trồng, sau này từ “Cultura”
chuyển từ nghĩa đen là trồng trọt, làm đất sang nghĩa bóng là vun trồng tinh thần, trí
tuệ, cải thiện và nâng cao tập quán, hành vi con người.
Trong xã hội phương Tây có ba khía cạnh căn bản được nhấn mạnh trong các
quan niệm về văn hoá:
• Văn hoá với tư cách là sự phát triển của cá nhân trong xã hội
• Văn hoá là cái đặc thù của mỗi xã hội với môi trường xã hội nhấtđịnh
• Văn hoá là cái có thể hoà hợp, đan xen, thâm nhập lẫn nhau giữa cácmôi

trường văn hoá khác nhau, giữa các vùng, các quốc gia khác nhau trênqui
mô khu vực và thế giới.
 Quan niệm của Pháp

Trong từ điển hàn lâm của Pháp, năm 1752 đã chỉ ra rằng: văn hoá “là nói về
sự chăm sóc tới các nghệ thuật của tinh thần” . Các nhà khai sáng Pháp (đại diện

Mông-tét-xki-ơ (Montesquieu) đã coi sự phát triển của văn hoá và tình trạng nhà nước
là phụ thuộc vào điều kiện khí hậu, địa lý của khu vực đó; còn Rút- xô (Rouseau) thì
lại coi “Văn hoá’’ là hiện tượng xã hội, tư hữu tài sản là nguồn gốc đồi bại về đạo
đức…
 Quan niệm của Đức

Ở Đức, từ “Văn hoá” được nhìn nhận đối lập với sự phát triển “tự nhiên”. Nó
thường biểu hiện ở một cá nhân, nhóm hay cộng đồng xã hội và được dùng để nói về
các công trình của trí tuệ, tới sự chi phối ngày càng lớn của con người tới môi trường
6


tự nhiên, môi trường xã hội và cả tới chính bản thân mỗi người (tự giáo huấn mình để
rồi phát triển hình thành cá tính riêng).
 Những quan niệm khác

E.B.Thai-lơ (E.B.Tylor) – ông tổ sáng lập “nhân học văn hoá” trong cuốn
“văn hoá nguyên thuỷ” (1871) cũng đã dùng một chương để nói về văn hoá và coi nó
“là một toàn thể phức hợp bao gồm sự nhận thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật
pháp, tuc lệ và tất cả những khả năng, thực tiễn khác mà một người có được với tư
cách là một thành viên trong một xã hội”.
R.Linton cũng nhấn mạnh một trong những vấn đề chính của văn hoá khi coi nó là
một biểu hiện đặc thù của sự kế thừa xã hội. Parsons không muốn đồng nhất văn hoá
với sự mô tả về một môi trường. Nó là sự điều chỉnh những tình cảm, những niềm tin.
Nó tái hiện các giá trị chung là bản chất của một hệ thống hành động gắn với một xã
hội.
 Quan niệm của các xã hội phương Đông

Ở Phương Đông, từ “văn hoá” được tách ra thành 2 khái niệm riêng là “Văn” và
“hoá”. “Văn” là màu sắc, đường nét giao nhau, là lễ nghĩa, là sự giáo dục bằng đạo

đức, là những cái tốt đẹp của cuộc sống đã được đúc kết lại ở dạng ký hiệu biểu tượng.
“Hoá” là sự cải biến hoá sinh (là quy luật của tạo hoá sinh sôi nảy nở, là sự hoá dục, là
sự giao thoa của hai sự vật dẫn tới một hoặc cả hai sự vật biến đổi, là đem những điều
đã đúc kết được đó hoá thân trở lại cuộc sống. Như vậy, từ “Văn hoá” được dùng để
chỉ một quá trình gồm hai giai đoạn: xuất phát từ kinh nghiệm sống và quy luật tự
nhiên để trở thành cái văn của con người (nhân văn) và giai đoạn hai là đem cái “nhân
văn” ấy hoá thành cuộc sống (nhân văn hoá thành thiên hạ)”.
Trong cuộc sống hàng ngày, văn hóa thường được hiểu là văn học, nghệ thuật như
thơ ca, mỹ thuật, sân khấu, điện ảnh...Các "trung tâm văn hóa" có ở khắp nơi chính là
cách hiểu này. Một cách hiểu thông thường khác: văn hóa là cách sống bao gồm phong
cách ẩm thực, trang phục, cư xử và cả đức tin, tri thức được tiếp nhận...Vì thế chúng ta
nói một người nào đó là văn hóa cao, có văn hóa hoặc văn hóa thấp, vô văn hóa.

7


Về phương diện xã hội học, văn hóa nếu hiểu theo nghĩa rộng nhất của nó là
phương thương thức sống chung của con người trong một xã hội nào đó. Chính vì thế,
ở Mỹ, đã có quan điểm cho rằng: chẳng có một xã hội học gì khác ngoài xã hội học
văn hóa. Cuốn Xã hội học của J. Fichter 1, có thể coi là một ví dụ: ông quan niệm văn
hóa là hình thái toàn diện của hệ thống thể chế (chính trị, kinh tế, gia đình, giáo dục,
tín tưởng và giải trí) mà con người có cùng chung trong xã hội.

1.2.2) Phân biệt khái niệm văn hóa và văn minh
Văn hóa và văn minh còn khác nhau ở tính lịch sử: trong khi văn hóa luôn luôn có
bề dày của quá khứ (tính lịch sử) thì văn minh chỉ là một lát cắt đồng đại, nó chỉ cho
biết trình độ phát triển của văn hóa; từ "văn minh" có thể được định nghĩa khác nhau
trong các từ điển khác nhau, song chúng thường có chung một nét nghĩa là nói đến
"trình độ phát triển". Văn minh luôn là đặc trưng của một thời đại: nếu như vào thế kỷ
XIX, chiếc đầu máy hơi nước đã từng là biểu tượng của văn minh thì sang thế kỷ XX,

nó trở thành biểu tượng của sự lạc hậu, nhường chỗ cho tên lửa vũ trụ và máy vi
tính. Một dân tộc có trình độ văn minh cao vẫn có thể có một nền văn hóa rất nghèo
nàn, và ngược lại, một dân tộc lạc hậu vẫn có thể có một nền văn hóa phong phú.
Sự khác biệt của văn hóa và văn minh về giá trị tinh thần và tính lịch sử dẫn đến
sự khác biệt về phạm vi: Văn hóa mang tính dân tộc, bởi lẽ nó có giá trị tinh thần và
tính lịch sử, mà cái tinh thần và cái lịch sử là của riêng, không dễ gì mua bán hoặc
thay đổi được; còn văn minh thì có tính quốc tế, nó đặc trưng cho một khu vực rộng
lớn hoặc cả nhân loại, bởi lẽ nó chứa giá trị vật chất, mà cái vật chất thì dễ phổ biến,
lây lan.
Và sự khác biệt thứ tư, về nguồn gốc: Văn hóa gắn bó nhiều hơn với phương
Đông nông nghiệp, còn văn minh gắn bó nhiều hơn với phương Tây đô thị. Các nền
văn hóa cổ đại hình thành từ trên hai nghìn năm trước công nguyên như Ai Cập,
Lưỡng Hà, Ấn Độ, Trung Hoa... đều là sản phẩm của phương Đông. Nền văn hóa
phương Tây sớm nhất là văn hóa Hy Lạp thì cũng sau các nền văn hóa phương Đông
1 J. H. FICHTER (1974) Xã hội học (bản dịch của Trần Văn Đĩnh, in lần hai), nxb Hiện Đại, Sài Gòn

8


cổ đại tới hàng nghìn năm (thế kỷ XI-III trước công nguyên) và được hình thành trên
cơ sở tiếp thu những thành tựu của các nền văn hóa phương Đông gần nó nhất là Ai
Cập và Lưỡng Hà - từ hệ thống thần thoại, lịch pháp cho đến chữ viết - chỗ nào cũng
thấy dấu ấn của ảnh hưởng phương Đông. Về vị trí và đặc điểm kinh tế thì các nền văn
hóa phương Đông đều hình thành ở lưu vực các con sông lớn là những nơi sản
xuất nông nghiệp. Trong các ngôn ngữ phương Tây, từ "văn hóa" bắt nguồn từ
chữ cultus tiếng La-tinh có nghĩa là "trồng trọt". Từ trồng trọt phát triển ra nghĩa chăm
sóc (cây cối), từ "chăm sóc (cây cối)" dẫn đến chăm sóc (con người) = giáo dục .
Trong khi đó thì từ "văn minh" trong các ngôn ngữ phương Tây đều bắt nguồn từ
chữ civitas tiếng La-tinh có nghĩa là "thành phố". Nghĩa gốc này kéo theo mình hàng
loạt từ và nghĩa phái sinh trong các ngôn ngữ châu Âu: "thị dân", "công dân"

(civilis)..., từ đó đến civilisation, civilization là "làm cho trở thành đô thị", đầy đủ tiện
nghi như đô thị (= văn minh).


Văn minh là danh từ Hán - Việt (Văn là vẻ đẹp, minh là sáng), chỉ tia sáng của đạo
đức, biểu hiện ở chính trị, luật pháp, văn học, nghệ thuật. Trong tiếng Anh, Pháp, từ
civilisation với nội hàm nghĩa văn minh, có căn gốc Latinh là civitas với nghĩa gốc: đô
thị, thành phố, và các nghĩa phái sinh: thị dân, công dân.
W. Đuran (W. Durrant) sử dụng khái niệm văn minh để chỉ sự sáng tạo văn hoá,
nhờ một trật tự xã hội gây ra và kích thích. Văn minh được dùng theo nghĩa tổ chức xã
hội, tổ chức luân lí và hoạt động văn hoá. Văn minh trong tiếng Đức là để chỉ các xã
hội đã đạt được tới giai đoạn tổ chức đô thị và chữ viết.
Theo F. Ăngghen, văn minh là chính trị khoanh văn hoá lại và sợi dây liên kết
văn minh là nhà nước. Như vậy khái niệm văn minh thường bao hàm bốn yếu tố cơ
bản: Đô thị, Nhà nước, chữ viết và các biện pháp kĩ thuật cải thiện, xếp đặt hợp lí, tiện
lợi cho cuộc sống của con người.
Tuy vậy, người ta vẫn hay sử dụng thuật ngữ văn minh đồng nghĩa với văn hoá.
Các học giả Anh và Pháp thường sử dụng lẫn lộn hai khái niệm văn hoá (culture), văn
minh (civilisation) để chỉ toàn bộ sự sáng tạo và các tập quán tinh thần và vật chất
riêng cho mọi tập đoàn người.
9


Thực ra, văn minh là trình độ phát triển nhất định của văn hoá về phương diện
vật chất, đặc trưng cho một khu vực rộng lớn, một thời đại, hoặc cả nhân loại. Như
vậy, văn minh khác với văn hoá ở ba điểm: Thứ nhất, trong khi văn hoá có bề dày của
quá khứ thì văn minh chỉ là một lát cắt đồng đại. Thứ hai, trong khi văn hoá bao gồm
cả văn hoá vật chất lẫn tinh thần thì văn minh chỉ thiên về khía cạnh vật chất, kĩ thuật.
Thứ ba, trong khi văn hoá mang tính dân tộc rõ rệt thì văn minh thường mang tính siêu
dân tộc- quốc tế. Ví dụ nền văn minh tin học hay văn minh hậu công nghiệp và văn

hoá Việt Nam, văn hoá Nhật Bản, văn hoá Trung Quốc… Mặc dù giữa văn hoá và văn
minh có một điểm gặp gỡ nhau đó là do con người sáng tạo ra.
Như vậy, VĂN MINH (văn = vẻ đẹp, minh = sáng) là khái niệm mang tính quốc
tế, có nguồn gốc từ phương Tây đô thị và chỉ trình độ phát triển nhất định của văn
hóa chủ yếu về phương diện vật chất.
1.2.3) Cấu trúc văn hóa ?
Theo cách nhìn truyền thống, văn hóa có cấu trúc hai phần rất đơn giản: văn hóa
vật chất và văn hóa tinh thần [Arnoldo1985: 31-46]. Cấu trúc này không sai, nhưng nó
là cấu trúc cơ sở, rất đơn giản, không thể cho thấy hết được sự phong phú và phức tạp
của hệ thống văn hóa.
L. White [1949: 346-366] phân chia văn hóa thành ba tiểu hệ: công nghệ, xã hội
và tư tưởng. Đào Duy Anh [1951: 8] dựa theo F. Sartiaux mà chia văn hóa thành ba
phần: sinh hoạt kinh tế, sinh hoạt xã hội và sinh hoạt trí thức. Nhóm Văn Tân [1973]
thì phân biệt văn hóa vật chất, văn hóa xã hội và văn hóa tinh thần; nhưng văn hóa xã
hội (phong tục, tập quán...) đâu có nằm ngoài văn hóa tinh thần? M.S. Kagan cũng
chia văn hóa ra ba thành tố, trong đó, bên cạnh văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần
là văn hóa nghệ thuật [1974: 188-208]; nhưng có nghệ thuật nào lại không phục vụ các
nhu cầu tinh thần?
Một số tác giả khác nói đến bốn thành tố như văn hóa sản xuất, văn hóa xã hội,
văn hóa tư tưởng, văn hóa nghệ thuật [Ngô Đức Thịnh 1987], hoặc hoạt động sinh tồn,
hoạt động xã hội, hoạt động tinh thần, hoạt động nghệ thuật [Nguyễn Tấn Đắc 1987].

10


Để tiếp cận văn hóa như một hệ thống, cần phải vận dụng chính lý thuyết hệ
thống.Theo lý thuyết này [xem, ví dụ: Blauberg... 1969; Sadovskij 1974] thì:
a) Mọi HỆ THỐNG đều bao gồm các YẾU TỐ và các QUAN HỆ giữa chúng;
mạng lưới các mối quan hệ tạo thành CẤU TRÚC;
b) Mỗi yếu tố của hệ thống, đến lượt mình, đều có thể là một hệ thống con - một

TIỂU HỆ;
c) Mọi hệ thống đều có quan hệ mật thiết với MÔI TRƯỜNG.
Trên cơ sở này, chúng tôi thấy hợp lý hơn cả là xem văn hóa như một hệ thống
gồm bốn thành tố (bốn tiểu hệ) cơ bản, mỗi tiểu hệ lại có hai vi hệ nhỏ hơn như sau:
Mỗi nền văn hóa đều là tài sản của một cộng đồng người nhất định - một chủ thể văn
hóa. Trong quá trình tồn tại và phát triển, cộng đồng người - chủ thể văn hóa đó luôn
có nhu cầu tìm hiểu, và do vậy đã tích lũy được một kho tàng kinh nghiệm và tri thức
phong phú về vũ trụ và về bản thân con người - đó chính là hai vi hệ của tiểu hệ văn
hóa nhận thức.
Tiểu hệ thứ hai liên quan trực tiếp đến những giá trị văn hóa nội tại của cộng đồng
người - chủ thể văn hóa: đó là văn hóa tổ chức cộng đồng. Nó bao gồm hai vi hệ là
văn hóa tổ chức đời sống tập thể (những vấn đề liên quan đến tổ chức xã hội trong
một quy mô rộng lớn như tổ chức nông thôn, quốc gia, đô thị), và văn hóa tổ chức đời
sống cá nhân (những vấn đề liên quan đến đời sống mỗi người như tín ngưỡng, phong
tục, đạo đức, văn hóa giao tiếp, nghệ thuật...).
Cộng đồng người (chủ thể văn hóa) hiển nhiên là tồn tại trong quan hệ với hai loại
môi trường - môi trường tự nhiên (thiên nhiên, khí hậu, v.v.) và môi trường xã hội
(hiểu ở đây là các xã hội, dân tộc, quốc gia láng giềng). Cho nên, hệ thống văn hóa
còn bao gồm hai tiểu hệ nữa liên quan đến cách thức xử sự của cộng đồng dân tộc với
hai loạị môi trường ấy. Hai tiểu hệ đó là văn hóa ứng xử với môi trường tự
nhiên và văn hóa ứng xử với môi trường xã hội.
Với mỗi loại môi trường, đều có thể có hai cách xử thế phù hợp với hai loại tác
động của chúng (tạo nên hai vi hệ): tận dụng môi trường (tác động tích cực) và đối
11


phó với môi trường (tác động tiêu cực). Với môi trường tự nhiên, có thể tận dụng để
ăn uống và giữ gìn sức khỏe, để tạo ra các vật dụng hàng ngày...; đồng thời phải đối
phó với thiên tai (trị thủy), với khoảng cách (giao thông), với khí hậu và thời tiết (quần
áo, nhà cửa, kiến trúc). Với môi trường xã hội, bằng các quá trình giao lưu văn hóa,

tiếp biến văn hóa, mỗi dân tộc đều cố gắng tận dụng các thành tựu của các dân tộc,
quốc gia lân bang để làm giàu thêm cho nền văn hóa của mình; đồng thời lại phải
lo đối phó với họ trên các mặt trận quân sự, ngoại giao...
Một hệ thống văn hóa có thể được xem xét dưới góc độ các bình diện đồng đại và
lịch đại, khái quát và cụ thể. Môn lịch sử văn hóa lâu nay chủ yếu quan tâm đến bình
diện cụ thể và lịch đại, còn môn văn hóa học đang bàn chủ yếu quan tâm đến bình
diện khái quát và đồng đại. Tuy nhiên, vì văn hóa vừa có tính hệ thống, lại vừa có
tính lịch sử cho nên một miêu tả cụ thể tốt nhất là phải tính tới cả hai bình diện ấy.
Nếu lấy diện lịch đại làm cơ sở thì trong mỗi giai đoạn lịch sử sẽ phải lưu ý đến tính
đồng đại - VĂN HÓA SỬ (lịch sử văn hóa) phải được xây dựng như thế. Ngược lại,
nếu lấy diện đồng đại làm cơ sở thì trong mỗi hệ thống con lại phải chú ý đến mặt lịch
đại - VĂN HÓA HỌC phải được xây dựng như thế.
Dưới góc độ đồng đại, hệ thống văn hóa còn có thể có những cách phân chia khác.
Chẳng hạn, trong quan hệ với địa bàn cư trú, có thể phân biệt văn hóa biển, văn hóa
đồng bằng và văn hóa núi. Trong quan hệ với cộng đồng, có thể phân biệt văn hóa
dân gian và văn hóa chính thống. Cũng vậy, trong quan hệ với chủ thể văn hóa, có thể
phân biệt văn hóa Việt với văn hóa các dân tộc ít người . Những cách phân chia này
cần được kết hợp xem xét trong những trường hợp cần thiết. Cả bốn thành tố của hệ
thống văn hóa đều bị quy định bởi một gốc chung là loại hình văn hóa. Nếu mô hình
cấu trúc của hệ thống văn hóa cho ta thấy CÁI CHUNG, cái đồng nhất trong tính hệ
thống của các nền văn hóa thì loại hình văn hóa sẽ cho ta thấy CÁI RIÊNG, cái khác
biệt trong tính hệ thống của chúng.

 Vấn đề 3: Xã hội học văn hóa và các ngành khoa học khác nghiên cứu về

văn hóa
12


1.3.1)Xã Hội Học Văn hóa với Văn hóa học

a) Khái niệm
 Văn hóa học

Văn hóa học là một ngành khoa học nghiên cứu văn hóa nói chung và các hiện
tượng văn hóa riêng biệt (văn hóa gia đình, tôn giáo, nghệ thuật, lối sống, chính trị,
kinh tế, giáo dục,… ).
Theo A. La. Phlier thì “Văn hóa học là khoa học hình thành trên vùng tiếp giáp
của các tri thức xã hội và nhân văn về con người và xã hội, nghiên cứu văn hóa như
một chỉnh thể toàn vẹn, như một chức năng đặc biệt và như tính tình thái của con
người”.
Mặt khác, GS.TS. Phạm Đức Dương cho rằng: “Văn hóa học là một bộ máy thao
tác để tiếp cận văn hóa, để khám phá mối quan hệ tương quan giữa 3 thế giới: thế giới
thực tại, thế giới ý niệm và thế giới biểu tượng để thông qua đó phát hiện nhân tính
của loài người nói chung và tâm thức của từng cộng đồng dân tộc nói riêng”.
 Đối tượng của Văn hóa học

Văn hóa học nghiên cứu đời sống xã hội và hoạt động của con người cũng như
những sáng tạo văn hóa của nhân loại trong lịch sử, tìm hiểu mối tương quan của các
lĩnh vực văn hóa khác nhau, những nét đặc thù của một nền văn hóa, các loại hình văn
hóa, sự phát triển của văn hóa trong lịch sử, và đặc biệt là vấn đề văn hóa tinh thần.
Theo GS.TS Phạm Đức Dương thì nhiệm vụ của Văn hóa học là giải mã tâm thức
của loài người và từng cộng đồng dân tộc thông qua các hệ thống biểu tượng của văn
hóa. Do đó, hệ thống biểu tượng hay thế giới biểu tượng chính là đối tượng khảo sát
của văn hóa. (trích Từ văn hóa đến văn hóa học)
Theo cách nhìn nhận chung thì đối tượng của văn hóa học liên quan đến toàn bộ
nền văn hóa hay, cụ thể đối tượng của nó chính là thế giới biểu tượng, thế giới do con
người sáng tạo ra trong mối quan hệ tương tác giữa tự nhiên với con người mà tâm
điểm là ở con người. Và văn hóa với tư cách là đối tượng nghiên cứu của văn hóa học
phải được nhìn nhận là một hiện tượng tổng thể xã hội. (Bùi Quang Thắng)
13



b) Mối liên hệ giữa xã hội học văn hóa với văn hóa học:
Xã hội học văn hóa một mặt nghiên cứu những đặc điểm của mối quan hệ văn
hóa, của các tầng lớp xã hội khác nhau như: văn hóa lối sống, văn hóa thanh niên, văn
hóa tôn giáo; mặt khác, xã hội học văn hóa cũng đi sâu nghiên cứu đời sống văn hóa
đang tồn tại, vận động và phát triển trong lòng đời sống xã hội, tức là nghiên cứu sự
vận hành xã hội của văn hóa trong các xã hội đã phân tầng.
Với vai trò là một trong những chuyên ngành của xã hội học, xã hội học văn hóa
sử dụng những công cụ điều tra xã hội học để thu thập dữ liệu cần thiết và đó cũng
chính là nguồn tài liệu mật thiết cho văn hóa học, góp phần tạo cơ sở cho quá trình xây
dựng phương hướng lý luận. Bên cạnh đó, văn hoá học nghiên cứu văn hoá trong
chính sự chuyển động và phát triển của đời sống xã hội, đi sâu tìm hiểu mối liên hệ có
tính bản chất giữa các sự kiện, từ đó cung cấp cho ta những tri thức giúp lý giải các tư
liệu văn hoá mà chúng ta bắt gặp.Tóm lại, văn hoá học có ý nghĩa thế giới quan,
phương pháp luận cho xã hội học văn hoá, cung cấp cho xã hội học văn hoá những lý
luận khái quát nhất từ bản chất sâu xa nhất của đời sống văn hoá. Đồng thời, những
khái niệm từ văn hóa học giúp nhà xã hội học văn hóa hiểu rõ những nội hàm của văn
hóa từ đó có thể lựa chọn đối tượng, khách thể, phương pháp nghiên cứu phù hợp.
Mặt khác, qua quá trình nghiên cứu thực nghiệm xã hội học văn hóa có thể góp
phần kiểm chứng các giả thuyết khoa học của văn hóa học, phát hiện những quy luật
đặc thù nảy sinh, chi phối các quan hệ xã hội dưới chiều cạnh văn hóa, hỗ trợ cho văn
hóa học đạt mục tiêu nghiên cứu. Có thể nói, xã hội học văn hóa và văn hóa học hỗ
trợ, bổ sung cho nhau để cùng hoàn thiện.
c) So sánh xã hội học văn hóa với văn hóa học:
 Giống nhau: đều nghiên cứu về các vấn đề liên quan đến văn hóa
 Khác nhau:

XHH văn hóa


Văn hóa học

14


Đối tượng NC

Sự vận hành xã hội của văn
hóa trong các xã hội đã phân
tầng.

Văn hóa và mối tương quan của
các lĩnh vực văn hóa khác nhau.

Nghiên cứu văn hóa dưới góc
độ xã hội.
Hướng
nghiên cứu

Nghiên cứu văn hoá trong
chính sự chuyển động và phát
Áp dụng các phương pháp xã triển của đời sống xã hội.
hội học để giải thích sự vận
hành và phát triển của văn
hóa.

1.3.2) Xã hội học văn hóa với nhân học văn hóa
a) Khái niệm
 Nhân học văn hóa
Nhân học văn hóa và nhân học xã hội là một trong hai nhánh của nhân học.

Nhân học văn hóa chuyên nghiên cứu về các cộng đồng, các dân tộc trên thế giới,
nguồn gốc, văn hóa, những mối quan hệ xã hội, văn hóa, kinh tế của họ. Đặc biệt,
nhân học văn hóa quan tâm tới những vấn đề của đời sống đương đại trong các xã hội
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, các vấn đề của xã hội đô thị, tiêu dùng, vấn đề sức
khỏe cộng đồng, giao tiếp liên văn hóa v.v...
Nhân học văn hóa còn là lĩnh vực nghiên cứu khoa học đặc biệt, tập trung chú
ý đến quá trình tác động qua lại giữa con người và văn hóa. Lĩnh vực nhận thức này
hình thành trong văn hóa châu Âu vào thế kỷ XIX, và định hình xong vào nửa cuối thế
kỷ XIX. Trong giới nghiên cứu nước ngoài có các quan điểm khác nhau đối với việc
xác định đối tượng của bộ môn khoa học này. Khái niệm nhân học văn hóa thường
được sử dụng để biểu thị một ngành tương đối hẹp nghiên cứu các phong tục của con
người, nghĩa là các nghiên cứu so sánh văn hóa và cộng đồng, là khoa học về con
người nhằm khái quát hóa tư cách, hành vi của con người và khả năng hiểu được đầy
đủ nhất sự đa dạng của loài người v.v... Nhân học văn hóa tập trung chú ý đến các vấn
đề khởi nguyên của con người, với tư cách vừa là người sáng tạo vừa là tạo phẩm của
văn hóa ở phương diện di truyền ngữ văn học và di truyền bản thể học.

15


Những vấn đề chủ yếu của nghiên cứu nhân học văn hóa gắn liền với việc hình
thành con người như một hiện tượng văn hóa đặc biệt: sự văn hóa hóa các bản năng cơ
bản của con người; sự xuất hiện thể tạng đặc biệt của loài người, kết cấu cơ thể con
người trong mối liên quan với môi trường văn hóa; cách ứng xử của con người, sự
hình thành các chuẩn mực, các cấm đoán và kiêng kị trong quá trình con người hòa
nhập vào hệ thống các quan hệ văn hóa xã hội; ảnh hưởng của văn hóa đến cuộc sống
giới tính, gia đình và hôn nhân; tình yêu như là một hiện tượng văn hóa đặc biệt; sự
hình thành thế giới quan và nhân sinh quan của con người; thần thọai học như một
hiện tượng .v.v...
 Đối tượng nghiên cứu


Nhân học văn hóa nghiên cứu về nguồn gốc, sự phát triển và chức năng của các
xã hội cũng như các nền văn hóa từng tồn tại và diệt vong trong quá khứ hoặc đang
hiện diện. Đối tượng nghiên cứu cụ thể của các nhà nhân học văn hóa là những vấn đề
như tôn giáo, nghi lễ, gia đình và những hệ thống quan hệ huyết thống ngôn ngữ, nghệ
thuật và âm nhạc, các hệ thống xã hội và chính trị v.v....
b) Mối liên hệ giữa xã hội học văn hóa với nhân học văn hóa
Mặc dù nhân học văn hóa và xã hội học văn hóa xuất phát từ những truyền
thống khác nhau và thành tựu của mỗi nghành không giống nhau song hai ngành khoa
học này đã xích lại gần nhau về mối quan tâm và cách tiếp cận. Bằng chứng là có
nhiều nhà nhân học không chỉ nghiên cứu xã hội nguyên thủy, truyền thống, mà còn
nghiên cứu cuộc sống hiện đại tại các thành phố hay các khu công nghiệp. Về phía
mình,các nhà xã hội học cũng không ngại vay mượn của nhân học nhiều khái niệm và
kỹ thuật trong việc tiếp cận, phân tích văn hóa. Chẳng hạn, chuyên ngành xã hội học
nông thôn với chuyên đề văn hóa nông thôn không chỉ vay mượn mà phải tích hợp với
nhân học văn hóa và xã hội cả về đối tượng, phương pháp, kỹ thuật nghiên cứu… Dựa
vào những điều này có người còn coi xã hội học là một trường hợp đặc thù hay một
phát triển mới của nhân học.
c)So sánh xã hội học văn hóa với nhân học văn hóa
 Giống nhau: Đều hướng đến tính xác thực cao, theo trường phái thực chứng,
phạm vi nghiên cứu rộng.
 Khác nhau:

16


Khác nhau

Nhân học Văn hóa


Đối tượng
nghiên cứu

Nghiên cứu chuyên sâu một lĩnh
vực nào đó của văn hóa con
người.

Phương pháp

Thực hiện với tư cách là người
quan sát,họ nghiên về phía cảm
nhận và phân tích định tính về đối
tượng,điền giả dân tộc học

Tính lịch sử

Cố định.

XHH Văn hóa

Sự vận hành xã hội của văn
hóa trong các xã hội đã phân
tầng.

Thường dùng bản ăng-két để
phỏng vấn, sử dụng các biểu
thống kê,nghĩa là rất coi
trọng phương pháp định
lượng cùng với sự quan sát
và ghi chép trực tiếp.


Luôn vận động và biến đổi
tùy quốc gia hay giai đoạn
lịch sử cụ thể.

1.3.3) Xã hội học văn hóa với sử học văn hóa
a) Khái niệm
 Lịch sử văn hóa
Lịch sử văn hoá (văn hoá sử) như là một bộ phận của lịch sử và sử học luôn phải
hướng đến lịch sử văn hoá như một trong những đối tượng cơ bản nhất của mình.
 Đối tượng nghiên cứu

Lịch sử văn hóa nghiên cứu quá trình phát triển của văn hóa trong tiến trình
phát triển của lịch sử cũng như quan tâm đến tính đa dạng của lịch sử văn hóa nhân
loại, đi sâu vào lịch sử văn hóa của từng cộng đồng, quốc gia, dân tộc.
b) Xã hội học văn hóa - Sử học văn hóa
 Giống nhau: đều nghiên cứu về các vấn đề liên quan đến văn hóa
 Khác nhau:

17


Nội dung

Đối tượng
nghiên cứu

Lịch sử văn hóa

Xã hội học văn hóa


Nghiên cứu quá trình sáng
tạo văn hóa của nhân loại trong
Nghiên cứu sự vận hành xã
lịch sử, tính đa dạng của lịch sử
hội của văn hóa trong các xã
văn hóa nhân loại, đi sâu vào
hội đã phân tầng.
lịch sử văn hóa của từng cộng
đồng, quốc gia, dân tộc.
Phương pháp nghiên cứu biểu
tượng, trong đó biểu tượng văn
hoá đóng vai trò quan trọng.

Phương
pháp nghiên
cứu

Sử dụng các phương pháp của
sử học để giải thích sự vận
hành và phát triển của văn hóa,
coi sự phát triển của văn hóa
như một quá trình của lịch sử.

Xã hội học văn hóa nghiên
cứu văn hóa dưới góc độ xã
hội, cũng được hiểu là áp
dụng các phương pháp điều
tra xã hội học.


 Vấn đề 4 : Chức năng và nhiệm vụ của Xã Hội Học văn hóa

1.4.1) Chức năng của xã hội học văn hóa
a) Chức năng nhận thức:
Cung cấp những tri thức Xã hội học cơ bản về những quy luật, vận động, phát
triển của các hiện tượng, sự kiện các quá trình…của văn hoá đang hàng ngày xảy ra
xung quanh chúng ta để từ đó tạo cơ sở khách quan cho việc nhận biết đúng bản chất
của nó. Góp phần hệ thống những hiểu biết của con người về văn hoá .Giúp chúng ta
nhận thức được vai trò của văn hoá trong vận hành của các cá nhân, nhóm, các thiết
chế xã hội và trong toàn bộ xã hội phân tầng. Giúp nhận thức sâu hơn về sự phát triển
tương lai của văn hóa, xã hội.
b) Chức năng thực tiễn, dự báo:
Thông qua chức năng nhận thức xã hội học văn hoá giúp các nhà quản lí có thể
đưa ra những quyết định đúng đắn, sáng suốt hướng chúng đí theo đúng với yêu cầu
18


khách quan của sự phát triển. Các tài liệu thực nghiệm của các cuộc nghiên cứu XHH
văn hoá là những phương tiện hữu ích để kiểm nghiệm các hoạt động thực tiễn và hoạt
động quản lý văn hoá của con người.
Xã hội học văn hoá góp phần vào việc nghiên cứu, cải thiện chính công việc quản
lý văn hoá, cơ quan quản lý văn hoá, cũng như các phương pháp quản lý văn hoá. Xã
hội học văn hoá còn đóng vai trò quan trọng trong việc dự đoán, dự báo sự phát triển
văn hoá của một xã hội thông qua các nghiên cứu thực nghiệm cung cấp.
c) Chức năng giáo dục :
Cung cấp tri thức để trang bị cho các cá nhân, nhóm xã hội cách nhìn nhân, đánh
giá những giá trị chân thực của cuộc sống. Thông qua đó giúp các cá nhân, nhóm,
cộng đồng xã hội, đặc biệt các nhà tổ chức, quản lý có những tri thức phù hợp với tính
chất và nhiệm vụ của một xã hội cụ thể nhằm thoả mãn nhu cầu tồn tại,phát triển văn
hoá của xã hội đó và có những phương sách, định hướng trong việc giáo dục, trồng

người (dưỡng dục nhân cách).
XHH văn hoá còn giúp mỗi cá nhân trong cộng đồng nhận thức đựơc vị trí, địa vị,
vai trò của mình trong hoạt động phát triển nền văn hoá dân tộc. XHH văn hoá còn
đánh thức những phẩm chất tốt đẹp của mỗi cá nhân, cộng đồng xã hội trong việc định
hướng cho họ sống đúng với những giá trị- chuẩn mực mà chính họ đã xây dựng nên.
1.4.2) Nhiệm vụ của Xã Hội Học văn hóa
a) Nghiên cứu các dạng thức hoạt động của văn hoá, quản lý văn hoá .
Thường xuyên tìm hiểu và nắm bắt kịp thời về những các dạng thức hoạt động
(hiện tượng, sự kiện) của văn hoá và quản lý văn hoá đang diễn ra trong xã hội. Để từ
đó có những điểu chỉnh kịp thời.
b) Lý giải các dạng thức hoạt động của văn hoá, quản lý văn hoá.
Phân loại các hiện tượng, sự kiện theo các tính chất và mức độ của nó, tìm ra
những đặc trưng, bản chất của văn hoá, những hiện tượng văn hoá mới nảy sinh trong
đời sống xã hội, trong tiến trình đổi mới cùng với những nguyên nhân xuất hiện của
19


nó, những tác động của nó tới các cá nhân, nhóm, các thể chế xã hội và đề xuất các
giải pháp khả thi nhằm thúc đầy sự phát triển văn hoá và các hình thức hoạt động của
chúng.
c) Xem xét các yếu tố trong cấu trúc của văn hoá và đặt nó cùng
với các dạng thức hoạt động của văn hoá trong mối liên hệ với các cơ cấu và thiết
chế xã hội trong các bối cảnh lịch sử cụ thể. Tìm hiểu và nhìn nhận văn hoá như là tổ
hợp, tích hợp nội dung của nhiều lĩnh vực, của mọi hiện tượng đa dạng và phong phú
trong hệ thống xã hội, nhất là mối liên hệ chặt chẽ giữa văn hoá và xã hội.
d) Chỉ ra được những cơ sở để phát triển văn hoá.
Nắm vững thực trạng sự vận hành của văn hoá trong đời sống xã hội, tìm ra
những vấn đề còn tồn đọng trong quá trình vận hành, chỉ ra những cơ sở, xu hướng tất
yếu của văn hoá mà nền văn hoá của xã hội sẽ phải trải qua trong quá trình xây dựng
và phát triển đất nước

 Vấn đề 5 :Một số lý thuyết văn hóa

1.5.1) Chức năng vị chủng:
Trong một nền văn hóa tồn tại nhiều tiểu văn hóa và trên Trái Đất của chúng ta
lại có rất nhiều nền văn hóa. Văn hóa không chỉ là cơ sở đối với nhận thức của con
người về thế giới mà còn đối với vấn đề đánh giá đúng, sai; tốt, xấu...Do vậy một vấn
đề đương nhiên phải đặt ra là cá nhân đánh giá và phản ứng trước những mẫu văn
hóa khác biệt thậm chí rất khác biệt với mẫu văn hóa của mình như thế nào. Các nhà
xã hội học phân biệt hai cách ứng xử đối với những mẫu văn hóa khác:
Chủ nghĩa vị chủng (hay còn gọi là chủ nghĩa duy chủng tộc, chủ nghĩa duy
dân tộc, tiếng Anh: ethno-centrism): là thông lệ đánh giá văn hóa khác bằng tiêu
chuẩn văn hóa của chính mình . Khuynh hướng vị chủng là do một cá nhân đã gắn bó
mật thiết với các yếu tố văn hóa của mình. Tuy nhiên điều này tạo ra sự đánh giá bất
công hoặc sai lệch một mẫu văn hóa khác bởi lẽ những gì được đánh giá có ý nghĩa
khác nhau trong những nền văn hóa khác nhau. Chủ nghĩa vị chủng cũng có hai
chiều, nếu một cá nhân đánh giá một nền văn hóa, một mẫu văn hóa khác theo cách
tiêu cực thì ngược lại, cá nhân đó cũng có thể bị đánh giá như thế. Các nhà xã hội
20


học, nhân chủng học thường có quan điểm phản đối thuyết vị chủng vì đó là cách
phản ứng tiêu cực và bất công, sai lệch đối với những nền văn hóa, mẫu văn hóa
khác nhau.
Thuyết tương đối văn hóa (tiếng Anh: cultural relativism): là thông lệ đánh giá
văn hóa khác bằng tiêu chuẩn của chính nó hay một cách nói khác là đánh giá văn
hóa khác trong cảnh quan văn hóa của chính nó. Đánh giá theo cách này có thể hạn
chế hoặc loại trừ được những bất công, sai lệch cũng như phản ứng tiêu cực trước
văn hóa khác biệt nhưng lại là thái độ khó đạt được. Muốn đánh giá văn hóa khác
bằng tiêu chuẩn của chính bản thân nó, cá nhân phải hiểu được giá trị, tiêu chuẩn của
văn hóa khác cũng như không bị lệ thuộc bởi những giá trị, tiêu chuẩn của nền văn

hóa của chính mình. Thuyết này cũng nhấn mạnh rằng các bối cảnh xã hội khác nhau
làm nảy sinh các giá trị và tiêu chuẩn khác nhau. Tuy vậy, điều này không có nghĩa là
chúng ta chấp nhận một cách không điều kiện các mẫu văn hóa khác mà đánh giá
một cách không định kiến hoặc thiên vị trong bối cảnh văn hóa của chúng. Thuyết
tương đối văn hóa đang được hỗ trợ bởi sự phát triển của công nghệ, truyền thông
khiến cho sự phổ biến văn hóa nhanh chóng hơn cũng như nhu cầu tìm hiểu văn hóa
khác tăng lên. Một trường hợp của thuyết tương đối văn hóa là chủ nghĩa duy ngoại
(xeno-centrism), đó là sự tin rằng những gì (sản phẩm, kiểu cách, ý tưởng...) thuộc về
nền văn hóa của bản thân mình đều ở dưới tầm so với những thứ tương tự nhưng ở
nền văn hóa mà nó phát tích . Ví dụ: người Mỹ tin rằng đồ điện tử của họ không tốt
bằng của Nhật bản, người Việt nam tin rằng dầu gội đầu sản xuất tại Việt nam không
tốt bằng của châu Âu mặc dù cũng do chính hãng đó sản xuất...
1.5.2) Thuyết tương đối văn hóa:
Thuyết tương đối văn hóa của M.herskovits là sự đánh giá văn hóa khác bằng tiêu
chuẩn của chính văn hóa đó chứ không phải dựa trên những giá trị, tiêu chuẩn của văn
hóa mình. Các bối cảnh xã hội khác nhau làm nảy sinh các giá trị và tiêu chuẩn khác
nhau. Nói cách khác đó là sự thừa nhận các giá trị văn hóa do các cư dân khác đã và
đang tạo ra.

21


+ Khía cạnh phương pháp luận: Đề cập phương thức nhận thức các văn hóa trên
cơ sở giá trị được thừa nhận ở một cư dân nào đó. Tham vọng hiểu được văn hóa từ
bên trong, nhận thức được ý nghĩa của các hoạt động của nó thông qua các mong
muốn, lý tưởng đang dược phổ biến trong văn hóa đó.
+ Khía cạnh triết học của thuyết tương đối văn hóa: là sự thừa nhận nhiều
con đường phát triển văn hóa, trong chủ nghĩa đa nguyên khi xem xét một quá trình
văn hóa lịch sử. Ông đưa ra ý tưởng về việc cần phải có thái độ đúng đắn hơn đến việc
tổ chức đời sống người trong các văn hóa khác nhau và việc vận dụng các thành tựu

của các cư dân khác nhau vào xã hội
+ Khía cạnh thực tiễn: sự tôn đối với văn hóa của mỗi cư dân, phủ nhận thái độ tự
tôn, kiêu ngạo trước một nền văn hóa khác. Sự nhìn nhận và đánh giá những hiện
tượng văn hóa trong lịch sử và hiện đại là yếu tố cần cho sự tồn tại của văn hóa. Đó là
biểu hiện “logic của sự phát triển riêng biệt”.Một khía cạnh thực tiễn khác đó là thái
độ đới với các văn hóa cổ xưa.


Ưu điểm: Thuyết tương đối văn hóa khẳng định sự bình đẳng của tất cả các
kiểu văn hóa, phủ nhận sự phân biệt các hệ thống, giá trị văn hóa, hướng
tới chống lại cách giải thích sự phát triển văn hóa lịch sử lấy Châu Âu làm
trung tâm, nhấn mạnh tính độc đáo của văn hóa địa phương . Ngoài ra nó

còn có ý nghĩa phương pháp luận, đạo lý và thực tiên.
• Khuyết điểm: Ông theo đuổi tính độc đáo và tính giá trị tự thân của những
thiết chế đã được tập đoàn người thừa nhận. Đồng thời cực lực phê phán
quan điểm lấy phương tây làm trung tâm nhưng không thay đổi bản chất
của nó.
1.5.3) Thuyết chức năng luận trong nghiên cứu văn hóa
a) Chức năng luận B.Malinowski –phương pháp nghiên cứu văn hoá.
B.Malinowski khẳng định: bản chất khái niệm văn hoá không phải lúc nào cũng
đơn nghĩa. Khi thoả mãn các nhu cầu sinh vật của mình, con người tìm kiếm thức ăn,
xây dựng nhà ở v.v… và cải tạo môi trường xung quanh.Lí thuyết nhu cầu là nền tảng
trong lí thuyết về văn hoá của ông. Theo ông, bất cứ văn hoá nào trong tiến trình phát
22


triển của nó đều có thể tạo ra một hệ thống cân bằng ổn định, trong đó mỗi bộ phận
chỉnh thể đều thực hiện chức năng của nó.B.Malinowski cho rằng mọi hiện tượng
văn hoá đều do những nhu cầu của con người sinh ra. Ông chia các hiện tượng văn

hóa ra thành các hệ thống chính và tương ứng theo đó là hệ thống nhu cầu cần đáp
ứng. Nhóm nhu cầu tái sản xuất đời sống, nhu cầu phát triển và nhóm nhu cầu dẫn
xuất. Như vậy, quan niệm của B.Makinowski thiên nặng về ý nghĩa sinh vật học
trong đời sống con người mà không chú ý tới phẩm chất mới trong các nhu cầu này
với tư cách một tồn tại xã hội. Ông đã hiểu một cách quá đơn giản mối liên hệ của
những nhu cầu văn hóa này và vì thế đã chia nhỏ một cách máy móc văn hoá ra thành
từng đoạn và đem mỗi đoạn gắn với một nhu cầu nhất định của bản tính sinh vật của
con người. Ông cho rằng văn hoá là một chỉnh thể, nhưng chính ông lại không nêu lên
được tính thống nhất đó trong chỉnh thể hoạt động của văn hoá với tính cách một hệ
thống.
b) Lý thuyết A.Racliff Brown.
Văn hoá như một tổng thể chức năng.
A.Racliff Brown chủ yếu nghiên cứu tổ chức chính trị của các nền văn hoá khác
nhau, những đặc điểm của hệ thống thân tộc và vai trò của chúng trong các hệ thống
xã hội, sự phân tích chức năng các cấu trúc cảu những hình thành tín ngưỡng nguyên
thuỷ…Ông thay khái niệm văn hoá bằng khái niệm cấu trúc xã hội . Theo ông, khi tìm
hiểu các loại hình văn hoá khác, có lối sống xa lạ cần phải nghiên cứu văn hoá từ bên
trong, phải có ý thức đối với giá trị của các văn hoá,sự hiểu thấu và phân tích cá xã hội
giản đơn cổ sơ
Những nghiên cứu của phái chức năng luận theo lối mới đã đẩy vấn đề về số
phận tương lai các nền văn hoá nguyên thuỷ, quản lý các nền văn hoá khác về bản chất
với văn hoá châu Âu (dựa trên cơ sở hiểu biết về cấu trúc và ý nghĩa chức năng của
các yếu tố văn hoá như những cơ chế toàn vẹn) là một trong những thành quả quan
trọng của sự phát triển chức năng luận.
Ý nghĩa của thuyết chức năng đối với Xã hội học văn hoá thể hiện ở chỗ, bất cứ
văn hoá nào cũng cần phải được nhìn nhận dưới cái nhìn thực hiện các chức năng
23


khác nhau của nó. Về phía chính mình, khái niệm văn hoá thường đồng nhất với tổng

thế các chức năng của nó được thực hiện. Sự phân xuất ra các chức năng của văn hoá
như một cơ chế toàn vẹn xác định ra các chiều hướng trong nghiên cứu văn hoá, nó
tạo ra một cấu trúc đẳng cấp, bao gồm các tiều hệ thống chức năng của những cộng
đồng văn hoá - tộc người. Các tiểu hệ thống chức năng ấy trở thành đối tượng của sự
phân tích khoa học

Chương II : Văn hóa và các thành tố của Văn hóa ?
 Vấn đề 1: Giá trị văn hóa ?

2.1.1) Khái niệm giá trị?
Giá trị là những gì mà qua đó thành viên của một nền văn hóa xác định điều gì là
đáng mong muốn và không đáng mong muốn, tốt hay không tốt, đẹp hay xấu...[18]
Trong một xã hội, các thành viên đều xây dựng quan điểm riêng về bản thân mình và
về thế giới dựa trên những giá trị văn hóa. Trong quá trình trưởng thành, con người
học hỏi từ gia đình, nhà trường, tôn giáo, giao tiếp xã hội...và thông qua đó xác định
nên suy nghĩ và hành động như thế nào theo những giá trị của nền văn hóa. Giá trị là
sự đánh giá trên quan điểm văn hóa nên khác nhau ở từng cá nhân nhưng trong một
nền văn hóa, thậm chí có những giá trị mà đại đa số các thành viên trong nhiều nền
văn hóa đều thừa nhận và có xu hướng trường tồn như tự do, bình đẳng, bác ái, hạnh
phúc...Giá trị cũng luôn luôn thay đổi và ngoài xung đột về giá trị giữa các cá nhân
hoặc các nhóm trong xã hội, trong chính bản thân từng cá nhân cũng có xung đột về
giá trị chẳng hạn như giữa thành công của cá nhân mình với tinh thần cộng đồng.
Giá trị dưới góc độ xã hội học văn hóa có tính chất hướng dẫn và lựa chọn. Vì vậy,
khi nó chỉ ra những cái gì là phù hợp, cái gì là không phù hợp với cá nhân, với cộng
đồng, với xã hội thì đồng thời chúng cũng chấp nhận những kiểu hành vi nào đó và
phủ nhận những hành vi khác. Giá trị được thực hiện thông qua hành động của vai trò
xã hội, kiến tạo “sự đồng thuận xã hội”.
2.1.2) Giá trị cá nhân và giá trị xã hội
24



Giá trị có rất nhiều loại như: giá trị vật chất, giá trị đạo đức, giá trị văn hóa, giá trị
tinh thần, giá trị xã hội, giá trị chính trị, giá trị tôn giáo v.v…Giá trị theo sự giải thích
của một số từ điển thì giá trị dùng để chỉ phẩm chất tốt hay xấu, lớn hay nhỏ trong con
người, là cái có ích được phản ánh trong các nguyên tắc và chuẩn mực đọc được lý
tưởng tâm thể, mục đích, giá trị là sự thể hiện có tính định hướng về mối quan hệ giữa
chủ thể đánh giá và đối tượng của sự đánh giá.Giống như tính đa dạng của văn hóa,
xưa nay đã có không ít đinh nghĩa về giá trị. Người ta có thể hiểu từ giá trị theo cách
giải thích của nhà triết học Đức E. Kant (1724 – 1804): “Vật nào có thể đem trao đổi
được đều có một giá, duy có một số vật không lấy gì thay thế được thì có một giá trị.
Ví dụ: Chiếc đồng hồ có một giá, còn tình bạn, tình yêu,lòng yêu nước, tinh thần
hy sinh vì đại nghĩa, kiệt tác nghệ thuật, tín ngưỡng thần linh...là những cái vô giá, tức
là những giá trị văn hóa.

Nếu hiểu văn hóa theo nghĩa rộng thì văn hóa là một loại giá trị bao hàm những
giá trị tinh thần: giá trị đạo đức, giá trị tinh thần, giá trị nhân văn, giá trị văn hóa v.v…
- Giá trị nhân văn : Biểu thị sự tôn trọng và yêu thương con người , thừa nhận
quyền phát triển tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc.
- Giá trị đạo đức: con người sống trong XH, sống cùng, sống với và sống vì
nhau, thể hiện sự cao cả, sự hy sinh cho nhau. Đó là giá trị đạo đức.
- Giá trị văn hóa : Gắn liền với sự phát triển của khoa học kỹ thuật và công
nghệ trên cơ sở tiến bộ xã hội và biểu hiện ở đạo đức, lối sống có văn hóa cũng như
phát triển toàn diện của con người .
- Giá trị XH: là sự đánh giá của XH chứ không phải của cá nhân (đa số), là sự
mong muốn khao khát của tập thể và khi đạt được thì cả tập thể thoả mãn, phấn khởi,
cân bằng tâm lý, không đạt được thì con người sẽ hẫng hụt, mất cân bằng tâm lý (hay
street) giá trị thúc đẩy con người ta đến mơ ước, vượt lên chính mình để sống, vươn
tới. Giá trị bao giờ cũng mang tính ước lệ vì có thể thoả mãn cộng đồng người này
nhưng lại khắc nghiệt với cộng đồng người khác. Vì những giá trị khiến con người ta
làm việc này hay việc khác, nó điều chỉnh hành vi ứng xử cá nhân với cá nhân, cá

25


×