Tải bản đầy đủ (.doc) (46 trang)

Lịch Sử Địa Phương Lớp 6 Thuận Châu- Miền Đất Và Con Người _ www.bit.ly/taiho123

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (318.52 KB, 46 trang )

LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG (Lớp 6)

THUẬN CHÂU- MIỀN ĐẤT VÀ CON NGƯỜI
1. Mục tiêu
Sau khi học xong bài này học sinh cần nắm được
a.Về kiến thức:
Nêu được một số nét khái quát về vị trí địa lí, kinh tế, văn hóa, xã hội của
huyện Thuận Châu.
Nắm được một số di chỉ khảo cổ ở tỉnh Sơn La nói chung và huyện Thuận
Châu nói riêng.
b. Về thái độ: Giáo dục lòng tự hào về truyền thống lịch sử của huyện Thuận Châu.
c. Về kĩ năng: Rèn luyện kĩ năng quan sát, nhận xét, phân biệt một số di chỉ khảo
cổ ở huyện Thuận Châu.
2. Chuẩn bị
a. Giáo viên:
- Soạn giáo án, nghiên cứu các tài liệu tham khảo.
- Lược đồ huyện Thuận Châu. Một số tranh ảnh về huyện Thuận Châu như: đèo
Pha đin, các di tích lịch sử (Kỳ đài Thuận Châu, kiến trúc tháp Mường Bám), hình
ảnh người dân mặc trang phục dân tộc thiểu số như Kháng, H’Mông, Thái…
b. Học sinh:
Chuẩn bị các nội dung liên quan đến bài học: vị trí địa lí, tài nguyên thiên
nhiên; một số vấn đề kinh tế - xã hội; dân cư, các thành phần dân tộc; các di tích
lịch sử của huyện, sưu tầm các tranh ảnh liên quan đến bài học.
3. Tiến trình bài dạy
a. Kiểm tra sự chuẩn bị của học sinh
b. Bài mới
I. Khái quát điều kiện tự nhiên-xã hội huyện Thuận Châu
*Lịch sử hình thành và phát triển
Thuận Châu tên địa phương còn gọi là Mường Muổi là một mảnh đất hình
thành từ rất sớm. Một loạt các di chỉ khảo cổ thuộc loại hình di chỉ thềm sông,
hang động, mái đá được phát hiện ở Thuận Châu cho ta thấy những đặc điểm cư


trú của các bộ lạc săn bắn, hái lượm của thời đại đá mới, điều đó chứng tỏ nơi đây
đã có người Việt cổ sinh sống.
Dưới thời Pháp thuộc, có một thời gian Thuận Châu bị đặt dưới chế độ quân
quản (Chế độ quản lý xã hội do bộ máy quân sự đảm nhiệm tại những vùng mới bị
thực dân Pháp chiếm đóng). Năm 1895, Thuận Châu thuộc tỉnh Vạn Bú (được tách
từ tỉnh Hưng Hoá); năm 1904 tỉnh Vạn Bú đổi thành tỉnh Sơn La. Sau chiến dịch
1


Tây Bắc 1952, Thuận Châu trực thuộc tỉnh Lai Châu. Đến tháng 2 năm 1954,
Thuận Châu trực thuộc tỉnh Sơn La.
Đến năm 1955 thành lập khu Tự trị Thái - Mèo, bỏ cấp tỉnh, Thuận Châu trực
thuộc khu Tự trị. Ngày 27/12/1962, tại kỳ họp thứ 5 Quốc hội khoá II đã ra Nghị
quyết đổi tên khu Tự trị Thái - Mèo thành khu tự trị Tây Bắc, lập lại 2 tỉnh Sơn La,
Lai Châu và thành lập tỉnh Nghĩa Lộ; huyện Thuận Châu thuộc tỉnh Sơn La, toàn
huyện có 34 xã và 1 thị trấn, huyện lỵ đặt tại Thị trấn Thuận Châu.
Thực hiện Nghị quyết số 43/2002/NQ - HĐND ngày 11/01/2002 của Hội
đồng nhân dân tỉnh Sơn La khoá XI - kỳ họp thứ 5, về xây dựng phương án điều
chỉnh địa giới hành chính một số huyện, xã của tỉnh do ảnh hưởng di dân tái định
cư xây dựng nhà máy thuỷ điện Sơn La. Đã điều chỉnh chuyển 6 xã thuộc huyện
Thuận Châu sáp nhập vào huyện Quỳnh Nhai. Từ tháng 01/2004 đến nay toàn
huyện Thuận Châu có 28 xã và 01 thị trấn Thuận Châu.
*Vị trí địa lí
- Huyện Thuận Châu nằm ở phía Tây Bắc của tỉnh Sơn La, theo Quốc lộ 6
cách Thành phố Sơn La 34 km về phía Tây Bắc và cách huyện Tuần Giáo của tỉnh
Điện Biên 52 km về phía Đông Nam.
- Độ cao trung bình so với mặt nước biển 700 - 750m và có dãy núi cao nhất
là dãy Côpia có đỉnh cao nhất 1.821 m.
- Nằm trong toạ độ địa lý 21012' - 41' vĩ độ Bắc, 103020' - 103059' kinh độ Đông.
- Phía Đông giáp thành phố Sơn La tỉnh Sơn La.

- Phía Tây – Tây Bắc giáp huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên.
- Phía Nam giáp huyện Sông Mã và huyện Mai Sơn tỉnh Sơn La.
- Phía Bắc giáp huyện Quỳnh Nhai, Mường La tỉnh Sơn La.
- Trung tâm huyện lỵ nằm tại Thị trấn Thuận Châu.
- Từ Thành phố Sơn La đến huyện lỵ, đi theo đường Quốc lộ 6 đến đầu thị
trấn theo đường Tây bắc, chiều dài đoạn đường là 34 km.
- Từ Hà Nội đến huyện lỵ đi theo Quốc lộ 6 chiều dài đoạn đường là 350 km.
*Khí hậu
Là một huyện miền núi cao, nằm ở phía Bắc tỉnh Sơn La nên Thuận Châu có
địa hình hiểm trở và phức tạp. Khí hậu chia làm hai mùa rõ rệt: mùa mưa-nóng kéo
dài từ tháng 4 đến tháng 10, mùa khô-lạnh kéo dài từ tháng 11 đến tháng 3 năm
sau, khí hậu thuận lợi cho việc phát triển cây trồng nhiệt đới.
*Tài nguyên thiên nhiên
Điều kiện thiên nhiên ưu đãi tạo cho Sơn La nói chung và huyện Thuận
Châu nói riêng tiềm năng để phát triển các sản phẩm nông-lâm sản, hàng hóa (chè
Bình Thuận), chăn nuôi các loại gia súc, gia cầm.

2


Huyện Thuận Châu thuộc lưu vực Sông Đà, có nhiều suối lớn như: Suối Muội,
Suối Ty, Suối Nậm Húa, Suối Nậm Nhứ, ... tạo thành mạng lưới sông suối khá dày,
đây là nguồn nước quan trọng phục vụ cho đời sống và sản xuất của nhân dân.
Đèo Pha Đin có độ dài 32 km với điểm cao nhất là 1.648m , là ranh giới hai
huyện Thuận Châu (Sơn La) và Tuần Giáo (Điện Biên). Tên gọi đèo Pha Đin
nguyên gốc xuất phát từ tiếng Thái, nghĩa là “Trời và Đất”, hàm nghĩa nơi đây là
chỗ tiếp giáp giữa trời và đất.
Đường quốc lộ 6 chạy qua Thuận Châu nên việc đi lại, giao lưu hàng hóa
tương đối thuận tiện. Tuy nhiên địa hình dốc và mùa mưa kéo dài có những trận
mưa lớn gây sạt lở ách tắc giao thông, gây nhiều khó khăn cho việc vận chuyển

hàng hóa và đi lại của nhân dân.
Khoáng sản: mỏ đồng ở xã Mường Bám và nguồn nước phong phú, chất
lượng tốt cung cấp cho toàn bộ thị trấn Thuận Châu (mó nước ở bản Bó).
Rừng Thuận Châu chiếm 70,2% diện tích tự nhiên, chủng loại động thực vật
phong phú, có nhiều loại gỗ quý hiếm và có giá trị kinh tế cao như: gỗ lát, nghiến,
pơ mu và nhiều dược liệu quý. Tuy nhiên việc khai thác chưa được quản lý chặt
chẽ, tập quán phá rừng làm nương rẫy… rừng đã bị tàn phá một cách nhanh chóng,
nguồn tài nguyên quý hiếm bị khai thác một cách cạn kiệt, hiện nay chỉ còn rất ít
những khu rừng nguyên sinh như: Copia nằm trên hai xã Co Mạ và Chiềng Bôm.
*Kinh tế-xã hội
Sản xuất nông nghiệp là hoạt động kinh tế chủ yếu của đồng bào Sơn La nói
chung và huyện Thuận Châu nói riêng. Trồng trọt và chăn nuôi là hai ngành sản
xuất chính, lúa là cây trồng chủ yếu. Vùng cao làm nương rẫy, vùng thấp làm
ruộng nước, ngoài ra cư dân còn trồng các loại cây như ngô, khoai, sắn, bông, mía.
Nhằm tập trung đầu tư có hiệu quả và khai thác tiềm năng, lợi thế của từng
vùng, huyện đã quy hoạch thành 3 vùng kinh tế: vùng kinh tế động lực dọc quốc lộ
6, vùng cao hẻo lánh và đặc biệt khó khăn vùng sâu, vùng xa.
Về xã hội, trước cách mạng tháng Tám 1945, quan hệ xã hội một mặt bị chi
phối bởi quan hệ thực dân nửa phong kiến, mặt khác tùy từng vùng dân tộc mà bị
chi phối bởi quan hệ khác nhau. Vùng người Thái tồn tại chế độ Phìa, Tạo, vùng
người Mông: Thống Quán, Thống Lí; người Khơ Mú: Sen, Quan Sư, Quản… trong
xã hội cổ truyền có các dòng họ quý tộc nắm quyền hành ở địa phương như: họ
Bạc Cầm…
Bản làng được coi là đơn vị của xã hội, gồm những gia đình của một hay vài
dân tộc cùng cư trú. Mỗi thành viên trong bản đều có trách nhiệm gánh vác chung
công việc công ích cũng như chia sẻ với nhau những cống nạp hoặc lao dịch cho
bọn thống trị, cùng nhau đoàn kết tương trợ. Các trách nhiệm được quy định thành
lệ. Nhìn chung xã hội cổ truyền là một xã hội chậm phát triển và phát triển không
đều giữa các dân tộc.
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế

đúng hướng, phát huy thế mạnh của địa phương, nền kinh tế Thuận Châu đã có
3


bước chuyển biến quan trọng, đời sống nhân dân đã và đang được cải thiện tốt hơn
(hầu hết các xã vùng sâu, vùng xa đều có đường ô tô đi đến tận nơi).
*Dân cư và dân tộc
- Dân số năm 2013 (tính đến 31/3/2013) có 32.729 hộ, 159.634 nhân khẩu
(trong đó: 79.906 nam, 79.728 nữ), bao gồm 6 dân tộc cùng chung sống (Thái,
Mông, Kinh, Khơ Mú, Kháng, La Ha). Với đặc điểm cư trú xen kẽ và phân bố dân
cư không đồng đều, mỗi dân tộc có một sắc thái văn hóa riêng đã tạo cho Thuận
Châu có một nền văn hóa phong phú, đặc sắc. Trải qua quá trình lịch sử lâu dài đã
tạo nên những nét đặc trưng về nhân cách và con người Thuận Châu; luôn đoàn kết
giúp đỡ lẫn nhau, cùng kề vai sát cánh, anh dũng đấu tranh chống giặc ngoại xâm,
bảo vệ quê hương; cần cù, sáng tạo trong lao động sản xuất.
Phát huy truyền thống đó, ngày nay dưới sự lãnh đạo của Đảng, trực tiếp là
Đảng bộ Thuận Châu, nhân dân các dân tộc ra sức thi đua xây dựng quê hương
ngày càng giầu mạnh, đời sống kinh tế và văn hóa của nhân dân ngày càng phát
triển, đoàn kết, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đặc biệt là phong trào xây
dựng nông thôn mới.
2.2. Các di tích lịch sử
Thời kì đồ đá, con người đã để lại nhiều dấu tích. Theo kết quả nghiên cứu
tại mái đá ở bản Mòn đã tìm thấy nhiều công cụ hình rìu, mảnh tước, mảnh gốm…
những chiếc rìu đá được tìm thấy trên núi Khâu Tú, đây là những minh chứng cho
thấy nơi đây người nguyên thủy đã sống, đã biết trồng trọt, săn bắt, chăn nuôi.
Ra khỏi thời kì đồ đá, con người Thuận Châu bước vào thời kì đồ đồng với
chứng tích để lại là trống đồng được tìm thấy tại bản Thôm (Thôm Mòn) hiện nay
được trưng bày tại viện bảo tàng Sơn La.
Nhờ sự tiến bộ trong chế tác công cụ lao động, cuộc sống của con người
được cải thiện, của cải dư thừa ngày một tăng, thông qua các di chỉ đó chúng ta có

thể khẳng định: Thuận Châu cùng một số nơi khác trong cả nước đã bước vào thời
đại văn minh, trải qua buổi đầu dựng nước đó chính là thời Văn Lang-Âu Lạc.
- Huyện Thuận Châu có 02 di tích lịch sử được công nhận cấp quốc gia:
*Di tích lịch sử kỳ đài Thuận Châu
Trong kháng chiến chống Pháp và sau hoà bình lập lại trên Miền Bắc, mặc
dù bận trăm công ngàn việc của đất nước, Bác Hồ - Vị cha già kính yêu của dân
tộc luôn quan tâm tới nhân dân các dân tộc Tây Bắc.
Đáp lại lòng tin của Bác, nhân dân các dân tộc Tây Bắc đã dũng cảm trong
chiến đấu, hăng hái thi đua lao động sản xuất và mong ước được đón Bác lên thăm
và được báo cáo với Bác những thành tích đã đạt được.
Ngày 7/5/1959, mong ước của nhân dân các dân tộc Tây Bắc đã trở thành
hiện thực. Sân vận động của thủ phủ khu tự trị Thái - Mèo rực rỡ cờ hoa, biểu ngữ
khẩu hiệu và hơn 1 vạn người đại diện cho 43 vạn nhân dân các dân tộc Tây Bắc
hân hoan đón chào Bác dẫn đầu phái đoàn của Đảng - Chính phủ lên thăm.
4


Bằng cử chỉ vô cùng giản dị, thân mật và gần gũi, Bác đã ghi nhận, biểu
dương sự hy sinh và những đóng góp hết sức to lớn của nhân dân các dân tộc Tây
Bắc trong kháng chiến chống Pháp, trong khôi phục kinh tế sau chiến tranh. Người
đã thay mặt Chính phủ tặng nhân dân các dân tộc Tây Bắc tấm Huân chương lao
động hạng nhất. Người căn dặn: Phải hăng hái thi đua phát triển kinh tế - xã hội,
củng cố các thành phần kinh tế, ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, phát
triển mạng lưới giáo dục - y tế, củng cố an ninh quốc phòng.
Hơn 50 năm đã trôi qua, lời dặn của Người đã được Đảng bộ, chính quyền
và nhân dân các dân tộc Sơn La bền bỉ phấn đấu thực hiện, đã và đang làm cho
vùng đất Miền Tây của Tổ quốc có những đổi thay to lớn.
Di tích lịch sử Kỳ đài Thuận châu nằm ngay trong khuôn viên sân vận động
huyện Thuận Châu.
* Di tích lịch sử: Tháp kiến trúc nghệ thuật bản Lào xã Mường Bám.

Đây là một công trình kiến trúc nghệ thuật mang đậm nét yếu tố Phật giáo phái
Tiểu Thừa do đồng bào dân tộc Lào cư trú tại địa phương xây dựng, được bộ văn
hoá, thể thao và du lịch quyết định xếp hạng di tích cấp quốc gia (24.10.2012).
Huyện Thuận Châu có 03 Di tích lịch sử được công nhận cấp tỉnh: Cầu Nà
Hày xã Thôm Mòn; Di chỉ khảo cổ học Hang Mái đá bản Mòn xã Thôm Mòn; Khu
căn cứ kháng chiến xã Long Hẹ.
c. Củng cố, luyện tập.
- GV khái quát lại nội dung bài học.
- Câu hỏi luyện tập:
+ Là HS đang ngồi trên ghế nhà trường em thấy mình phải có trách nhiệm gì để
bảo vệ những di tích lịch sử cũng như góp sức mình vào xây dựng quê hương ngày
càng giầu đẹp?
+ Hiện nay em thấy quê hương Thuận Châu đang ngày càng đổi mới và phát triển
như thế nào?
d. Hướng dẫn học bài ở nhà.
- Tiếp tục nghiên cứu lại nội dung bài học.
- Hoàn thành trả lời các câu hỏi phần luyện tập.
---------------------------------------

5


LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG LỚP 7 (Tiết 1)

THUẬN CHÂU TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN
PHÁP XÂM LƯỢC (1945-1954)
1. Mục tiêu
Sau khi học xong bài này học sinh cần nắm được
a.Về kiến thức:
Nắm được một số nét khái quát tình hình huyện Thuận Châu thời Pháp thuộc và

cuộc khởi nghĩa dành chính quyền ở Thuận Châu trong cách mạng tháng Tám - 1945.
Nắm được cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân
Thuận Châu dưới sự lãnh đạo của Đảng đi đến thắng lợi (1946-1954).
b. Về thái độ: Giáo dục lòng tự hào về truyền thống lịch sử của huyện Thuận Châu.
c. Về kĩ năng: Rèn luyện kĩ năng đánh giá, nhận xét các sự kiện lịch sử.
2. Chuẩn bị
a. Giáo viên:
- Soạn giáo án, nghiên cứu tài liệu tham khảo
- Lược đồ huyện Thuận Châu. Tư liệu về các chiến sỹ cộng sản bị giam cầm tại
ngục Sơn La từ 1930-1945.
b. Học sinh: Sưu tầm tư liệu về nhà ngục Sơn La.
3. Tiến trình bài dạy
a. Kiểm tra sự chuẩn bị của học sinh (Các tư liệu học sinh sưu tầm được).
b. Bài mới.
I. KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH THUẬN CHÂU THỜI PHÁP THUỘC.

Năm 1858 thực dân Pháp nổ súng vào Đà Nẵng mở đầu quá trình xâm chiếm
Việt Nam. Đến năm 1888, chúng chiếm được toàn bộ tỉnh Sơn La. Ngay sau đó, bộ
máy cai trị của thực dân Pháp được thiết lập từ tỉnh đến châu, mường theo chế độ
quân quản. Bộ máy phong kiến địa phương được thực dân Pháp duy trì và tăng
cường, đứng đầu tỉnh là viên Tuần phủ nhưng chỉ là kẻ thừa hành mệnh lệnh của
Công sứ Pháp. Ở các châu có bố chánh, tri châu có châu úy và thừa phái giúp việc.
Đứng đầu mường có phìa, đứng đầu bản có tạo bản (Thái). Ở vùng đồng bào Mông
đứng đầu mỗi vùng là các thống lý cai quản. Vùng dân tộc Khơ Mú cư trú có các
sen, khun đứng đầu cai quản… đời sống của nhân dân bị bóc lột dưới hình thức
“cuông”, “nhốc” và các chế độ thuế, phu phen, tạp dịch hà khắc, vô lý.
Ở Thuận Châu, sự trị vì lâu đời của chế độ phong kiến theo hình thức cha
truyền con nối, quyền lực tập trung trong dòng họ quý tộc Bạc Cầm đến Cách
mạng Tháng Tám năm 1945 là 37 đời. Thực dân Pháp chú ý đến dòng họ Bạc
Cầm, đưa Bạc Cầm Quý lên làm tri châu khi mới 13 tuổi, đồng thời đưa đi học và

đào tạo và thăng chức lên làm bố chánh.
6


Thực dân Pháp đã xây dựng lực lượng lính Thái ở các châu đàn áp các cuộc
nổi dậy của nhân dân với âm mưu chia rẽ dân tộc, kích động họ tranh chấp nhau về
địa vị, quyền lợi, gây mâu thuẫn giữa các dòng họ để dễ bề cai trị, “dùng người địa
phương trị người địa phương”.
Trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nền kinh tế Thuận Châu mang đặc
trưng của nền kinh tế nông nghiệp, tự cấp tự túc, trình độ kỹ thuật canh tác lạc hậu,
nông cụ sản xuất thô sơ, một năm chỉ trồng được một vụ lúa. Trong khi đó thực
dân Pháp không có chính sách gì để khuyến khích sản xuất phát triển. Các ngành
thủ công nghiệp không phát triển, chỉ có ngành dệt vải để phục vụ cho cái mặc
hàng ngày. Ở Mường Piềng, Mường Sại có nghề đóng thuyền độc mộc. Chợ búa
chỉ có ở châu lỵ, chủ yếu do một số đồng bào người Kinh, Hoa kiều ở Chiềng Ly
buôn bán hàng nông sản, tạp hóa. Giao thông chưa phát triển, từ châu lỵ đi các
vùng đều bằng đường mòn hoặc đường sông.
Nền kinh tế lạc hậu, sản xuất không phát triển, trong khi đó nhân dân lao
động lại phải gánh chịu nhiều loại thuế nặng nề, vô lý do Thực dân Pháp đặt ra,
ngoài các loại thuế như thuế thân, thuế ruộng nương…ở vùng cao còn phải nộp bạc
trắng, thuốc phiện và độc quyền về muối ăn để người dân lệ thuộc vào chúng.
Hàng năm người dân còn phải cống nạp những sản vật quý hiếm, bắt dân phải đi
phu, làm đường, công việc nặng nhọc lại bị đánh đập nên nhiều người phải bỏ
mạng và ốm đau.
Thực dân Pháp ra sức khuyến khích tập tục lạc hậu, mê tín dị đoan trong
nhân dân. Y tế giáo dục không mở mang, chỉ có một trường sơ đẳng ở châu lỵ.
Năm 1928 tên Công xứ Xanhpulôp cho mở một số trường tổng sự ở các
mường và ở vùng đồng bào Mông Long Hẹ để học chữ Quốc ngữ, chữ Thái và chữ
Pháp. Nhưng việc học chỉ tập trung con em các phìa, tạo, thống lý nhằm đào tạo
tay sai cho thực dân Pháp.

Dưới chế độ thực dân phong kiến ở Thuận Châu có hai giai cấp chính:
- Giai cấp phong kiến thống trị: Bao gồm tầng lớp quý tộc, các chức dịch
phong kiến địa phương từ châu đến tổng, mường, bản. Đây là lực lượng có thế lực
quyền hành trong xã hội, quyền hành của họ gắn liền với chế độ thực dân, họ
chiếm hữu phần lớn ruộng đất. Tuy nhiên trong số đó cũng có một bộ phận ít nhiều
có tinh thần dân tộc, họ đứng lên chống lại ách cai trị và đi theo cách mạng.
- Giai cấp nông dân: Gồm nông dân tự do, nông dân bán tự do (cuông, nhốc)
và những người dân mất quyền tự do phải làm người ở hầu hạ (côn hươn). Đây là
giai cấp chiếm số đông trong xã hội nhưng dưới hai tầng áp bức bóc lột của đế
quốc và phong kiến, chính vì vậy cuộc sống của người dân Thuận Châu hết sức
khổ cực, tăm tối.
Bên cạnh sự thống trị của giai cấp phong kiến, đặc biệt Thuận Châu thời kỳ
này là sự thống trị về thần quyền rất nặng nề, đó là những ông mo, ông chang.
Ngoài ra còn có một số ít công chức (giáo viên) và dân buôn bán nhỏ. Chính sách
vơ vét, bóc lột tàn bạo của thực dân Pháp và bộ máy cai trị phong kiến làm cho
7


mâu thuẫn xã hội trở nên sâu sắc, dẫn đến các cuộc đấu tranh, bạo động liên tiếp
nổ ra chống lại ách cai trị hà khắc đó.
Năm 1885 phong trào Cần Vương bùng nổ, nhân dân các dân tộc Thuận
Châu đã đoàn kết cùng nhân các dân tộc Tây Bắc tích cực đứng lên chống Pháp,
trong đó có cả các chức dịch phong kiến địa phương, tiêu biểu là Bạc Cầm Châu.
Năm 1914 nổi lên phong trào khởi nghĩa chống Pháp ở Lào do Lường Sám
lãnh đạo, phong trào nổ ra ở Sầm Nưa sau đó tiến vào tỉnh lỵ Sơn La bao vây Tòa
sứ. Nhân dân Sơn La dưới sự lãnh đạo của các phìa, các Chậu mường…tham gia
khởi nghĩa chống giặc. Bạc Cầm Châu nguyên là Tri châu Thuận Châu, Lường
Văn Nó - phìa Mường Lầm chặn đánh viện binh địch, gây cho địch nhiều tổn thất.
Sau khi dẹp được cuộc khởi nghĩa thực dân Pháp đã xử tử Bạc Cầm Châu, Lường
Văn Nó.

Năm 1918, ở Long Hẹ Vàng Thống Thênh là con của thống quán Vàng
Khua Cha đã đứng lên kêu gọi nhân dân tham gia phối hợp với Vừ Pa Chay chống
Pháp. Ở nhiều nơi nhân dân các dân tộc Thuận Châu đã đứng lên đấu tranh đòi
quyền lợi bằng nhiều hình thức, đệ đơn kiện phìa tạo, đòi giảm thuế, bớt phu, đòi
ruộng chức của tạo, phìa…
Tuy các phong trào cuối cùng đều thất bại và bị kẻ thù đàn áp, song nó vẫn
thể hiện tinh thần yêu nước, ý chí quật cường của nhân dân ta, thể hiện tình đoàn
kết giữa các dân tộc đấu tranh chống kẻ thù xâm lược.
II. KHỞI NGHĨA GIÀNH CHÍNH QUYỀN TRONG CÁCH MẠNG
THÁNG TÁM NĂM 1945 THẮNG LỢI

Sau khi tỉnh lỵ từ Vạn Bú chuyển ra Sơn La, năm 1908 thực dân Pháp tiến
hành xây dựng nhà tù Sơn La đặt trên đồi Khau Cả, đây là nhà tù lúc đầu mang
tính chất dùng để giam giữ thường phạm.
Đầu năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã lãnh đạo phong trào đấu
tranh của nhân dân trong cả nước tạo thành làn sóng cách mạng mạnh mẽ, làm cho
kẻ thù tìm cách đối phó, tăng cường truy lùng các chiến sỹ Cộng sản và những
người yêu nước. Nhà tù Sơn La trở thành trung tâm giam cầm, đày ải các chiến sĩ
Cộng sản phía Bắc Việt Nam. Từ 1930 – 1939 thực dân Pháp đày lên Sơn La rất
đông tù chính trị trong đó đa số là đảng viên Đảng Cộng sản nhằm giết dần giết
mòn ý chí cách mạng và thể xác của các chiến sĩ. Nhưng các chiến sĩ Cộng sản của
ta biến nhà tù đế quốc thành trường học cách mạng, vận động nhân dân, công nhân
công chức, binh lính, thanh niên, học sinh tiểu thương, đồng bào dân tộc vùng
ngoại ô giác ngộ và giúp đỡ cách mạng trong đó có đội nhất Lò Văn Mười, cai
Piệng…các nhân viên y tế như Cầm Văn Inh. Năm 1943 tổ chức cách mạng bí mật
đầu tiên được thành lập “Thanh niên cứu quốc”(Mú nóm chất mương) và phát
triển cùng với phong trào cách mạng sôi nổi trong cả nước.
Cuối năm 1943 đồng chí Chu Văn Thịnh được Chi bộ nhà tù Sơn La cử vào
Mường Chanh gây cơ sở cùng với đồng chí Cầm Vĩnh Tri, Cầm Minh…tổ chức
Hội Thanh niên cứu quốc gồm 12 hội viên. Vừa mới ra đời Hội Thanh niên cứu

quốc Mường Chanh đã phát huy vai trò nòng cốt, tổ chức đòi giảm thuế, bớt phu
8


phen, lôi cuốn thanh niên hăng hái tham gia làm cách mạng. Hội đã tổ chức được
Đội tự vệ do đồng chí Cầm Vĩnh Tri chỉ huy. Bản Lầm và Tranh Đấu là hai xã
thuộc Thuận Châu giáp ranh với xã Mường Chanh của Mai Sơn, phong trào cách
mạng sôi nổi ở Mường Chanh ảnh hưởng hai xã này, một số quan bản như quan
bản Xanh – Lò Văn Pậu; quan bản Pài – Lò Văn Sượi cùng Hội viên Mường
Chanh giác ngộ Thanh niên địa phương làm cách mạng.
Cuối năm 1944 ở bản Lầm, Tranh Đấu đã tổ chức được “Hội Thanh niên
cứu quốc” vận động nhân dân chống đi phu, đi lính, chống lại ách áp bức của phìa
tạo phong kiến và đế quốc.
Tháng 3 năm 1945 Nhật đảo chính Pháp, Trung Ương Đảng phát động
phong trào kháng Nhật cứu nước. Chớp thời cơ đó Chi bộ nhà tù Sơn La tổ chức
giải thoát tù chính trị(vượt ngục). Đồng chí Lê Trung Toản sau khi thoát ngục
được Xứ ủy Bắc Kỳ điều trở lại Sơn La cùng với đồng chí Chu Văn Thịnh củng cố
tăng cường hoạt động cách mạng. Hội Thanh niên cứu quốc và phong trào cách
mạng vùng bản Lầm, Tranh Đấu phát triển ngày càng mạnh mẽ lan rộng đến một
số vùng như bản Bó, Chiềng Ve. Cuối tháng 6 – 1945 Hội người Thái cứu quốc
được thành lập ở bản Bó gồm 11 hội viên do ông Cầm Văn Chung làm Hội trưởng.
Ngày 18-8-1945 cuộc khởi nghĩa ở Mường Chanh giành thắng lợi. Được
lệnh Xứ ủy Bắc Kỳ đồng chí Chu Văn Thịnh và Cầm Văn Minh đang dự huấn
luyện tại chiến khu Quang Trung gấp rút trở lại Sơn La tham gia lãnh đạo khởi
nghĩa. Đồng chí Quàng Đôn và Đỗ Trọng Thát được giao trách nhiệm phụ trách
lực lượng khởi nghĩa ở tỉnh lỵ lên Thuận Châu. Ngày 22-8-1945 dưới sự chỉ huy
của đồng chí Quàng Đôn, Đỗ Trọng Thát đội quân khởi nghĩa gồm 20 tay súng từ
bản Thé, xã Chiềng Xôm (Mường La) tiến lên Thuận Châu. Đồng thời một cánh
quân khởi nghĩa từ Tranh Đấu qua bản Lầm theo đường Muổi Nọi tiến lên Châu lỵ.
Hai cánh quân gặp nhau tại Muổi Nọi, hợp thành một đội quân đông đảo. Khoảng

2 giờ sáng ngày 23-8-1945 đoàn quân khởi nghĩa tiến vào bao vây châu đường và
nhà Bạc Cầm Quý, do có cai Piệng làm nội ứng nên cuộc khởi nghĩa nhanh chóng
giành thắng lợi.
Cuộc khởi nghĩa diễn ra nhanh gọn, có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các
cánh quân giành thắng lợi to lớn, trọn vẹn, thúc đẩy sự trưởng thành cách mạng địa
phương hòa nhập phong trào cách mạng sôi nổi trong toàn tỉnh, góp phần vào
thắng lợi chung của cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.
Khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi có ý nghĩa hết sức to lớn, nhân dân
Thuận Châu đã lật đổ được ách áp bức, cai trị của thực dân Pháp; xóa bỏ chế độ phong
kiến thống trị hàng nghìn năm. Nhân dân Thuận Châu thực sự trở thành người của bản,
mường cùng với nhân dân cả nước hồ hởi bước vào giai đoạn cách mạng mới.
III. KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP THẮNG LỢI (1946-1954)

1. Thực dân Pháp quay trở lại chiếm đóng Thuận Châu (1946-1948)
Bắt tay vào xây dựng chế độ mới, nhân dân các dân tộc Thuận Châu phải đối
mặt với muôn vàn khó khăn về kinh tế, chính trị, đặc biệt về an ninh quốc phòng.
9


Ngày 31-8-1945, quân Tưởng từ Lai Châu tràn xuống Sơn La. Đó là đội
quân ô hợp. Đi đến đâu chúng cũng hạch sách, nhũng nhiễu nhân dân và không
thừa nhận chính quyền Việt Minh. Các đồng chí lãnh đạo Tỉnh bộ Việt Minh đã
khéo léo thương thuyết để chúng rút hết quân về xuôi.
Thực dân Pháp không từ bỏ âm mưu quay trở lại xâm chiếm nước ta. Tháng
11-1945, từ Vân Nam chúng đánh chiếm Lai Châu. Trung ương điều các đại đội
Tây Tiến lên để ngăn chặn bước tiến của địch. Đến cuối tháng 3-1946, từ Tuần
Giáo, Pháp đánh mạnh vào Mường É – Thuận Châu và mở các cuộc tấn công dọc
theo đường quốc lộ 6 xuống châu lỵ. Từ sông Đà chúng vào Mường Sại Chiềng
Bằng, Chiềng Khoang, ra Tông Lạnh, Chiềng Pấc và tiếp tục mở rộng khắp địa bàn
Thuận Châu. Thế địch mạnh, ta phải vừa đánh vừa rút lui để bảo toàn lực lượng.

Các trận chiến đấu diễn ra ở Tranh Đấu, Bó Mười, Muổi Nọi, Hang Kọng …Một
số gia đình kháng chiến tản cư xuống các châu dưới. Đến tháng 4-1946, Thuận
Châu hoàn toàn rơi vào tay thực dân Pháp.
Chiếm được Thuận Châu, thực dân Pháp tập trung tổ chức bộ máy ngụy
quền từ châu đến các xã, bản, ra sức cướp bóc, đàn áp, trả thù những người theo
cách mạng, tuyên truyền chia rẽ, lừa phỉnh nhân dân, tô vẽ cái gọi là “Xứ Thái tự
trị”. Chúng đưa Bạc cầm Quý trở về làm Tri châu Thuận Châu. Trong suốt thời
gian từ 1946-1948, Thuận Châu được coi là hậu phương vững chắc của kẻ địch.
Năm 1949 địch cho đặt thêm “Viện dân biểu”, tổ chức đội võ trang “Thanh niên
Thái” chuyên đi do thám ở các bản.
Sống trong cảnh tăm tối, cực nhục, bị o ép mọi bề, nhân dân Thuận Châu vô
cùng căm phẫn bọn xâm lược và bè lũ tay sai, ngày đêm mong chờ bộ đội Việt
Minh trở về giải phóng bản mường.
2. Tổ chức xây dựng cơ sở cách mạng, xây dựng lực lượng kháng chiến, góp
phần vào thắng lợi của chiến dịch Tây Bắc, giải phóng Thuận Châu (1949-1952).
Đây là thời kỳ diễn biến tình hình chính trị, quân sự hết sức sôi động.
Vào năm 1949, các hoạt động kháng chiến của quân và dân ta trên phạm vi
toàn tỉnh diễn ra mạnh mẽ, vùng tự do được mở rộng. Ở Thuận châu tình hình có
nhiều biến chuyển, kế hoạch đưa cán bộ vào tuyên truyền, gây dựng cơ sở cách
mạng được chỉ đạo sát sao. Đầu năm 1949, ta gây dựng cơ sở Muổi Nọi, Mường
Pịn, Mường Piềng, Mường Khiêng và vùng cao Long Hẹ. Tại vùng cao Long Hẹ
đội xung phong Trung Dũng liên kết với các đồng chí địa phương Thống quán:
Thào Khua Chỉnh, Thào Ngọc Lương…
Đội du kích Long Hẹ do ông Thào Khua Chỉnh, Thào Ngọc Lương phụ
trách, ngày đêm luyện tập dưới sự chỉ đạo của đội Trung Dũng tổ chức chống càn,
bảo vệ dân, bảo vệ mùa màng.
Ngày 25-5-1949 các đại đội 870, 818, 468 tổ chức tấn công vào huyện lỵ
Thuận Châu - hậu phương của địch đã bị uy hiếp. Tháng 7-1949 địch tổ chức cuộc
càn vào các cơ sở tổ chức của ta. Chúng tăng cường lực lượng lính cho đồn Mường
Lầm. Ngày 19-7-1949 đại đội 248 tổ chức diệt tề ở Mường Piềng. Kết quả hai bố

con phìa Mường Piềng phải đền tội, thu 1 súng trường Mỹ, 1 súng lục. Tháng 810


1949 đội Trung Dũng tổ chức diệt tề ở Mường É, bắt được tên trưởng bản, thu 5
ngựa. Đi đến đâu tổ chức đội du kích của ta đều được nhân dân ủng hộ. Tháng
12-1949 Ủy ban kháng chiến hành chính Thuận Châu được thành lập, đồng chí
Lương Sơn(Lường Xuân Yến) làm chủ tịch. Một chi bộ độc lập hình thành gồm 7
đảng viên do tỉnh cử lên hoạt động gây cơ sở đã lãnh đạo phong trào kháng chiến ở
địa phương ngày càng phát triển mạnh mẽ: điển hình là khu du kích Long Hẹ, khu
Tranh Đấu, Mường Khiêng…
Năm 1950-1951 Sơn La bước vào cuộc chiến gay go, quyết liệt nhất, địch tổ
chức cuộc càn vào các khu du kích Mường La, Mai Sơn, Thuận Châu, Mộc Châu,
Phù Yên. Các đại đội độc lập trên địa bàn Sơn La đã rút về để xây dựng trung đoàn
chủ lực. Trên chiến trường Thuận Châu chỉ còn đại đội 438(Trung Dũng) đứng
chân ở Long Hẹ, Mường Bám. Ngày 26-2-1950 đội Trung Dũng đánh úp vọng gác
Tênh Phông(Tuần Giáo), đột nhập nhà tên thống lý phản động ở Long Hẹ. Bộ đội
Trung Dũng, du kích Long Hẹ phối hợp tổ chức nhân dân kiên quyết đấu tranh và
giành được thắng lợi, thiết lập chính quyền nhân dân. Ủy ban hành chính kháng
chiến Long Hẹ được thành lập gồm 5 người:
1. Thào Khua Chỉnh – Chủ tịch
2. Thào Ngọc Lương – Phó Chủ tịch
3. Vừ Giống Sy - Ủy viên
4. Vàng Chống Thào - Ủy viên phụ trách kinh tế
5. Thào Vàng Mua - Ủy viên phụ trách xã đội.
Ngày 14-3-1950 tên thống lý phản động đã dẫn hơn 100 tên địch từ đồn
Thuận Châu lên khủng bố Long Hẹ, gặp phải đội du kích Long Hẹ và bộ đội, địch
thất bại đành rút lui.
Ngày 13-6-1950 thực dân Pháp tiếp tục điều trên 200 tên địch do cha con
thống lý đưa đường từ Thuận Châu lên càn quét Long Hẹ, É Tòng. Tiểu đoàn 105
huy động 2 đại đội Trung Dũng 926 lên phục kích tại Pú Chênh, Pú Chang (Pú

Chứn, Pú Chắn), bảo vệ cơ sở Long Hẹ. Kết quả ta giết được một số địch, thu
nhiều vũ khí và buộc địch phải rút khỏi Long Hẹ.
Bước sang năm 1951,1952, Thuận Châu liên tục bị thực dân Pháp mở cuộc
càn quét trên quy mô lớn gây cho ta nhiều khó khăn và thiệt hại.
Nhằm tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng đối với phong trào kháng
chiến ở Thuận Châu, Tỉnh ủy Sơn La quyết định thành lập Ban liên huyện Mai –
Thuận gồm 5 đồng chí do đồng chí Đỗ Anh Châu làm bí thư. Ban cán sự Mai –
Thuận và phong trào kháng chiến ở địa phương không ngừng lớn mạnh. Các cuộc
chiến đấu chống càn, giữ cơ sở diễn ra quyết liệt, anh dũng, tạo điều kiện thuận lợi
cho lực lượng chủ lực tiến công vào giải phóng quê hương.
Ngày 14-10-1952, chiến dịch Tây Bắc mở màn và kết thúc đợt I ngày 24-101952 ta giành thắng lợi lớn: đánh tan đại bộ phận quân địch và giải phóng Nghĩa
Lộ, Phù Yên, Quỳnh Nhai và tả ngạn Mường La.
11


Đợt II diễn ra từ ngày 17 đến ngày 22-11-1952, bộ đội ta phối hợp với du
kích địa phương đánh địch từ phía Nam lên giải phóng Mộc Châu, Yên Châu. Một
cánh quân vu hồi từ Bắc Sơn La và Nam Lai Châu gồm Trung đoàn 165 và Tiểu
đoàn 910 (thuộc Trung đoàn 148) đã tiến công giải phóng Luân Châu, Tuần Giáo,
sau đó thọc xuống đánh chiếm giải phóng huyện Thuận Châu ngày 21-11-1952.
Chiến dịch Tây Bắc kết thúc Thắng lợi. Đây là mốc son chói lọi đi vào lịch sử
kháng chiến của nhân dân các dân tộc Thuận Châu.
3. Khôi phục kinh tế, ổn định đời sống và bảo vệ vùng mới giải phóng, góp
phần vào chiến dịch tiễu phỉ và chiến dịch Điện Biên Phủ thắng lợi (1953-1954)
Được giải phóng, quân dân các dân tộc Thuận Châu hồ hởi bắt tay vào xây
dựng cuộc sống mới. Nhưng vẫn còn gặp nhiều khó khăn, nhân dân còn hoang
mang, chưa hiểu rõ chủ trương chính sách của Đảng. Trước tình hình đó Ủy ban
kháng chiến hành chính huyện được kiện toàn, đồng chí Lương Sơn làm Chủ tịch.
Các xã đều thành lập Ủy ban hành chính; đã vận động nhân dân tích cực lao động
sản xuất; tiến hành chia ruộng đất, sản xuất phát triển, đạt được những thành tích

đáng kể; cuộc sống dần ổn định; tiêu tiền Việt Nam, thu tiền Đông Dương; bán cho
nhân dân muối, dầu, vải…mọi chính sách hậu phương đối với tiền tuyến được triển
khai tích cực ( góp được 532 tấn lương thực cho chiến dịch Điện Biên Phủ và là
một trong bốn huyện được Khu Tây Bắc khen thưởng). Hệ thống chính trị, quân sự
nhanh chóng được củng cố, kiện toàn.
Với âm mưu chiếm lại vùng đất đã mất, thực dân Pháp liên tiếp tấn công vào
vùng tự do của ta, cài cắm bọn ngụy quyền, do thám hoạt động. Từ cứ điểm Nà
Sản, chúng tiến đánh chiếm Thuận Châu, lập lại chính quyền ngụy, tổ chức gián
điệp ở khắp các xã, bản, lùng sục đốt phá kho tàng, đánh úp các cơ quan bộ đội, du
kích, gây phỉ ở khắp nơi, làm cho đời sống nhân điêu đứng. Trước những âm mưu
thâm độc và hành động ngang ngược của Thực dân pháp, bằng mọi nỗ lực, Đảng
bộ và nhân dân Thuận Châu vững vàng trước mọi diễn biến tình hình mới, xây
dựng và bảo vệ quê hương vững chắc; đặc biệt đã phối hợp với lực lượng chủ lực
của tỉnh đánh bại hoàn toàn âm mưu gây phỉ, góp phần vào thắng lợi chung của
chiến dịch Điện Biên Phủ.
Phát huy truyền thông yêu nước, sức mạnh đoàn kết trong kháng chiến, nhân
dân các dân tộc Thuận Châu dưới sự lãnh đạo của Đảng, cùng nhân dân cả nước
bước vào giai đoạn cách mạng mới, thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
c. Củng cố, luyện tập
- GV khái quát lại nội dung bài học.
- Câu hỏi luyện tập: Nêu tên một số chiến sỹ cộng sản ở đạim phwong em
trong thời kỳ 1930-1954.
d. Hướng dẫn học sinh tự học ở nhà
- Ôn lại nội dung bài học
- Sưu tầm các mẩu truyện về các chiến sỹ cộng sản ở địa phương em.
12


ĐỀ CƯƠNG LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG LỚP 7 (TIẾT 2)


CHƯƠNG II
ĐẢNG BỘ THUẬN CHÂU LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN CÁC DÂN TỘC
TRONG HUYỆN XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ KHÁNG CHIẾN
CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC (1955-1965)
1. Mục tiêu
Sau khi học xong bài này học sinh cần nắm được
a.Về kiến thức:
Nắm được một số nét khái quát tình hình huyện Thuận Châu trong cuộc
kháng chiếng chống thực dân Pháp và công cuộc khôi phục và cải tạo, phát triển
kinh tế- xã hội, củng cố tiềm lực quốc phòng.
b. Về thái độ: Giáo dục lòng tự hào về truyền thống lịch sử của huyện Thuận Châu.
c. Về kĩ năng: Rèn luyện kĩ năng đánh giá, nhận xét các sự kiện lịch sử.
2. Chuẩn bị
a. Giáo viên:
- Soạn giáo án, nghiên cứu các tài liệu tham khảo.
- Tranh ảnh, tư liệu liên quan đến sự kiện Chủ tịch Hồ Chí Minh lên thăm Thuận
Châu (ngày 7/5/1959).
b. Học sinh:
Sưu tầm các tranh ảnh, tư liệu liên quan đến bài học.
3. Tiến trình bài dạy
a. Kiểm tra sự chuẩn bị của học sinh
b. Bài mới.
I. KHÔI PHỤC, CẢI TẠO VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ-XÃ HỘI (1955-1957)

Năm 1955, Thuận Châu cùng với các địa phương miền Bắc bắt tay vào khôi
phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh trong muôn vàn khó khăn về kinh tế,
xã hội.
Trước những khó khăn trên Đảng bộ Thuận Châu Quyết tâm lãnh đạo nhân
dân vượt qua mọi thử thách. Tuy số lượng Đảng viên còn mỏng nhưng đều có lập

trường tư tưởng vững vàng. Mặt khác dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ nhân dân đã
được bồi dưỡng và có sự trưởng thành về nhận thức đó là những điều kiện thuận
lợi để xây dựng, phát triển kinh tế-xã hội của Thuận Châu.
Ngày 29-4-1955 Chính phủ ra Sắc lệnh số 230 về thành lập khu tự trị TháiMèo, bỏ cấp tỉnh các huyện đổi thành châu trực thuộc khu. Thuận Châu là một

13


trong 18 châu của khu tự trị Thái-Mèo. Các cơ quan của Khu đóng tại thị trấn
Thuận Châu.
Trong bối cảnh mới để nhân dân đón nhận thể chế chính trị mới và bắt tay
vào xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong những năm 1955-1956 Đảng bộ Thuận
Châu đã tổ chức nhiều đợt sinh hoạt chính trị. Gắn với các đợt sinh hoạt chính trị
Đảng vận động nhân dân tăng gia sản xuất thực hành tiết kiệm.
Cuộc vận động bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp vào năm 1955 được nhân
dân hưởng ứng giành thắng lợi. Bộ máy chính quyền các cấp ở địa phương được
kiện toàn.
Tháng 6-1956, khu ủy họp và ra nghị quyết về việc khôi phục, phát triển
kinh tế - xã hội và công tác giữ gìn trật tự an ninh quốc phòng.
Quán triệt nghị quyết của ban chấp hành, Đảng bộ khu ban cán sự Thuận Châu
xác định nhiệm vụ trọng tâm là khôi phục sản xuất xây dựng hệ thống thủy lợi ...
Năm 1955 công tác cứu đói được tiến hành, Đảng bộ đã vận động nhân dân
tham gia phong trào “Lá lành đùm lá rách”, được nhân dân ủng hộ. Tình trạng đói
ở địa phương được đẩy lùi. Trong năm 1955 có 2908 người được cứu đói. Cùng
với công tác cứu trợ, công tác điều tra chia ruộng đất được tiến hành đến cuối năm
1955 đã hoàn thành, nhân dân đã có ruộng hăng hái thi đua lao động sản xuất.
Trong công cuộc khôi phục kinh tế - xã hội nhiệm vụ củng cố vùng cao
được Đảng bộ chú trọng thực hiện, ngày 12.9.1957, ban cán sự châu ra nghị quyết
về công tác củng cố vùng cao.
Sau ba năm thực hiện (1955-1957), cải tạo, phát triển kinh tế, xã hội , Đảng

bộ và nhân dân Thuận Châu đạt được nhiều thành tựu đáng kể, sản xuát phát triển
riêng năm 1956 diện tích lúa toàn huyện lên hơn 5 000 mẫu.
Cùng với sản xuất nông nghiệp các ngành kinh tế như thương nghiệp, bưu
điện, ngân hàng, thuế bắt đầu hình thành, phát triển.
Các hoạt động văn hóa, giáo dục, y tế đều có những tiến bộ như: phong trào
“bình dân học vụ” phát triển. Bên cạnh đó những lớp hệ giáo dục phổ thông được
xây dựng.
Văn hóa – văn nghệ truyền thống của nhân dân các dân tộc được phát huy.
Các hoạt động múa xòe, tung còn được tổ chức vào các ngày lễ lớn.
Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân có hướng hoạt động tích cực. Các
hoạt động kết hợp giữa điều trị, cấp phát thuốc và đào tạo ngắn hạn về nghiệp vụ
y tá, nữ hộ sinh ... được quan tâm xây dựng.
Qua ba năm lãnh đạo nhân dân thực hiện nhiệm vụ cách mạng, Đảng bộ đã
xây dựng được 6 chi bộ với 53 Đảng viên.
Trong ba năm thực hiện nhiệm vụ khôi phục và xây dựng kinh tế- xã hội
Đảng bộ và nhân dân Thuận Châu đã vượt qua mọi khó khăn thử thách. Nền khin
tế - xã hội sau chiến tranh nhanh chóng được phục hồi. Thành quả đó đã đặt nền
tảng để Thuận Châu vững vàng bước tiếp những chặng đường mới.
14


II. ĐẢNG BỘ THUẬN CHÂU LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN CÁC DÂN TỘC
TRONG HUYỆN TIẾN HÀNH CẢI TẠO XÃ HỘI CHỦ NGHĨA (1958-1960)

Năm 1958 công cuộc khôi phục phát triển kinh tế xã hội tiếp tục được đẩy
mạnh, nhiều hoạt động có hướng phát triển tích cực, đặc biệt là phong trào sản xuất
lương thực. Phong trào đổi công trong sản xuất nông nghiệp đã phát triển, đặt nền
tảng cho phong trào xây dựng hợp tác xã sau này.
Quán triệt nghị quyết hội nghị 14, 16 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng,
được sự chỉ đạo của khu ủy, Tháng 5-1959, Đảng bộ Thuận Châu tổ chức hội nghị,

thống nhất quan điểm kế hoạch chỉ đạo vận động xây dựng hợp tác xã nông nghiệp.
Cũng trong thời điểm này một tin vui đến với đồng bào các dân tộc Thuận
Châu. Ngày 7.5.1959, Hồ Chủ Tịch cùng với phái đoàn Chính phủ lên thăm Tây
Bắc. Nhân dân Các dân tộc Thuận Châu vinh dự được thay mặt đồng bào các dân
tộc Tây Bắc tổ chức mít tinh trọng thể đón Người tại sân vận động Thuận Châu.
Tại buổi lễ mít tinh, Người căn dặn đồng bào “Thi đua tăng gia sản xuất
thực hành tiết kiệm ...Trong mọi công việc phải ra sức giúp đỡ đồng bào ở rẻo
cao”. Những lời huấn thị của người là nguồn động viên mạnh mẽ Đảng bộ và nhân
dân các dân tộc vượt mọi khó khăn, thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ.
Bước vào thực hiện cuộc vận động xây dựng hợp tác hóa nông nghiệp, hoàn
thành cải cách dân chủ ở Thuận Châu diễn ra thuận lợi.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Bộ Thuận Châu. Đến giữa năm 1959, 100% số xã,
bản đã tổ chức cho quần chúng tham gia học tập, sinh hoạt chính trị tư tưởng. Trên cơ
sở đó đề ra kế hoạch xây dựng hợp tác xã, việc phân định thành phần giai cấp được
chỉ đạo sát sao. Đến tháng 9.1959, công tác cải cách dân chủ cơ bản hoàn thành.
Đồng thời với cải cách dân chủ, Thuận Châu bắt tay vào công cuộc vận động
xây dựng hợp tác xã nông nghiệp. Trong hai tháng (10, 11-1959), hợp tác xã đầu
tiên ở Thuận Châu ra đời. Sau 5 đợt cải cách số hợp tác xã nông nghiệp được tăng
lên không ngừng.
Bên cạnh việc xây dựng điểm hợp tác xã nông nghiệp các tổ đổi công cũng
không ngừng được củng cố, tạo tiền đề thuận lợi thúc đẩy phong trào hợp tác xã ở
địa phương tiếp tục phát triển rộng.
Là một huyện miền núi giao thông khó khăn, kinh tế hàng hóa chưa phát
triển, chỉ có một số tiểu thương buôn bán nhỏ lẻ, đã được cấp ủy Đảng tuyên
truyền giáo dục, sớm cải tạo, vào hợp tác xã chuyển sang sản xuất nông nghiệp.
Thị trường giá cả được quản lý.
Công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa cơ bản hoàn thành, nền kinh tế dựa trên hai
hình thức sở hữu cơ bản là sở hữu tập thể và sở hữu toàn dân. Các hình thức tổ chức
kinh tế quốc doanh, hợp tác phát triển.
Năm 1960, với việc áp dụng phương thức sản xuất mới trong nông nghiệp.

Hiệu quả lao động tăng. Năm 1959 sản lượng lúa đạt 3700 tấn, tăng 12,5% so với
năm 1958. Các loại cây công nghiệp phát triển mạnh. Năm 1958, diện tích trồng
cây công nghiệp đạt 10 mẫu thái, năm 1960 tăng lên hơn 20 mẫu.
15


Cùng với trồng trọt, chăn nuôi được quan tâm, mức phấn đấu năm 1960 phải
đạt 8000 con trâu, 1000 con bò, 20000 con lợn, 2968 con dê. Nguồn lợi từ chăn
nuôi đã chiếm vị trí quan trọng, phục vụ sản xuất và nghĩa vụ đối với nhà nước.
Các hợp tác xã tín dụng và hợp tác xã mua bán hình thành, phát triển phát huy tốt
vai trò dịch vụ, thông thương buôn bán phục vụ đời sống và sản xuất. Các hợp tác
xã tín dụng đã huy động được nguồn vốn trong dân, phục vụ sản xuất.
Văn hóa, văn nghệ, giáo dục, y tế trong ba năm (1958-1960) được các cấp
ủy Đảng quan tâm chỉ đạo, có nhiều tiến bộ, đóng vai trò quan trọng trong việc
tuyên truyền đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước, bồi dưỡng nâng cao trình
độ dân trí Công tác chăm lo sức khỏe nhân dân được quan tâm. Hệ thống giáo dục
tiếp tục được phát triển.
Cùng với các nhiệm vụ phát triển văn hóa, y tế, giáo dục nhiệm vụ cấp bách là
nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng trong toàn lực lượng lượng vũ
trang, đã được các cấp ủy Đảng chỉ đạo tích cực. Bên cạnh việc tổ chức quán triệt các
nghị quyết 14,15,16 của ban chấp hành Trung ương Đảng các đợt vận động chỉnh
huấn chính trị cũng được triển khai. Những hoạt động tuyên truyền về tình hình an
ninh giác ngộ ý thức, trách nhiệm bảo vệ tổ quốc, của công được đẩy mạnh.
Với những nỗ lực trên, tình hình an ninh chính trị trong toàn huyện ổn định,
bảo đảm cho cuộc bầu cử hội đồng nhân dân vào tháng 8, tháng 9 năm 1959 thắng
lợi 502 ứng cử viên Hội đồng nhân dân xã, 50 ứng cử viên hội đồng nhân dân châu
trúng cử tiếp tục đảm đương trọng trách lãnh đạo.
Các tổ chức chính trị - xã hội vươn lên về mọi mặt phát huy tốt vai trò nòng cốt
của mình, cùng nhân dân thực hiện công cuộc củng cố cải tạo xã hội chủ nghĩa.
Đầu những năm 60 những công trình thủy lợi giao thông được đưa vào sử

dụng, hàng trăm tấn phân được huy động phục vụ sản xuất. Đoàn thanh niên, chi
hội Phụ nữ xã Chiềng Pấc, Mường Sại, Bản Lầm...luôn xung kích, đi đầu trong
phong trào xây dựng, nếp sống văn hóa mới.
Thành quả bước đầu đat được trên các lĩnh vực kinh tế- xã hội, an ninh quốc
phòng đã khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng bộ, đưa Thuận Châu ngày càng
phát triển tiến kịp với xu thế của thời kỳ mới đáp ứng nguyện vọng của nhân dân.
Thực tiễn cho thấy đến những năm 1957-1958 ở địa phương vẫn còn nhiều
bất cập về năng lực lãnh đạo. Vì vậy nhiệm vụ chính trị giai đoạn mới, yêu cầu
củng cố xây dựng Đảng, đảm bảo cho Đảng bộ thực sự giữ vai trò hạt nhân lãnh
đạo trên mọi hoạt động ở địa phương là vấn đề cấp bách.
Tháng 5-1959 khu ủy mở hội nghị chuyên đề bàn về công tác xây dựng
Đảng. Trong đó hội nghị đặc biệt nhấn mạnh chủ trương “Đẩy mạnh phát triển
Đảng viên mới, thành lập chi bộ xã”.
Các cấp ủy Đảng lựa chọn tập trung vào những cốt cán xã, bản. Trong hai
năm vận động xây dựng, phát triển Đảng đạt được thành tích to lớn. Đặc biệt ở khu
vực nông thôn, đến đầu năm 1960 hầu hết các xã đã thành lập được chi bộ Đảng.

16


Tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng, tháng 5-1960, Đại
hội đại biểu Đảng bộ Thuận Châu lần thứ I được tổ chức tại xã Chiềng Ly. Đây là
sự kiện chính trị có ý nghĩa quan trọng đối với bước phát triển của huyện Thuận
Châu. Đại hội đã tập trung đánh giá tổng kết quá trình thực hiện những nhiệm vụ
chính trị từ năm 1954.
Xác định mục tiêu nhiệm vụ năm 1960-1961. Đại hội chủ trương. Đẩy mạnh
phát triển nông nghiệp toàn diện lấy sản xuất lương thực làm nhiệm vụ trọng tâm
vận động mạnh mẽ phong trào xây dựng hợp tác hóa nông nghiệp,tăng cường và
củng cố hệ thống trường học, các cơ sở y tế phục vụ chăm sóc sức khỏe nhân dân,
giữ vững an ninh quốc phòng ...

Đại hội bầu đồng chí Lê Ninh làm bí thư Châu ủy khóa I.
Ba năm (1958-1960) thực hiện công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, tiến hành
hợp tác hóa nông nghiệp hoàn thành cải cách dân chủ, dưới sự lãnh đạo của ban
cán sự châu, khu ủy Tây Bắc, Thuận Châu đã từng bước tháo gỡ khó khăn, đoàn
kết các dân tộc, đẩy mạnh các phong trào cách mạng trong quần chúng, thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ chính trị của địa phương. Tạo điều kiện để Thuận Châu bước
vào thực hiện kế hoạch nhà nước 5 năm lần thứ nhất.
Quán triệt tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Khu lần thứ I, Đại hội Đảng
bộ Thuận Châu lần thứ II họp từ ngày 15 đến 20-11-1961. Đại hội xác định nhiệm
vụ năm 1962 của địa phương là: “Từng bước mở rộng quy môn hợp tác xã, tích cực
phát triển sản xuất nông nghiệp toàn diện, lấy sản xuất lương thực làm trung tâm,
đồng thời đẩy mạnh chăn nuôi, trồng cây công nghiệp. Tăng cường công tác giáo
dục – đào tạo; xây dựng nếp sống văn hóa mới…”. Đại hội đã bầu đồng chí Phương
Lung làm Bí thư Châu ủy khóa II. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, nhân dân các dân
tộc Thuận Châu ra sức thực hiện những nhiệm vụ do Đại hội đề ra.
Ngày 27-10-1962, tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa II đã ra Nghị quyết đổi
tên Khu tự trị Thái-Mèo thành Khu tự trị Tây Bắc, lập lại tỉnh Sơn La trực thuộc
Khu tự trị Tây Bắc gồm tám huyện, thị: Mộc Châu, Yên Châu, Mai Sơn, Thuận
Châu, Quỳnh Nhai, Mường La, Sông Mã, thị xã Sơn La.
Đại hội Đảng bộ huyện Thuận Châu lần thứ III được tổ chức tại thị trấn
Thuận Châu từ ngày 7 đến ngày 12-3-1963, về dự Đại hội có 113 đại biểu, thay
mặt cho toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân các dân tộc trog huyện. Đại hội đã
bầu Ban Chấp hành khóa III, gồm 23 đồng chí, đồng chí Phạm Thanh được bầu
làm Bí thư Huyện ủy.
Đại hội khẳng định: Cuộc vận động củng cố hợp tác hóa đạt kết quả, từng
bước đẩy mạnh phong trào cải tiến kỹ thuật sản xuất phát triển. Tuy nhiên phong
trào xây dựng hợp tác hóa chưa được củng cố vững chắc, hầu hết đội ngũ cán bộ
hợp tác xã chưa qua đào tạo cơ bản về chuyên môn nghiệp vụ; năng lực lãnh đạo,
chỉ đạo không theo kịp yêu cầu thực tiễn…. Tốc độ phát triển nền kinh tế-xã hội
chậm, không đồng đều giữa các ngành… Đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn.

Đại hội Đảng bộ huyện Thuận Châu lần thứ IV được tổ chức vào tháng 101964. Đại hội nhận định: Nền kinh tế có bước phát triển tiến bộ. Sản xuất nông
17


nghiệp đã có hướng phát triển toàn diện, đảm bảo sản lượng lương thực đề ra. Hoạt
động của các ngành kinh tế, văn hóa-xã hội, y tế, giáo dục ngày càng được đẩy
mạnh; hệ thống chính trị ổn định. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành khóa IV gồm 20
đồng chí, đồng chí Nguyễn Xuân Định được bầu làm Bí thư Huyện ủy. Đồng chí
Pha Sung được bầu làm Phó Bí thư.
III. KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC (1955-1965)

Trong những năm 1955-1957 một số phần tử cực đoan bất mãn, những
người đã từng lầm đường theo giặc được các thế lực đế quốc tay sai kích động đã
không từ những thủ đoạn xảo quyệt tuyên truyền xuyên tạc chủ trương chính sách
của Đảng và nhà nước để chống phá cách mạng ....nhằm gây hoang mang dao động
trong đồng bào các dân tộc.
Trước tình hình đó được sự chỉ đạo của Khu ủy, Ban cán sự Châu đã đoàn
kết, Phát huy tốt vai trò lãnh đạo, có các biện pháp chỉ đạo kịp thời với tình hình
mới. Một mặt chú ý củng cố đẩy mạnh công tác tuyên truyền nhằm vạch rõ những
âm mưu,thủ đoạn chống phá cách mạng của kẻ địch; mặt khác tăng cường xây dực
lực lượng. Đến năm 1957 lực lượng vũ trang ở địa phương cơ bản được kiện toàn
biên chế. Quân số lực lượng dân quân du kích phát triển mạnh gồm 391 đồng chí.
Bên cạnh việc chăm lo phát triển quân số công tác giáo dục chính trị tư
tưởng, luyện tập quân sự trong lực lượng được tổ chức thường xuyên để bảo vệ
cuộc sống của nhân dân, bảo vệ Đảng.
Giai đoạn 1958-1960 ban chấp hành Đảng bộ các cấp ủy Đảng chỉ đạo sát
sao trên mọi địa bàn, đồng thời đẩy mạnh triển khai chủ trương “Xây dựng lực
lượng làm công tác bảo vệ an ninh quốc phòng ở cơ sở vững mạnh”.
Vào những năm 1962-1963, trên địa bàn tỉnh Sơn La, máy bay Mỹ hoạt
động thám thính dọc tuyến biên giới Việt- Lào với số lượng ngày càng nhiều. Ở

Thuận Châu, tình hình diễn biến ngày càng phức tạp. Những vùng xung yếu như
Long Hẹ, Pá Lông, Mường Sại ...liên tục có những hoạt động thả truyền đơn, gây
tâm lý chiến tranh. Đồng thời những phần tử phản động địa phương ra sức hoạt
động chống phá chính quyền dưới nhiều hình thức và thủ đoạn nham hiểm.
Trước tình hình đó, ngày 23-8-1963, Ban Chấp hành Đảng bộ Thuận Châu
họp và xác định nhiệm vụ cấp bách đặt ra là: phòng chống và ngăn chặn có hiệu
quả mọi hoạt động gián điệp. biệt kích, giữ vững trật tự trị an, quốc phòng ở địa
phương.Tăng cường công tác điều tra, tuyên truyền, giáo dục nhân dân đề cao cảnh
giác...đẩy mạnh phong trào bảo vệ trị an trong quần chúng nhân dân; thực hiện tốt
công tác bảo vệ nội bộ.
Ngoài ra các cấp ủy Đảng đã chỉ đạo khẩn trương lập kế hoạch, xây dựng
phương án tác chiến trên các địa bàn. Chế độ trực chiến bắt đầu được thực hiện.
các tổ chức dân quân tự vệ tăng cường củng cố, bổ sung về lực lượng, trang bị vũ
khí sẵn sàng chiến đấu.
Kết hợp thực hiện Nghị quyết 39, 81 của Bộ Chính trị, công tác giáo dục, cải
tạo bọn phản động địa phương được đẩy mạnh. Lực lượng bảo vệ nội bộ địa
18


phương phối hợp chặt chẽ với các cấp các ngành, công an tỉnh tăng cường hoạt
động, theo dõi nắm bắt tình hình, diễn biến âm mưu của các phần tử phản động ,
triển khai kế hoạch lập hồ sơ đối tượng gồm gián điệp, biệt kích, ngụy, phỉ cũ có
biểu hiện nghi vấn.
Với những nỗ lực trên, Đảng bộ và nhân dân Thuận Châu vững vàng trước
mọi diễn biến của tình hình, sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ vững chắc hậu phương xã
hội chủ nghĩa.
c. Củng cố, luyện tập.
- GV khái quát lại nội dung bài học.
- Câu hỏi luyện tập:
? Trách nhiệm của bản thân em để bảo vệ những di tích lịch sử cũng như góp sức

mình vào xây dựng quê hương ngày càng giầu đẹp?
d. Hướng dẫn học bài ở nhà.
- Tiếp tục nghiên cứu lại nội dung bài học.
- Hoàn thành trả lời các câu hỏi phần luyện tập.
-----------------------------

19


LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG LỚP 7- TIẾT 3
CHƯƠNG II:
ĐẢNG BỘ THUẬN CHÂU LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN CÁC DÂN TỘC
TRONG HUYỆN XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ KHÁNG CHIẾN
CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC (1965-1975)

1. Mục tiêu
a.Về kiến thức:
Nắm được một số nét khái quát tình hình huyện Thuận Châu trong cuộc
kháng chiếng chống đế quốc Mỹ và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, khôi
phục kinh tế-xã hội, tiếp tục chi viện cho miền Nam.
b. Về thái độ: Giáo dục lòng tự hào về truyền thống lịch sử của huyện Thuận Châu.
c. Về kĩ năng: Rèn luyện kĩ năng đánh giá, nhận xét các sự kiện lịch sử.
2. Chuẩn bị
a. Giáo viên:
- Soạn giáo án, nghiên cứu các tài liệu tham khảo.
b. Học sinh:
- Chuẩn bị các nội dung liên quan đến bài học: nhân dân các dân tộc Thuận Châu
đã tham gia kháng chiến chống Mỹ như thế nào, sưu tầm các tranh ảnh liên quan
đến bài học.
3. Tiến trình bài dạy

a. Kiểm tra sự chuẩn bị của học sinh
b. Bài mới.
I. ĐẢNG BỘ THUẬN CHÂU LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN CÁC DÂN TỘC
TRONG HUYỆN VỪA XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI, VỪA CHỐNG
CHIẾN TRANH PHÁ HOẠI CỦA ĐẾ QUỐC MỸ, THỰC HIỆN NHIỆM VỤ CHI
VIỆN CHO MIỀN NAM (1965-1972)

Công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng
miền Nam của nhân dân ta ngày càng gặp nhiều cam go thử thách
Trước tình hình đó, nhiệm vụ cấp bách của quân và dân ta trong thời kì mới
được Hội nghị lần thứ 11, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa III) họp từ ngày
25 đến 27 – 3 – 1965 xác định: “Miền Nam vẫn là tiền tuyến lớn, miền Bắc vẫn là
hậu phương lớn, nhiệm vụ của miền Bắc là vừa xây dựng vừa trực tiếp chiến đấu,
chi viện cho tiền tuyến miền Nam”. Cả nước đoàn kết nhất trí triệu người như một,
quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.
20


Quán triệt hội nghị lần thứ 11 của Ban Chấp hành Trung ương, Tỉnh ủy Sơn
La quyết định chuyển hướng hoạt động của tỉnh từ thời bình sang thời chiến, trong
đó chủ trương “phát triển nông – lâm nghiệp là nhiệm vụ trọng tâm.
Cụ thể hóa chủ trương của hội nghị lần thứ 11, Ban chấp hành Trung ương
Đảng và nghị quyết của tỉnh ủy Sơn La, ngày 15 – 5 – 1965, huyện ủy Thuận Châu
ra nghị quyết: Ra sức củng cố lực lượng vũ trang vững mạnh sẵn sàng chiến đấu
cao”, tích cực công tác tư tưởng trong cán bộ, nhân dân. Tăng cường hơn nữa công
tác bảo vệ trị an, phòng chống gián điệp, biệt kích.
Dưới sự lãnh đạo sát sao của Huyện ủy, các cấp ủy đảng khẩn trương vừa tổ
chức cho cán bộ Đảng viên và quần chúng học tập, quán triệt nhận định tình hình,
nhiệm vụ mới.
Ngày 14 – 6 – 1965, máy bay Mỹ bắt đầu bắn phá vào địa phận tỉnh Sơn La.

Trong vòng 6 tháng cuối năm 1965, Sơn La phải hứng chịu 6300 quả bom các cỡ,
trên 200 điểm bị bắn phá. Ngày 20 – 6 – 1965, máy bay bắn địch phá Mường Sại
huyện Thuận Châu. Đến tháng 12 – 1965, Thuận Châu bị địch bắn phá ác liệt tại
76 địa điểm, trong đó có dồn dập ở các khu vực thị trấn, nhà máy xi măng Chiềng
Pấc, Nhà máy đường, cầu Nà Hày, cầu bản Hình, Mường Sại, Bình Thuận, Ninh
Thuận, Mường Bám, Phúc Tang, Chiềng Khoang, Bó Mười, hơn 30 người bị chết,
hơn 100 nóc nhà bị cháy hoàn toàn.
Trước sự phá hoại ác liệt của kẻ địch, quân và dân các dân tộc Thuận Châu
phát huy cao độ về tinh thần yêu nước, dũng cảm bắn máy bay địch, bảo vệ an toàn
cơ sở giữ vững hậu phương.
Tháng 6 - 1965 tổ dân quân Thôn Mòn và đội tự vệ cơ quan bắn cháy một
máy bay F 105D của đế quốc Mỹ, bắt sống tên phi công nhảy dù xuống Muổi Nọi
(Chiềng Sinh)
Đế quốc Mỹ không chỉ tập trung lực lượng không quân đánh phá mà kết hợp
cả lực lượng gián điệp, biệt kích tung xuống các địa bàn để phá hoại. Thuận Châu
là một trong những trọng điểm tập kết của chúng.
Bám sát chủ trương của Tỉnh ủy Sơn La. Đảng bộ Thuận Châu khẩn trương
triển khai các phương án bảo vệ an ninh; bố trí, phân công cán bộ (chủ yếu là các
trưởng, phó ngành) phụ trách, chỉ đạo giám sát sao các xã tăng cường tuyên truyền,
giáo dục nhân dân đề cao cảnh giác, quản lý chặt chẽ các địa bàn, nhất là vùng
xung yếu.
Ngày 17 – 9 -1965 toán biệt kích mật danh Dogt gồm 9 tên và ngày 18 – 10 –
1965, toán biệt kích khác gồm 3 tên đã bị lực lượng an ninh, bộ đội Thuận Châu và
tỉnh Sơn La bắt gọn. Cùng thời gian đó, tên Quàng Văn Tin cầm đầu 19 tên có hoạt
động chống đối chính quyền, đe dọa giết cán bộ... đã bị phát hiện, xử lý.
Trước tình hình đó hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 12 (họp
từ ngày 21 đến ngày 26-12-1965 chỉ đạo tiếp tục giương cao ngọn cờ đấu tranh bảo
vệ nền độc lập của dân tộc.

21



Quán triệt nghị quyết Hội nghị cán bộ mở rộng (tháng 2 – 1966) của Tỉnh ủy
Sơn La, các cấp ủy đảng Thuận Châu tổ chức đợt sinh hoạt chính trị trong toàn
Đảng bộ, nhằm giáo dục, nâng cao hơn nữa nhận thức của cán bộ, đảng viên về
tình hình nhiệm vụ của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước trong tình hình mới.
Việc làm thiết thực ấy có ý nghĩa tích cực góp phần cổ vũ mạnh mẽ tinh thần
toàn Đảng ra sức thi đua trên mọi trận tuyến.
Từ ngày 20 đến ngày 20 – 10 – 1966, Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ V tổ
chức tại bản Giới, xã Thôm mòn, Thuận Châu, 22 đồng chí trúng cử vào Ban Chấp
hành khóa V, đồng chí Nguyễn Xuân Định được bầu làm Bí thư.
Đại hội đề ra chủ trương, nhiệm vụ và mục tiêu phấn đấu trong từng lĩnh vực
cụ thể, sát hợp với điều kiện của địa phương trong hoàn cảnh thời chiến.
Chỉ thị của Ban Chấp hành Đảng bộ ngày 16 – 3 – 1966 về việc “Tăng cường
lãnh đạo công tác xây dựng lực lượng vũ trang, dân quân tự vệ trong tình hình
mới” đã nhấn mạnh: “Phát động toàn Đảng, toàn dân tích cực tham gia xây dựng
lực lượng vũ trang, không ngừng củng cố và phát triển dân quân tự vệ; đẩy mạnh
thực hiện kế hoạch xây dựng xã chiến đấu ở các vùng xung yếu, đặc biệt là khu
vực Bó Mười, Mường Khiêng, Mường Sại”. Năm 1965 đạt 8% và đến năm 1967
chiếm 12% so với dân số, có cơ sở đạt 14% như Chiềng La, Nậm Ét, Mường Sại.
Dưới sự chỉ đạo của Huyện ủy, những xã trên trục quốc lộ, đặc biệt là những
khu vực trọng điểm như cầu bản Hinh, cầu Nà Hày, đường Tà Hè đều thành lập
Ban chỉ đạo giao thông. Kết hợp với ngành giao thông.
Trong vòng sáu tháng cuối năm 1965, nhân dân các xã Thôm Mòn, Thị trấn,
Hạt giao thông 7,8... đào đắp trên 300.000 mét khối đất đá, kịp thời thông đường
trên các địa điểm bị bắn phá. Tấm gương dũng cảm bám đường, đếm bom, cùng
đồng đội bảo vệ cầu đường thông suốt của chị Nguyễn Thị Mị trên đoạn đường cầu
Nà Hày đã được Nhà nước tặng thưởng danh hiệu cao quý: Anh hùng Lao động
ngành Giao thông vận tải Sơn La.
Vượt lên hoàn cảnh khó khăn năm 1965 – 1967 là thời kì hoạt động đánh phá

ác liệt của máy bay Mỹ. Tông sản lượng nông nghiệp năm 1967 chỉ đạt 68,7% kế
hoạch, so với năm 1965 giảm 32%. Hàng hóa khan hiếm không đáp ứng được yêu
cầu tiêu dùng thiết yếu của nhân dân.
Bên cạnh cách hoạt động kinh tế, hoạt động chính trị - xã hội diễn ra khá sôi
nổi. Các phong trào “ba đảm đang”, “ba sẵn sàng” trong giới phụ nữ, thanh niên
được đẩy mạnh, phong trào “dạy tốt- học tốt”, xóa mù chữ, phong trào “bảo vệ an
ninh Tổ quốc” phát triển mạnh. Trong 3 năm, toàn huyện có 2020 đoàn viên trong
đó có 995 là đoàn viên của 54 đơn vị đăng kí tình nguyện “ba sẵn sàng” lên đường
làm nhiệm vụ. Điểm hình là cuộc vận động chỉnh huấn năm 1965.
Bước vào năm 1968, với cuộc tiến công chiến lược của quân ta và nhân dân
miền Nam. Quân và dân miền Bắc đã chiến đấu dũng cảm, lập công xuất sắc, bắn
rơi 3.243 máy bay.

22


Ngày 1 – 11 – 1968 đế quốc Mỹ buộc phải tuyên bố chấm dứt không điều
kiện cuộc ném bom bắn phá trên toàn lãnh thổ Việt Nam.
Từ ngày 21 đến ngày 26 – 3 – 1969, Đại hội Đảng bộ huyện Thuận Châu lần
thứ VI được tổ chức trọng thể tại trung tâm huyện lỵ. Đến dự Đại hội có 147 đại
biểu. Đại hội được vinh dự đón đoàn đại biểu khu Tây Bắc do đồng chí Bình
Phương – Phó Bí thư Khu ủy làm trưởng đoàn; đoàn đại biểu tỉnh Sơn La do đồng
chí Hoàng Nó – Bí thư Tỉnh ủy làm trưởng đoàn. Đặc biệt. Đại hội VI Đảng bộ
được đón tiếp đoàn đại biểu tỉnh Đăk Lăk do đồng chí Ama Khe làm Trưởng đoàn.
Trong năm ngày làm việc khẩn trương, tích cực, Đại hội tập trung thảo luận
và thống nhất chủ trương phát triển, những mục tiêu cụ thể trong 2 năm 1969 –
1970 là “Tập trung đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, trọng tâm là lương thực, thực
phẩm theo hướng thâm canh tăng năng suất; đầu tư thích đáng sức người, sức của
để củng cố, khôi phục và mở mang phát triển giao thông; tiếp tục đấy mạnh thực
hiện cuộc vận động cải tiến quản lý hợp tác hóa nông nghiệp không ngừng đề cao

cảnh giác với âm mưu địch bắn phá và các hoạt động biệt kích, gián điệp, giữ vững
an ninh chính trị, góp phần chi viện về người và của cho tiền tuyến”.
Trong hai năm 1969 – 1970 phải tập trung vào ba mục tiêu cơ bản là: quyết
thắng 5 tấn, 4 tốt. Trong đó nội dung chủ yếu là:
Chú trọng củng cố, xây dựng lực lượng dân quân tự vệ vững mạnh về mọi mặt.
Phấn đấu đạt 5 tấn thóc/ha trên chân ruộng hai vụ, 4 tấn ở chân ruộng một vụ,
3 tấn lúa nương ở các điểm bãi bằng. Đẩy mạnh phát triển kinh tế chăn nuôi gia
súc: trâu, bò, ngựa, dê. Hạn chế tình trạng chặt, đốt phá rừng bừa bãi.
Trong năm 1969 phấn đấu đạt 70% chi bộ khá, “bốn tốt”, không có chi bộ,
đảng viên kém, phát triển 200 đảng viên mới.
Đại hội bầu ra Ban Chấp hành khóa VI gồm 21 đồng chí, đồng chí Nguyễn
Xuân Định được bầu lại làm Bí thư Huyện ủy.
Nhân dân các dân tộc Thuận Châu bước vào thực hiện Nghị quyết Đại hội
Đảng bộ lần thứ VI trong điều kiện miền Bắc không còn tiếng bom đạn của giặc
Mỹ, vì vậy khí thế lao động sản xuất, phục hồi kinh tế - xã hội ở tất cả các ngành
trở nên sôi động và khẩn trương.
Năm 1969 trong 235 hợp tác xã nông nghiệp của toàn huyện thì có 19 hợp tác
xã có quy mô từ 50 hộ trở lên dưới 30 hộ có 171 hợp tác xã. Công tác quản lý xây
dụng kế hoạch sản xuất tiếp tục được đẩy mạnh, cải tiến, vì vậy hầu hết các hợp tác
xã thực hiện cơ chế 1, 2, 3 khoán. Việc quản lý và phân công lao động trong từng
hợp tác xã có nền nếp; các tổ thủy lợi, chăn nuôi, tổ rèn, chăm sóc bảo vệ rừng...
Phục vụ sản xuất hoạt động nhịp nhàng.
Để đạt được những kết quả trên, các cấp ủy đã đặc biệt quan tâm điến biện
pháp canh tác, thâm canh tăng năng suất. Năm 1969, 105ha ruộng được khôi phục
đưa vào sản xuất.
Giữa lúc công cuộc khôi phục kinh tế, phát triển văn hóa đang được đẩy mạnh,
Đảng bộ, nhân dân các dân tộc Thuận Châu được tin Chủ tịch Hồ Chí Minh từ trần.
23



Với niềm thương tiếc vô hạn vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc, ngày 5 – 9 – 1969,
Huyện ủy đã tổ chức lễ truy điệu trọng thể Người tại bản Giới, xã Thôm Mòn – nơi
sơ tán của cơ quan huyện. Trước anh linh của Người toàn thể cán bộ, đảng viên và
nhân dân các dân tộc Thuận Châu nguyện: “Tăng cường khối đoàn kết, dũng cảm
chiến đấu, ra sức xây dựng bảo vệ quê hương góp phần tích cực vào sự nghiệp giải
phóng miền Nam thống nhất đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội”.
Trong hai năm 1969 – 1970, cơ sở hạ tầng phục vụ phát triển kinh tế - xã hội
nhanh chóng được đầu tư. Các tuyến đường Mường Khiêng – Bó Mười, Bản Lầm –
Muổi Nọi, Púng Tra – Tranh Đấu, Thôm Mòn – Chiềng Khoang – Chiềng La được
khai thông và đưa vào sử dụng. Đến năm 1970, tám trường cấp II, một trường cấp
III, trường bổ túc văn hóa ở huyện hoạt động trở lại. Tỷ lệ học sinh đến trường khóa
học 1969 – 1970 ở tất cả các cấp khá đông: Cấp I có 3.371 em, trong đó có 2553 là
con em các dân tộc thiểu số; cấp II có 415 em; cấp III có 107 em.
Các hoạt động đóng góp, chi viện cho tiền tuyến kịp thời, đạt hiệu quả cao.
Năm 1970 Thuận Châu huy động được hơn 2000 tấn thóc, cung cấp ủng hộ miền
xuôi 592 con trâu...
Ngày 28 – 1 – 1970, Huyện ủy họp ra Nghị quyết về công tác xây dựng Đảng, trong
đó chủ trương “không ngừng nâng cao công tác chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng, đặc
biệt ở khu vực nông thôn, bảo đảm hoàn thành mọi nhiệm vụ chính trị đề ra”.
Qua hai năm (1970 – 1971) triển khai thực hiện nghị quyết, các cơ sở Đảng
trong toàn Đảng bộ được củng cố một bước, cả về tư tưởng chính trị và tổ chức,
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới.
Bên cạnh những thành tích đã đạt được, nhiều mặt công tác còn bộc lộ những
hạn chế nhất định. Trong Báo cáo Chính trị tại Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ VII
(Họp từ ngày 23 đến ngày 28 – 10 – 1970) nhận định khái quát: “Nền kinh tế - xã
hội phát triển chậm, không đồng đều giữa các ngành kinh tế. Sản xuất nông nghiệp
còn mang tính quảng canh”.
Đảng bộ đề ta những mục tiêu phấn đấu thực hiện trong năm 1971 là:
Phấn đấu củng cố, xây dựng lực lượng dân quân tự vệ vững mạnh toàn diện, trong
đó tập trung nâng cao chất lượng là chính. Mỗi xã xây dựng một phân đội cơ động

Sản xuất nông nghiệp bảo đảm giải quyết được vấn đề lương thực, ổn định đời
sống nhân dân. Tổng sản lượng lương thực quy thóc phấn đấu đạt 20.886 tấn, trong
đó lúa 11.457 tấn. Chăn nuôi: đàn trâu tăng 19% đàn bò tăng 71%, ngựa tăng
15,7%, lợn tăng 13,2% so với năm 1970, dê cần được khuyến khích phát triển.
Vùng I: Phỏng Lái, Chiềng Pha, Phổng Lăng… Tập trung thâm canh lúa kết
hợp chăn nuôi
Vùng II: Bản Lầm, Tranh Đấu, Púng Tra... Phát triển chăn nuôi gia súc kết
hợp phát triển cây công nghiệp theo hướng lấy ngắn nuôi dài
Vùng III: Chiềng Ngàm, Liệp Tè, Nậm Ét... Bảo vệ, chăm sóc và khai thác
rừng, kết hợp trồng cây công nghiệp và chăn nuôi.
24


Dưới sự lãnh đạo của Đảng các cấp ủy đảng, sự nỗ lực vượt bậc của nhân dân
các dân tộc, trong hai năm 1971 – 1972, Thuận Châu đã thực hiện tốt phương
châm “ăn no, góp đủ”, bảo vệ an toàn an ninh, chính trị ở địa phương.
Các phong trào “ Xây dựng chính quyền giỏi toàn diện”, phong trào “ba sẵn
sàng”, “Ba đảm đang” tiếp tục được phát huy mạnh mẽ, lôi cuốn đông đảo các tầng
lớp thanh niên, phụ nữ tích cực tham gia các hoạt động trên các lĩnh vực sản xuất,
chiến đấu và phục vụ chiến đấu...
Ngày 6 – 4 – 1972. Níchxơn huy động lực lượng không quân tiến hành chiến
tranh phá hoại lần thứ hai đối với miền Bắc. Những năm 1965 – 1967 những hoạt
động thám thính thường xuyên, những luận điệu tuyên truyền của các phần tử phản
động ở địa phương có tác động đến tâm lý tư tưởng của quần chúng nhân dân.
Trước tình hình đó, Ban chấp hành Đảng bộ huyện chủ trương: “Tăng cường
hơn nữa công tác tuyên truyền, giáo dục nhân dân nêu cao tinh thần cảnh giác cách
mạng, đoàn kết, sẵn sàng đánh trả quyết liệt các trận không kích của máy bay địch.
II, THUẬN CHÂU ĐẨY MẠNH CÔNG CUỘC KHÔI PHỤC KINH TẾ - XÃ
HỘI, TÍCH CỰC CHI VIỆN CHO MIỀN NAM ĐÁNH THẮNG GIẶC MỸ XÂM
LƯỢC (1973 – 1975)


Ngày 27 – 1 – 1973, Hiệp định Pari về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình
ở Việt Nam được ký kết. Ngày 28 – 11 – 1973, Ban Chấp hành Trung ương Đảng
ra Lời kêu gọi cả nước: “Tăng cường đoàn kết, đề cao cảnh giác, củng cố thắng lợi
đã giành được, hoàn thành độc lập dân tộc ở miền Nam, tiến tới hòa bình, thống
nhất nước nhà”.
Hòa chung với khí thế chiến thắng của quân và dân ta. Đại hội Đảng bộ huyện
Thuận Châu lần thứ VIII được tổ chức tại huyện lỵ (từ ngày 6 đến ngày 9 – 6 – 1973).
Đến dự Đại hội có 126 đại biểu đại diện cho hơn một ngàn đảng viên trong toàn huyện.
Đại hội VIII khẳng định: Đảng bộ đã bám sát chủ trương của Trung ương
Đảng, của Khu ủy, tỉnh ủy Sơn La, sáng tạo trong việc vận dụng vào thực tiễn địa
phương. Đông thời các cấp ủy đã đặc biệt chú trọng, thường xuyên tổ chức các đợt
sinh hoạt chính trị nhằm phổ biến tình hình, nhiệm vụ mới một cách kịp thời.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội tỉnh Đảng bộ Sơn La lần thứ III (10 – 1969),
Lời kêu gọi (ngày 28 – 1 – 1973) của Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp, Thuận Châu đã cụ thể hóa thành
các kế hoạch và chương trình hành động của các ngành, các cơ sở. Với sự chỉ đạo
chặt chẽ của Đảng bộ, lại có thêm động lực tinh thần mạnh mẽ của thắng lợi hết
sức to lớn trong cả nước.
Đại hội Đảng bộ huyện Thuận Châu lần thức IX (họp từ ngày 16 đến ngày 19
– 10 – 1974) khẳng định mục tiêu chiến lược phát triển là: Quyết tâm đưa sản xuất
nông nghiệp phát triển toàn diện, có vùng sản xuất tập trung, từng bước đưa chăn
nuôi phát triển thành một ngành chính trong sản xuất nông nghiệp.

25


×