CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN
Chủ nghĩa cộng sản là một khái niệm rộng cần phải được hiểu như một tổng hợp các lý
luận (chính trị, kinh tế, xã hội), tư tưởng, tâm lý và thực tế thể hiện, các hình thức tồn
tại... của một phong trào xã hội rộng lớn - bắt đầu từ thế kỷ 19, nở rộ và bắt đầu suy tàn
trong thế kỷ 20 - nhằm xóa bỏ hình thái kinh tế-xã hội của chủ nghĩa tư bản để xây dựng
một xã hội không giai cấp, không có quyền tư hữu đối với phương tiện sản xuất, mà trong
đó mọi người là bình đẳng, không có hiện tượng "người bóc lột người" và tiến tới sự xóa
bỏ nhà nước trong một tương lai "thế giới đại đồng" khi người với người là bạn, thương
yêu lẫn nhau và tại đó năng suất lao động tăng lên rất cao, của cải làm ra đồi dào tới mức
phân phối của cải theo nguyên tắc: "Làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu". Theo như
lý luận của các nhà kinh điển của chủ nghĩa này thì chủ nghĩa xã hội là giai đoạn đầu tiên
của chủ nghĩa cộng sản, là giai đoạn chuyển tiếp đi lên chủ nghĩa cộng sản mà ở đó vẫn
còn nhà nước để lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa cộng sản. Nguyên tắc phân phối của cải
trong chủ nghĩa xã hội là "Làm theo năng lực, hưởng theo lao động".
Ý tưởng ban đầu của chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa xã hội là chủ nghĩa nhân đạo, là
phương tiện để giải phóng con người và xã hội. Vì lý tưởng nhân đạo của nó, chủ nghĩa
này đã thu hút được sự chú ý của các tầng lớp quần chúng của thế giới trong thế kỷ 20,
tạo nên một phong trào xã hội to lớn mà cuộc đấu tranh của nó là một nhân tố chủ đạo
trong lịch sử loài người trong thế kỷ 20.
Mặt khác, lý thuyết lý tưởng hoá về chủ nghĩa sộng sản và chủ nghĩa xã hội là không
hoàn chỉnh, rất sơ sài so với tính chất đa dạng của cuộc sống và thậm chí sai lầm nghiêm
trọng nên khi ứng dụng vào cuộc sống thực tế, đã gặp những khó khăn liên tiếp khó vượt
qua. Để vượt qua các khó khăn đó những tín đồ của chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa xã
hội đã đặt chủ nghĩa của mình là trên hết, bắt xã hội phải chịu các hy sinh ngày càng lớn
hơn để duy trì lý tưởng. Đến lúc đó thì lý tưởng cộng sản đã biến chất từ phương tiện để
trở thành mục đích tự thân và không còn tính chất nhân đạo nữa. Sự biến dạng đã phát
sinh những bất công và bất bình đẳng còn ghê gớm hơn rất nhiều so với những cái xấu
của chủ nghĩa tư bản mà nó muốn tránh.
Cuộc đấu tranh giữa hai hình thái "tư bản" và "chủ nghĩa xã hội" là cuộc đấu tranh khốc
liệt của nhân loại trong thế kỷ 20. Ban đầu vì sự mới mẻ của ý tưởng và vì những yếu tố
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học kỹ thuật đặc trưng của thời kỳ đó mà chủ
nghĩa xã hội đã thắng thế trên phạm vi lớn trên toàn cầu. Cuộc đấu tranh của hai phe là
nguyên nhân chính của các sự kiện trên thế giới. Trong quá trình phát triển của mình, chủ
nghĩa tư bản đã thích nghi được với những thách thức của thời đại và đã vượt qua được
đối thủ và giành được quyền tồn tại. Chủ nghĩa xã hội (và chủ nghĩa cộng sản), do những
điểm yếu chí mạng không thể khắc phục được của mình, đã mất hết sức quyến rũ và bị xã
hội từ bỏ. Bắt đầu thập niên 1990 các nước xã hội chủ nghĩa đã loại bỏ chủ nghĩa cộng
sản để theo một vài đường lối phát triển của chủ nghĩa tư bản.
Ý nghĩa lịch sử của Chủ nghĩa Xã hội và Chủ nghĩa
Cộng sản
•
Chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa xã hội đã có một vai trò rất to lớn trong tiến
trình phát triển của tri thức nhân loại: vai trò của một cuộc thí nghiệm xã hội lớn
lao. Sau cuộc thí nghiệm này nhân loại đã thu được các kinh nghiệm và tri thức
•
•
cực kỳ to lớn; đã từ bỏ được sự "lãng mạn cách mạng" và các kinh nghiệm xử lý
với các thách thức lớn của xã hội. Các giai tầng xã hội đã không còn dễ bị kích
động bởi các ý tưởng có tính cực đoan, xã hội hướng đến cách giải quyết các mâu
thuẫn bằng con đường phi bạo lực. Tuy phe Xã hội chủ nghĩa thất bại, tan rã
nhưng những bài học xương máu của sự thất bại toàn diện này đem lại cho nhân
loại một cái nhìn sâu rộng hơn về chủ nghĩa cộng sản.
Lý tưởng của chủ nghĩa cộng sản là đối trọng để chủ nghĩa tư bản tự điều chỉnh,
học hỏi để xây dựng một xã hội công bằng hơn, dân chủ hơn, ổn định hơn và trở
nên tốt đẹp hơn để được xã hội loài người chấp nhận. Từ chủ nghĩa tư bản với sự
tự do bóc lột - "Người với người là chó sói" (Lenin) - và đầy rẫy bất công tạo ra
mầm mống của bạo động và cách mạng, thế giới cũ đã tìm các cách thích nghi và
triển khai một xã hội dân sự mà trong đó mọi thành phần xã hội đều có thể phát
triển hoặc có cơ hội phát triển ngang nhau, các mâu thuẫn xã hội không thể đã hết
nhưng đã có những cơ chế thỏa hiệp để giải quyết trên cơ sở hợp lý cho các giai
tầng xã hội. Đây là một đóng góp gián tiếp rất lớn của chủ nghĩa xã hội.
Trong lịch sử mấy chục năm tồn tại của mình các nhà nước tiêu biểu của chủ
nghĩa xã hội đã triển khai một số các biện pháp kinh tế chính trị xã hội mà ngày
nay đã được áp dụng một cách hợp lý sau khi loại bỏ đi những hạt nhân phi hợp
lý. Các ví dụ như vậy rất nhiều như: kế hoạch hóa kinh tế ở tầm vĩ mô, dồn nguồn
lực quốc gia cho những dự án lớn có tính quan trọng sống còn hoặc cung cấp các
dịch vụ công mà tư nhân không đảm đương nổi hoặc không muốn tham gia do
khó thu lợi nhuận, thiết lập hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, an sinh xã
hội, phổ cập giáo dục và đào tạo ở mức độ quốc gia, các kinh nghiệm về quốc hữu
hóa, vai trò của kinh tế quốc doanh trong nền kinh tế... đó là những đóng góp của
chủ nghĩa xã hội mà các nước tư bản đã học hỏi rút kinh nghiệm và điều chỉnh để
hoàn thiện hệ thống quản lý nhà nước.
Bàn về một số đặc trưng của chủ nghĩa xã hội
Những thành tựu bước đầu và những khó khăn mà chủ nghĩa xã hội đang phải khắc phục cho phép
chúng ta hiểu rõ hơn dự báo dưới đây của các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học về những
đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội, khi nó được hoàn thành.
Đặc trưng thứ nhất: Tạo ra những điều kiện cho sự phát triển toàn diện của con người.
Dù trong chủ nghĩa xã hội không tưởng hay trong chủ nghĩa xã hội khoa học, tiêu chuẩn về tính xã hội chủ
nghĩa của xã hội bao giờ cũng là thái độ đối với con người, trước hết đối với người lao động, với nhu cầu và
lợi ích của họ. Chủ nghĩa xã hội là chế độ xã hội có khả năng giải phóng người lao động khỏi áp bức và bóc
lột. Con người được đặt vào trung tâm của đời sống xã hội, được xem là chủ thể chân chính của mọi quá
trình xã hội. Chủ nghĩa xã hội phải là xã hội tạo ra được những điều kiện cho sự phát triển tự do của mỗi
người
là
cơ
sở
cho
sự
phát
triển
tự
do
của
tất
cả
mọi
người.
Từ yêu cầu phải có một xã hội như vậy, các nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng như Xanh Xi-mông, Phu-riê, Ô-oen... đã có tư tưởng về phát triển một cách có kế hoạch lực lượng sản xuất vì sự nghiệp giải phóng
con người. Cũng ngay từ thời kỳ đó, Xanh Xi-mông đã nói đến việc chuyển sự cai trị về chính trị đối với con
người thành việc quản lý mọi vật và lãnh đạo các quá trình sản xuất. Trong quan điểm đó, con người được
giải
phóng
không
còn
là
khách
thể
mà
trở
thành
chủ
thể
quản
lý.
Là những người sáng lập quan điểm duy vật về lịch sử, lần đầu tiên trong lịch sử loài người, Mác và Ăng
ghen đã đem lại lời giải đáp có cơ sở khoa học về những đặc trưng cơ bản của xã hội tương lai.
Đề cập tới đặc trưng tiêu biểu nhất của chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản, ngay từ năm 1844, Mác đã
viết: “Chủ nghĩa cộng sản coi như sự xóa bỏ một cách tích cực chế độ tư hữu sự tha hoá ấy của con người
- và do đó coi như sự chiếm hữu một cách thực sự bản chất con người bởi con người và vì con người, do
đó coi như việc con người hoàn toàn quay trở lại con người với tính cách là con người xã hội, nghĩa là có
tính
chất
người”.
Tư tưởng xem mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, của chủ nghĩa cộng sản là giải phóng con người được phát
triển đầy đủ hơn, hoàn thiện hơn trong các tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” và về sau, trong một
loạt tác phẩm khác. Trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, Mác và Ăng ghen viết: “Thay cho xã hội tư
sản cũ, với những giai cấp và đối kháng giai cấp của nó, xuất hiện một liên hợp, trong đó sự phát triển tự do
của một người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”.
Sau này, để nhấn mạnh hơn nữa tư tưởng đó, Ăngghen đã khẳng định mục tiêu mà những người cộng sản
cần đạt tới là: “cải tạo xã hội sao cho mỗi thành viên của xã hội có thể phát triển hoàn toàn tự do và vận
dụng tất cả mọi khả năng và sức lực của mình mà không xâm phạm đến điều kiện cơ bản của xã hội đó”.
Kế thừa và phát triển hơn nữa những dự đoán của Mác và Ăngghen về đặc trưng cơ bản nhất của xã hội
tương lai, ngay từ 1895, trong những tác phẩm lý luận đầu tay của mình. Lênin đã khẳng định rằng cuộc
đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động chống lại tất cả các giai cấp sống bám vào lao động
của người khác chỉ chấm dứt, khi toàn bộ những tư liệu sản xuất chủ yếu đã được trao lại cho toàn thể xã
hội để tổ chức nền sản xuất xã hội chủ nghĩa làm lợi cho bản thân người lao động.
Song, con đường đi tới giải phóng con người lại diễn ra một cách biện chứng, nó trải qua nhiều bước quá
độ khác nhau. Trên con đường biện chứng đó, ở một giai đoạn nhất định, trong những điều kiện nhất định,
một bộ phận giai cấp công nhân và nhân dân lao động lại cần biết chấp nhận những bước vòng như là một
điều kiện để rút ngắn khoảng cách tới đích, làm cho yêu cầu giải phóng con người được thực hiện thuận lợi
hơn. Khi đề ra chính sách kinh tế mới, Lênin đã nhiều lần nhấn mạnh tầm quan trọng của những bước vòng
đó.
Trọng tâm chú ý của chủ nghĩa xã hội, như các nhà kinh điển đã chỉ ra là con người. Đem lại tự do được thể
hiện mình, tự do sáng tạo cho con người - đó là mục tiêu cao nhất của chủ nghĩa xã hội. Trong quan hệ với
mục tiêu đó, mọi cái còn lại đều chỉ là điều kiện, phương tiện mà thôi.
Đặc trưng thứ hai: Bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân trong lĩnh vực chính trị là tiền đề để làm chủ trên
các
lĩnh
vực
khác.
Muốn hoàn thành cách mạng xã hội chủ nghĩa, giai cấp công nhân và nhân dân lao động trước nhất phải
giành lấy chính quyền. Nhờ bộ máy quyền lực đó, nhân dân lao động mới có được địa vị làm chủ xã hội về
mặt chính trị và cho phép họ khắc phục được mọi trở lực trên con đường tiến tới mục tiêu giải phóng triệt để
con người. Bởi vì, như Mác và Ăng ghen đã khẳng định trong “Hệ tư tưởng Đức”, mọi nhà nước đều là
công cụ quyền lực của giai cấp thống trị đương thời để bảo vệ quyền sở hữu tư liệu sản xuất và, do đó, bảo
vệ sự bóc lột về kinh tế, sự thống trị về chính trị - tư tưởng các giai cấp đó đối với nhân dân lao động. Do
vậy, giai cấp công nhân và nhân dân lao động muốn giải phóng mình khỏi tình trạng bị áp bức, bị bóc lột thì
không
có
con
đường
nào
khác
hơn
là
phải
giành
lấy
chính
quyền.
Phân tích sâu sắc hơn nữa điều kiện tồn tại và phát triển của giai cấp tư sản, trong “Tuyên ngôn của Đảng
Cộng sản”, các ông đã đi tới kết luận rằng, con đường đi tới chủ nghĩa xã hội, giải phóng con người không
thể không qua bước tất yếu: giành lấy chính quyền. Các ông xem đó là “giai đoạn thứ nhất trong cuộc cách
mạng
công
nhân”.
Chỉ sau khi giành được chính quyền, giai cấp vô sản mới có thể “trấn áp được các kẻ thù của mình - tức là
bọn tư bản - và mới tiến hành xây dựng lại nền kinh tế của xã hội, mà nếu thiếu cái đó thì mọi thắng lợi đều
sẽ nhất định kết thúc bằng thất bại và bằng cái chết của đông đảo công nhân như đã xảy ra sau Công xã
Pa-ri”.
Sự luận chứng đó là cơ sở để Mác và Ăngghen xác định đặc trưng chính trị của xã hội mới - xã hội xã hội
chủ nghĩa. Sự ra đời của xã hội đó được đánh dấu bằng quyền thống trị về chính trị của giai cấp công nhân
và nhân dân lao động. Chỉ sau đó mới có thể nghĩ tới việc cải tạo và phát triển kinh tế, phát triển văn hoá và
giải
phóng
nhân
dân,
giải
phóng
con
người
nói
chung.
Việc bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân trong lĩnh vực chính trị cũng đòi hỏi phải phát triển triệt để nền
dân
chủ
vô
sản.
Mác và Ăngghen là những người đầu tiên phát hiện ra mối liên hệ hữu cơ giữa cuộc đấu tranh cho chủ
nghĩa xã hội và đấu tranh cho nền dân chủ. Hai ông đã khẳng định rằng, vận mệnh của chủ nghĩa xã hội
phụ thuộc nhiều mặt vào cuộc đấu tranh cho dân chủ. Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, nơi mà các quan hệ
kinh tế giữa người với người được xây dựng trên chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa đối với những tư liệu sản
xuất cơ bản, nền dân chủ vô sản nhất định có đầy đủ khả năng và điều kiện bảo đảm quyền lực chính trị
thuộc về nhân dân. Chính theo nghĩa đó, Lênin hoàn toàn có lý, khi ông khẳng định tính ưu việt của dân chủ
vô
sản
so
với
dân
chủ
tư
sản
trước
đó.
Dân chủ vô sản tuy là nền dân chủ cao nhất, là nền dân chủ cho tất cả nhân dân, nhưng đó tuyệt nhiên
không phải là thứ dân chủ “thuần tuý”, siêu giai cấp. Lênin nhấn mạnh rằng, không ở đâu và không bao giờ
có một nền dân chủ như vậy. “Dân chủ vô sản” - tự bản thân khái niệm đó đã khẳng định tính giai cấp của
nền dân chủ vô sản. Nền dân chủ đó được hình thành dưới sự lãnh đạo của Đảng. Ở đây, Lênin đã làm
sáng tỏ sự thống nhất hữu cơ giữa việc tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng với sự phát triển những
chuẩn
mực
dân
chủ
xã
hội
chủ
nghĩa.
Thực tế các sự kiện xảy ra ở một số nước Đông Âu trong những năm 1989-1990, trong các cuộc “cách
mạng nhung lụa”, “cách mạng màu da cam”,... những năm gần đây cho ta thấy, nền dân chủ sẽ bị nguy cơ
như thế nào, sự nghiệp cách mạng của nhân dân sẽ ra sao, nếu không chú ý tới tính chất giai cấp - chính trị
của dân chủ. Những hậu quả tiêu cực đối với sự nghiệp giải phóng con người do chủ nghĩa đa nguyên
chính trị mang lại là bài học phản diện giúp chúng ta khẳng định đúng đắn quan điểm Mác-xít về dân chủ.
Đặc trưng thứ ba: Nền kinh tế phát triển cao trên nền tảng sở hữu xã hội đối với các tư liệu sản xuất cơ
bản.
Trong khi đánh giá rất cao công lao của Tô-mát Mo-rơ, xem ông là một trong những người sáng lập ra chủ
nghĩa xã hội không tưởng, Mác và Ăngghen cũng kịch liệt phê phán quan điểm ảo tưởng của Tô-mát Mo-rơ,
khi ông định thực hiện ngay một xã hội công bằng, bình đẳng, không có người bóc lột người trên cơ sở nền
tảng các “gia đình kinh tế” tiểu thủ công nghiệp. Từ sự phê phán đó, Mác và Ăngghen rút ra kết luận rằng,
con người tự giải phóng được mình tới mức độ nào - điều đó hoàn toàn do lực lượng sản xuất đương thời
quy định và cho phép. Hai ông đã chỉ ra: khi có lực lượng sản xuất mới con người phát triển sản xuất của
mình, và cùng với sự thay đổi của phương thức sản xuất, họ cũng thay đổi tất cả những quan hệ xã hội. Đó
là quy luật của tất cả quá trình phát triển lịch sử. Đến giai đoạn tư bản chủ nghĩa, khi lực lượng sản xuất
phát triển đến trình độ xã hội hoá cao, chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa đối với tư liệu sản xuất
trở thành xiềng xích kìm hãm sự phát triển của sức sản xuất - mà nhân tố cơ bản nhất của nó là giai cấp
công nhân, là người lao động nói chung, mâu thuẫn đó không thể được giải quyết bằng cách nào khác hơn
là xoá bỏ quan hệ sản xuất dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. Điều đó giải thích vì sao
Ăngghen cho rằng, cách mạng xã hội chủ nghĩa sẽ mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử loài người, kết
thúc thời kỳ tiền sử, mở đầu giai đoạn lịch sử chân chính của con người. Chỉ đến khi đó, một khi con người
làm chủ được những tư liệu sản xuất của chính mình, họ mới thực sự có khả năng làm chủ tự nhiên và xã
hội,
con
người
mới
thực
sự
trở
thành
một
thực
thể
tự
do.
Như vậy, Mác và Ăngghen coi trình độ xã hội hoá cao của lực lượng sản xuất và những kết quả kinh tế - xã
hội nẩy sinh từ trình độ phát triển đó của sức sản xuất đạt được trong chủ nghĩa tư bản là những tiền đề vật
chất có ý nghĩa quyết định để tiến tới việc giải phóng con người, tiến tới sự phát triển tự do và toàn diện của
con người. Nếu thiếu những tiền đề cần thiết ấy, thì như Ăngghen viết, chúng ta nhất định quay trở lại quan
điểm lỗi thời về sự phát triển lịch sử của một thứ chủ nghĩa khổ hạnh, của một thứ chủ nghĩa bình quân
thiếu
thốn,
xa
lạ
với
mục
đích
của
giai
cấp
công
nhân.
Tiếp tục những tư tưởng Mác-xít về tiền đề kinh tế cho sự giải phóng con người, Lênin đã tìm thấy ở xã hội
hoá tập trung của sản xuất và lao động như là đặc trưng kinh tế bảo đảm sự giải phóng đó.
Trong “Dự thảo cương lĩnh của Đảng Cộng sản”(b) Nga tháng 2 năm 1919, Lênin cho rằng, trong thời kỳ
quá độ, nhà nước phải tiếp tục hoàn thành triệt để việc tước đoạt giai cấp tư sản, biến các tư liệu sản xuất
thành sở hữu công cộng của tất cả những người lao động; nâng cao năng suất lao động; khắc phục tình
trạng phân tán và biệt lập của công nhân; kiên quyết thay thế việc buôn bán bằng chế độ phân phối sản
phẩm một cách có kế hoạch và có tổ chức trên quy mô toàn quốc; thực hiện những biện pháp triệt để nhằm
chuẩn
bị
cho
việc
thủ
tiêu
tiền
tệ…
Quan điểm trên của Lênin về chế độ sở hữu, về tính phi hàng hoá của nền kinh tế, về vai trò ngày càng
giảm đi của tiền tệ trong chủ nghĩa xã hội một phần là do như Lênin nói, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở nước Nga diễn ra trong hoàn cảnh chiến tranh. Do hoàn cảnh đó mà “cả trong lĩnh vực kinh tế, chúng
ta không còn cách
nào khác
ngoài
cách hành
động theo lối quân
sự”.
Sau khi tự phê phán một cách nghiêm khắc những sai lầm mắc phải trong quá trình cải tạo nền kinh tế trong
thời kỳ cộng sản thời chiến, Lênin đã kiên quyết chuyển sang chính sách kinh tế mới. Ông xem nước Nga
của chính sách kinh tế mới thực sự là nước Nga xã hội chủ nghĩa. Đây chính là bước thay đổi trong quan
niệm của Lênin về chủ nghĩa xã hội, về cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội phải là nền kinh tế hàng hoá
phát triển cao; trong khi bảo đảm vai trò chi phối của những cơ sở sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, nền kinh
tế ấy vẫn là nền kinh tế có nhiều hình thức kinh tế khác nhau. Nền kinh tế xã hội chủ nghĩa phải lấy sự quan
tâm tới lợi ích thiết thân của người lao động làm động lực chủ yếu…
Trong quá trình chỉ đạo hình thành một nền kinh tế như vậy, Lênin luôn làm sáng tỏ sự cần thiết phải phân
biệt xã hội hoá hình thức với xã hội hoá thực tế. Ông cho rằng, khi giai cấp vô sản đã có chính quyền,
người ta có thể dùng những áp lực nhà nước để thực hiện việc quốc hữu hoá, tập thể hoá các tư liệu sản
xuất ngay cả khi lực lượng sản xuất còn chưa được phát triển tới mức cần thiết. Khi đó, xã hội hoá không
thể tạo thành tiền đề kinh tế khách quan cho sự phát triển của sức sản xuất. Hơn nữa, ngay cả đối với khu
vực đã có lực lượng sản xuất ở trình độ xã hội hoá cao, việc thay đổi hình thức sở hữu nếu không kèm theo
sự thay đổi hình thức quản lý và phân phối, thì sự thay đổi đó cũng chưa tạo thành nhân tố kinh tế cần thiết
kích
thích
sự
phát
triển
của
sức
sản
xuất
và
giải
phóng
con
người.
Thực tiễn của chủ nghĩa xã hội cũng chứng minh rằng, trong khuôn khổ của sở hữu xã hội chủ nghĩa, phải
hình thành cho được một cơ chế mà trong đó, mọi người lao động đều cảm nhận được mình là chủ thể
thực sự của những tư liệu sản xuất. Điều đó không đơn giản. Nhưng toàn bộ thành công của chủ nghĩa xã
hội, mức độ giải phóng con người lại phụ thuộc một cách quyết định chính vào điều đó. Thực tiễn cũng
chứng minh rằng, có tính toán đầy đủ đến tiền đề vật chất cần thiết cho việc xã hội hoá tư liệu sản xuất, thì
việc xã hội hoá tư liệu sản xuất mới tránh khỏi đem lại hậu quả là sự trì trệ của nền kinh tế, tính thấp kém
trong
hiệu
quả
sản
xuất,
kinh
doanh.
Đặc trưng thứ tư: Bảo đảm công bằng xã hội, bình đẳng và giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc.
Cách mạng xã hội chủ nghĩa dẫn tới ra đời một phương thức sản xuất mới chấm dứt tất cả mọi đối kháng
xã hội cũng như những tàn tích do những đối kháng ấy gây ra. Song, sau khi giai cấp vô sản và nhân dân
lao động giành được chính quyền, việc cải tạo một cấu trúc xã hội về cơ bản mang tính đối kháng thành
một cấu trúc không còn đối kháng đòi hỏi một thời kỳ lịch sử tương đối dài, và phải trải qua nhiều giai đoạn.
Tuỳ thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và sự chín muồi của các tiền đề chính trị - xã hội
mà thủ tiêu từng bước giai cấp bóc lột; tăng một cách tương đối và tuyệt đối số lượng công nhân, từng
bước cải tạo những người sản xuất nhỏ trên cơ sở những nguyên tắc xã hội chủ nghĩa; phát triển tầng lớp
trí thức xã hội chủ nghĩa; từng bước khắc phục sự khác biệt cơ bản giữa công nhân và nông dân, giữa
thành
thị
và
nông
thôn,
giữa
các
dân
tộc
trong
cộng
đồng
dân
tộc...
Trong số các nhiệm vụ trên đây, Lênin cho nhiệm vụ cuối cùng là khó khăn, lâu dài nhất.
Lãnh đạo công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở một quốc gia nhiều dân tộc, Lênin đã dành cho vấn đề
hình thành một cộng đồng dân tộc mới- dân tộc xã hội chủ nghĩa, một sự chú ý đặc biệt. Theo ông, để thủ
tiêu những đối kháng dân tộc do chế độ cũ để lại, cùng với việc cải tạo cơ bản các quan hệ kinh tế và chính
trị đối kháng, Đảng và Nhà nước vô sản cũng phải hình thành một chính sách dân tộc được luận chứng một
cách khoa học. Ông đã hình thành luận điểm về hai khuynh hướng trong sự phát triển của dân tộc dưới chủ
nghã tư bản: sự thức tỉnh của đời sống các dân tộc và sự phát triển, tăng cường các quan hệ dân tộc, sự
xích lại gần nhau giữa các dân tộc. Trong chủ nghĩa xã hội, cũng theo Lênin, hai khuynh hướng đó có nội
dung mới: chúng có tính chất quốc tế và khuynh hướng tiến bộ phổ biến.
Cùng với những thay đổi trên, việc hình thành một xã hội công bằng, bình đẳng là nhân tố không thể thiếu
được
để
giải
phóng
triệt
để
con
người.
Đặc trưng thứ năm: Nền văn hóa xã hội chủ nghĩa - sự kết tinh các giá trị văn hoá dân tộc và tinh hoa thời
đại.
Việc phát hiện ra quan điểm duy vật về lịch sử và vận dụng quan điểm đó để xem xét đời sống văn hoá tinh
thần ở các thời đại lịch sử đã trực tiếp đưa Mác tới kết luận: chính sự thay đổi của phương thức sản xuất do
sự phát triển của lực lượng sản xuất sẽ quy định sự thay thế hình thức sản xuất tinh thần này bằng hình
thức sản xuất tinh thần khác, quyết định sự chuyển hóa từ một nền văn hoá này lên một nền văn hoá khác,
cao
hơn.
Nhưng, mối liên hệ giữa sự tiến bộ trong sản xuất vật chất và tiến bộ trong sản xuất tinh thần, đặc biệt trong
đời sống tinh thần của quần chúng, là một mối quan hệ biện chứng đầy mâu thuẫn. Trong xã hội có đối
kháng giai cấp, sự hoạt động tinh thần và việc hưởng các thành quả của nó bị giai cấp thống trị thao túng và
trở thành đặc quyền của một số người. Đại đa số quần chúng bị cột chặt vào sản xuất vật chất một cách
cưỡng bức. Tình trạng tha hóa lao động do sở hữu tư nhân gây ra đã dẫn tới sự tha hóa của người lao
động
ngay
trong
quá
trình
sáng
tạo
các
giá
trị
tinh
thần.
Vì vậy, chủ nghĩa xã hội phải giải phóng con người cả trong lĩnh vực văn hóa tinh thần: biến toàn bộ các giá
trị vật chất và tinh thần thành tài sản của nhân dân. Lênin viết: “chính quyền Xôviết làm cho những người
lao động và những người bị bóc lột có thể thực sự hưởng được tất cả những phúc lợi của nền văn hoá, văn
minh
và
dân
chủ”.
Kế thừa, vận dụng và phát triển sáng tạo di sản kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội
vào điều kiện cụ thể ở Việt Nam, khi trả lời câu hỏi: “Chủ nghĩa xã hội là gì?”, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho
rằng, nếu nói một cách vắn tắt, mộc mạc, thì chủ nghĩa xã hội trước hết nhằm làm cho nhân dân thoát khỏi
nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và có cuộc sống hạnh phúc. Nói cách
khác, mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là giải phóng nhân dân khỏi nghèo nàn, lạc hậu; là một xã hội không có
chế độ người bóc lột người, mọi người được hưởng quyền bình đẳng – nghĩa là ai cũng phải lao động. Ai
làm nhiều thì hưởng nhiều, làm ít thì hưởng ít, có sức lao động mà không làm thì không được ăn”.
Chủ nghĩa xã hội là chế độ do nhân dân lao động làm chủ. Trong xã hội đó, địa vị cao nhất là nhân dân. Cán
bộ, công chức nhà nước ở mọi cấp đều là công bộc của nhân dân. Do vậy, Nhà nước phải phát huy quyền
làm chủ của nhân dân, hoạt động của Nhà nước phải dựa trên nguyên tắc: “Việc gì có lợi cho dân phải hết
sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh”. Nhân dân là chủ, nên nhân dân có quyền bầu ra đại
biểu của mình, có quyền bãi miễn những đại biểu đó. Về vấn đề này, Hồ Chí Minh viết: nhân dân có quyền
bãi miễn đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân, nếu những đại biểu ấy không xứng đáng với sự
tín nhiệm của nhân dân. Nguyên tắc ấy đảm bảo quyền kiểm soát của nhân dân đối với chính quyền”. Trên
mức độ cao hơn, theo Hồ Chí Minh, nếu không làm tròn nhiệm vụ người đầy tớ trung thành và tận tuỵ của
nhân dân, thì từ Chủ tịch nước đến giao thông viên, dân cũng không cần đến nữa.
Dân là chủ, nên Người đòi hỏi việc gì cũng phải học hỏi và bàn bạc với dân chúng. Mặt khác, Người cũng
nhắc nhở cán bộ tuyệt đối không theo đuôi quần chúng, vì “dân chúng không nhất loạt như nhau, trong dân
chúng có nhiều tầng lớp khác nhau, trình độ khác nhau, ý kiến khác nhau. Có lớp tiên tiến, có lớp lừng
chừng, có lớp lạc hậu. Không phải dân chúng nói gì ta cứ nhắm mắt nghe theo”, mà nên chọn ý kiến đúng,
đưa
ra
cho
dân
chúng
bàn
bạc.
Chủ nghĩa xã hội, theo Hồ Chí Minh, là xã hội có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên sở hữu xã hội đối với
tư liệu sản xuất chủ yếu. Về vấn đề này, Hồ Chí Minh viết: “Chủ nghĩa xã hội là lấy nhà máy, xe lửa, ngân
hàng,
v.v.
làm
của
chung”.
Mục đích nền kinh tế đó là không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Điều đó giải
thích vì sao Hồ Chí Minh xem “mặt trận chính” của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội là “dốc lực lượng
của mọi người ra để sản xuất”. Người cũng cho đó là nhiệm vụ chính yếu nhất của quá trình xây dựng chủ
nghĩa
xã
hội”.
Chủ nghĩa xã hội, theo Hồ Chí Minh, còn là xã hội có văn hoá, khoa học - kỹ thuật phát triển cao; người với
người
là
bạn;
loại
trừ
mọi
tha
hoá,
bất
công,
cường
quyền...
Con người trong chủ nghĩa xã hội có cuộc sống vật chất và tinh thần phong phú, được tạo điều kiện để mọi
khả năng của con người đều được thể hiện và thực hiện một cách đầy đủ vì hạnh phúc của mình và của cả
xã hội, nhân cách con người với tất cả tính đa dạng của nó được tôn trọng. Hồ Chí Minh cho rằng: “...chỉ có
trong chế độ xã hội chủ nghĩa thì mỗi người mới có điều kiện để cải thiện đời sống riêng của mình, phát huy
tính
cách
riêng
và
sở
trường
riêng
của
mình”.
Chủ nghĩa xã hội là xã hội do chính nhân dân xây dựng nên, là sản phẩm nỗ lực chung của chính nhân dân
dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nhấn mạnh đặc trưng này, Hồ Chí Minh viết: “Chủ nghĩa xã hội là do quần
chúng nhân dân tự mình xây dựng nên”, đó là công trình tập thể của quần chúng nhân dân lao động dưới
sự
lãnh
đạo
của
Đảng”.
Qua đó cho thấy, trong quan niệm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội, tính xã hội chủ nghĩa thâm nhập và
thể hiện trên tất cả các lĩnh vực, các phương diện cơ bản của một chế độ xã hội - từ kinh tế đến chính trị,
văn hoá, con người trong đó, điểm then chốt nhất là con người, mang lại độc lập, tự do, hạnh phúc, phồn
vinh về vật chất và tinh thần cho tất cả mọi người. Chính đó là động lực chủ yếu nhất, quan trọng nhất của
toàn bộ quá tnnh đấu tranh cách mạng của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, là động lực trực tiếp và
lâu dài của toàn bộ quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vì cuộc sống phồn vinh của con người, của nhân
dân được Hồ Chí Minh xem là nét đặc trưng nhất của xã hội xã hội chủ nghĩa. Cho nên, việc hiện thực hoá
đặc trưng cơ bản đó được Người cho là tiêu chí xác định giá trị sự hy sinh của nhân dân trong cuộc đấu
tranh vì độc lập của dân tộc. Hồ Chí Minh viết: “Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói,
chết
rét,
thì
tự
do,
độc
lập
cũng
không
làm
gì”.
Những chỉ dẫn trên đây của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về những đặc trưng của chủ
nghĩa xã hội đã trở thành định hướng cho toàn bộ hoạt động cách mạng của Đảng và nhân dân ta ngay từ
những ngày đấu tranh giành, giữ chính quyền cũng như trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền
Bắc, tiếp theo là trên phạm vi cả nước - sau khi đất nước hoà bình, độc lập, thống nhất. Nhờ vậy, công cuộc
xây
dựng
chủ
nghĩa
xã
hội
đã
đạt
những
thành
tựu
nhất
định.
Mặt khác, cũng có một thực tế là, trong giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, hoạt động tư duy
của Đảng phải tập trung vào việc thực hiện những nhiệm vụ cơ bản của cuộc cách mạng ấy. Hơn nữa, để
động viên được sức mạnh của toàn bộ dân tộc vào việc hoàn thành hai nhiệm vụ chiến ược do cuộc cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân đặt ra, chúng ta nói nhiều tới triển vọng huy hoàng của dân tộc đạt được
ngay sau khi đất nước giành được độc lập, tự do, thoát khỏi ách thống trị của bè lũ thực dân, phong kiến.
Một xã hội không còn người bóc lột người, mọi người đều có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, người với người
là bạn...như là kết quả trực tiếp của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Cho nên, sau khi có hoà bình,
độc lập, thống nhất, chúng ta đã đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công thương nghiệp tư bản tư
doanh, đối với tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp, đối với thương nghiệp nhỏ (ở miền Bắc sau 1954, ở
miền Nam sau 30-4-1975) với hy vọng bằng cách đó sẽ có xã hội không còn người bóc lột người; mọi
người đều sống trong công bằng, bình đẳng, có cuộc sống vật chất và tinh thần ngày một cao, con người
hoàn toàn được giải phóng. Song, kết quả của cải tạo xã hội chủ nghĩa - đặc biệt là trong thời kỳ xây dựng
chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước - lại làm cho nền kinh tế rơi vào tình trạng khủng hoảng, cuộc sống
của nhân dân ngày một khó khăn, những quan hệ xã hội ngày càng diễn biến phức tạp...Thấy rõ tác hại của
bệnh chủ quan duy ý chí, chúng ta đã kiên quyết khắc phục bằng việc thực hiện những điều chỉnh lớn cả
trong nhận thức về chủ nghĩa xã hội lẫn hoạt động thực tiễn thiết định nó; khẳng định tính lâu dài của quá
trình đi tới mục tiêu, làm rõ những điều kiện tiên quyết để những mục tiêu đó biến thành hiện thực sinh động
trong cuộc sống hằng ngày của nhân dân. Chính trong quá trình đó, nhận thức của chúng ta về chủ nghĩa
xã
hội
ngày
một
rõ
hơn.
Đại hội VII đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Sự phát
triển của tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội mà Đảng ta đạt được sau 5 năm đổi mới được biểu hiện tập
trung
nhất
trong
văn
kiện
quan
trọng
này.
Trong hoàn cảnh chủ nghĩa xã hội lâm vào khủng hoảng, việc Đảng ta nêu lên quan niệm về chủ nghĩa xã
hội và con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta có ý nghĩa to lớn và sâu sắc. Nhìn nhận một cách
khái quát nhất, bước tiến đó biểu hiện ở hai điểm cơ bản: Đưa ra một quan niệm tổng quát nhất về xã hội
xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng và sẽ đạt tới; nêu ra những phương hướng cơ bản để xây
dựng
được
một
xã
hội
như
vậy.
Liên
quan
tới
quan
niệm
về
chủ
nghĩa
xã
hội,
Đảng
ta
cho
rằng:
“Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội:
-Do
nhân
dân
Lao
động
làm
chủ.
- Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu
sản
xuất
chủ
yếu.
Có
nền
văn
hóa
tiên
tiến,
đậm
đà
bản
sắc
dân
tộc.
- Con người phải được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động,
có
cuộc
sống
ấm
no,
tự
do
hạnh
phúc
do,
hạnh
phúc,
có
điều
kiện
phát
triển
toàn
diện
cá
nhân.
- Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ.
- Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.”
Sáu đặc trưng nói trên bao quát một cách toàn diện mọi mặt của đời sống xã hội - từ chính trị đến kinh tế,
văn hoá, xã hội, con người; từ đối nội lẫn đối ngoại. Sáu đặc trưng đó có mối liên hệ gắn bó hữu cơ với
nhau trong một chỉnh thể thống nhất; chúng vừa là tiền đề, vừa là kết quả của nhau, được hoàn thiện dần
từng bước. Mọi hoạt động lãnh đạo và quản lý đều phải chú ý đến cả sáu đặc trưng, làm cho những đặc
trưng đó được biến thành hiện thực. Đó chính là định hướng chính trị cơ bản trong hoạt động của mọi cấp,
mọi
ngành.
Những đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa do Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội đưa ra đã làm rõ mục tiêu xa mà dân tộc ta sẽ đạt tới khi kết thúc thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội. Từ 1991 đến nay, các chương trình, kế hoạch phát triển đất nước 5 năm hay hằng năm
thực chất là sự cụ thể hoá việc thực hiện những đặc trưng đó phù hợp với trình độ chín muồi của từng giai
đoạn tương ứng. Vai trò định hướng, dẫn đường của quan niệm đó về chủ nghĩa xã hội đã được thực tiễn
chứng minh; Trong khi khẳng định điều đó, cũng không thể không thấy rằng, một quan niệm đầy đủ, hoàn
chỉnh về chủ nghĩa xã hội chỉ có thể đạt được, khi xã hội xã hội chủ nghĩa đã được thiết định xong trong
thực tế với sự chín muồi trên mọi phương diện của nó. Phát triển hơn nữa quan niệm về chủ nghĩa xã hội
để nâng cao năng lực định hướng phát triển đất nước là một đòi hỏi của thực tiễn bức xúc hiện nay ở nước
ta.
Như trên đây đã đề cập, để đưa đất nước vững bước trên con đường đổi mới nhằm thực hiện thắng lợi
mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (năm
1991) của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa ra Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. Cương lĩnh đó đã đóng vai trò chỉ đạo to lớn trong quá trình soạn thảo các văn kiện của các
hội nghị Trung ương trong nhiệm kỳ và là cơ sở quan trọng để xây dựng các văn kiện của các nhiệm kỳ Đại
hội VIII, IX. Nhờ sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân trong việc hiện thực hoá Cương lĩnh và các
văn kiện đó, đất nước đã đạt được sự phát triển mạnh mẽ, tương đối toàn diện.
Những thành tựu to lớn đó khẳng định tính đúng đắn và sức sống vĩ đại của Cương lĩnh năm 1991 nói
chung, của quan niệm về chủ nghĩa xã hội với 6 đặc trưng nói riêng.
Mặt khác, 15 năm đã qua đi, kể từ khi quan niệm đó về chủ nghĩa xã hội ra đời. Trong khoảng thời gian đó,
cả trên thế giới lẫn trong nước đã có nhiều biến đổi to lớn và sâu sắc. Nhiều vấn đề mới nảy sinh và từng
bước đã được Đảng ta nhận thức, giải quyết một cách có hiệu quả. Nhờ vậy, một số vấn đề có liên quan tới
quan niệm về chủ nghĩa xã hội đã đạt được trình độ nhận thức mới, sâu sắc hơn, thậm chí, có điểm đạt
được bước phát triển rất căn bản. Thêm vào đó, những biến đổi của tình hình quốc tế, những thành tựu và
hạn chế trong 15 năm đổi mới sau khi có Cương lĩnh 1991, những vấn đề mới nảy sinh trong giai đoạn hiện
nay cũng đòi hỏi phải có sự khái quát, sự phát triển hơn nữa một số vấn đề trong quan niệm về chủ nghĩa
xã hội đã được đề cập trong Cương lĩnh. Chẳng hạn, trở lại di sản tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã
hội, như trên đây đã đề cập, Người cho rằng, xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội do nhân dân làm chủ, bao
nhiêu quyền hành đều ở nơi dân. Đành rằng, “dân”, “nhân dân” là những phạm trù mang tính lịch sử. Cốt lõi
cấu thành “dân”, “nhân dân” ở mọi thời đại là “nhân dân lao động”. Song, cái cốt lõi không phải là cái tất cả.
Thực tiễn những năm qua cũng cho thấy, một khi Đảng có đường lối đúng, phản ánh được những nhu cầu,
nguyện vọng của nhân dân, của dân tộc thì toàn thể nhân dân, toàn thể dân tộc tích cực, chủ động thực
hiện đường lối đó của Đảng. Nhờ vậy, xã hội xã hội chủ nghĩa đang từng bước được thiết định. Bước tiến
mà xã hộ đạt được tuỳ thuộc một cách quyết định vào nỗ lực của toàn dân do Đảng ta lãnh đạo. Sự chủ
động, tích cực, tự giác của toàn dân trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa là thước đo của nền
dân chủ, vừa là động lực lớn của sự phát triển đất nước. Đó cũng là mục tiêu tối thượng của sự nghiệp
cách mạng do Đảng ta lãnh đạo. Nói cách khác, thiết định quyền làm chủ của toàn thể nhân dân, của cả
dân tộc là một nét đặc sắc nhất, khu biệt xã hội xã hội chủ nghĩa với mọi xã hội khác đã và đang có trong
hiện
thực
xã
hội.
Quyền làm chủ đó được thực hiện trước hết bằng Nhà nước, thông qua Nhà nước. Để Nhà nước xã hội
chủ nghĩa thực sự là thiết chế bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân, nó phải được xây dựng thành Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì dân. Đây là một trong những đồi mới quan
trọng
trong
tư
duy
chính
trị
của
Đảng,
của
dân
tộc
ta.
Từ một số điều trình bày khái quát trên đây có thể thấy, việc bổ sung, phát triển quan niệm về chủ nghĩa xã
hội
là
một
tất
yếu
và
hoàn
toàn
có
cơ
sở
để
thực
hiện
điều
đó.
Thành quả tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 20 năm đổi mới cho phép khẳng định rằng:
Xã hội xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng là xã hội lấy dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân
chủ,
văn
minh
làm
mục
tiêu
của
mình.
Xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, bền vững với một hệ
thống quan hệ sản xuất tiên tiến, phù hợp; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có
cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, được phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam đoàn
kết, bình đẳng, giúp đỡ lẫn nhau cùng tiền bộ; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân
các
nước
trên
thế
giới.
Quan niệm vừa nêu, về cơ bản, phản ánh được thành quả đổi mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội qua
20 năm đổi mới. Song, đó chưa phải là tất cả và càng không phải là cái gì không thể bổ sung, hoàn thiện
thêm - ngay cả trong hiện tại và tương lai. Chẳng hạn: 1/ Không phải không có lý khi đặt ra vấn đề: có nên
xem “đậm đà bản sắc dân tộc” là một thuộc tính của văn hoá trong xã hội xã hội chủ nghĩa hay không?
Thành quả đổi mới tư duy trên vấn đề này đã đưa tới khẳng định rằng, văn hoá là nền tảng tinh thần của xã
hội. Thêm vào đó, càng hội nhập kinh tế quốc tế và đẩy mạnh giao lưu, hợp tác trên các lĩnh vực khác
(trong đó có lĩnh vực văn hoá) trong điều kiện bùng nổ của cách mạng khoa học - công nghệ, phát triển kinh
tế tri thức... bao nhiêu, vấn đề giữ vững bản sắc văn hoá của dân tộc, nâng cao tính khoa học, tính đại
chúng của văn hoá càng trở thành vấn đề cần hết sức quan tâm. 2/ Sự phát triển của tư duy lý luận về chủ
nghĩa xã hội qua 20 năm đổi mới cũng như từ thực tiễn thế giới những năm qua cũng cho thấy, cần phân
định rõ hơn công bằng với bình đẳng xã hội. Chủ nghĩa xã hội có thể tạo ra sự công bằng một cách phổ
biến chứ chưa có khả năng tạo lập được sự bình đẳng xã hội. Bởi lẽ, trong xã hội xã hội chủ nghĩa, ngay
khi phương thức phân phối theo lao động (chất lượng và số lượng của nó được thiết định phổ biến, tuyệt
đối thì vẫn có tình trạng người này có nhiều con hơn người kia, người này có sức khoẻ hơn người khác,
công việc mỗi người cũng khác nhau với sự cần thiết xã hội không như nhau, điều kiện vận dụng lao động
mang tính đặc thù không chỉ ở trình độ phát triển, mà còn phụ thuộc tính chất ngành, nghề,.. Tóm lại, trong
xã hội xã hội chủ nghĩa chưa thể có bình đẳng hoàn toàn giữa các cá nhân, các cộng đồng xã hội... Lênin
khẳng định rằng, trong chủ nghĩa xã hội, “về mặt của cải, thì vẫn còn chênh lệch, mà những chênh lệch ấy
là bất công, nhưng tình trạng người bóc lột người thì không thể có nữa, vì không có ai có thể chiếm tư liệu
sản xuất, công xưởng, máy móc, đất đai, v.v. làm của riêng được”. Bình đẳng chưa thể hoàn toàn đạt được
trong xã hội xã hội chủ nghĩa, có chăng chỉ là bình đẳng trước pháp luật mà thôi. Do vậy, việc đưa khái
niệm này vào nội dung của đặc trưng thứ 5 có thoả đáng không? 3/ Ngay đặc trưng thứ hai: “… hệ thống
quan hệ sản xuất tiên tiến, phù hợp”, không nói rõ “phù hợp” với cái gì sẽ dễ dẫn tới những cách lý giải khác
nhau. Phải chăng là “...có quan hệ sản xuất tiên tiến, phù hợp với tính chất và trình độ phát triển cao của
lực lượng sản xuất xã hội hoá - quốc tế hoá”? 4/ Nước ta là một quốc gia đa dân tộc, sắc tộc. Thành quả đổi
mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội đã cho phép khẳng định sự thống nhất trong đa dạng là cội nguồn
sức sống của dân tộc, là cơ sở để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc như là một động lực cơ bản của
chúng ta. Để phản ánh điều này, nên chăng đặc trưng thứ 3 nên bổ sung thêm tính chất nền văn hoá thống
nhất trong đa dạng. Trong đặc trưng này cũng cần xác định rõ: Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã
hội...
Càng tiến lên chủ nghĩa xã hội, càng ý thức sâu sắc về sự cần thiết và khó khăn của việc kết hợp hài hoà
giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Chính ở đây thể hiện rõ
nhất tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội. Không thể không xem đó là một đặc trưng khu biệt chủ nghĩa xã hội
với các xã hội trước đó. Lại nữa, vấn đề môi trường bao gồm cả môi trường tự nhiên và môi trường xã hội,
- nhất là môi trường tự nhiên - lâu nay đã trở thành vấn đề toàn cầu, và chắc chắn còn là vấn đề hết sức lâu
dài, là mối lo chung của mọi thể chế xã hội. Có môi trường thuận lợi cho sự phát triển bền vững không thể
không là đặc trưng mà xã hội xã hội chủ nghĩa cần phải có. Đây cũng là một thành quả nổi bật của một số
chương trình khoa học xã hội cấp nhà nước giai đoạn 1995-2000 và được khẳng định với những luận
chứng ngày càng sâu sắc hơn ở các chương trình giai đoạn 2001-2005...
Vấn đề có thể kiến nghị bổ sung, phát triển còn nhiều. Song, tính đến yêu cầu ngắn gọn, súc tích của sự
khái quát nhằm làm rõ những đặc trưng bản chất nhất của xã hội xã hội chủ nghĩa, việc nêu lên các đặc
trưng
như
trên
đây
là
đủ.
Động lực cơ bản của sự phát triển xã hội trong xã hội xã hội chủ nghĩa là: phát huy sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới
sự lãnh đạo của Đảng, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của chủ nghĩa
xã hội; kết hợp hài hoà các lợi ích xã hội, tập thể và cá nhân, quan tâm lợi ích thiết thân của con người.
Ngoài ra, xã hội xã hội chủ nghĩa còn được phát triển nhờ các động lực khác, rất quan trọng, như phát triển
văn hóa, xây dựng con người, thi đua xã hội chủ nghĩa, tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, ý chí
vươn
lên,
tự
lực
tự
cường...
Đối với nước ta, xã hội xã hội chủ nghĩa còn là một xã hội đang trong quá trình xây dựng, chúng ta mới đi
được một đoạn không dài trên con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Do vậy, nhận thức của chúng ta về
chủ nghĩa xã hội một phần không nhỏ là mang tính dự báo. Thực tiễn phát triển đất nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa trong những năm tới sẽ mang lại những cứ liệu ngày một chắc chắn hơn cho việc hoàn
thiện nhận thức của chúng ta về chủ nghĩa xã hội với tư cách là một chế độ xã hội sau khi thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội đã hoàn thành. Tuy còn chưa thật đầy đủ, nhưng quan niệm như nêu trên đây về chủ
nghĩa xã hội cũng có vai trò quan trọng trong việc định hướng phát triển đất nước ở giai đoạn hiện nay.