Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Hoàn cảnh quốc tế của nước cộng hòa xô viết nga và những nhiệm vụ cơ bản của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (231.36 KB, 31 trang )

Hoàn cảnh quốc tế của nước cộng hòa Xô-viết Nga và những nhiệm vụ cơ bản
của cuộc cách mạng Xã hội chủ nghĩa
Nhờ có nền hòa bình mà chúng ta đã giành được, - dù nó đi kèm với những
điều kiện nặng nề, và dù nó mỏng manh đến đâu chăng nữa, - nước Cộng hòa
xô-viết Nga đã có khả năng, trong một thời gian nào đó, tập trung được lực
lượng của mình vào lĩnh vực trọng yếu nhất và khó khăn nhất của cuộc cách
mạng xã hội chủ nghĩa, tức là nhiệm vụ tổ chức.
Nhiệm vụ đó đã được đặt ra một cách rõ ràng và chính xác trước hết thảy quần
chúng lao động và bị áp bức, trong đoạn thứ 4 (phần thứ 4) của nghị quyết được
thông qua ngày l5 tháng Ba 19l8, tại Đại hội bất thường các Xô-viết họp ở Mátxcơ-va, tức là trong cùng một đoạn (hay trong cùng một phần) của nghị quyết
nói về vấn đề kỷ luật tự giác của những người lao động và cuộc đấu tranh thẳng
tay chống tình trạng hỗn loạn và vô tổ chức1).
Nền hòa bình mà nước Cộng hòa xô-viết Nga đã giành được sở dĩ mỏng
manh, tất nhiên không phải là vì hiện nay nước Cộng hòa xô-viết Nga nghĩ đến
việc tiếp tục trở lại tiến hành chiến sự; trừ bọn phản cách mạng tư sản và bọn
phụ họa của chúng (bọn men-sê-vích và những bọn khác) ra, thì không một nhà
chính trị đầu óc lành mạnh nào lại nghĩ như thế cả. Nền hòa bình sở dĩ mỏng
manh là vì trong các nước đế quốc sát biên giới phía Tây và phía Đông nước
Nga, tức là trong những nước có một lực lượng quân sự to lớn, phái chủ chiến
bất cứ lúc nào cũng có thể thắng thế; phái này có lòng thèm muốn trước tình
trạng suy yếu tạm thời của nước Nga và được bọn tư bản đang căm ghét chủ
nghĩa xã hội và hám cướp bóc, xúi giục.
Trong tình hình đó, thì sự đảm bảo thực tế, chứ không phải đảm bảo trên giấy,
để cho chúng ta giữ được hòa bình, - chính là sự hiềm khích giữa các cường
quốc đế quốc chủ nghĩa, sự hiềm khích này đã gay gắt đến cực độ và biểu hiện
ra, một mặt, trong việc bọn đế quốc gây trở lại một cuộc tàn sát giữa các dân tộc
phương Tây, và mặt khác, trong cuộc cạnh tranh đế quốc chủ nghĩa cực kỳ gay


gắt giữa Nhật và Mỹ, nhằm thống trị Thái-bình-dương và vùng duyên hải Tháibình-dương.
Rõ ràng là với một sự bảo vệ yếu ớt như thế, nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa


xô-viết của chúng ta đang ở vào một hoàn cảnh quốc tế hết sức không vững và
rõ ràng là nguy kịch. Chúng ta phải dốc hết sức lực ra để lợi dụng thời gian tạm
ngừng chiến mà thời cơ đã đưa lại cho chúng ta, để hàn gắn những vết thương
cực kỳ trầm trọng do chiến tranh gây ra cho toàn bộ cơ thể xã hội của nước Nga,
và để phát triển kinh tế nước nhà, nếu không thì không thể nào nói đến tăng
cường khả năng quốc phòng của nước Nga lên một mức tương đối được.
Và cũng rõ ràng là chỉ khi nào chúng ta làm tròn được nhiệm vụ tổ chức đang
đặt ra trước mắt chúng ta ngần nào, thì chúng ta có thể giúp đỡ được nhiều ngần
ấy cho cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở phương Tây hiện còn chưa nổ ra kịp
vì nhiều lý do.
Điều kiện cơ bản để hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ tổ chức đó, nhiệm vụ hàng
đầu đặt ra cho chúng ta là các nhà lãnh đạo chính trị của nhân dân, nghĩa là các
đảng viên Đảng cộng sản (bôn-sê-vích) Nga, và tiếp đến là tất cả những đại biểu
giác ngộ của quần chúng lao động, phải thấu triệt được sự khác nhau căn bản, về
mặt ấy, giữa các cuộc cách mạng tư sản trước kia và cuộc cách mạng xã hội chủ
nghĩa hiện nay.
Trong các cuộc cách mạng tư sản, nhiệm vụ chủ yếu của quần chúng lao động
là làm một công việc tiêu cực hoặc có tính chất phá hoại: xóa bỏ chế độ phong
kiến, chế độ quân chủ, những quan hệ thời trung cổ. Còn công tác tích cực hay
là sáng tạo, tức là công tác tổ chức một xã hội mới, thì lại do thiểu số hữu sản,
tức thiểu số tư sản trong nhân dân, hoàn thành. Và sở dĩ thiểu số đó hoàn thành
được nhiệm vụ ấy một cách tương đối dễ dàng, bất chấp cả sự phản kháng của
công nhân và nông dân nghèo, đó không những là vì sự phản kháng của quần
chúng bị tư bản bóc lột lúc bấy giờ còn đang hết sức yếu ớt do tình trạng phân
tán và chưa phát triển của họ, mà còn là vì lực lượng tổ chức cơ bản của xã hội


tư bản chủ nghĩa - một xã hội được xây dựng lên một cách vô chính phủ - là thị
trường trong nước và quốc tế, thị trường này lúc đó đang phát triển một cách tự
phát về bề rộng cũng như bề sâu.

Trái lại, nhiệm vụ chủ yếu mà giai cấp vô sản và nông dân nghèo do giai cấp
vô sản lãnh đạo, phải hoàn thành trong bất cứ cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa
nào và, do đó, phải hoàn thành cả trong cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa mà
chúng ta đã bắt đầu tiến hành ở Nga, ngày 25 tháng Mười l917 - nhiệm vụ chủ
yếu đó là một công tác tích cực hay là sáng tạo nhằm thiết lập một màng lưới
các quan hệ tổ chức mới, một màng lưới cực kỳ phức tạp và tinh tế bao trùm sự
sản xuất và phân phối một cách có kế hoạch các sản phẩm cần thiết cho đời sống
của hàng chục triệu người. Một cuộc cách mạng như thế chỉ có thể được hoàn
thành thắng lợi, nếu đa số nhân dân, và trước hết là đa số những người lao động,
chủ động tiến hành một hoạt động sáng tạo có ý nghĩa lịch sử. Chỉ khi nào giai
cấp vô sản và những người nông dân nghèo tỏ ra có đầy đủ tinh thần tự giác,
trình độ tư tưởng, tinh thần hy sinh và tinh thần bền bỉ, thì khi đó, thắng lợi của
cách mạng xã hội chủ nghĩa mới được đảm bảo. Chúng ta đã thiết lập được một
kiểu nhà nước mới, kiểu xô-viết, nó tạo khả năng cho quần chúng lao động và bị
áp bức có thể tham gia hết sức tích cực và chủ động vào công cuộc xây dựng xã
hội mới, nhưng như thế, chúng ta chỉ mới giải quyết được một phần nhỏ của một
nhiệm vụ khó khăn. Khó khăn chủ yếu là ở trong lĩnh vực kinh tế: thực hiện ở
khắp mọi nơi và hết sức nghiêm ngặt sự kiểm kê và kiểm soát việc sản xuất và
phân phối sản phẩm, tăng năng suất lao động, thật sự xã hội hóa sản xuất.
Sự phát triển của đảng bôn-sê-vích, là đảng hiện nay đang cầm quyền ở Nga,
đã chỉ ra một cách đặc biệt rõ ràng cho chúng ta thấy rằng bước ngoặt lịch sử mà
chúng ta đang trải qua - cái bước ngoặt nói lên đặc điểm của tình thế chính trị
hiện nay và đòi hỏi Chính quyền xô-viết phải tìm một phương hướng mới, tức là
một cách thức mới để đề ra những nhiệm vụ mới - là như thế nào.


Nhiệm vụ thứ nhất của bất cứ một chính đảng nào có trọng trách đối với tương
lai là thuyết phục cho đa số nhân dân thấy được sự đúng đắn của cương lĩnh và
sách lược của mình. Nhiệm vụ đó đã chiếm hàng đầu dưới chế độ Nga hoàng,
cũng như trong thời kỳ mà bọn Tséc-nốp và Txê-rê-tê-li thi hành chính sách thỏa

hiệp với bọn Kê-ren-xki và bọn Ki-skin. Ngày nay, cố nhiên chúng ta vẫn chưa
hoàn thành được nhiệm vụ ấy (và sẽ không bao giờ hoàn thành triệt để được
nhiệm vụ ấy) nhưng cũng đã hoàn thành được về căn bản rồi, vì đa số công nhân
và nông dân Nga rõ ràng là đứng về phía những người bôn-sê-vích, như đại hội
vừa qua các Xô-viết ở Mát-xcơ-va đã chứng minh một cách không thể chối cãi
được.
Nhiệm vụ thứ hai của đảng ta là giành lấy chính quyền và đập tan sự phản
kháng của bọn bóc lột. Cả nhiệm vụ này nữa cũng vậy, chúng ta chưa hoàn
thành xong xuôi và không thể coi thường nó, vì một mặt, bọn quân chủ và dân
chủ - lập hiến, và mặt khác, bọn phụ hoạ và bộ hạ của chúng - tức là bọn mensê-vích và bọn xã hội chủ nghĩa - cách mạng cánh hữu - đều tiếp tục mưu mô
cấu kết với nhau hòng lật đổ chính quyền xô-viết. Nhưng, về căn bản, nhiệm vụ
đập tan sự phản kháng của bọn bóc lột đã hoàn thành trong thời kỳ từ 25 tháng
Mười 1917 đến (khoảng) tháng Hai 1918, hoặc đến ngày mà Bô-ga-ép-xki đầu
hàng.
Nhiệm vụ thứ ba, - - nhiệm vụ tổ chức quản lý nhà nước Nga - hiện đang được
đề ra trước chúng ta, đó là nhiệm vụ trước mắt, nói lên đặc điểm của tình thế
hiện nay. Dĩ nhiên, chúng ta đã đề ra nhiệm vụ đó và giải quyết ngay từ sau
ngày 25 tháng Mười 1917, nhưng cho đến nay, khi sự phản kháng của bọn bóc
lột còn mang hình thức một cuộc nội chiến công khai, thì nhiệm vụ quản lý chưa
thể trở thành nhiệm vụ chủ yếu, trung tâm được.
Ngày nay nhiệm vụ quản lý đã trở thành nhiệm vụ chủ yếu và trung tâm.
Chúng ta, đảng bôn-sê-vích, chúng ta đã thuyết phục được nước Nga. Chúng ta
đã giành được nước Nga từ trong tay bọn nhà giàu để giao lại cho những người


nghèo, từ trong tay bọn bóc lột để giao lại cho những người lao động. Bây giờ,
chúng ta phải quản lý nước Nga. Và toàn bộ đặc điểm của tình thế hiện thời, tất
cả sự khó khăn là ở chỗ phải hiểu rõ những đặc điểm của bước chuyển từ nhiệm
vụ chủ yếu là thuyết phục nhân dân và dùng lực lượng quân sự trấn áp bọn bóc
lột, sang nhiệm vụ chủ yếu là quản lý.

Trong lịch sử thế giới, đây là lần đầu tiên mà một đảng xã hội chủ nghĩa đã có
thể hoàn thành được, trên những nét chủ yếu, việc giành chính quyền và đè bẹp
bọn bóc lột, đã có thể trực tiếp bắt tay vào việc giải quyết nhiệm vụ quản lý.
Chúng ta phải tỏ ra là những người thực hiện được một cách xứng đáng nhiệm
vụ rất khó khăn (và rất cao cả) ấy của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Chúng ta
phải suy nghĩ kỹ rằng muốn quản lý được tốt, thì ngoài cái tài biết thuyết phục,
biết chiến thắng trong cuộc nội chiến, còn cần phải biết tổ chức trong lĩnh vực
thực tiễn. Đó là nhiệm vụ khó khăn nhất, vì vấn đề là phải tổ chức theo phương
thức mới những cơ sở sâu xa nhất, những cơ sở kinh tế của đời sống của hàng
chục và hàng chục triệu con người. Đó cũng là nhiệm vụ cao cả nhất vì chì sau
khi đã thực hiện được nhiệm vụ ấy (trên những nét chủ yếu và cơ bản của nó),
thì mới có thể nói rằng nước Nga không những đã trở thành một nước cộng hòa
xô-viết, mà còn là một nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa nữa.
Tư tưởng vĩ đại của Cách mạng Tháng Mười Nga đã chiếu sáng con
đường đấu tranh giải phóng và tiến lên Chủ nghĩa xã hội của dân tộc Việt
Nam
(Website Chính phủ) – Trong không khí cả nước đang nỗ lực phấn đấu
hoàn thành thắng lợi các nhiệm vụ kinh tế - xã hội năm 2007 và chuẩn bị kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2008, với niềm tin mạnh mẽ vào tiền đồ
của chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên tất thắng của cách mạng Việt Nam,
sáng 7/11, tại Hà Nội, Đảng và Nhà nước ta đã long trọng tổ chức Lễ kỷ niệm
90 năm Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại (07/11/1917-07/11/2007).
Các đồng chí lãnh đạo cao cấp của Đảng và Nhà nước: Nông Đức Mạnh,
Tổng Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng; Nguyễn Minh Triết, Chủ tịch nước;
Nguyễn Tấn Dũng, Thủ tướng Chính phủ; Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch Quốc hội;
Lê Khả Phiêu, nguyên Tổng Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng; Trần Đức


Lương, nguyên Chủ tịch nước; Nguyễn Văn An, nguyên Chủ tịch Quốc hội; Phạm
Thế Duyệt, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam... cùng đại

diện lãnh đạo các bộ, ngành và đông đảo các tầng lớp nhân dân Thủ đô đã dự Lễ
kỷ niệm.
Trong bài diễn văn quan trọng (xin nhấn vào đây để xem toàn văn bài diễn
văn của Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh) tại lễ kỷ niệm, Tổng Bí thư Nông Đức
Mạnh đã điểm lại diễn biến và thắng lợi lịch sử của cuộc Cách mạng Tháng Mười
Nga và nhắc lại đánh giá của Chủ tịch Hồ Chí Minh về ý nghĩa của cuộc Cách
mạng này đối với lịch sử nhân loại: "Giống như mặt trời chói lọi, Cách mạng
Tháng Mười Nga chiếu sáng khắp năm châu, thức tỉnh hàng triệu, hàng triệu
người bị áp bức, bóc lột trên trái đất. Trong lịch sử loài người chưa từng có cuộc
Cách mạng nào có ý nghĩa to lớn và sâu xa như thế… Cách mạng Tháng Mười
Nga mở ra con đường giải phóng cho các dân tộc và cả loài người, mở đầu một
thời đại mới trong lịch sử, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã
hội trên toàn thế giới”.
Về vai trò của Cách mạng Tháng Mười Nga đối với sự nghiệp cách mạng
của nhân dân ta trong giai đoạn đấu tranh giải phóng giành độc lập, tự do cho dân
tộc, Tổng Bí thư nhấn mạnh: Đối với Việt Nam, tư tưởng vĩ đại của Cách mạng
Tháng Mười đã chiếu sáng con đường đấu tranh để giải phóng dân tộc và tiến lên
chủ nghĩa xã hội; Cuộc chiến đấu của nhân dân ta được sự đồng tình và ủng hộ
của bạn bè khắp năm châu, trong đó có Liên bang Xô Viết và đến lượt nó, thắng
lợi của cách mạng Việt Nam lại góp phần thúc đẩy và cổ vũ các phong trào cách
mạng trên thế giới. Đồng chí Tổng Bí thư bày tỏ lòng biết ơn chân thành đối với
các nước xã hội chủ nghĩa, các nước bạn bè truyền thống và anh em, bầu bạn
khắp năm châu đã hết lòng ủng hộ sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta.
Về những bài học chính yếu rút ra được trong hơn 20 năm qua của cách
mạng Việt Nam, Tổng Bí thư cho rằng, đổi mới phải giữ vững mục tiêu độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội, trên cơ sở nắm vững, vận dụng sáng tạo và phát triển
chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đổi mới phải toàn diện, đồng bộ
nhưng có trọng tâm, trọng điểm, có hình thức, phương pháp và bước đi thích hợp.
Đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân và dựa vào sức mạnh của nhân dân. Đổi mới
phải do Đảng Cộng sản lãnh đạo và bản thân Đảng cũng phải thường xuyên tự

đổi mới, tự chỉnh đốn, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của mình, không ngừng tăng cường mối quan hệ gắn bó máu thịt với nhân dân.
Tổng Bí thư nhấn mạnh, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là
phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh công nghiệp
hóa; hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức; xây dựng nền văn hóa tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc làm nền tảng tinh thần của xã hội; xây dựng nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết dân tộc; xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân; xây dựng Đảng trong sạch, vững
mạnh; bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia; chủ động và tích cực
hội nhập quốc tế.


Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh cho rằng, cũng giống như nhiều cuộc cách
mạng khác, cách mạng xã hội chủ nghĩa không thể tiến lên một cách dễ dàng,
bằng phẳng mà phải trải qua nhiều thách thức có những lúc phải trải qua bước
quanh của lịch sử, có những lúc thoái trào tạm thời song loài người cuối cùng
nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội vì đó là quy luật tiến hóa của lịch sử. Sự
sụp của hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu chỉ là sự đổ vỡ của một
mô hình cụ thể của chủ nghĩa xã hội hiện thực, không phải sự sụp đổ của bản
thân chủ nghĩa xã hội với tư cách là một nấc thang phát triển cao hơn chủ nghĩa
tư bản trong tiến trình lịch sử.
Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh khẳng định quyết tâm của toàn Đảng, toàn
dân và toàn quân ta sẽ đem hết tinh thần và lực lượng thúc đẩy toàn diện công
cuộc đổi mới đất nước theo Nghị quyết Đại hội X của Đảng, phấn đấu sớm đưa
nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển trước năm 2010 và cơ bản trở thành một
nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào cuối thập kỷ tới. Không ngừng hướng
tới sự nghiệp dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh./.
(Website CP)
Năm 1917, giữa lúc khói lửa của cuộc Chiến tranh Thế giới thứ nhất còn chưa
chấm dứt, Cách mạng Tháng Mười Nga do lãnh tụ thiên tài V.I. Lê nin và Đảng

Bôn-sê-vích Nga lãnh đạo đã bùng nổ, nhằm thẳng vào khâu yếu nhất của chủ
nghĩa đế quốc thời bấy giờ, đập tan xiềng xích của chế độ Sa hoàng, làm rung
chuyển dữ dội thế giới tư bản chủ nghĩa, mở ra một thời kỳ phát triển mới trong
lịch

sử

nhân

loại.

Đây là cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa đầu tiên thành công trên một quốc gia
rộng lớn, ở đó đã thiết lập nên nhà nước công - nông đầu tiên trên thế giới và
tiến lên thành lập Liên bang Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Xô-viết với diện tích
gần một phần sáu địa cầu, trải dài từ châu Âu sang châu Á. Trong hơn bảy thập
niên xây dựng và trưởng thành, Nhà nước Liên Xô, dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Liên Xô, với lực lượng nhân dân Xô-viết gồm mấy trăm triệu người
giàu nghị lực, dòng quả cảm và trí thông minh, đã liên tiếp lập nên nhiều kỳ tích.
Trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, Liên Xô đã đánh thắng oanh liệt chủ
nghĩa phát xít, giải phóng đất nước mình, đồng thời góp phần giải phóng nhiều
dân tộc khác ở châu Âu và trên thế giới, cứu loài người khỏi thảm họa phát xít.
Trong xây dựng chủ nghiã xã hội, Liên Xô đã đưa đất nước từ lạc hậu trở thành


một cường quốc hùng mạnh về nhiều mặt, nêu tấm gương sáng về xây dựng nhà
nước kiểu mới, chế độ chính trị - xã hội không có ngươi bóc lột người, làm
thành trì và chỗ dựa vững chắc cho các phong trào cách mạng trên thế giới.
Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận định : ''Giống như mặt trời chói lọi,
Cách mạng Tháng Mười Nga chiếu sáng khắp năm châu, thức tỉnh hàng triệu
hàng triệu người bị áp bức, bóc lột trên trái đất. Trong lịch sử loài người chưa

từng có cuộc cách mạng nào có ý nghĩa to lớn và sâu xa như thế. . . Cách mạng
Tháng Mười Nga mở ra con đường giải phóng cho các dân tộc và cả loài người,
mở đầu một thời đại mới trong lịch sử, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên
chủ nghĩa xã hội trên toàn

thế

giới''

.

Đi theo con đường của Cách mạng Tháng Mười, được sự cổ vũ và gắn liền với
chiến thắng của Liên Xô trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, nhiều dân tộc ở
châu Âu, châu Á và Mỹ - La tinh đã đứng lên làm cách mạng thành công, dẫn
đến việc hình thành hệ thống xã hội chủ nghiã thế giới và thúc đẩy ba dòng thác
cách mạng cùng phát triển vào những năm 60 và 70 của thế kỷ 20. Đó là phong
trào xã hội chủ nghĩa, phong trào độc lập dân tộc và phong trào đấu tranh cho
các quyền dân sinh, dân chủ và tiến bộ xã hội ở các nước tư bản chủ nghĩa. Đó
còn là phong trào hòa bình cuốn hút hàng tỷ người trên trái đất kiên quyết đấu
tranh bảo vệ hòa bình, chống chiến tranh xâm lược và âm mưu nô dịch của các
thế

lực

đế

quốc




thực

dân.

Đối với Việt Nam, tư tưởng vĩ đại của Cách mạng Tháng Mười đã chiếu sáng
con đường đấu tranh để giải phóng dân tộc và tiến lên chủ nghĩa xã hội. Từ rất
sớm, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và các nhà cách mạng nước ta đã bằng mọi cách
truyền bá chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng xã hội chủ nghĩa vào nước ta.
Trong tác phẩm ,''Đường Kách mệnh'', Người nêu bật trên trang đầu câu nói nổi
tiếng của Lê nin: ''Không có lý luận cách mạng thì không có cách mạng vận
động''; Những hoạt động phong phú ấy đã dẫn đến sự ra đời của nhiều tổ chức
cộng sản, và đến năm l 930 hợp nhất thành Đảng Cộng sản Việt Nam, ngọn cờ


lãnh đạo sáng suốt đầy khí phách của cách mạng Việt Nam. Từ đó trở đi, cách
mạng nước ta đã trải qua những chặng đường chiến đấu lâu dài với bao gian lao
và thử thách, có lúc cao trào, có lúc thoái trào, để đến năm 1945 tiến lên giành
thắng lợi vĩ đại trong Cách mạng Tháng Tám, thành lập nước Việt Nam Dân chủ
cộng hoà, mở ra kỷ nguyên mới của dân tộc - kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ
nghĩa xã hội. Tiếp đó, dân tộc ta lại phải tiến hành hai cuộc kháng chiến cứu
nước nối tiếp nhau, kéo dài suốt 30 năm và cuối cùng đã giành thắng lợi hoàn
toàn, đánh thắng hai đế quốc to, quét sạch quân xâm lược, thống nhất đất nước,
đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Cuộc chiến đấu của nhân dân ta được sự
đồng tình và ủng hộ của bè bạn, khắp năm châu, trong đó có Liên bang Xô-viết
và đến lượt nó, thắng lợi của cách mạng Việt Nam lại góp phần thúc đẩy và cổ
vũ các phong trào cách mạng trên thế giới.
Lịch sử không ngừng tiến về phía trước. Cách mạng xã hội nghĩa là khám phá
lớn, sáng tạo lớn, cũng là hiện thực lớn của lịch sử. Tuy nhiên, do bản chất và ý
nghĩa sâu xa của nó và cũng như nhiều cuộc cách mạng khác, cách mạng xã hội
chủ nghĩa không thể tiến lên một cách dễ dàng, bằng phẳng mà phải trải qua

nhiều thách thức, có những lúc phải trải qua bước quanh của lịch sử. Chúng ta tự
hào và vui mừng về thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười và sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác, đồng thời
không khỏi đau buồn trước những biến cố diễn ra vào thập niên cuối cùng của
thế kỷ 20, ngay chính trên quê hương của Cách mạng Tháng Mười, dẫn đến sự
tan rã của Nhà nước Liên Xô đồng thời với sự tan rã của nhiều nhà nước xã hội
chủ nghĩa khác ở Đông Âu, kéo theo thoái trào tạm thời của phong trào cộng sản


công

nhân

quốc

tế.

Song, chủ nghĩa xã hội trên thế giới đã không cáo chung vào cuối thế kỷ 20 như
các thế lực thù địch từng mơ tưởng. Thực tế đã chứng minh : đây chỉ là sự đổ vỡ
của một mô hình cụ thể của chủ nghĩa xã hội hiện thực, chứ không phải sự sụp
đổ của bản thân chủ nghĩa xã hội với tư cách là một nấc thang phát triển cao hơn


chủ nghĩa tư bản trong tiến trình lịch sử. Trên thế giới ngày nay, vẫn đang trụ
vững và phát triển không ngừng nhiều nước xã hội chủ nghĩa gồm hàng tỉ dân,
trong đó Trung Quốc và việt Nam đã và đang thực hiện thành công cải cách, mở
cửa và đổi mới. Ở nhiều nước, các lực lượng xã hội chủ nghĩa vẫn tồn tại và
kiên trì phấn đấu cho lý tưởng cao đẹp của mình và vì lợi ích của nhân dần. Các
dân tộc vẫn tiếp tục tiến lên trong cuộc đấu tranh vì hoà bình, độc lập và phát
triển, vì các quyền đần sinh, dân chủ và tiến bộ xã hội. Hiện tượng mới nhất từ

những năm đầu thế kỷ 21 đang thu hút sự chú ý toàn cầu là tại các nước châu
Mỹ - La tinh, các lực lượng cánh tả đã liên tiếp giành thắng lợi trong các cuộc
bầu cử, nắm được chính quyền, trong đó nhiều nước công khai tuyên bố đi theo
con

đường

phát

triển



hội

chủ

nghĩa.

Chúng ta khẳng định một lần nữa luận điểm đúng đắn mà Đảng ta nêu lên trong
Cương lĩnh năm 199l : ''Lịch sử thế giới đang trải qua những bước quanh co;
song loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội vì đó là quy luật
tiến hoá của lịch sử''. Chúng ta cũng cho rằng, thế giới ngày nay đã có nhiều đổi
khác so với gần một trăm năm trước, mỗi dân tộc có quyền lựa chọn con đường
tiến lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với tình hình và đặc điểm của mình, không
nhất

thiết

mọi


nước

đều



cùng

khuôn

mẫu

giống

nhau.

Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý. Từ thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nước ta và nhiều nước khác trên thế giới, nhìn cả hai mặt thành công và không
thành công, chúng ta rút ra được nhiều bài học quý báu, Công cuộc đổi mới
mang tính cách mạng là sự lựa chọn đúng đắn của chúng ta. Đó vừa là đường
lối, chủ trương vừa là hệ thống giải pháp mang tầm chiến lược nhằm xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong điều kiện mới. Những bài học chính
yếu rút ra được trong hơn 20 năm qua là : Đổi mới phải giữ vững mục tiêu độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, trên cơ sở nắm vững, vận dụng sáng tạo và phát
triển chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đổi mới phải toàn diện,
đồng bộ nhưng có trọng tâm, trọng điểm, có hình thức, phương pháp và bước đi


thích hợp. Đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân và dựa vào sức mạnh của nhân

dân, phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của nhân dân. Đổi mới phải do Đảng
Cộng sản lãnh đạo và bản thân Đảng cũng phải thường xuyên tự đổi mới, tự
chỉnh đốn, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của mình,
không ngừng tăng cường mối quan hệ gắn bó máu thịt với nhân dân. Đổi mới
cũng là quá trình vừa làm vừa tìm tòi, rút kinh nghiệm; kinh nghiệm của chính
bản thân chúng ta và kinh nghiệm của các nước khác. Đó là quá trình tiếp thu có
chọn lọc hết sức nghiêm túc và sáng tạo. Chính nhờ đường lối đúng đắn ấy mà
hơn 20 năm qua, sự nghiệp đổi mới của chúng ta, như Đại hội X của Đảng nhận
định, đã giành được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Đất nước và
xã hội ta đã có sự thay đổi căn bản và toàn diện trên tất cả các lĩnh vực từ kinh
tế, chính trị, văn hóa, xã hội đến an ninh, quốc phòng và đối ngoại. Những thành
tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử ấy đã nâng cao tầm vóc và vị thế của đất nước
ta, ngày càng được bạn bè quốc tế đánh giá cao và nhiệt tình ủng hộ. Trải qua
hơn 20 năm đổi mới, nhận thức của chúng ta về chủ nghĩa xã hội và con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ hơn; hệ thống quan điểm lý luận của
Đảng ta về công cuộc đổi mới, về xã hội xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã hình thành trên những nét cơ bản.
Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta phấn đấu xây dựng là xã hội dân giàu,
nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế
phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp
với sự phát triển của lực lượng sản xuất; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc, con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm
no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt
Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ, có nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, dưới sự
lãnh đạo của Đảng cộng sản; có quan hệ hữu nghị, hợp tác với nhân dân các
nước

trên


thế

giới.


Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát
triển kinh tế tri thức; xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc,
làm nền tảng tinh thần của xã hội; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực
hiện đại đoàn kết toàn dân tộc; xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh;
bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia; chủ động và tích cực hội
nhập

quốc

tế.

Là Đảng duy nhất lãnh đạo cách mạng Việt Nam, trở thành Đảng cầm quyền
hơn 60 năm qua, Đảng ta phải làm tròn sứ mệnh lãnh đạo do nhân dân giao phó
và chịu trách nhiệm trước nhân dân về toàn bộ hoạt động của mình trong việc
thực

hiện

sứ

mệnh

đó.


Cần nhận thức rõ ràng rằng : Mỗi thành công hay thất bại của cách mạng, mỗi
thành tựu hay yếu kém trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
đều gắn liền với trách nhiệm lãnh đạo của Đảng và những ưu điểm, khuyết điểm
trong công tác xây dựng Đảng. Từ nhiều năm qua, Đảng ta luôn luôn coi phát
triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, xây
dựng văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội. Bởi vậy, những bài học về xây
dựng Đảng cũng phải luôn được coi là những bài học trọng yếu trong nhiều bài
học

khác

về

đổi

mới.

Đề cập tới công tác xây dựng Đảng, Đại hội X của Đảng nêu rõ: ''Trong những
năm tới, phải dành nhiều công sức, tạo được chuyển biến rõ rệt về xây dựng
Đảng, phát huy truyền thống cách mạng, bản chất giai cấp công nhân và tính
tiền phong của Đảng; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư
tưởng và tổ chức, đoàn kết, nhất trí cao, gắn bó mật thiết với nhân dân, có
phương thức lãnh đạo khoa học, có đội ngũ cán bộ, đảng viên đủ phẩm chất và
năng lực. Đay là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và sự
nghiệp

cách

mạng


của

nhân

dân

ta”.


Đại hội đòi hỏi phải tập trung sức nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của Đảng. Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng là nâng cao năng lực hoạch
định đường lối, chính sách; năng lực tổ chức chỉ đạo thực hiện; năng lực tổng
kết lý luận, thực tiễn, tạo thống nhất nhận thức và hành động trong Đảng. Đó
còn là năng lực lãnh đạo chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể, tập hợp
các tầng lớp nhân dân trong mặt trận đại đoàn kết toàn dân tộc. Nâng cao sức
chiến đấu của Đảng là làm cho từng cán bộ, đảng viên, từng tổ chức và cấp uỷ
đảng, nói chung là toàn Đảng, phải có ý chí phấn đấu vươn lên, hoàn thành xuất
sắc nhiệm vụ được giao; thường xuyên rèn luyện phẩm chất, đạo đức, không nể
nang, né tránh, ''dĩ hoà vi quý''; kiên quyết đấu tranh với những hiện tượng tiêu
cực, tham nhũng, suy thoái ở ngay trong bản thân mỗi đảng viên, trong mỗi tổ
chức đảng, dũng cảm đấu tranh chống các tư tưởng, quan điểm và hành động sai
trái,

thù

địch.

Hiện nay, trong Đảng và trong nhân dân ta đang tiến hành cuộc vận động ''Học
tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh''. Tôi muốn nhân đây, nhấn

mạnh quyết tâm của chúng ta thực hiện lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh
trong Di chúc : ''Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải
thật sự thấm nhuần đạo đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm, liêm chính, chí
công, vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh
đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân'' .
Những tư tưởng vĩ đại của Cách mạng Tháng mười về giải phóng dân tộc, giải
phóng xã hội và giải phóng con người sẽ mãi mãi chói sáng. Được soi đường
bằng những tư tưởng vĩ đại ấy, bằng chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, với việc tiếp thu những kinh nghiệm vô cùng phong phú của các đảng
cộng sản, phong trào cách mạng trên thế giới và những tinh hoa của văn hoá
nhân loại, sự nghiệp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta sẽ tiến
lên không ngừng. Chúng ta tin tưởng ở sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng ta, sự


quản lý ngày càng có hiệu quả của Nhà nước ta, tin tưởng ở sức mạnh to lớn của
nhân dân ta.
CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA:
cuộc cách mạng xã hội nhằm chuyển từ hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ
nghĩa sang hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là xã
hội xã hội chủ nghĩa. Đó là bước nhảy vọt vĩ đại trong quá trình phát triển của xã
hội loài người. CMXHCN bao gồm một loạt những cải biến cách mạng có tính
chất quyết định trong cơ cấu chính trị, kinh tế - xã hội, văn hoá và xã hội. Giai cấp
công nhân thông qua chính đảng cách mạng của mình nắm quyền lãnh đạo cách
mạng, liên minh với giai cấp nông dân và các tầng lớp lao động khác thực hiện
nhiệm vụ cơ bản đầu tiên của CMXHCN là giành lấy chính quyền, phá bỏ bộ máy
chuyên chính tư sản, xác lập bộ máy chính quyền của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động, xây dựng một chế độ mới có nền kinh tế phát triển trên cơ sở chế độ
công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu, loại bỏ mọi đối kháng giai cấp, xoá bỏ
mọi áp bức và bóc lột, phát triển dân chủ xã hội chủ nghĩa và công bằng xã hội,
xây dựng nền văn hoá mới xã hội chủ nghĩa. Quá trình đó bao hàm nhiều giai

đoạn khác nhau trong sự phát triển của chế độ xã hội và kinh tế mới.
CMXHCN là cuộc cách mạng được chủ nghĩa tư bản chuẩn bị sẵn. Những mâu
thuẫn toàn diện và gay gắt trong lòng chế độ tư bản chủ nghĩa là tiền đề khách
quan của CMXHCN. Sự liên minh chính trị của giai cấp công nhân với các giai
cấp và tầng lớp nhân dân lao động là lực lượng cơ bản để giành thắng lợi cho
CMXHCN. Các lực lượng chính trị cách mạng được hình thành trên cơ sở kinh
nghiệm chính trị của chính đội quân chính trị của quần chúng, kinh nghiệm đó
giáo dục quần chúng đoàn kết họ xung quanh giai cấp công nhân. Trong quá trình
chuẩn bị, nhân tố chủ quan giữ vai trò chủ yếu quyết định thắng lợi của CMXHCN
là sự lãnh đạo của chính đảng tiên phong của giai cấp công nhân. Tuỳ theo điều
kiện lịch sử cụ thể, nhất là tuỳ thuộc thái độ chính trị của giai cấp thống trị,


CMXHCN có thể diễn ra bằng các phương thức khác nhau, có thể hoà bình hoặc
bạo lực. Điều cơ bản là CMXHCN phải dựa vào đông đảo quần chúng dưới sự
lãnh đạo của chính đảng cách mạng, có ý chí tiến công dũng cảm và sẵn sàng sử
dụng các phương thức thích hợp để giành lấy chính quyền. CMXHCN là một quá
trình có tính chất thế giới nảy sinh từ những mâu thuẫn của chủ nghĩa đế quốc với
tính cách là một hệ thống thế giới. Song do sự phát triển của chủ nghĩa tư bản
mang tính chất xung đột không đều cho nên ở các nước khác nhau những mâu
thuẫn này phát triển cũng không đồng đều, đã làm xuất hiện những khu vực mâu
thuẫn tập trung, gay gắt nhất; ở đó có những lực lượng chính trị - xã hội của cách
mạng đã trưởng thành sẽ dẫn đến sự xuất hiện tình thế cách mạng. Đó là nguyên
nhân khiến cho CMXHCN có thể nổ ra và thắng lợi không cùng một lúc ở các
nước khác nhau, thậm chí ở trong một nước riêng biệt. Với tính cách là một quá
trình thế giới, CMXHCN mang tính chất phức tạp và lâu dài, trong đó quyện chặt
với nhau là những phong trào cách mạng đa dạng về nội dung và hình thức. Một
số phong trào ấy tự nó không phải là phong trào CMXHCN nhưng chúng góp
phần phá huỷ nền tảng của chủ nghĩa đế quốc thế giới nên chúng hoà vào một
cách khách quan với quỹ đạo chung của quá trình cách mạng thế giới. Ở các nước

chậm phát triển, các nước thuộc địa và nửa thuộc địa, nhiệm vụ chính trị trước
mắt là phải lật đổ ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc và phong kiến, thực hiện
các nhiệm vụ của cách mạng dân chủ tư sản. Trong thời đại mới sau Cách mạng
tháng Mười Nga 1917, ở một số nước, giai cấp công nhân đã trưởng thành về
chính trị có thể gánh lấy trách nhiệm lịch sử lãnh đạo quần chúng thực hiện nhiệm
vụ của cách mạng dân chủ tư sản, thành lập nhà nước cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân, mở đường chuyển lên CMXHCN, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Cách
mạng Việt Nam, cách mạng Cuba... thuộc loại hình đó.
CMXHCN là một cuộc cách mạng sâu sắc và triệt để nhất trong lịch sử, diễn ra
lâu dài, quanh co và phức tạp, thậm chí có lúc tạm thời thất bại. Điều cơ bản là
sau khi giành được chính quyền, đảng tiên phong của giai cấp công nhân phải


kiên trì con đường xã hội chủ nghĩa, nắm vững bản chất cách mạng và khoa học
của chủ nghĩa Mac - Lênin, không ngừng bổ sung và phát triển cho phù hợp với
hoàn cảnh lịch sử cụ thể của nước mình và tình hình biến đổi của thời đại, kiên
quyết khắc phục giáo điều trì trệ, chủ quan duy ý chí, đấu tranh chống chủ nghĩa
cơ hội hữu khuynh dưới mọi màu sắc, giữ vững quyền lãnh đạo của giai cấp công
nhân và luôn luôn gắn bó với nhân dân, với dân tộc để thực hiện một cách triệt để
và sáng tạo cải biến cách mạng toàn diện nhằm xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa.
Ở Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, toàn dân đã đoàn kết trong
một mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi, tiến hành thắng lợi cuộc cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân, mở đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đó là một quá trình
cải biến lâu dài, sâu sắc, toàn diện, triệt để nhằm xây dựng từ đầu một chế độ xã
hội mới cả về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, và kiến trúc thượng tầng. Chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam là một chế độ xã hội do nhân dân lao động làm chủ, có
một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công
hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu, có nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân
tộc, con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực,
hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do hạnh phúc, có điều kiện phát triển

toàn diện cá nhân, các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn
nhau cùng tiến bộ, có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước
trên thế giới (Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã
hội).
BÀN VỀ CÁCH MẠNG VIỆT NAM
bản luận cương về cách mạng Việt Nam do tổng bí thư Trường Chinh báo cáo tại
Đại hội II (2.1951) của Đảng Cộng sản Đông Dương – Luận cương trình bày đường
lối cách mạng giải phóng dân tộc, phát triển dân chủ nhân dân, tiến tới chủ nghĩa xã
hội. Luận cương xác định, xã hội Việt Nam lúc bấy giờ là một phần thuộc địa và nửa
phong kiến, chứa chất nhiều mâu thuẫn, trong đó mâu thuẫn giữa đế quốc xâm lược và
dân tộc Việt Nam là chính. Đối tượng của cách mạng Việt Nam là chủ nghĩa đế quốc


và thế lực phong kiến. Kẻ thù chính của cách mạng Việt Nam là chủ nghĩa đế quốc
xâm lược, cụ thể trước mắt là đế quốc Pháp, còn đế quốc Mĩ là kẻ thù nguy hiểm.
Nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam là đánh đuổi bọn đế quốc xâm lược, trừ diệt bọn
phản quốc, xoá bỏ những di tích phong kiến và nửa phong kiến, kiến thiết một nước
Việt Nam độc lập, thống nhất, dân chủ, tự do, phú cường, phát triển chế độ dân chủ,
nhân dân Việt Nam theo con đường dân chủ nhân dân tiến tới chủ nghĩa xã hội. Nhiệm
vụ dân tộc và dân chủ khăng khít với nhau. Song trọng tâm lúc bấy giờ là phải tập
trung lực lượng để hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Lực lượng của cách mạng
Việt Nam bao gồm công nhân, nông dân, tiểu tư sản thành thị, tiểu tư sản trí thức, tư
sản dân tộc, ngoài ra còn có những thân sĩ – địa chủ yêu nước và tiến bộ. Cách mạng
Việt Nam là một cuộc cách mạng dân chủ nhân dân tiến triển thành cách mạng xã hội
chủ nghĩa. Muốn tiến tới chủ nghĩa xã hội, nước Việt Nam phải trải qua ba giai đoạn:
a) Giai đoạn tiêu diệt đế quốc xâm lược, giải phóng dân tộc, củng cố Nhà nước dân
chủ nhân dân; b) Giai đoạn xóa bỏ những di tích phong kiến và nửa phong kiến, triệt
để thực hiện khẩu hiệu "người cày có ruộng", hoàn thành chế độ dân chủ nhân dân; c)
Giai đoạn làm xong nhiệm vụ dân chủ nhân dân, gây đầy đủ điều kiện để tiến lên chủ
nghĩa xã hội. Ba giai đoạn đó kế tục nhau một cách mật thiết. Luận cương cũng đã

trình bày những chính sách lớn của Đảng về vấn đề xây dựng Đảng Lao động Việt
Nam. "BVCMVN" là một văn kiện lí luận về đường lối cách mạng Việt Nam, cách
mạng ở một nước vốn là thuộc địa, nông nghiệp lạc hậu, tiến hành giải phóng dân tộc,
phát triển dân chủ nhân dân, tiến triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa.
CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA THÁNG MƯỜI NGA 1917:
cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa thắng lợi đầu tiên trong lịch sử loài người, do giai
cấp công nhân Nga liên minh với nông dân nghèo tiến hành dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản đứng đầu là Lênin. Cuộc cách mạng đã lật đổ ách thống trị của giai cấp tư
sản và địa chủ, thiết lập Nhà nước Xã hội chủ nghĩa. Các mâu thuẫn xã hội và dân tộc
cùng những hậu quả nặng nề của Chiến tranh thế giới I đã đưa nước Nga đến tình thế


cách mạng trực tiếp. Sau Cách mạng tháng Hai 1917, ở Nga đã hình thành tình trạng
hai chính quyền cùng tồn tại: Chính phủ Lâm thời của giai cấp tư sản và các Xô Viết
của công nhân, nông dân và binh lính. Tháng 4.1917, ngay sau khi về nước, Lênin đã
đề ra "Luận cương tháng Tư" nhằm chuyển cách mạng dân chủ tư sản thành cách mạng
xã hội chủ nghĩa, đồng thời xoá bỏ tình trạng hai chính quyền bằng con đường hoà
bình với khẩu hiệu "Tất cả chính quyền về tay các Xô Viết". Đầu tháng 7.1917, Chính
phủ Lâm thời công khai đàn áp các phong trào đấu tranh quần chúng, khủng bố các Xô
Viết. Dựa theo những ý kiến chỉ đạo của Lênin, Đại hội VI của Đảng nhận định thời kì
hoà bình đã chấm dứt và quyết định tiến hành khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền.
Ngày 24.10 (theo lịch Nga cũ, tức là ngày 6.11), khởi nghĩa vũ trang nổ ra ở thủ đô
Pêtơrôgrat (Petrograd) nay là Xanh Pêtecbua (Sankt - Peterburg). Đêm 25 rạng 26.10,
quân khởi nghĩa tiến đánh Cung điện Mùa Đông và bắt giữ Chính phủ Lâm thời (xt.
Khởi nghĩa Pêtơrôgrat 1917). Cùng ngày, Đại hội II các Xô Viết toàn Nga khai mạc đã
tuyên bố chính quyền về tay các Xô Viết, thông qua "Sắc lệnh hoà bình" và "Sắc lệnh
ruộng đất", bầu Chính phủ Xô Viết do Lênin đứng đầu. Từ 10.1917 đến 3.1918, chính
quyền Xô Viết được thành lập trong cả nước và sau đó thành lập Liên bang Cộng hoà
Xã hội chủ nghĩa Xô Viết (Liên Xô).
CMXHCNTMN 1917 có một ý nghĩa lịch sử to lớn – đã chọc thủng trận tuyến của

chủ nghĩa tư bản trên thế giới và mở ra một thời đại mới cho cuộc đấu tranh giải phóng
của các giai cấp bị bóc lột và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới.
MỤC TIÊU & ĐỘNG LỰC CỦA CÁCH MẠNG XHCN
XÂY DỰNG VÀ PHÁT HUY QUYỀN LÀM CHỦ CỦA NHÂN DÂN
LAO ĐỘNG VỪA LÀ MỤC TIÊU VỪA LÀ ĐỘNG LỰC CỦA CÁCH
MẠNG XHCN
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng họp tại Hà Nội từ ngày 15
đến 18-12-1986. Dự Đại hội có 1129 đại biểu thay mặt cho gần 1,9 triệu
đảng viên trong toàn Đảng. Đến dự Đại hội có 32 đoàn đại biểu quốc tế.
- Đồng chí Nguyễn Văn Linh - Uỷ viên Bộ Chính trị đọc diễn văn khai mạc Đại


hội.
- Đồng chí Trường Chinh, Tổng Bí thư đọc Báo cáo Chính trị của Ban Chấp
hành

Trung

ương

Đảng.

- Đồng chí Võ Văn Kiệt - Uỷ viên Bộ Chính trị đọc Báo cáo về phương hướng,
mục tiêu chủ yếu phát triển kinh tế - xã hội trong 5 năm (1986-1990).
Đại hội khẳng định quyết tâm đổi mới công tác lãnh đạo của Đảng theo tinh thần
cách mạng và khoa học. Đại hội nhận định: Năm năm qua là một đoạn đường
đầy thử thách đối với Đảng và nhân dân ta. Cách mạng nước ta diễn ra trong bối
cảnh quốc tế và trong nước có những thuận lợi cơ bản, nhưng cũng có nhiều khó
khăn phức tạp. Thực hiện những nhiệm vụ, mục tiêu do Đại hội thứ V đề ra,
nhân dân ta đã anh dũng phấn đấu đạt được những thành tựu quan trọng trong

công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, giành những thắng lợi to lớn trong cuộc
chiến đấu bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế. Đại hội cũng nhận rõ: Tình
hình kinh tế - xã hội đang có những khó khăn gay gắt; sản xuất tăng chậm; hiệu
quả sản xuất và đầu tư thấp; phân phối lưu thông có nhiều rối ren; những mất
cân đối lớn trong nền kinh tế chậm được thu hẹp; quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa chậm được củng cố; đời sống nhân dân lao động còn nhiều khó khăn…
Nhìn chung, chúng ta chưa thực hiện được mục tiêu tổng quát do Đại hội lần thứ
V đề ra là về cơ bản ổn định tình hình kinh tế - xã hội, ổn định đời sống nhân
dân.
Về nguyên nhân dẫn đến tình hình trên, Đại hội nhấn mạnh trong những năm
qua việc nhìn nhận, đánh giá tình hình cụ thể về các mặt kinh tế, xã hội của đất
nước đã có nhiều thiếu sót. Do vậy đã dẫn đến nhiều sai lầm “trong việc xác
định mục tiêu và bước đi về xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, cải tạo xã hội
chủ nghĩa và quản lý kinh tế”. Đại hội thẳng thắn cho rằng: “Những sai lầm nói
trên là những sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương, chính sách lớn, sai
lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện”, đặc biệt là bệnh chủ quan duy ý
chí,

lạc

hậu

về

nhận

thức




luận.


Từ thực tiễn, Đại hội nêu lên những bài học quan trọng. Một là, trong toàn bộ
hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng
và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động. Hai là, Đảng phải luôn luôn
xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Năng lực
nhận thức và hành động theo quy luật khách quan là điều kiện bảo đảm sự lãnh
đạo đúng đắn của Đảng. Ba là, phải biết kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức
mạnh của thời đại trong điều kiện mới. Bốn là, phải xây dựng Đảng ngang tầm
nhiệm vụ chính trị của một Đảng cầm quyền lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc
cách mạng xã hội chủ

nghĩa.

Trên cơ sở phân tích, đánh giá tình hình đất nước, tự phê bình về những sai lầm
khuyết điểm, đổi mới tư lý luận trải qua nhiều tìm tòi, khảo nghiệm từ thực tiễn,
Đại

hội

đề

ra

đường

lối

đổi


mới.

- Trước hết là đổi mới cơ cấu kinh tế (cơ cấu công – nông nghiệp; cơ cấu nội bộ
ngành nông nghiệp; ngành công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp; công
nghiệp nặng và kết cấu hạ tầng; cơ

cấu

kinh tế

huyện).

- Thực hiện ba chương trình kinh tế bao gồm chương trình lương thực, thực
phẩm; chương trình hàng tiêu dùng; chương trình hàng xuất khẩu.
- Xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, sử dụng và cải tạo
đúng đắn các thành

phần kinh tế.

Đại hội VI đã đưa ra quan điểm mới về cải tạo xã hội chủ nghĩa dựa trên 3
nguyên tắc: Nhất thiết phải theo quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất
với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất để xác định bước đi và hình thức
thích hợp. Phải xuất phát từ thực tế của nước ta và là sự vận dụng quan điểm của
Lênin coi nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ
quá độ. Trong công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa phải xây dựng quan hệ sản
xuất mới trên cả 3 mặt xây dựng chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, chế độ
quản lý và chế

độ


phân phối xã

hội

chủ

nghĩa.

Đại hội đã đề ra phương hướng nhiệm vụ xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất


xã hội chủ nghĩa, sử dụng và cải tạo các thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa;
thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tự nhiên,
tự cấp, tự túc. Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, chính sách xã hội, kế hoạch hoá
dân số và giải quyết việc làm cho người lao động. Chăm lo đáp ứng các nhu cầu
giáo dục, văn hoá, bảo vệ và tăng cường sức khoẻ của nhân dân. Trên lĩnh vực
đối ngoại nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước ta là ra sức kết hợp sức mạnh dân tộc
với sức mạnh thời đại, phấn đấu giữ vững hoà bình ở Đông Dương, góp phần
tích cực giữ vững hoà bình ở Đông Nam Á và trên thế giới, tăng cường quan hệ
hữu nghị và hợp tác toàn diện với Liên Xô và các nước trong cộng đồng xã hội
chủ nghĩa, tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh
chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa


hội.

Xây dựng và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động vừa là mục
tiêu, vừa là động lực của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Cơ chế Đảng

lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý đã được Đại hội lần thứ VI xác
định là “cơ chế chung trong quản lý toàn bộ xã hội”. Phương thức vận động
quần chúng phải được đổi mới theo khẩu hiệu: Dân biết, dân bàn, dân làm, dân
kiểm tra. Đó là nền nếp hàng ngày của xã hội mới, thể hiện chế độ nhân dân lao
động

tự

quản



nhà

nước

của

mình.

Báo cáo Chính trị chỉ rõ 6 nhiệm vụ chủ yếu của bộ máy Nhà nước và nhiệm vụ
công tác xây dựng Đảng.
- Thể chế hoá đường lối, chủ trương của Đảng thành pháp luật, chính sách cụ
thể.
- Xây dựng chiến lược kinh tế- xã hội và cụ thể hoá chiến lược đó thành những
kế hoạch phát triểnkinh tế-xã hội.
- Quản lý hành chính – xã hội và hành chính kinh tế, điều hành các hoạt động
kinh tế, xã hội trong toàn xã hội theo kế hoạch, giữ vững pháp luật, kỷ cương



nhà nước và trật tự xã hội, giữ vững

quốc phòng,

an

ninh.

- Kiểm tra việc thực hiện kế hoạch của Nhà nước, phát hiện những mất cân đối
và đề ra những biện

pháp để

khắc phục.

- Thực hiện quy chế làm việc

khoa học có hiệu suất cao.

- Xây dựng bộ máy gọn nhẹ, có chất lượng cao, với đội ngũ cán bộ có phẩm chất
chính trị, có năng lực quản lý Nhà nước, quản lý kinh tế, quản lý xã hội.
Nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng. Đại hội VI của Đảng nhấn mạnh:
Đảng phải đổi mới về nhiều mặt: đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế; đổi
mới tổ chức; đổi mới đội ngũ cán bộ; đổi mới phong cách lãnh đạo và công tác.
Nâng cao chất lượng đảng viên và sức mạnh chiến đấu của tổ chức cơ sở, tăng
cường đoàn kết nhất trí trong Đảng là nhiệm vụ quan trọng, vừa cơ bản, vừa cấp
bách

của


công

tác

xây

dựng

Đảng.

Để lãnh đạo sự nghiệp đổi mới Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khoá VI gồm 124 uỷ viên chính thức và 49 uỷ viên dự khuyết.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp Hội nghị lần thứ nhất bầu Bộ Chính
trị, Ban Bí thư. Đồng chí Nguyễn Văn Linh được bầu làm Tổng Bí thư Ban
Chấp hành Trung ương Đảng. Các đồng chí Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Lê
Đức Thọ được giao trách nhiệm là Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
XEM VĂN HOÁ VỪA LÀ MỤC TIÊU VỪA LÀ ĐỘNG LỰC CỦA CÁCH
MẠNG XHCN
Về phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội đã được Đảng ta đề ra từ Chính
cương – Sách lược vắn tắt, Luận cương chính trị 1930. Trải qua các kỳ đại hội
Đảng, quan niệm về phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội ngày càng
được
làm

hơn.
1- Quan niệm về chủ nghĩa xã hội và phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở nước ta trong thời kỳ trước đổi mới
Trong suốt hai cuộc kháng chiến, chúng ta luôn quan niệm một xã hội không còn
người bóc lột người, mọi người đều có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, người với
người là bạn... như là một xã hội có thể đạt được trong một thời gian ngắn sau

khi kết thúc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Mặc dù tư tưởng về tính tất
yếu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã có ngay từ trong Chánh cương sách lược vắn tắt và Luận cương năm 1930, nhưng khi đó và trong toàn bộ quá
trình tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, chúng ta vẫn chưa hình


dung được tính phức tạp, lâu dài của bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước
ta.
Sau khi giành được hoà bình, độc lập, thống nhất đất nước, vấn đề bức bách
trong sự lãnh đạo của Đảng là tìm tòi phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội
thích hợp với nước ta; xác định đúng những trọng điểm cần tập trung sức giải
quyết để khắc phục hậu quả 30 năm chiến tranh, từng bước ổn định kinh tế và
đời sống của nhân dân; mở rộng quan hệ đối ngoại nhằm tạo môi trường quốc tế
thuận
lợi
cho
quá
trình
phát
triển
của
đất
nước.
Trong khi giải quyết toàn diện những yêu cầu đó, Đảng ta quán triệt sâu sắc tư
tưởng của V.I.Lênin cho rằng, xét cho cùng thì thắng lợi của chủ nghĩa xã hội
đối với chủ nghĩa tư bản được quyết định bởi chỗ giai cấp vô sản đưa ra và thực
hiện được một kiểu tổ chức lao động có năng suất cao hơn chủ nghĩa tư bản...
Do vậy, Đảng ta đã dành chú ý đặc biệt cho việc hình thành quan niệm về con
đường phát triển kinh tế của quá trình xây dựng chủ nghĩa

hội.

Chúng ta tiến lên chủ nghĩa xã hội trong điều kiện nền kinh tế còn phổ biến là
sản xuất nhỏ, với những hậu quả chiến tranh hết sức nặng nề. Để đưa đất nước
thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu trong một chế độ mà nhân dân làm chủ, cần có
nền kinh tế phát triển cao nhờ lực lượng sản xuất hiện đại, với quan hệ sản xuất
tiên tiến... Muốn vậy, phải đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, xây
dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đưa nền kinh tế nước ta từ
sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa bằng con đường ưu tiên phát triển
công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công
nghiệp nhẹ, kết hợp xây dụng công nghiệp và nông nghiệp cả nước thành một cơ
cấu kinh tế công-nông nghiệp; vừa xây dựng kinh tế trung ương vừa phát triển
kinh tế địa phương, kết hợp kinh tế trung ương với kinh tế địa phương trong một
cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất; kết hợp phát triển lực lượng sản xuất với
xác lập và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới; kết hợp kinh tế với quốc phòng;
tăng cường quan hệ phân công, hợp tác, tương trợ với các nước xã hội chủ nghĩa
anh em trên cơ sở chủ nghĩa quốc tế xã hội chủ nghĩa, đồng thời phát triển quan
hệ kinh tế với các nước khác trên cơ sở giữ vững độc lập, chủ quyền và các bên
cùng có lợi; làm cho nước Việt Nam trở thành một nước xã hội chủ nghĩa có kinh
tế công-nông nghiệp hiện đại văn hoá và khoa học, kỹ thuật tiên tiến, quốc phòng
vững
mạnh,

đời
sống
văn
minh
,hạnh
phúc.
Thực hiện đường lối kinh tế đó, chúng ta đã đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa
đối với công thương nghiệp tư bản tư doanh, đối với tiểu công nghiệp và thủ
công nghiệp, đối với thương nghiệp nhỏ ở miền Nam.

Song, kết quả của cải tạo xã hội chủ nghĩa lại làm cho nền kinh tế đất nước rơi
vào
tình
trạng
khủng
hoảng.
Có tình trạng trên đây là do chúng ta đã chủ quan, nóng vội, xác định sai lầm
bước đi; không biết tận đụng và phát triển lực lượng sản xuất đã có; có những
biểu hiện nóng vội, giản đơn trong công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa. Hậu quả
là những nhân tố khủng hoảng kinh tế - xã hội đã xuất hiện.


Trong bối cảnh đó, Hội nghị Trung ương lần thứ 6 khoá IV đã tập trung tìm mọi
cách làm cho sản xuất ''bung ra''... Vấn đề tận dụng sức mạnh của các thành
phần kinh tế đã được chú ý tới; xuất phát từ hiệu quả kinh tế mà vận dụng linh
hoạt các hình thức tổ chức sản xuất thích hợp; chính sách đối với thành phần
kinh tế cá thể từng bước được mềm hoá cho đúng thực tế hơn...
Những tìm tòi được thể hiện ở Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 (khoá IV) và
các nghị quyết tiếp theo đã đặt những viên gạch nền móng đầu tiên cho quá trình
đổi mới. Để góp phần khắc phục tư tưởng nôn nóng trong quá trình xây dựng
chủ nghĩa xã hội, Đại hội V đã đưa ra tư tưởng về sự phân chia thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội thành nhiều chặng: ''Chặng đường trước mắt của thời kỳ
quá độ ở nước ta bao gồm thời kỳ 5 năm 1981 -1985 kéo dài đến năm 1990''.
Trong giai đoạn 1981-1985, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu; kết hợp nông
nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng và công nghiệp nặng trong một cơ cấu công
nghiệp hợp lý. Xem đó là "nội dung chính của công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa
trong
chặng
đường
trước

mắt”.
Song, những bước tiến đạt được trong nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đại hội V đạt được chưa có đủ thời gian
cần thiết để biến thành những thay đổi tích cực trong thực tiễn kinh tế - xã hội.
Phân tích tình hình thực tế khi đó, Hội nghị Trung ương ba khoá V (12-1982) chỉ
ra rằng, tình hình kinh tế - xã hội có nhiều khó khăn gay gắt, nền kinh tế có nhiều
mặt mất cân đối nghiêm trọng; lưu thông phân phối có nhiều diễn biến xấu; thị
trường rối loạn, công tác quản lý lỏng lẻo. Tiếp tục đổi mới tư duy về chủ nghĩa
xã hội để vượt khỏi tình hình đó ngày càng trở thành đòi hỏi cấp bách đối với
Đảng
ta.
2. Đại hội VI - bước ngoặt trong đổi mới tư duy của Đảng ta về phương
hướng
tiến
lên
chủ
nghĩa

hội
Nhìn lại chặng đường đã qua, Đại hội VI cho rằng, bên cạnh những thành công
là cơ bản, chúng ta cũng phạm nhiều sai lầm trong việc xác định mục tiêu và
bước đi về xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lý
kinh tế ''Những sai lầm nói trên là những sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ
trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện''.
''Trong lĩnh vực tư tưởng, đã bộc lộ sự lạc hậu về nhận thức lý luận và vận dụng
các quy luật đang hoạt động trong thời kỳ quá độ; đã mắc bệnh duy ý chí, giản
đơn hóa, muốn thực hiện nhanh chóng nhiều mục tiêu của chủ nghĩa xã hội trong
điều kiện nước ta mới ở chặng đường đầu tiên.
Từ thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội những năm trước đó, Đại hội VI rút ra
những bài học quý giá, có tầm chỉ đạo trong việc xác định phương hướng đi lên

chủ
nghĩa

hội

nước
ta:
Một là, trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng ''lấy
dân làm gốc'', xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động.
Hai là, Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo
quy luật khách quan. Năng lực nhận thức và hành động theo quy luật khách quan


là điều kiện bảo đảm sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng.
Ba là, phải biết kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại trong
điều
kiện
mới.
Bốn là, phải xây dựng Đảng ngang tầm với nhiệm vụ chính trị của một Đảng
cầm quyền lãnh đạo nhân dân tiến hành
cuộc cách mạng xã
hội chủ
nghĩa.
Từ đó, Đảng ta nhấn mạnh rằng, để xác định đúng đắn phương hướng đi lên chủ
nghĩa xã hội, phải vận dụng đúng quy luật khách quan. Tiêu chuẩn đánh giá sự
vận dụng đúng đắn các quy luật là đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân
từng bước được ổn định và nâng cao, con người mới xã hội chủ nghĩa ngày càng
hình thành rõ rệt, xã hội ngày càng lành mạnh, chế độ xã hội chủ nghĩa được
củng
cố.

Tư tưởng đó đóng vai trò chỉ đạo trong việc xác định phương hướng xây dựng
chủ nghĩa xã hội trên những mặt cơ bản của nó - từ kinh tế đến chính trị, an
ninh,
quốc
phòng,
đối
ngoại...
Trên lĩnh vực kinh tế, phải dứt khoát sắp xếp lại nền kinh tế quốc dân theo cơ
cấu hợp lý, trong đó, các ngành, các vùng, các thành phần kinh tế, các loại hình
sản xuất có quy mô và trình độ kỹ thuật khác nhau phải được bố trí cân đối, liên
kết với nhau, phù hợp với điều kiện thực tế, bảo đảm cho nền kinh tế phát triển
ổn
định.
Trong giai đoạn cuối những năm 80, phải tập trung sức phát triển nông nghiệp,
coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, đưa nông nghiệp một bước tiến lên xây
đựng
lớn

hội
chủ
nghĩa.
Để kinh tế xã hội chủ nghĩa từng bước ra đời và phát triển, phải xem cải tạo xã
hội chủ nghĩa là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục trong suốt thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội với hình thức và bước đi thích hợp, làm cho quan hệ sản xuất
phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất.
Trên lĩnh vực xã hội: Nhấn mạnh vấn đề thực hiện công bằng xã hội, lối sống có
văn hoá, bảo đảm an toàn xã hội, khôi phục trật tự kỷ cương. Tôn trọng lợi ích
chính đáng của những hoạt động sản xuất, kinh doanh địch vụ hợp
pháp.
Trên lĩnh vực thể chế nhà nước: Xem Nhà nước ta là Nhà nước chuyên chính vô

sản - một công cụ sắc bén nhất để xây dựng chế độ làm chủ tập thể của nhân dân
lao động. Nó là cơ quan quyền lực chính trị do giai cấp công nhân và nhân dân
lao động tự tổ chức lại dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Trên lĩnh vực đối ngoại: Ra sức kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của
thời đại...; tăng cường đoàn kết và hợp tác toàn điện với Liên Xô được xem là
hòn đá tảng trong chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta.
Về động lực của sự phát triển xã hội: Xây dựng và phát huy quyền làm chủ tập
thể của nhân dân lao động được xem vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Cơ chế Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, nhà
nước quản lý mà Đại hội VI đưa ra được coi là ''cơ chế chung trong quản lý toàn
bộ xã hội'' và ''dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra'' là nề nếp hàng ngày


×