Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Đô thị hóa và hậu quả của nó

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (694.93 KB, 14 trang )

Mục lục

1


Giới thiệu
Cùng với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế một cách nhanh chóng như hiện
nay thì đô thị hóa là một quá trình tất yếu của tất cả các quốc gia trên thế giới
trong đó có Ấn Độ. Bên cạnh những lợi ích của đô thị hóa mang lại thì quá trình này
cũng gây ra không ít tiêu cực, việc đô thị hóa tự phát, thiếu quy hoạch khoa học sẽ
làm nẩy sinh và để lại nhiều hậu quả lâu dài làm cản trở sự phát triển của đất
nước.
Đô thị hóa ở ấn độ đã bắt đầu tăng lên sau khi độc lập, do sự chấp nhận của đất
nước có một nền kinh tế đa dạng mà dẫn đến sự phát triển của khu vực tư nhân. Đô
thị hóa đang diễn ra với tốc độ nhanh ở Ấn Độ . Dân số cư trú tại khu vực đô thị ở
Ấn Độ, theo điều tra dân số năm 1901 là 11,4 % số này tăng lên đến 28,53 % theo
điều tra dân số 2001 và vượt 30% theo điều tra dân số 2011 đứng ở 31,16%. Theo
thống kê của Liên Hợp Quốc dân sô ở đô thị sẽ vượt dân số ở nông thôn vào năm
2007. Đặc biệt con số này sẽ tăng mạnh trong những năm tới. Mumbai thấy quy mô
lớn di cư từ nông thôn đến đô thị trong thế kỉ 20. Mumbai chứa 12,5 triệu người và
là thành phố lớn nhất về dân số ở Ấn Độ, tiếp theo Delhi với 11 triệu dân. Chứng
kiến tốc độ nhanh nhất và đô thị hóa trên thế giới, theo điều tra dân số năm 2011,
dân số của Delhi đã tăng 4,1%, Mumbai 3,1% và Kolkata’s 2% theo điều tra dân số
năm 2011 so với điều tra năm 2001
Sau khi độc lập , Ấn Độ phải đối mặt với nghèo đói, thất nghiệp, và lạc hậu về
kinh tế. Việc đầu tiên Thủ tướng Ấn Độ, Pandit Jawaharlal Nehru, không tập trung
vào các lĩnh vực khoa học và công nghệ.Các nền kinh tế hệ thống đã được thông
qua, dẫn đến sự tăng trưởng của khu vực công tại Ấn Độ làm tê liệt xuống sự phát
triển của nền kinh tế Ấn Độ dẫn đến những gì thường được gọi là tỷ lệ Hindu của
tăng trưởng.Sau đó sự đóng góp của ngành nông nghiệp vào GDP của Ấn Độ bắt
đầu giảm và tỷ lệ phần trăm đóng góp từ khu vực tư thứ cấp tăng lên.Thời kỳ sau


năm 1941, chứng kiến sự tăng trưởng nhanh chóng của bốn thành phố đô thị
tại Ấn Độ đó là Kolkata, Delhi, Mumbai và Chennai . Các nền kinh tế của quốc gia
này đã nhìn thấy một sự gia tăng do cuộc cách mạng công nghiệp và sự phát minh
ra công nghệ mới làm tăng mức sống của người dân sống ở khu vực đô thị. Sự tăng
trưởng của khu vực công dẫn đến sự phát triển của giao thông công cộng, đường
giao thông, cấp nước, điện, và do đó các cơ sở hạ tầng các khu đô thị. Song song với
sự phát triển vượt bậc đem lại nhiều lợi ích cho đất nước thì bên cạnh đó đô thị hóa
còn đem lại nhiều mặt tiêu cực cho môi trường cũng như cuộc sống của người dân.

2


3


I.

Khái niệm đô thị hóa.

Đô thị hóa là quá trình chuyển đổi một khu vực 1 vùng nào đó từ chưa đô thị
thành đô thị. Những vùng những khu vực có thể là ven đô thị hay ngoại thành có
thể thị trấn, thị tứ khi có cơ hội đô thị hóa, từ đô thị mở rộng không gian và diện
tích cũng như thu hút luồng di cư của dân không nhất thiết từ đô thị trung tâm và
cả nhwungx vùng khác nhất là nông thôn trong cả nước.
Hai thành phố diễn ra sự đô thị hóa sôi nỗi nhất tại Ấn Độ :
+ Mumbai
+ Delhi

Thành phố Delhi


4


Thành phố Mumbai

II.

Nguyên nhân đô thị hóa ở Ấn Độ

- Mở rộng tại các dịch vụ của chính phủ, như là kết quả của Chiến tranh thế giới
thứ hai
- Di cư của người dân trong các phân vùng của Ấn Độ
- Nhập cư từ các nước trên thế giới
- Các cuộc cách mạng công nghiệp
- cơ hội kinh tế chính là một lý do người dân di chuyển vào thành phố vì người dân
tin rằng mức sống tại các đô thị sẽ được tốt hơn nhiều tại các khu vực nông thôn.
- Cơ sở hạ tầng trong các khu đô thị
- Đô thị hóa xuất hiện tự nhiên từ những nổ lực cá nhân và doanh nghiệp để giảm
thời gian và chi phí trong đi lại và giao thông vận tải, vừa nâng cao cơ hội việc làm
và giáo dục nhà ở và giao thông vận tải. Sinh sống tại thành phố cho phép cá nhân
và gia đình để tận dụng những cơ hội của gần nhau , sự đa dạng và cạnh tranh thị
trường.
- Tỷ lệ tăng tự nhiên gây ra bởi sự giảm tỷ lệ tử vong trong khi tỷ lệ sinh con vẫn
còn cao

5


 Đô thị hóa là sự tăng lên của cư dân đô thị. Sự tăng lên này theo 3 dòng chính :
tăng dân số tự nhiên của dân cư đô thị , dòng dân cư di dân từ nông thôn ra thành

thị và điều chính về biên giới lãnh thổ hành chính của đô thị.
III.

Hậu quả của việc đô thị hóa ở Ấn Độ.

1. Vấn đề về môi trường
Tăng nhanh dân số đô thị ở Ấn Độ đẫn đến nhiều vấn đề như khu ổ chuột ngày
càng tăng, giảm mức sống ở khu vực đô thị, cũng gây thiệt hại về môi trường.
Các cuộc cách mạng công nghiệp trong thế kỷ 18 gây ra các nước như Hoa Kỳ
và Anh Quốc để trở thành quốc gia siêu cường nhưng điều kiện hiện nay đang xấu
đi. Tốc độ tăng trưởng đô thị của Ấn Độ là 2,07% mà có vẻ là đáng kể so với
Rwanda với 7,6%. Ấn Độ có khoảng 300 triệu người sống ở khu vực đô thị.
a. Về môi trường đất và môi trường nước
Điều này có gây ra rất nhiều vấn đề khu ổ chuột, tại thành phố buộc người dân
phải sống trong điều kiện không an toàn mà còn bao gồm các tòa nhà bất hợp
pháp. Dòng nước, đường giao thông và điện đang thiếu đó là gây ra sụp đổ của tiêu
chuẩn sống. Nó cũng được thêm vào các vấn đề của tất cả các loại ô nhiễm.

6


Các khu ổ chuột, môi trường nước cũng như môi trường đất lân cận bị ô nhiễm ở
TP Mumbai
- Về nơi ở, người nghèo Ấn Độ không có lựa chọn nào khác ngoài việc sống cạnh các
cống lộ thiên, như một khu dân cư trong ảnh tại thành phố Noida, nằm giáp thủ đô
New Delhi.

Ảnh: National Geographic.

7



b. Về môi trường không khí
New Delhi là thành phố ô nhiễm thứ hai thế giới và hàng chục nghìn người thiệt
mạng mỗi năm tại đại đô thị này vì chất lượng không khí tồi tệ.

Ảnh: AFP/Getty
Theo báo cáo mới đây của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) về mức độ ô nhiễm không
khí, Delhi là một trong những thành phố ô nhiễm nhất trên thế giới, chỉ đứng sau
Riyadh (Saudi Arabia). Vùng thủ đô Delhi, bao gồm thành phố New Delhi, là khu đô
thị tập trung đông dân thứ 2 ở Ấn Độ và là khu vực đô thị lớn thứ 3 trên thế giới.
Dân số ở đây khoảng 25 triệu người, nhiều gấp 2 lần thành phố New York.

8


Ảnh: HT File Photo.
Bầu không khí ô nhiễm ở đây chứa lượng lớn các hạt mịn có thể vượt qua màng
lọc của cơ thể để xâm nhập sâu vào phổi. Điều này làm tăng nguy cơ mắc hen
suyễn, bệnh tim, đột quỵ, các bệnh nhiễm trùng đường hô hấp, cũng như ung thư
khí quản, phổi và phế quản.
2. Về vấn đề kinh tế và xã hội
Vấn đề dân di cư từ nông thôn ra thành thị dẫn đến mật độ dân số ở thành thị
tăng cao : vấn đề đô thị hóa nhanh cùng với sự thay đổi điều kiện sống đã làm cho
một bộ phận dân cư ở nông thôn di cư mạnh ra các đô thị. Số dân cư trong các đô
thị tăng đột biến với mật độ ngày càng dày đặc gây mất cân đối giữa thành thị và
nông thôn, đồng thời đặt ra nhiều vấn đề nan giải về giải quyết công ăn việc làm,
thất nghiệp tại chổ, chổ ở và tệ nạn xã hội làm cho trật tự xã hội ở các đô thị ngày
càng phức tạp.


a. Tình trạng thất học, thất nghiệp và phân hóa giàu nghèo
Trong quá trình hội nhập và phát triển người dân đô thị cần có trình độ văn
hóa tay nghề cao để tiếp cận với khoa học kĩ thuật- công nghệ và đáp ứng với nhu
cầu tuyển dụng lao động, song thực tế cho thấy các đô thị và các vùng ven đô vẫn
còn một bộ phận không nhỏ về thất nghiệp, trình độ học vấn không cao,đây chủ
yếu là những lao động đơn giản từ nông thôn lên thành thị để kiếm việc làm. Phần
9


lớn họ chỉ tìm được những công việc đơn giản như trong khu công nghiệp, khu chế
xuất ở gần thành thị, một số kém may mắn hơn họ vẫn còn lang thang đề đi tìm
công việc. Nhiều vấn đề cũng phát sinh từ đây do lương lao động chân tay không
cao, chi tiêu không hợp lý không có tiền gửi về cho gia đình.

b. Tình trạng về nhà ở và quản lý trật tự an toàn xã hội ở đô thị Ấn Độ
Nhìn chung hầu hết các đô thị ở Ấn Độ hiện nay sảy ra tình trạng thiếu nhà ở.
Đặt biệt là dân nghèo đô thị và những người mới nhập cư vào thành phố. Đã có
những người bất chấp những quy định về quản lí đô thị, tự ý san lấp, lấn chiếm,
sang nhượng để xây nhà một cách tạm bợ, tùy tiện không theo quy hoạch gây ảnh
hưởng đến mỹ quan đô thị. Việc vây cất nhà không theo quy định dẫn đến tình
trạng “ nhà không số, phố không tên “ chen lấn hỗn độn, tối tăm, chật chội. Điều
này phần nào đã tạo điều kiện thuận lợi cho các tệ nạn xã hội, tội phạm lẫn trốn
pháp luật, gây khó khăn cho công tác quản lý trật tự an toàn xã hội.
IV.

Thách thức – cơ hội

1. Cơ hội
- Phát triển đô thị nhanh chóng, tăng sự phát triển giao thông, nguồn lực của địa
phương và phá hủy không gian mở.

- Cung cấp cho người nghèo có cơ hội hơn và tiếp cận nhiều hơn tới các nguồn lực
để biến đổi tình hình của họ hơn so với các vùng nông thôn.
- Làm cho nền kinh tế nước ta phát triển theo xu thế thế giới.
- Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế giảm dần trong giá trị nông lâm thủy sản và
tăng tỉ trọng các ngành Công nghiệp dịch vụ.
- Kích thích và tạo cơ hội để con người năng động, sáng tạo hơn trong tìm kiếm và
lựa chọn các phương thức , hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh vượt lên làm
giàu chính đáng.
- Kinh tế phát triển, đời sống của người lao động cả thiện đó là xu hướng chủ đạo
và là mặt tích cực của đô thị hóa.
2. Thách thức
a. về mặt văn hóa xã hội.
- Những năm qua, một số yếu tố tiến bộ của văn hóa đô thị đã lan tỏa về nông thôn,
tạo nên những sắc thái mới trong đời sống, sinh hoạt tinh thần của người nông dân
10


và cộng đồng làng xã. Nhiều loại hình, giá trị vă hóa ở nông thôn cũng được giới
thiệu rộng rãi, thuận lợi hơn ở các đô thị. Đó là mặt thuận. Mặt chưa thuận là do
thiếu chuẩn bị, thiếu định hướng và chọn lọc và do cả những bất cập trong công tác
quy hoạch và quản lí văn hóa, không ít những yếu tố phi văn hóa, phản văn hóa từ
đô thị và từ các phương tiện truyền thông, đặc biệt từ internet đã thâm nhập vào
đời sống nông thôn, đưa tới những vấn nạn xã hội đáng suy nghĩ.
- Theo nhiều ngã đường một số sản phẩm, loại hình được gọi là văn hóa, văn học,
nghệ thuật, một số quan niệm, lối sống, cách ứng xử, làm ăn.... không phù hợp,
thậm chí trái ngược, đối lập với thuần phong mỹ tục, với những giá trị tốt đẹp đã
lan về thôn quê chúng thâm nhập và làm tha hóa một bộ phận dân cư nông thôn
đặc biệt là giới trẻ, làm vẫn đục môi trường văn hóa, xã hội, bào mòn và làm rạn
nức mối quan hệ tương thân, tương ái, đồng thuận và thuần phát trong cộng đồng
nông thôn.

b. về mặt môi trường
từ một phương diện khác, nông nghiệp , nông thôn là địa bàn đang phải hứng chịu
những hậu quả về môi trường. Việc sử dụng không hợp lý, lãng phí quỹ đất canh
tác, tình trạng san lấp, lấn chiếm ao hồ, sông, suối, các công trình thủy lợi, nạn đốt
phá rừng, khai thác khoáng sản tùy tiện cùng với sự yếu kém trong xử lí nước thải,
rác thải, bụi, khói, tiếng ồn,... đang làm cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, phá vở hệ
sinh thái, gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp, cảnh
quan nông thôn, đời sống và sức khỏe của nông dân, giảm thiểu khả năng đề
kháng, thậm chí làm trầm trọng thêm những tai biến của tự nhiên.
- Vấn đề về ô nhiễm môi trường, ô nhiễm nguồn nước, ô nhiễm không khí và tiếng
ồn.
- Phần lớn hệ thống xử lí khí thải không được xử lý, chất thải rắn đang gia tăng
nhanh chóng.
- Tài nguyên đất bị khai thác triệt để.
- Gây nên áp lực đáng kể về nhà ở và vệ sinh môi trường hình thánh các khu ổ chuột
và các khu nghèo đô thị.
c. sự phân tán, chia cắt trong quy hoạch, tổ chức không gian đô thị
Đô thị hóa là xu thế khách quan phản ánh trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất và phân công lao động xã hội. Tuy nhiên, chất lượng đô thị hóa phụ thuộc rất
lớn vào năng lực quản lí của con người, trước hết là khả năng quy hoạch và tổ chức
không gian đô thị của bộ máy quản lí nhà nước các cấp.
11


Quy hoạc nói chung, quy hoạch đô thị nói riêng là một khoa hoạc tổng hợp đòi
hỏi phải có sự tiếp cận liên ngành với một tầm nhìn xa rộng, sự tính toán chặt chẽ
chính xác nhằm giải quyết hài hòa các mỗi quan hệ giữa tổng thể ( nhìn trên phạm
vị quốc gia) với bộ phận ( vùng, địa phương ), giữa không gian đô thị với không
gian nông thôn, giữa không gian kiến trức với cảnh quan môi trường....
Quy hoach và tổ chức không gian đô thị là kết tinh tầm văn hóa triết lý văn hóa

và khoa học, công nghệ phân bố các nguồn lực quốc gia.
Sự phân bố các khu đô thị còn phân tán, không đồng đều giữa các vùng miền.
Mặc dù những năm gần đây, có sự vươn dài, to dài của hệ thống đường giao thông,
ven các tuyến đường mọc lên ngày càng nhiều những khu đô thị mới, những điểm
cư dân đô thị, song nông thôn các vùng sâu, vùng xa, vùng rừng núi, ven biển mật
độ đô thị còn thưa thớt. Cho đến nay nhịp điệu đô thị hóa sôi động chủ yếu vẫn diễn
ra ở tại hai thành phố lớn ở Ấn Độ là Mumbai và Delhi . Trong nghiên cứu đô thị
học, người ta gọi tình trạng tập trung phát triển quá lớn một số thành phố trung
tâm mà không quan tâm phát triển đồng bộ hê thống các đô thị khác là “ căn bệnh
to đầu”, làm chậm tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, phát triển
kinh tế-xã hội nói chung, phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn, cải thiện đời
sống nông dân nói riêng.
Tư duy về quy hoach vùng, liên vùng đã được hình thành từ sớm. Bộ chính trị đã có
nhiều nghị quyết về chiến lược phát triển các vùng, các thành phố lớn. Chính phủ
đã chỉ đạo xây dựng qui hoạch các vùng kinh tế trọng điểm các vùng động lực và
tam giác phát triển.... tuy nhiên, tiến độ xây dựng, nhất là triển khai quy hoạch
vùng, liên vùng chậm, do vậy, phần lớn quy hoạch được thực hiện chủ yếu trên địa
bàn hành chính của địa phương, dẫn đến sự thiếu đồng bộ, chia cắt, trùng lập, lãng
phí, ít hiệu quả trong khai thác, phát huy các nguồn lực tự nhiên, kinh tế, xã hội
nhìn trên phạm vi toàn quốc.
ở từng địa phương hạn chế hổ biến trong xây dựng, thực hiện quy hoạch là
thiếu tầm nhìn xa, thiếu cánh nhìn tổng thể, hệ thống và sự buông lỏng trong quản
lí, triển khai quy hoạch. Quy hoạch chung, quy hoạch hạ tầng khung chưa được
quan tâm đúng mức, xu hướng chung vẫn là chú trọng xây dựng, triển khai quy
hoach chi tiết, đáp ứng nhu cầu trước mắt. Hệ quả khó tránh khỏi tình trạng tùy
tiện, lộn xộn, chắp vá, chia cắt, thậm chí làm biến dạng, méo mó không gian kiến
trúc. Đây là chưa kể đến những yếu kém trong phê duyệt, kiểm tra thực hiện các dự
án, tình trạng quy hoạch treo, gây ra sự lãng phí về không gian nhỏ về đất đai và
kéo theo không ít phức tạp về mặt xã hội.
Nhìn góc độ quy hoạch, thực hiện quy hoạch, đô thị hóa chưa thật sự gắn kết và

phục vụ hiệu quả quy hoạch kinh tế, xã hội và xây dựng nông thôn mới vì mục tiêu
nâng cao chất lượng sống của nông dân.
12


d. Sự ùn đọng lao động ở nông thôn
Sự chuyển dịch cơ cấu lao động, nhìn chung diễn ra vẫn chậm chạp, chưa tương
thích và đáp ứng được yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Đến năm 2007, trong
GDP giá trị nông nghiệp đã giảm xuống còn 19,6 %, trong khi đó lao động nông
nghiệp vẫn còn chiếm 52,8 %. Nghịch lý này phản ánh một thực tế : công nghiệp
dịch vụ,trên địa bàn nông thôn chưa đủ sức tạo nhiều việc làm mới để thu hút lực
lượng lao động nông nghiệp còn rất nhiều tiềm tàng. Ngoài một bộ phận không
nhiều được tuyển vào các doanh nghiệp trên địa bàn hoặc đi kiếm việc làm ở các đô
thị, các khu công nghiệp lớn, phần đông lao động vẫn còn đang ùn đọng trong khu
nông nghiệp nông thôn. Một bộ phận lao động tiếp tục sản xuất nông nghiệp trong
diện tích đất canh tác ngày càng thu hẹp, một bộ phận chuyển sang các hoạt động
phi nông nghiệp đơn giản, theo cơ chế thỏa thuận. Thực trạng này chứng tỏ quá
trình công nghiệp hóa đô thị hóa chưa gắn kết và tác động mạnh mẽ đến nông
nghiệp, nông thôn, nông dân. Tình trạng thiếu việc làm, dư thừa lao động, sự phân
hóa thu nhập và khó khăn về đời sống cửa người nông dân, phần lướn có nguyên
nhân từ đây.
Đồng thời với quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động đô thị hóa tất yếu dẫn theo
sự dịch chuyển dân cư theo hướng chuyển hóa cư dân nông thôn thành cư dân đô
thị. Sự chuyển hóa này diễn ra lâu dài thong qua các dòng chuyển cư theo chiều
hướng khác tùy thuộc vào trình độ phát triển và đặc điểm, hoàn cảnh của mỗi quốc
gia.
V.

Kết luận


Những nghịch lý, mâu thuẫn thách thức trên và những hệ lụy của chúng có thật
đang từng ngày diễn ra trong quá trình đô thị hóa, từng giờ tác động đến nông
nghiệp, nông thôn, nông dân. Song đó là những khó khăn khó tránh trên con đường
đi lên, hai là mặt biện chứng của quá trình phát triển.
Đô thị hóa là tất yếu của mỗi quốc gia. Thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh
tế, thay đổi diện mạo đất nước. Nhưng bên cạnh đó đô thị hóa còn nảy sinh nhiều
tiêu cực đến tất cả các lĩnh vực. Đó là một vấn đề đáng quan tâm hiện nay.
Đô thị hóa là một quá trình phát triển tất yếu của bất kì quốc gia nào, trong đó
có Ấn Độ. Tuy nhiên đô thị hóa tự phát, thiếu quy hoạch khoa học sẽ làm nảy sinh và
để lại rất nhiều hậu quả tiêu cực, lâu dài, gây lãng phí lớn và cản trở sự phát triển
của đất nước.
13


Chính vì vậy chiến lược đô thị hóa ở Ấn Độ phải hướng tới mục tiêu đảm bảo cân
đối giữa tính hiện đại với bền vững của tự nhiên-con người-xã hội, thông qua việc
lựa chọn các mô hình định cư tiên tiến, phù hợp với đặc thù của Ấn Độ ở đô thị,
nông thôn, miền núi, các vùng biên giới, hải đảo, đảm bảo sự hài hòa giữa lợi ích
trước mắt và lợi ích lâu dài của dân tộc, trên cơ sở tìm kiếm những phương thức
phát triển đô thị tiết kiệm đất, đô thị xanh, đô thị sinh thái.... thay thế cho mô hình
đô thị còn tồn tại nhiều bất cập hiện nay của chúng ta.
Các cơ quan quản lí nhà nước cần đổi mới nhận thức về đô thị hóa, từ đó đổi
mới về hoạch định chính sách, chiến lược và quy hoạch đô thị trên cơ sở một tầm
nhìn dài hạn, khoa học và tổng thể. Việc lựa chọn mô hình định cư tiến bộ cho đô thị
và nông thôn.
Lập các chính sách cho phát triển đô thị cần có dữ liệu khoa học để cân đối
nguồn tài nguyên : đất, nước,năng lượng,.. trong đó tài nguyên đất đang dần cạn
kiệt cần đặc biệt chú ý, nhằm đảo bảo an ninh lương thực cũng như giải quyết các
vấn đề xã hội phát sinh từ nó. Nguồn lực và sự dịch chuyển kinh tế đô thị phải được
nghiên cứu để tăng trưởng kinh tế đồng bộ với chất lượng của cuộc sống dân cư.

Trước thực tiễn người làm công tác chuyên môn liên quan đến vấn đề đô thị còn
hạn chế trong việc ập nhật lý luận, các phương tiện kỹ thuật, các công nghệ mới
cũng như các vấn đề của thực tiễn đô thị ( dẫn đến phương pháp xây dựng lạc
hậu,lãng phí, trình độ các công ty xây dựng cũng như khâu thẩm định chất lượng
công trình hạn chế) . cần nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ quy hoạch và kiến
trúc như một khâu trọng yếu trong quá trình đổi mới về chiến lược phát triển ở Ấn
Độ.

14



×