Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

Sáng Kiến Kinh Nghiệm Hướng Dẫn Kỹ Năng Vẽ Và Nhận Xét Biểu Đồ Địa Lí Cho Học Sinh Lớp 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.84 MB, 39 trang )

Sáng kiến kinh nghiệm

MỤC LỤC
STT

Nội dung

Trang

1

Mục lục

01

2

Quy ước viết tắt

02

3

PHẦN I: MỞ ĐẦU

03

4

1. Mục đích của sáng kiến


03

5

2. Đóng góp nổi bật của sáng kiến

04

6

PHẦN II: NỘI DUNG

06

7

Chương I: Cơ sở khoa học

06

8

1. Cơ sở lí luận

06

9

2. Cơ sở thực tiễn


07

10

Chương II: Thực trạng

09

11

Chương III: Những giải pháp thực hiện

11

12

1. Nguyên tắc chung

11

13

2. Biện pháp thực hiện chung

12

14

3. Kỹ năng vẽ các dạng biểu đồ cơ bản


13

15

4. Kỹ năng nhận xét các dạng biểu đồ cơ bản

28

16

Chương IV: Kiểm chứng các giải pháp

30

17

PHẦN III: KẾT LUẬN

31

18

1. Những vấn đề quan trọng cua sang kiến

31

19

2. Hiệu quả của sáng kiến


33

20

3. Kiến nghị

33

21

PHẦN IV: PHỤ LỤC

35

QUY ƯỚC VIẾT TẮT
1


Sáng kiến kinh nghiệm
STT

Từ viết tắt

Từ đầy đủ

1

THCS

Trung học cơ sở


2

NXB

Nhà xuất bản

3

GV

Giáo viên

4

HS

Học sinh

PHẦN I: MỞ ĐẦU
2


Sáng kiến kinh nghiệm
1. Mục đích của sáng kiến:
Với mỗi môn học luôn có những mục đích yêu cầu về kiến thức và kỹ năng
rất cụ thể rõ ràng. Từ môn tự nhiên đến môn xã hội, việc rèn kuyện kỹ năng cho
học sinh có ý nghĩa vô cùng quan trọng, nó quyết định rất lớn đến hiệu quả của quá
trình dạy và học. Và một trong những môn học cần rèn luyện nhiều kỹ năng thực
hành cho học sinh và coi trọng kỹ năng thực hành của học sinh là môn địa lí.

Trong chương trình địa lí THCS mỗi khối lớp đều có những kỹ năng nhất định, và
yêu cầu học sinh không ngừng rèn luyện tiếp cận và hoàn thiện các kỹ năng đó qua
các bài học theo từng khối lớp.
Một trong những kỹ năng quan trọng và được quan tâm nhiều trong môn địa
lí là kỹ năng vẽ biểu đồ. Trong 4 khối lớp ở bậc THCS thì chương trình Địa 9 là
chương trình thể hiện kỹ năng vẽ biểu đồ được thể hiện rõ nhất và phong phú nhất.
Đối với môn địa lý 9 mục tiêu của bộ môn là nhằm trang bị cho học sinh
những kiến thức phổ thông cơ bản về dân cư, các ngành kinh tế. Sự phân hóa lãnh
thổ về tự nhiên, kinh tế xã hội của nước ta và địa lý tỉnh, thành phố nơi các em
đang sinh sống và học tập. Để đạt được điều đó đòi hỏi mỗi giáo viên phải nắm
vững phương pháp, nội dung chương trình để dạy bài kiến thức mới, bài thực hành,
bài ôn tập hệ thống hóa kiến thức từ đó giúp học sinh nắm kiến thức một cách hiệu
quả tốt nhất.
Đối với sách giáo khoa cũng như chương trình địa lý 9 THCS mới đòi hỏi kỹ
năng vẽ ,nhận xét biểu đồ rất cao, đưa ra nhiều dạng biểu đồ mới và khó so với
sách giáo khoa lớp 9 THCS cũ. Nhiều dạng biểu đồ học sinh còn trừu tượng như
biểu đồ miền, đường..... Vì vậy mỗi giáo viên phải tìm ra phương pháp vẽ các dạng
biểu đồ một cách thích hợp dễ nhớ, dễ hiểu đảm bảo tính chính xác, tính mĩ quan.
Hình thành cho học sinh những kỹ năng cơ bản cần thiết áp dụng cho việc học tập
cũng như cuộc sống sau này. Trong khi dạy bài kiến thức mới có nhiều loại biểu đồ
mà học sinh phải dựa vào đó nhận xét, phân tích để tìm ra kiến thức mới sau đó đi
đến một kết luận địa lý và ngược lại
3


Sáng kiến kinh nghiệm
Trong các tiết thực hành, ôn tập, kiểm tra học sinh phải căn cứ vào bảng số
liệu để lựa chọn biểu đồ thích hợp, tính cơ cấu......chuyển từ bảng số liệu thành biểu
đồ từ đó học sinh nhận xét, kết luận các nhân tố tự nhiên, kinh tế, xã hội được dễ
dàng hơn.

Trong chương trình sách giáo khoa Địa lý lớp 9 hiện nay được biên soạn theo
tinh thần cung cấp các tình huống, các thông tin đã được lựa chọn để giáo viên có
thể tổ chức, hướng dẫn cho học sinh tập phân tích, tổng hợp và xử lý thông tin, tạo
điều kiện cho học sinh trong quá trình học tập vừa tiếp nhận được các kiến thức,
vừa rèn luyện được các kỹ năng và nắm được phương pháp học tập.
Hiện nay, dạy học được coi là quá trình phát triển của bản thân học sinh, việc
học tập không chỉ là quá trình lĩnh hội kiến thức có sẵn mà còn là quá trình học
sinh tự khám phá, tự tìm đến với kiến thức mới nhờ sự giúp đỡ, hướng dẫn của giáo
viên. Quá trình này được thể hiện rất rõ trong các bài thực hành Địa lý và các bài
tập Địa lý lớp 9.
Thực hành kỹ năng Địa lí trong đó có kỹ năng vẽ biểu đồ là một yêu cầu rất
quan trọng của việc học tập môn Địa lí. Vì vậy, các đề kiểm tra, đề thi học sinh giỏi
môn Địa lí đều có hai phần lí thuyết và phần thực hành. Trong đó phần thực hành
thường có những bài tập về vẽ và nhận xét biểu đồ chiếm khoảng 30 - 35% tổng số
điểm.
Chính vì vậy, kỹ năng nhận biết để vẽ biểu đồ thích hợp nhất, nhanh nhất và
biết nhận xét giải thích. Đây là kỹ năng rất cơ bản và cần thiết khi dạy Địa lí 9. Nó
giúp học sinh có thể dựa vào biểu đồ nêu được nhận xét chính xác về tình hình dân
cư, kinh tế của vùng hay cả nước......
2. Đóng góp nổi bật của sáng kiến để nâng cao chất lượng dạy học môn địa lí
lớp 9:
Hiện nay, vẫn còn một bộ phận học sinh lớp 9 chưa thực sự coi trọng môn
học này, kỹ năng vẽ biểu đồ và nhạn xét biểu đồ còn rất yếu hoặc kỹ năng này vẫn
chưa được các em coi trọng. Chính vì vậy, bản thân tôi là một giáo viên giảng dạy
4


Sáng kiến kinh nghiệm
bộ môn Địa lí 9 tôi rất quan tâm đến việc củng cố, rèn luyện kỹ năng vẽ biểu đồ và
nhận xét biểu đồ cho học sinh. Mặt khác, khi các em làm tốt kĩ năng này thì có thể

khai thác Átlat Địa lí Việt Nam dễ dàng và hiệu quả hơn, góp phần nâng cao kết
quả học tập. Từ đó sẽ góp phần xóa dần suy nghĩ rằng môn Địa lí là một môn học
thuộc khô khan, dập khuôn và kém hứng thú, để rồi cho các em một cái nhìn tích
cực, sáng tạo khi học bộ môn này.
Việc dạy học địa lí trong trường THCS hiện nay chưa phát huy được hết vai
trò của bài tập thực hành địa lí trong thực hiện các nhiệm vụ dạy học. Dạy học sinh
vẽ biểu đồ địa lí là một công việc không phải là đơn giản và thuần nhất, ở đó bộc lộ
rõ trình độ, phương pháp truyền đạt của người giáo viên trong việc hướng dẫn hoạt
độnặtt duy trí tuệ của học sinh.
Về vấn đề này đã có rất nhiều tài liệu tham khảo của nhiều tác giả khác nhau
đề cập đến, hầu hết đều đáp ứng được yêu cầu giúp học sinh rèn luyện kĩ năng xác
định và vẽ biểu đồ địa lí, củng cố và nâng cao kiến thức địa lí. Song nhìn chung
giáo viên chưa phát huy hết khả năng tự học tự khám phá của học sinh. Hơn nữa,
các kỹ năng trong chương trình địa lí 9 còn xuyên suốt lên các chương trình địa lí
của lớp trên, gắn liền với các bài thi của học sinh về bộ môn này trong những bậc
học cao hơn.
Vậy làm thế nào để nâng cao hiệu quả về kỹ năng vẽ và nhận xét biểu đồ?
Câu hỏi này đã từng làm tôi chăn chở rất nhiều. Qua một năm học, tôi áp dụng quy
trình hướng dẫn kỹ năng này cho các em, tôi thấy chất lượng bộ môn được cải tiến
rõ ràng, đồng thời trong giờ học các em cũng tích cực học bài hơn rất nhiều, đặc
biệt là các giờ làm bài tập và giờ thực hành. Từ đó, tôi quyết tâm thực hiện việc
“Hướng dẫn kỹ năng vẽ và nhận xét biểu đồ địa lí cho học sinh lớp 9” trong quá
trình dạy học bộ môn.

PHẦN II: NỘI DUNG
CHƯƠNG I: Cơ sở khoa học của sáng kiến
5


Sáng kiến kinh nghiệm

1. Cơ sở lí luận của sáng kiến:
Đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng phát huy tính tích cực, chủ
động, sáng tạo của học sinh có nhiều hình thức, nhiều con đường để thực hiện. Với
môn Địa lí nói chung, đặc biệt là Địa lí 9, việc rèn kỹ năng vẽ và nhận xét biểu đồ
sẽ góp phần phát huy tính sáng tạo, chủ động của học sinh trong học tập. Ở đây
biểu đồ, lược đồ được xem là phương tiện trực quan giúp học sinh tìm tòi khám phá
và lĩnh hội kiến thức. Ở hình thức này, giáo viên tạo điều kiện cho học sinh rèn
luyện được kỹ năng vẽ, phân tích, đánh giá rút ra những kiến thức cần thiết cho
từng yêu cầu. Với con đường nầy muốn đạt hiệu quả cao giáo viên phải rèn luyện
cho học sinh phương pháp, kỹ năng và nhận xét các loại biểu đồ.
Biểu đồ là một hình vẽ cho phép mô tả một cách dễ dàng động tháiphát triển
của một hiện tượng (như quá trình phát triển công nghệ qua các năm, dân số qua
các năm), mối tương quan về độ lớn giữa các đại lượng (như so sánh sản lượng
lương thực giữa các vừng…) hoặc cơ cấu thành phần của một tổng thể (ví dụ như
cơ cấu của nền kinh tế).
Biểu đồ là nguồn tri thức quan trọng trong việc học tập môn địa lí. Nội dung
phản ánh của biểu đồ rất đa dạng, nó phản ánh quá trình phát triển theo thời gian
của đối tượng, hiện tượng( quá trình phát triển linh tế qua các năm…), mối tương
quan về độ lớn giữa các đại lượng ( so sánh sản lượng thuỷ sản giữa các vùng kinh
tế…) hoặc cơ cấu thành phần của một tổng thể( cơ cấu ngành của nền kinh tế).
Biểu đồ có khi phản ánh cấu trúc đối tượng của các hiện tượng, phản ánh mối quan
hệ của các đối tượng, phản ánh sự phân bố theo không gian của các đối tượng
Các loại biểu đồ rất phong phú, đa dạng. Mỗi loại biểu đồ lại có thể được
dùng để biểu hiện nhiều chủ đề khác nhau, vì vậy, khi vẽ biểu đồ, việc đầu tiên là
phải đọc kỹ đề bài để tìm hiểu chủ đề định thể hiện trên biểu đồ (thể hiện động thái
phát triển, so sánh tương quan độ lớn hay thể hiện cơ cấu), sau đó căn cứ vào chủ
đề đã được xác định để lựa chọn loại biểu đồ thích hợp nhất.
6



Sáng kiến kinh nghiệm
Quan điểm trong quá trình dạy học là học phải đi đôi với hành. Học sinh muốn
hiểu và nhận thức chính xác về các đơn vị kiến thức đã học thì phải biết cách vận
dụng kiến thức đó vào trong quá trình thực hành giải bài tập. Học địa lí cũng vậy,
để học sinh tiếp cận kiến thức nhanh và hiểu rõ về nó, phân tíc được nó thì biểu đồ
là phương tiện trực quan đơn giản và hiệu quả nhất.
Xuất phát từ những yêu cầu thực tiễn của xã hội môn Địa lí trong nhà trường
nói chung và môn Địa lí lớp 9 nói riêng không ngừng cải tiến chương trình, cải tiến
phương pháp dạy học nhằm đạt được hiệu quả cao nhất. Trong đó việc thực hành
vẽ và nhận xét biểu đồ đóng vai trò quan trọng, nó có nhiệm vụ củng cố, rèn luyện
kĩ năng Địa lí cho học sinh một cách thuần thục và chắc chắn hơn .
Việc thực hành vẽ và nhận xét biểu đồ trong bài tập, bài thực hành Địa lí giúp
cho học sinh củng cố kĩ năng vẽ biểu đồ đã học ở lớp 8 mà còn vận dụng những
kiến thức đã học vào nhận xét và giải thích biểu đồ đã vẽ được. Từ đó làm cho học
sinh có cách nhìn nhận đánh giá các sự vật, hiện tượng một cách đúng đắn, chính
xác và khách quan.
Theo cấu trúc chương trình, hầu như sau mỗi bài học ở Địa lí lớp 9 đều có một
bài tập hoặc một bài thực hành vẽ biểu đồ. Đây là một thuận lợi rất lớn giúp giáo
viên thực hiện tốt các phương pháp và biện pháp rèn luyện kĩ năng Địa lí cho học
sinh trong quá trình dạy học. Từ đó học sinh nhận thức tri thức một cách khách
quan đồng thời học sinh thấy rõ những thuận lợi và khó khăn về các vấn đề Địa lí ở
nước ta.
2. Cơ sở thực tiễn của sáng kiến:
Những số liệu, khi được thể hiện thành biểu đồ, bao giờ cũng có tính trực
quan làm cho học sinh tiếp thu tri thức được dễ dàng, tạo nên hứng thú học tập.
Trong dạy học Địa lí, việc yêu cầu học sinh vẽ biểu đồ là một nội dung không thể
thiếu được khi làm các bài tập và bài thực hành. Có vẽ được biểu đồ thì các em
hình thành được các kĩ năng, hiểu rõ được được công dụng của từng loại biểu đồ và
từ đó nắm vững cách phân tích, khai thác những tri thức Địa lí. Trong chương trình
7



Sáng kiến kinh nghiệm
Địa lí lớp 9 thì số lượng biểu đồ, được đưa vào với nội dung chương trình rất nhiều.
Mục đích là từ số liệu thống kê, biểu đồ học sinh đưa ra được kiến thức cần lĩnh
hội. Và phải từ bảng số liệu học sinh nhận dạng được các loại biểu đồ và chọn dạng
biểu đồ thích hợp để vẽ với nội dung kiến thức.
Có thể nói trong những năm gần đây việc thực hiện chương trình và sách
giáo khoa mới cũng đồng nghĩa với việc cải tiến đổi mới phương pháp dạy học. Đại
đa số Giáo viên đã tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy, nhưng trong thực tế
vẫn còn một bộ phận giáo viên chưa hiểu thấu đáo tinh thần đổi mới phương pháp.
Vì vậy mà lúng túng trong soạn giảng cũng như thực hiện các giờ lên lớp, không
gây được hứng thú học tập cho học sinh, làm cho giờ dạy trở nên nặng nề, nhàm
chán. Đặc biệt là các tiết thực hành về vẽ và nhận xét biểu đồ giáo viên còn xem
nhẹ việc rèn kĩ năng cho học sinh, hoặc chỉ hướng dẫn qua loa rồi tự cho học sinh
làm, chưa kiểm tra đầy đủ và uốn nắn kịp thời.
Trên thực tế, học sinh lớp 9 phần lớn đã khá thành thạo kĩ năng quan trọng
này. Tuy nhiên vẫn còn lúng túng trong cách xử lí số liệu, chọn biểu đồ thích hợp;
hoặc học sinh rất yếu trong việc nhận xét và rút ra kết luận cần thiết. Đối với học
sinh lớp 9, kĩ năng vẽ biểu đồ chính xác, đảm bảo tính mĩ quan chỉ được thực hiện
ở học sinh khá giỏi, còn học sinh trung bình, yếu kĩ năng đó còn hạn chế.
Thông qua các bài tập thực hành về vẽ biểu đồ học sinh cũng có cơ hội để
thể hiện khả năng của mình, các em không chỉ biết ghi nhớ, củng cố kiến thức lý
thuyết đã học mà còn biết mô hình hóa các kiến thức đó thông qua cấc bài tập biểu
đồ.
Bản thân người giáo viên giảng dạy môn địa lý khi thiết kế những bài tập thực
hành về vẽ biểu đồ cho học sinh cũng nhek nhàng hơn, bới không nặng nề về nội
dung kiến thức lý thuyết mà chủ yếu đi sâu về các bước tiến hành, dẫn dắt học sinh
các thao tác để các em hoàn thành được bài tập của mình.
Thông qua các bài thực hành về vẽ biểu đồ, giáo viên có cơ hội để đánh giá về

việc rèn luyện kỹ năng địa lí của học sinh, phát hiện ra những học sinh có kỹ năng
8


Sáng kiến kinh nghiệm
thực hiện tốt hoặc thực hiện còn yếu để kịp thời có biện pháp điều chỉnh khắc phục
nhằm nâng cao chất lượng dạy và học bộ môn này.

CHƯƠNG 2: Thực trạng vấn đề mà sáng kiến đề cập đến.
Trước khi thực hiện đề tài, qua giảng dạy ở trường THCS , qua tìm hiểu và
trao đổi với đồng nghiệp tôi nhận thấy:
- Đa số học sinh xem môn Địa lí là môn phụ, do đó ít chú ý đến học tập bộ
môn này. Kết quả cho thấy điểm tổng kết của các em phần lớn chỉ đạt điểm trung
bình, nhiều em học môn Địa lí khá, giỏi nhưng khi giáo viên lấy đội tuyển bồi
dưỡng học sinh giỏi thì các em không tham gia vì cho rằng đây chỉ là môn học phụ.
Từ đó giáo viên dạy Địa lí làm sao phát huy được năng lực của mình khi phương
pháp dạy học được đổi mới, đồ dùng dạy học phong phú, đa dạng...
- Qua điều tra khảo sát hầu hết học sinh đều cho rằng, cách vẽ và nhận xét
biểu đồ trong bài tập địa lý lớp 9 là bình thường và không khó. Nhưng trong thực
tế, khi thực hiện thì đây là một điều không dễ dàng. Còn nhiều học sinh chưa cả
biết hết tên ccác loại biểu đồ thường gặp, khi đọc yêu cầu bài tập còn không hình
dung được dạng biểu đồ như thế nào.
Một khó khăn nữa là việc rèn luyện kĩ năng này chỉ chiếm một thời lượng rất
ít trong 1 tiết dạy do đó đòi hỏi học sinh phải nghiên cứu trước các yêu cầu mà bài
tập hoặc bài thực hành mà giáo viên đã giao cho, nhưng nhiều em chưa thực sự tập
trung và quan tâm đến yêu cầu mà giáo viên đã giao nên đây cũng là khó khăn lớn
đối với giáo viên khi thực hiện dạy một bài thực hành vẽ biểu đồ hoặc một bài tập
vẽ biểu đồ, do đó:
- Học sinh không xác định được yêu cầu của đề bài.
- Học sinh không xác định được kiểu biểu đồ sẽ vẽ là gì và việc xử lí bảng số

liệu (nếu có).
- Học sinh chưa vẽ được biểu đồ thích hợp và đúng với yêu cầu đề bài.
9


Sáng kiến kinh nghiệm
- Kỹ năng vẽ biểu đồ của học sinh còn lúng túng.
- Học sinh chưa nắm được các bước tiến hành khi vẽ biểu đồ.
- Học sinh vẽ biểu đồ còn cẩu thả, chưa khoa học, độ chính xác của số liệu
trên các thang giá trị còn thấp.
- Một số học sinh thường quên ghi đơn vị, hoặc tên biểu đồ thể hiện cái gì? lỗi
này cũng làm mất đi một phần điểm của học sinh.
- Có một số bài tập sau yêu cầu học sinh sau khi vẽ biểu đồ phải rút ra nhận
xét sự thay đổi của các đại lượng hoặc sự vật, hiện tượng địa lí đã vẽ, song một số
em vẫn chưa coi trọng, hoặc chỉ nhận xét sơ sài thì cũng sẽ mất điểm hoặc nhận xét
miên man không roc nội dung kiến thức nên không được điểm tối đa, vì thế bước
nhận xét sau khi vẽ biểu đồ cũng rất quan trọng, giáo viên bộ môn cũng cần quan
tâm, hướng dẫn cho học sinh thấy được vai trò quan trọng của các công việc này,
bằng không các em cũng rất dễ mất điểm.
Đầu năm, tôi tiến hành khảo sát thực nghiệm, kết quả như sau:
Biết xác định và vẽ

Chưa biết cách xác

đúng

định

26


15

11

9B

27

10

17

K9

53

25

28

100%

47.2%

52.8%

Lớp

T/số học sinh


9A

Tuy nhiên, trong số các em nhận biết đúng và biết cách vẽ thì vẫn còn một số
em biểu đồ chưa đạt được tính thẩm mĩ, phần nhận xét còn thiếu số liệu dẫn chứng.
Vì vậy mà kết quả bài tập trong quá trình điều tra chưa cao, cụ thể:
Thời gian một bài thực hành có 45 phút: có rất nhiều các bước cần thực hiện,
nhưng quan trọng nhất là việc kiểm tra, đánh giá kết quả bài tập của học sinh. Tuy
vậy công việc này thường được thực hiện sau khi học sinh đã hoàn thành hết các
yêu cầu của bài tập nên giáo viên bị hạn chế rất nhiều về thời gian để sửa chữa uốn
10


Sáng kiến kinh nghiệm
nắn cho các em nhất là học sinh yếu. Trong mỗi tiết thực hành, giáo viên cần hướng
dẫn cách vẽ cụ thể cho học sinh và khi công việc này hoàn tất các em mới được tiến
hành vẽ, giáo viên cũng không thể kiểm tra được nhiều học sinh trong một tiết dạy
nên không thể rèn kỹ năng cho từng em được.
Bên cạnh các bài tập thực hành vẽ biểu đồ trên lớp còn có rất nhiều các bài tập
thực hành vẽ biểu đồ ở nhà, nếu không có biện pháp kiểm tra, đánh giá kịp thời thì
nhiều em sẽ coi nhẹ việc thực hiện các bài tập này, hoặc có những lỗi sai sót mắc
phải của học sinh mà mà giáo viên không kịp thời phát hiện ra để giúp các em sửa
chữa.
Nhiều em khi vẽ biểu đồ nhưng không hiểu được tầm quan trọng của biểu đồ,
nên khi nhận xét biểu đồ sơ sài không đúng yêu cầu của đầu bài. Từ những lí do
trên chính là thực trạng cần giải quyết, tháo gỡ. Giải quyết tháo gỡ được nó nhất
định chất lượng dạy và học môn Địa lí ngày càng được nâng cao.

CHƯƠNG 3: Những giải pháp mang tính khả thi.
1. Thống nhất nguyên tắc chung:
Khi vẽ biểu đồ cần đảm bảo:

- Đảm bảo tính chính xác.
- Đảm bảo tính trực quan.
- Đảm bảo tính thẩm mĩ.
Trong giảng dạy, giáo viên cần lựa chọn các phương pháp tích cực trên cơ
sở coi trọng nhận thức của học sinh, tăng cường vai trò tổ chức lĩnh hội, khám phá
kiến thức. Trong giờ giảng, giáo viên giành nhiều thời gian cho học sinh tự làm
việc với sách giáo khoa, biểu đồ, lược đồ và với các thiết bị học tập khác để học
sinh tự chủ động tìm ra kiến thức mới dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Tất cả các
khâu này, giáo viên phải thể hiện chu đáo, tỉ mĩ, hết sức cụ thể trong bài soạn,
hướng dẫn học sinh ôn lại những kiến thức đã học để vận dụng vào giải thích sau
khi vẽ biểu đồ.
11


Sáng kiến kinh nghiệm
Trong một tiết thực hành vẽ biểu đồ, giáo viên phải hướng dẫn học sinh
chuẩn bị đầy đủ các đồ dùng cần thiết cho tiết học: máy tính cá nhân, thước kẻ,
compa... để giúp học sinh chủ động trong khi vẽ biểu đồ.
Giáo viên cần hình thành cho các em một hệ thống kiến thức về các loại biểu
đồ để các em không bị bỡ ngỡ trước yêu cầu của các dạng bài tập.
2. Biện pháp thực hiện:
2.1. Các dạng biểu đồ cơ bản: Có 7 dạng:
- Biểu đồ cột ( cột đơn, cột đa, cột chùm )
- Biểu đồ tròn ( biểu đồ tương đối, biểu đồ tuyệt đối )
- Biểu đồ miền
- Biểu đồ thanh ngang
- Biểu đồ cột chồng
- Biểu đồ đường
- Biểu đồ kết hợp
2.2. Cách lựa chọn biểu đồ và xử lí số liệu:

- Nếu bảng số liệu cho 1 hoặc 2 năm (đơn vị là %) thì ta vẽ biểu đồ hình tròn hoặc
cột chồng.
- Nếu bảng số liệu cho nhiều năm (đơn vị là %) thì ta vẽ biểu đồ miền hoặc đường.
- Nếu bảng số liệu cho nhiều năm, năm gốc là 100% thì ta vẽ biểu đồ đường.
Lưu ý: Đối với mỗi dạng biểu đồ đều có phương pháp vẽ khác nhau. Tuy nhiên yêu
cầu chung cho các dạng biểu đồ là :
- Biểu đồ gồm đơn vị, thời gian, tên biểu đồ, bảng chú giải......
- Biểu đồ phải có tính mỹ quan và chính xác.
- Trong khi làm bài tập, bài kiểm tra nếu đề bài yêu cầu vẽ cụ thể là biểu đồ tròn,
cột ... thì chúng ta theo thứ tự các bước dể thực hiện, còn nếu đề bài chưa yêu cầu
vẽ cụ thể thì học sinh phải căn cứ vào bảng số liệu để lựa chọn biểu đồ sao cho phù
hợp với nội dung, yêu cầu của đề bài.

12


Sáng kiến kinh nghiệm
3. Kỹ năng vẽ các dạng biểu đồ cơ bản:
3.1.Biểu đồ hình tròn:
Là loại biểu đồ thường thể hiện cơ cấu thành phần của một tổng thể đối
tượng địa lí nhất định với số năm ít (từ 1 đến 3 năm), đơn vị thể hiện trên biểu đồ
được tính bằng %. Khi bảng số liệu biểu đồ cho giá trị tuyệt đối, thì phải chuyển số
liệu tuyệt đối sang số liệu tương đối. Sau đó dùng bảng số liệu đã được xử lí để vẽ
biểu đồ.
 Các loại biểu đồ hình tròn
- Biểu đồ hình tròn đơn
Ví dụ: Biểu đồ cơ cấu sản lượng lúa phân theo các vùng ở nước ta

- Biểu đồ hình tròn có bán kính khác nhau
Ví dụ:Biểu đồ cơ cấu khối lượng luân chuyển hàng hoá phân theo các loại hình

vận tải, năm 2000 và năm 2005

13


Sáng kiến kinh nghiệm

- Biểu đồ bán tròn
Ví dụ: Biểu đồ cơ cấu giá trị xuất nhập khẩu phân theo thị trường năm 2000
và năm 2004

 Khi nào thì vẽ biểu đồ hình tròn
- Khi đề bài yêu cầu cụ thể: “Vẽ biểu đồ tròn …”
14


Sáng kiến kinh nghiệm
- Trong đề có cụm từ: “cơ cấu/tỉ lệ/ tỉ trọng/quy mô/quy mô và cơ cấu/thay
đổi cơ cấu/chuyển dịch cơ cấu” hay “tỉ trọng so
với toàn phần” số năm từ 1 đến 3 năm, hoặc từ 3
địa điểm trở xuống
- Số liệu để vẽ biểu đồ phải có đơn vị là %
 Cách vẽ biểu đồ hình tròn
- Xác định tỉ lệ bán kính đường tròn ( Nếu bài yêu cầu thể hiện quy mô)
- Vẽ đường tròn theo tỉ lệ đã xá định
- Chọn trục gốc: Để thống nhất và dễ so sánh. Khi chia cơ cấu trong hình
tròn, thì tia đầu tiên cần bắt đầu từ tia số 12 giờ. Trong trường hợp diễn tả tình hình
xuất nhập khẩu,… trục gốc là đường nằm ngang (Tia số 9 trên mặt đồng hồ).
- Vẽ theo trình tự của đề bài cho và vẽ theo chiều kim đồng hồ. Mỗi %
tương ứng 3,60

- Hoặc nếu vẽ hai hoặc ba hình tròn , phải vẽ tâm của các đường tròn nằm
trên một đường thẳng theo chiều ngang.
- Tên biểu đồ: Ghi ở trên hoặc dưới đều được nhưng phải thống nhất trong
toàn đề tài.
- Số ghi nằm ở giữa mỗi phần torng biểu đồ, ghi số %, không ghi số độ
hoặc số thực.
 Một số điểm cần lưu ý một số điểm khi vẽ biểu đồ hình tròn
- Trước hết phải xem kĩ số liệu. Số liệu có thể ở hai dạng: số liệu tuyệt đối
và số liệu tương đối. Nếu bảng số liệu thống kê cho số liệu tuyệt đối (thí dụ : nghìn
người, triệu tấn, nghìn km2, tỉ USD…) thì bắt buộc phải xử lí chúng thành (%) và
chỉ cần đưa kết quả thành bảng số liệu sau khi đã xử lí mà không cần trình bày cách
tính.

15


Sáng kiến kinh nghiệm
- Nếu trường hợp đầu bài yêu cầu vừa thể hiện quy mô và cơ cấu. Thì phải
vẽ hai biểu đồ hình tròn có bán kính khác nhau. Trong trường hợp phải tính bán
kính thì cách tính đơn giản nhất là: Lấy một số liệu tổng nhỏ nhất với bán kính là
1,0 đơn vị. Lần lượt lấy các số liệu tổng lớn hơn chia cho số liệu nhỏ nhất, được
bao nhiêu khai căn bậc hai. Kết quả đó, chính là bán kính cửa đường tròn thứ hai,
và cứ làm như vậy đối với các đường tròn thứ ba… Để đảm bảo tính trực quan của
biểu đồ thì người ta thường nhân các bán kính với cùng một hệ số sao cho phù hợp
với chiều rộng của tờ giấy thi.
- Cũng như việc xử lí số liệu, học sinh không cần phải viết vào bài thi cách
tính bán kính mà chỉ cần ghi kết quả sau khi đã tính bán kính là được.
- Nếu bảng số liệu cho số liệu tương đối (%) thì đây là số liệu tinh, không
cần phải xử lí số liệu.
3.2. Biểu đồ hình cột:

Thường thể hiện động thái của sự phát triển, hoặc so sánh quy mô (độ lớn)
giữa các đối tượng địa lí. Biểu đồ cột cũng có thể biểu hiện cơ cấu thành phần của
một tổng thể (biểu đồ cột chồng)
 Các loại biểu đồ hình cột
- Biểu đồ cột đơn
Ví dụ: Biểu đồ sản lượng lúa ở nước ta giai đoạn 1980 - 2005

16


Sáng kiến kinh nghiệm
Triệu tấn
40

35.8

35

32.6

30

25

25
19

20
15


Sản lượng lúa

15.9
11.6

10
5
0

1980

1985

1990

1995

2000

2005

Năm

- Biểu đồ cột ghép: Có hai loại
+ Biểu đồ cột ghép có cùng đơn vị
Ví dụ: Biểu đồ thể hiện biến động diện tích cây công nghiệp hàng năm và cây
công nghiệp lâu năm ở nước ta giai đoạn 1975-2005

+ Biểu đồ cột ghép có đơn vị khác nhau
Ví dụ: Biểu đồ thể hiện dân số và sản lượng lương thực của

nước ta giai đoạn 1980-2005
17


Sáng kiến kinh nghiệm

- Biểu đồ cột chồng
Ví dụ: Biểu đồ tình hình phát triển chăn nuôi trâu, bò ở nước ta…

- Biểu đồ thanh ngang
Ví dụ: Biểu đồ thể hiển tỉ lệ đất nông nghiệp các vùng ở nước ta năm 2006

18


Sáng kiến kinh nghiệm

 Khi nào thì vẽ biểu đồ hình cột
- Khi đề bài yêu cầu cụ thể “Hãy vẽ biểu đồ cột”
- Đề bài muốn thể hiện sự hơn kém, nhiều ít, hoặc muốn so sánh các yếu
tố. Thường dựa vào các gợi ý trong đề bài như: số lượng, sản lượng, so sánh, …
- Đề bài chỉ yêu cầu so sánh các yếu tố trong 1 năm nên trục ngang thay vì
đơn vị là “năm” thì được thay thế là “các vùng”, “các nước”, “các loại sản phẩm”,

- Đơn vị có dấu: “/” như: kg/người, tấn/ha, USD/người, người/km 2,…
 Cách vẽ biểu đồ hình cột
- Biểu đồ được thể hiện trên một hệ trục toạ độ. Trục tung thể hiện giá trị
của các đại lượng (đơn vị). Trục hoành thường thể hiện thời gian (năm).
- Chiều rộng của các cột bằng nhau, chiều cao của các cột phải tương ứng
với các giá trị của các đại lượng.

- Khoảng cách giữa các cột phải có tỉ lệ tương ứng với thời gian (năm) ở
trên trục hoành.
- Đỉnh cột ghi các chỉ số tương ứng với chiều cao của các cột.
19


Sáng kiến kinh nghiệm
- Chân cột ghi thời gian (năm).
- Cột đầu tiên nên vẽ cách trục tung một khoảng cánh nhất định để đảm bảo
tính trực quan của biểu đồ.
- Nếu vẽ các đại lượng khác nhau thì phải có chú giải phân biệt các đại
lượng đó.
 Một số điểm cần lưu ý một số điểm khi vẽ biểu đồ hình cột
- Đây là biểu đồ tuy dễ thể hiện nhưng hay sai nhất, chia khoảng cách năm
khó nhất.
- Đánh số thứ tự trên trục tung phải cách đều nhau và đầy đủ (tránh ghi
lung tung, không cách đều)
- Vẽ đúng trình tự bài cho, không được sắp xếp từ thấp đến cao hay ngược
lại, trừ khi đề bài yêu cầu sắp xếp lại.
- Không nên vạch chấm …. hay vạch ngang - từ trục tung vào đầu cột vì
như vậy sẽ làm biểu đồ rườm rà, cột bị cắt làm nhiều khúc, không có thẩm mĩ.
3.3.

Biểu đồ dạng đường:
Thường để vẽ sự thay đổi của đại lượng địa lí khi số năm nhiều và tương đối

liên tục, hoặc thể hiện tốc độ tăng trưởng của một hoặc nhiều đại lượng địa lí có
đơn vị giống nhau hay đơn vị khác nhau
 Các loại biểu đồ dạng đường
- Loại có một hoặc nhiều đường vẽ theo giá trị tuyệt đối cùng đơn vị

Ví dụ: Biểu đồ thể hiện tình hình tăng dân số ở Việt Nam, giai đoạn 1901-2006

20


Sáng kiến kinh nghiệm

- Loại có nhiều đường vẽ theo giá trị tuyệt đối khác đơn vị
Ví dụ: Biểu đồ biểu diễn dân số và sản lượng lương thực của nước ta giai đoạn
1980-2005

21


Sáng kiến kinh nghiệm

- Loại có một hoặc nhiều đường vẽ theo giá trị tương đối
Ví dụ: Biểu đồ tốc độ tăng trưởng sản lượng điện, than, phân bón
hoá học ở nước ta, giai đoạn 1998-2006

22


Sáng kiến kinh nghiệm

 Khi nào thì vẽ biểu đồ dạng đường
- Khi đề bài đưa ra yêu cầu cụ thể: “Vẽ đồ thị tả…”, “Vẽ đường biểu diễn”,

- Khi đề bài xuất hiện cụm từ: phát triển, tăng trưởng, tốc độ gia tăng, …
 Cách vẽ biểu đồ dạng đường

- Biểu đồ được vẽ trên một hệ trục tọa độ. Trục tung thể hiện giá trị của đại
lượng (đơn vị theo giá trị tuyệt đối), hoặc thể hiện tốc độ tăng trưởng (đơn vị theo
giá trị tương đối là %). Trục hoành là năm.
- Có khoảng cách năm rõ ràng.
- Nếu vẽ tốc độ tăng trưởng thường vẽ xuất phát từ 100
- Năm đầu tiên thường nằm trên trục tung.
- Nếu vẽ nhiều đường biểu diễn thì phải dùng các kí hiệu khác nhau để dễ
phân biệt.
23


Sáng kiến kinh nghiệm
- Nếu biểu đồ vẽ yêu cầu thể hiện tốc độ tăng trưởng của nhiều đại lượng
phải đổi ra cùng đơn vị là %.
 Chú ý
Nếu đề bài cho 3 thời điểm nên vẽ biểu đồ cột hơn là vẽ biểu đồ đường
3.4.

Biểu đồ miền
Biểu đồ miền thực chất là biểu đồ cột chồng khi chiều rộng của biểu đồ được

thu nhỏ thành một đường thẳng đứng. Biểu đồ miền thường dùng để thể hiện cả
động thái và cơ cấu của các đối tượng địa lí với số năm nhiều.
a.Các loại biểu đồ miền:
- Biểu đồ miền thể hiện cơ cấu
Ví dụ: Biểu đồ thể hiện sự thay đổi cơ cấu giá trị sản xuất
phân theo nhóm ngành của nước ta, giai đoạn 1990-2005

24



Sáng kiến kinh nghiệm
- Biểu đồ miền thể hiện giá trị tuyệt đối
Ví dụ: Biểu đồ thể hiện diễn biến biến diện tích các vụ lúa ở nước
ta, giai đoạn 1985 - 2005

b. Khi nào thì vẽ biểu đồ miền
- Khi đề bài yêu cầu cụ thể: “Vẽ biểu đồ miền”
- Khi đề bài xuất hiện cụm từ: thay đổi cơ cấu, chuyển dịch cơ cấu, …
c. Cách vẽ biểu đồ miền
- Khung biểu đồ miền vẽ theo giá trị tương đối thường là một hình chữ
nhật. Trong đó được chia làm các miền khác nhau, chồng lên nhau. Mỗi miền thể
hiện một đối tượng địa lí cụ thể.
- Các thời điểm năm đầu tiên và năm cuối cùng của biểu đồ phải được nằm
trên hai cạnh bên trái và phải của hình chữ nhật, là khung của biểu đồ.
- Chiều cao của hình chữ nhật thể hiện đơn vị của biểu đồ, chiều rộng của
biểu đồ thường thể hiện thời gian (năm).
- Biểu đồ miền vẽ theo giá trị tuyệt đối, thể hiện động thái, nên chỉ dựng
hai trục, một trục thể hiện đại lượng, một trục giới hạn năm cuối.
d. Chú ý khi vẽ biểu đồ miền
25


×