Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.5 KB, 11 trang )

MỤC LỤC
Trang


MỞ BÀI
Nếu muốn tồn tại thì cách duy nhất đối với mọi cá thể là hòa nhập với cộng
đồng, cùng nhau vận động, giao lưu và phát triển, với một đất nước cũng vậy. Từ
khi đất nước chưa thống nhất, Đảng và Nhà nước đã đều xác định nước ta là một bộ
phận không thể tách rời của thế giới, gắn liền với tiến trình phát triển của thế giới.
Cô lập mình với thế giới chính là cánh cửa dẫn tới sự diệt vong của quốc gia. Việt
Nam chúng ta đã từng có một thời kỳ như vậy, chỉ bó hẹp quan hệ với các nước xã
hội chủ nghĩa mà không quan tâm đến tình hình của các nước khác cũng như thế
giới nói chung, bị bao vây, cô lập bởi chính các nước trong khu vực. Nhưng rất
may, Đảng ta đã có những điều chỉnh kịp thời trong chính sách ngoại giao, giúp
đưa đất nước thoát khỏi tình thế đó. Trong đó phải kể đến Chủ trương về đa
phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ đối ngoại của Đảng ta lúc bấy giờ.
A.
I.
1.

NỘI DUNG

Hoàn cảnh lịch sử
Tình hình thế giới
Từ giữa những năm 80 của thế kỷ XX tình hình thế giới có nhiều biến động.
cuộc cách mạng khoa học và công nghệ phát triển nhanh chóng đã tác động sâu sắc
đến nền kinh tế thế giới. Xu thế chạy đua phát triển kinh tế đã dẫn đến cục diện hòa
hoãn giữa các nước lớn. Các nước đang phát triển cũng dần đổi mới chính sách đối
ngoại, thực hiện chủ trương đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế để
tranh thủ sự hỗ trợ về vốn, kỹ thuật và công nghệ. Hai xu hướng toàn cầu hóa và
khu vực hóa cũng có những ảnh hưởng không nhỏ đến chính sách ngoại giao của


các nước, trong đó có các nước Đông Nam Á.
Trong khi đó, hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng sâu
sắc. Đến đầu những năm 90, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ
hoàn toàn. Trật tự thế giới hai cực theo đó cũng tan rã, mở ra thời kỳ mới với việc
hình thành trật tự thế giới đa cực.
Tư duy về sức mạnh trên thế giới cũng có sự thay đổi. Sức mạnh của một quốc
gia không chỉ bó hẹp ở mặt quốc phòng, chính trị, quân sự mà phải là tổng thể của


sự phát triển tất cả các mặt: kinh tế, văn hóa – xã hội, khoa học công nghệ,… trong
đó, kinh tế phải được đặt lên vị trí hàng đầu.
Những thành tựu của cuộc cách mạng kỹ thuật và công nghệ thông tin trong
những năm cuối thế kỷ 20 đã làm tăng tốc sự phát triển của lực lượng sản xuất,đưa
loài người từ xã hội công nghiệp sang xã hội hậu công nghiệp và đang bướcvào
ngưỡng cửa của xã hội thông tin, nền kinh tế tri thức. chính sự phát triểnmạnh mẽ
này, về khách quan đã dặt ra yêu cầu mở rộng thị trường lên một tầmmức mới,
bằng những phương cách mới. Quan hệ kinh tế vượt qua rào cản về địa lí lan ra
toàn cầu. Hàng hóa, tiền tệ, thông tin,… lưu thông khắp các nước. Hình thành
mạng lưới kinh tế đa chiều.
2.

Tình hình trong nước và những tác động của tình hình thế giới đến việc hình thành
chính sách đổi mới
Trước đổi mới do không nhận thức rõ được tầm quan trọng của việc hội nhập
quốc tế và thiết lập quan hệ ngoại giao với các nước trên thế giới, chưa bắt kịp
vowisxu hướng quốc tế mà Việt Nam vẫn trong thế bị bao vây, cô lập. Lấy cớ “Sự
kiện Campuchia”1 các nước ASEAN và một số nước khác thực hiện cấm vận chúng
ta; Mỹ ba lần phủ quyết chúng ta gia nhập Liên hợp quốc… bị cô lập lại bị các thế
lực thù địch chống phá, cộng với các chính sách phát triển sai lầm, không phù hợp
với hoàn cảnh khiến nước ta lâm vảo cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội nghiêm

trọng.
Những biến động của tình hình thế giới cũng tác động sâu sắc đến nhận thức và
tư duy của Đảng, là cơ sở cho sự đổi mới các chính sách. Đặc biệt sự sụp đổ của hệ
thống xã hội chủ nghĩa đứng đầu là Liên Xô là bài học quý giá cho chúng ta. Đảng
nhận định rằng sự sụp đổ đó không phải là sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội nói
chung mà là sự sụp đổ của một mô hình xã hội chủ nghĩa đã bị biến dạng, mang
nhiều khuyết tật. Từ đó Đảng đã rút ra nhiều kinh nghiệm cho công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Đối với xu hướng toàn cầu hóa, Đảng khảng định: toàn cầu hóa là một xu thế
khách quan, có cả mặt tích cực và tiêu cực. Chúng ta cần phải tham gia quá trình


toàn cầu hóa, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực nhưng vẫn đảm bảo
độc lập, tự chủ.
Xuất phát từ tình hình cụ thể trong và ngoài nước và nhu cầu phát triển của
nước ta, những đánh giá về cục diện thế giới và khu vực nói trên, tại Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng diễn ra vào tháng 12/1986, Đảng ta bắt đầu đã
có những đổi mới sâu sắc và mang tính chiến lược về đường lối và chính sách đối
ngoại, đó là đường lối đổi mới xã hội về mọi mặt. Đại hội VIII của đảngchủ trương
“đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ đối ngoại”. Cụ thể như sau:
Nội dung đường lối đối ngoại thời kì đổi mới
1. Những nội dung chính
Có thể nêu ra một số chủ trương, chính sách lớn được đề cập trong các văn kiện

II.

-

của Đảng liên quan đến đối ngoại như:
Đưa các quan hệ quốc tế đã được thiết lập đi vào chiều sâu, ổn định, bền vững;

Mở rộng thêm các quan hệ đối ngoại theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa;
Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp;
Bổ sung và hoàn thiện hệ thống pháp luật và thể chế kinh tế phù hợp với các

-

nguyên tắc, quy định của WTO;
Đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu quả, hiệu lực của bộ máy nhà nước;
Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm trong hội nhập

-

kinh tế quốc tế;
Giải quyết các tốt các vấn đề văn hóa, xã hội và môi trường trong quá trình hội

-

nhập;
Tăng cường hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực an sinh xã hội như giáo dục, bảo

-

hiểm, y tế, từ đó đẩy mạnh công tác xóa đói giảm nghèo;
Giữ vững và tăng cường quốc phòng, an ninh trong quá trình hội nhập;
Phối hợp chặt chẽ hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại

-

nhân dân; chính trị đối ngoại và kinh tế đối ngoại;
Đối mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lí của Nhà nước đối với các

hoạt động đối ngoại.
2. Chủ trương đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ đối ngoại
Trong đường lối ngoại giao thời kì đổi mới của Đảng không thể không nhắc đến
chủ trương đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ đối ngoại. Đây là một trong
những chủ trương quan trọng, thể hiện rõ nét sự đổi mới của Đảng trong quan điểm
và tư duy về công tác đối ngoại. Có thể nói việc đa phương hóa, đa dạng hóa các


quan hệ đối ngoại là cơ sở tiền đề để chúng ta thực hiện được các chủ trương khác
như hội nhập kinh tế quốc tế hay nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
a. Nội dung
Trước thời kì đổi mới, chúng ta đánh giá các quốc gia, các dân tộc khác chỉ đơn
thuần theo tiêu chí chính trị; cách mạng và phản cách mạng, xã hội chủ nghĩa và
phi xã hội chủ nghĩa, tốt và xấu, bạn và thù; có khuynh hướng đánh giá một cách
chủ quan về sức mạnh tuyệt đối của chủ nghĩa xã hội mà không nhận thấy chủ
nghĩa tư bản với khoa học công nghệ đã và đang phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là
nền kinh tế. Do đó, Đảng chủ trương tập trung phát triển quan hệ ngoại giao với các
nước trong khu vực Đông Nam Á và các xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là Liên Xô – coi
quan hệ với Liên Xô là hòn đá tảng trong chính sách ngoại giao. Điều này khiến
cho quan hệ đối ngoại của Việt Nam bị bó hẹp trong hệ thống xã hội chủ nghĩa và
trong khu vực.
Tại Đại hội VI, lần đầu tiên Đảng đặt cơ sở cho việc mở rộng quan hệ kinh tế ra
ngoài các nước xã hội chủ nghĩa bằng chủ trương: “Chúng ta cần tranh thủ những
điều kiên thuận lợi mới về hợp tác kinh tế và khoa học kĩ thuật, tham gia ngày càng
rộng rãi việc phân công và hợp tác trong Hội đồng tương trợ kinh tế, đồng thời
tranh thủ mở rộng quan hệ với các nước khác”. Triển khai chính sách này, tháng
12/1987, ta đã ban hành Luật đầu tư nhằm thu hút vốn từ các nước trên thế giới,
không phân biệt chế độ chính trị - xã hội. Đại hội VI cũng đưa ra nhiều điều chỉnh
quan trọng khác trong đó có chủ trương bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc.
Đây là những chủ trương mở đầu cho quá trình đa phương hóa, đa dạng hóa các

quan hệ đối ngoại.
Nối tiếp tinh thần của Đại hội VI, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 Khóa VII
tháng 6/1992 về chính sách đối ngoại là một Nghị quyết hết sức quan trọng, đã cơ
bản hoàn chỉnh đường lối, chính sách đối ngoại đổi mới của nước ta. Mục tiêu đối
ngoại của ta là giữ vững hòa bình, mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác tạo điều
kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc,
đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa


bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Để thực hiện được mục tiêu đó
một trong những việc chúng ta cần làm đó là đẩy mạnh đa phương hóa, đa dạng
hóa các quan hệ quốc tế song song với giữ vững nền độc lập tự chủ. Độc lập tự chủ,
phát huy cao độ nội lực là nền tảng để phát triển các quan hệ quốc tế và hội nhập
quốc tế. độc lập tự chủ không có nghĩa là biệt lập, trái lại, phải mở rộng, đa dạng
hóa và đa phương hóa các quan hệ quốc tế, xây dựng được thế đứng vững chắc trên
trường quốc tế.
Chúng ta mở rộng quan hệ đối ngoại theo các nguyên tắc: tôn trọng độc lập, chủ
quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau; không dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực;
giải quyết các mâu thuẫn bằng biện pháp hòa bình; không can thiệp vào công việc
nội bộ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi.Chúng ta mở rộng quan hệ với mọi quốc
gia và mọi vùng lãnh thổ trên thế giới không phân biệt chế độ chính trị - xã hội và ý
thức hệ; trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, khoa học – công nghệ, văn hóa, giáo
dục, y tế, quốc phòng, an ninh,…; cả quan hệ song phương và đa phương; cả quan
hệ ngoại giao của Quốc hội, Chính phủ, quan hệ đối ngoại của Đảng và đối ngoại
nhân dân. Chúng ta coi trọng phát triển quan hệ hòa bình, hợp tác, hữu nghị với các
nước lánh giềng, khu vực, mở rộng quan hệ ngày càng sâu, ổn định, bền vững với
các nước lớn, các trung tâm kinh tế - tài chính quốc tế lớn là những lực lượng ảnh
hưởng đáng kể đến an ninh và phát triển của nước ta. Đồng thời ta không xem nhẹ
phát triển quan hệ với các nước khác, các nước bè bạn truyền thống, các lực lượng
cách mạng và tiến bộ, những người yêu chuộng hòa bình và công lí trên thế giới.

Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng tháng 6/1996 quyết định đẩy nhanh tiến trình
hội nhập kinh tế quốc tế, hướng hoạt động đối ngoại sang phục vụ phát triển kinh tế
là chủ yếu và Nghị quyết Đại hội IX tháng 4/2001 nâng lên một mức cao hơn, chủ
trương “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng
quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”.
Từ chính sách đối ngoại chủ yếu dựa vào Liên Xô và các nước Xã hội chủ
nghĩa, ta đã chuyển sang chính sách đối ngoại mở rộng, đa phương hóa, đa dạng
hóa các quan hệ quốc tế, với phương thức tập hợp lực lượng rất linh hoạt, theo từng


vấn đề và từng thời điểm cụ thể. Trong quan hệ quốc tế, chúng ta không đơn giản
phân định địch – ta, thù – bạn mà nhận định một cách biện chứng hơn: những ai
chủ trương tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ bình đẳng,
cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác của chúng ta. Bất kể thế lực nào có âm
mưu và hoạt động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ tổ quốc đều là đối tượng đấu tranh. Trong mỗi đối tượng vẫn có mặt cần
tranh thủ hợp tác; trong một số đối tác quan trọng nhưng vẫn có thể có sự khác biệt,
mâu thuẫn với lợi ích của ta thì vẫn phải đấu tranh; xác định đối tương, đối tác tùy
theo tình huống, hoàn cảnh, tránh mơ hồ, cứng nhắc.
Với chủ trương đa phương hóa, đa dạng hóa trong các quan hệ ngoại giao của
Đảng, chúng ta đã đạt được một số thành tựu nhất định cũng như gặp phải một số
hạn chế.
b. Kết quả
- Thành tựu
Ta đã phá được thế đất nước bị bao vây, cấm vận, cô lập; thiết lập quan hệ ngoại
giao với hầu hết các nước trên thế giới không phân biệt chế độ chính trị, trên mọi
phương diện từ chính trị, kinh tế đến an ninh, quốc phòng.
Đến nay, VIệt Nam đã có quan hệ ngoại giao khoảng 180 quốc gia3(tính đến hết
năm 2013), có quan hệ thương mại với gần 230 quốc gia và vùng lãnh thổ, là thành
viên tích cực của hơn 70 tổ chức khu vực và quốc tế. Chúng ta đã có 98 cơ quan đại

diện tại các quốc gia và vùng lãnh thổ khắp 5 châu lục trên thế giới.. Thế và lực của
đất nước ngày càng vững mạnh, vai trò và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế
được nâng cao hơn bao giờ hết. Tất cả đều là minh chứng cho chủ trươngđa dạng
hóa, đa phương hóa các quan hệ quốc tế.
Ta đã đi từ bình thường hóa quan hệ đến xác lập khuôn khổ quan hệ ổn định, lâu
dài với các nước lớn như Trung Quốc, Mỹ, Liên minh châu Âu. Nhìn chung, quan
hệ giữa ta với các nước lớn đã có những tiến bộ rõ rệt. Việt Nam hiện nay dưới
chính thể Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với hơn
180 nước thuộc tất cả các châu lục và có quan hệ bình thường với tất cả các nước
lớn. Đặc biệt, lần đầu tiên trong lịch sử ngoại giao dân tộc, chúng ta đã đảm nhiệm


thành công cương vị ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc
nhiệm kỳ 2008-2009 và Chủ tịch ASEAN năm 2010
Trong số các nước đã thiết lập quan hệ ngoại giao, Việt Nam đã tuyên bố thiết
lập quan hệ đối tác chiến lược với 10 quốc gia gồm: Liên bang Nga (2001), Nhật
Bản (2006), Ấn Độ (2007), Trung Quốc (2008), Hàn Quốc, Tây Ban Nha (2009),
Vương quốc Anh (2010), Đức (2011), Ý (2013). Trong đó mối quan hệ như với
Trung Quốc và Nga đã được nâng lên tầm đối tác chiến lược toàn diện….2 Từ năm
2009, Việt Nam cũng đã thiết lập quan hệ đối tác toàn diện với Úc. Cả Pháp và Việt
Nam cũng thống nhất sẽ sớm nâng quan hệ song phương lên tầm đối tác chiến lược
thậm chí là Việt Nam cũng có ý định tương tự với Mỹ và một vài quốc gia trong
khu vực Đông Nam Á. Các nước lớn, trong đó có cả Mỹ, đều đã cử nguyên thủ
sang thăm chính thức nước ta và các đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà
nước ta ngược lại cũng đã đi thăm chính thức các nước đó. Với Trung Quốc, ta đã
ký Tuyên bố chung, Thông cáo chung Việt Nam – Trung Quốc với phương châm
“láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai”. Với
Mỹ, ta đã ký Hiệp định Thương mại Việt Nam – hoa kỳ và nhiều văn bản hợp tác
khác. Ta cũng đã ký Hiệp định về hợp tác với Liên minh châu Âu, Tuyên bố về
quan hệ đối tác chiến lược với Nga và Khuôn khổ quan hệ đối tác tin cậy và ổn

định lâu dài với Nhật Bản.
Trong khu vực, việc rút quân tình nguyện khỏi Campuchia và chủ động tham
gia giải pháp chính trị cho vấn đề Campuchia là bước đi lớn, tạo tiền đề thuận lợi
để gia nhập ASEAN. Các vấn đề về biên giới, lãnh thổ, biển đảo với các nước trong
khu vực như Philippine, Thái Lan, Malaysia…phần lớn cũng được chúng ta giải
quyết trong hòa bình bằng các biện pháp ngoại giao, góp phần xây dựng một khu
vực Đông Nam Á hòa bình, ổn định và thịn vượng lâu dài. Đồng thời cùng với
ASEAN, chúng ta cũng tích cực giải quyết các tranh chấp trên biển Đông với
Trung Quốc.


Trong lĩnh vực kinh tế, việc mở rộng quan hệ với nhiều nước, đặc biệt là các
nước lớn đã giúp chúng ta tranh thủ được nhiều nguồn vốn ODA và FDI, mở rộng
thị trường ngoài nước, tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế. Năm 2011, giải ngân
ODA của Việt Nam đạt 3,65 tỷ USD. Con số này chỉ chiếm chưa đầy một nửa số
vốn 7,9 tỷ USD cam kết tại Hội nghị CG năm 2010, nhưng đã tăng 10% so với mức
giải ngân hơn 2,9 tỷ USD của năm 2010. Tại Hội nghị CG tháng 12/2011, các nhà
tài trợ tiếp tục cam kết cho Việt Nam trong năm tài khoá 2012 là 7,4 tỷ USD.
Không chỉ vậy, chúng ta còn tiếp thu các kĩ thuật khoa học, công nghệ tiên tiến của
nước ngoài để áp dụng vào trong nước, tăng sức sản xuất và cạnh tranh cho các
doanh nghiệp trong nước. Tất cả là động lực to lớn thúc nền kinh tế của chúng ta
không ngừng phát triển với tốc độ nhanh chóng trong suốt thời gian qua, kể từ khi
Đảng thực hiện chính sách đổi mới. Theo thống kê của viện chiến lược và chính
sách tài chính, tốc độ tăng trưởng kinh tế của chúng ta tăng tương đối đồng đều quá
các năm, nhất là về cuối năm. GDP cả nước năm 2011 tăng 5,89% ; quy mô nền
kinh tế ước đạt 119 tỷ USD, với mức GDP bình quân đầu người đạt 1.300
USD/năm.
- Khó khăn
Những thực tế trên đã chứng tỏ đường lối đối ngoại đổi mới của Đảng là đúng
đắn, thể hiện sự trưởng thành về nhận thức, quan điểm. Tuy nhiên không phải là

không có những khó khăn, thử thách mà chúng ta phải đối mặt.
+ Thứ nhất, cùng với quá trình mở rộng quan hệ ngoại giao những lo ngại về an
ninh trong nước cũng gia tăng với nhiều mầm mống nguy hại như sự can thiệp từ
bên ngoài, các lực lượng khủng bố, cực đoan…
+ Thứ hai, trong quan hệ với các nước, đặc biệt là các nước lớn, chúng ta còn
lúng túng, bị động, dễ bị chi phối, áp đặt. Thứ ba, hội nhập kinh tế quốc tế cũng
đem lại nhiều thách thức cho nền kinh tế trong nước như sự cạnh tranh của hàng
ngoại, hàng giả, hàng nhái…
+ Thứ ba, việc mở rộng giao lưu văn hóa khiến du nhập vào Việt Nam nhiều
yếu tố văn hóa không lành mạnh, không phù hợp với văn hóa truyền thống người
Việt, thậm chí còn mang tính chất phản động.


Và còn rất nhiều khó khăn, thách thức nữa chờ chúng ta khi tiến hành mở rộng
quan hệ ngoại giao, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế, đòi hỏi Đảng
phải thật tỉnh táo, đúng đắn khi đề ra các chính sách, đường lối tiếp theo.
B.

KẾT BÀI

Chủ trương đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ đối ngoại là một trong số
các chủ trương được đề ra và thực hiện trong suốt thời gian qua. Tuy còn bộc lộ
những hạn chế, nhưng nó vẫn đóng góp một phần to lớn vào quá trình thực hiện
đường lối đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế từ năm 1986 đến nay. Có ý nghĩa rất
quan trọng: góp phần đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nền kinh
tế Việt Nam có bước phát triển mới; thế và lực của Việt Nam được nâng cao trên
thương trường cũng như chính trường quốc tế. Các thành tựu đối ngoại trong suốt
quá trình qua đã chứng minh đường lối đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế nói
chúng, chủ trương đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ đối ngoại nói riêng của
Đảng và Nhà nước trong thời kỳ đổi mới là đúng đắn và sáng tạo.

CHÚ THÍCH
1. Sự kiện campuchia
Nội chiến Campuchia là cuộc chiến giữa lực lượng của Đảng Cộng sản Campuchia (được biết đến
với tên gọi Khmer Đỏ) và đồng minh của họ, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận Dân tộc
Giải phóng miền Nam đối chọi với lực lượng chính phủ Campuchia (và sau tháng 10 năm 1970 là
Cộng hòa Khmer), được Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa hỗ trợ.
Cuộc nội chiến này cũng dẫn đến cuộc diệt chủng Campuchia, một trong số các cuộc diệt chủng
đẫm máu nhất trong lịch sử.
Tìm hiểu thêm tại />2. Cập nhật số liệu từ />%A1i_giao_c%E1%BB%A7a_Vi%E1%BB%87t_Nam
3. Cổng thông tin điện tử sở ngoại vụ />Organization=SNV&MenuID=441&ContentID=18928
4.
5.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1.

Bộ giáo dục và đào tạo, Giáo trình đường lối cách mạng của Đảng cộng sản

2.

Việt Nam, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2009.
Hội đồng biên soạn giáo trình quốc gia các môn khoa học Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, Giáo trình lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam, Nxb.

3.

CTQG, Hà Nội, 2004.
Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam


4.

(hệ trung cấp), Nxb. CAND, Hà Nội, 2001.
Báo cáo chính trị của BCH Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam tại Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, Văn kiện Đại hội Đảng thời kì đổi

5.

mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Nxb. CTQG, Hà Nội, 2005.
Báo cáo chính trị của BCH Trung ương (khoá VII), Văn kiện Đại hội Đảng

6.

thời kì đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Nxb. CTQG, Hà Nội, 2005.
Báo cáo chính trị của BCH Trung ương khoá VII tại Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VIII của Đảng, Văn kiện Đại hội Đảng thời kì đổi mới (Đại hội

7.

VI, VII, VIII, IX), Nxb. CTQG, Hà Nội, 2005.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Văn kiện Đại hội Đảng thời

8.
9.

kì đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Nxb. CTQG, Hà Nội, 2005.
Trang web:
Trang web:


/>10.

Trang web:
/>


×