Tải bản đầy đủ (.pdf) (65 trang)

tình hình bệnh dịch tả lợn và sử dụng vacxin trên đàn lợn nuôi tại ngoại thành thành phố viêng chăn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.53 MB, 65 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM

LAPHINH PHITHACTHEP

TÌNH HÌNH BỆNH DỊCH TẢ LỢN VÀ SỬ DỤNG
VACXIN TRÊN ĐÀN LỢN NUÔI TẠI NGOẠI THÀNH
THÀNH PHỐ VIÊNG CHĂN

CHUYÊN NGÀNH: THÚ Y
MÃ SỐ: 60.64.01.01

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGUYỄN BÁ HIÊN

HÀ NỘI, NĂM 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng, số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là
trung thực và chưa từng được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
Tôi xin cam đoan rằng, mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này
đã được cám ơn, các thông tin trích dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc.

Hà Nội, Ngày……tháng……năm 2015
Tác giả

LAPHINH PHITHACTHEP



Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page ii


LỜI CÁM ƠN
Tôi xin chân thành cám ơn:
PGS. TS.Nguyễn Bá Hiên, Bô môn Vi sinh vật - Truyền nhiễm, Khoa
Thú y- HọcViện Nông Nghiệp Việt Nam đã giúp đỡ, hướng dẫn, chỉ bảo tận
tình, tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài và hoàn
thành tốt luận văn. Ban chủ nhiệm Khoa Thú y, Ban Quản lý đào tạo - Học viện
Nông nghiệp Việt Nam đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi học tập và hoàn thành
luận văn đúng tiến độ.
Sự giúp đỡ nhiệt tình của lãnh đạo Sở Nông Lâm Nghiệp, các phòng ban
liên quan Thành phố Viêng Chăn - Lào. Sự giúp đỡ của Phòng Nông Lâm
Nghiệp của các huyện.
Sự giúp đỡ của Phòng khám bệnh gia súc và Thủy sản Trung Tâm Thú y
Thủ Đô Viêng Chăn, CHDCND-Lào đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi nghiên
cứu và hoàn thành đề tài.

Hà Nội, Ngày……tháng……năm 2015
Tác giả

LAPHINH PHITHACTHEP

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page iii



MỤC LỤC
Lời cam đoan

i

Lời cám ơn

iii

Danh mục chữ viết tắt

vi

Danh mục bảng

vii

Danh mục hình

viii

MỞ ĐẦU

1

1

Đặt vấn đề


1

2

Mục tiêu nghiên cứu

2

CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU

3

1.1 Tình hình hình chăn nuôi lợn tại ngoại thành thành phố Viêng Chăn

3

1.2 Tình hình bệnh dịch tả lợn ở thế giới và ở CHDCND lào

3

1.2.1 Tình hình bệnh dịch tả lợn trên thế giới

3

1.2.2 Ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào

4

1.3 Bệnh dịch tả lợn


6

1.3.1 Virus dịch tả lợn

6

1.3.2 Một số đặc điểm dịch tễ học bệnh dịch tả lợn

10

1.3.3 Triệu chứng và bệnh tích

11

1.3.4 Các phương pháp chẩn đoán bệnh dịch tả lợn

16

1.4 Phòng chống bệnh dịch tả lợn

21

1.4.1 Trên thế giới

21

1.4.2 Phòng chống bệnh dịch tả lợn ở Lào

22


CHƯƠNG 2 NỘI DUNG NGUYÊN LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

23

2.1 Đối tượng nghiên cứu

23

2.2 Nội dung nghiên cứu

23

2.2.1 Nghiên cứu tình hình chăn nuôi lợn tại ngoại thành thành phố
Viêng Chăn từ năm 2012-2014

23

2.2.2 Nghiên cứu tình hình bệnh dịch tả lợn ở ngoại thành thành phố
Viêng Chăn từ năm 2012-2014
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

23
Page iv


2.2.3 Xác định hiệu giá kháng thể dịch tả lợn sau tiêm phòng vacxin

23

2.3 Nguyên liệu


23

2.4 Phương pháp nghiên cứu

24

2.4.1 Phương pháp nghiên cứu dịch tễ học

24

2.4.2 Phương pháp tính

24

2.4.3 Phương pháp xác định ca bệnh

25

2.4.4 Mẫu xét nghiệm

25

2.4.5 Phương pháp xét nghiệm

26

2.4.6 Phương pháp xử lý số liệu

29


CHƯƠNG 3 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN

30

3.1 Tình hình chăn nuôi lợn tại ngoại thành thành phố Viêng Chăn

30

3.1.1 Một số điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của thành phố Viêng Chăn

30

3.1.2 Tình hình chăn nuôi lợn tại ngoại thành thành phố Viêng Chăn

33

3.2 Tình hình bệnh dịch tả lợn ở ngoại thành thành phố Viêng Chăn

33

3.2.1 Tình hình bệnh dịch tả lợn ở ngoại thành thành phố Viêng Chăn
theo địa bàn chăn nuôi

33

3.2.2 Tình hình bệnh dịch tả lợn ở ngoại thành thành phố Viêng Chăn
từ năm 2012 đến năm 2014 theo lứa tuổi

37


3.2.3 Tình hình bệnh dịch tả lợn ở ngoại thành thành phố Viêng Chăn
từ năm 2012 đến năm 2014 theo tháng

42

3.3 Xác định hiệu giá kháng thể dịch tả lợn sau tiêm phòng vacxin

46

3.3.1 Tình hình tiêm phòng vacxin dịch tả lợn ở những huyện ngoại
thành thành phố Viêng Chăn

46

3.3.2 Kết quả kiểm tra kháng thể dịch tả lợn ở những huyện ngoại
thành thành phố Viêng Chăn

48

KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ

51

1

Kết luận

51


2

Đề nghị

52

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

53

Page v


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
ADN

Acid deoxyribonucleic

ARN

Acid ribonucleic

BDV

Border disease virus

BVDV


Bovine viral diarrhea virus

CHDCND

Cộng hòa Dân chủ Nhân dân

CPE

Cytopathogenic Effect

CSF

Classical Swine Fever

CSFV

Classical Swine Fever Virus

HSTD

Hệ số tháng dịch

KD

Kilodanton

ELISA

Enzyme-Linked ImmunoSorbent Assay


OD

Optical Density

OIE

Office International des Epizooties

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page vi


DANH MỤC BẢNG
Số bảng

Tên bảng

Trang

3.1

Tình hình chăn nuôi lợn ở ngoại thành thành phố Viêng Chăn

33

3.2

Tình hình bệnh dịch tả lợn ở ngoại thành thành phố Viêng Chăn năm 2012


34

3.3

Tình hình bệnh dịch tả lợn ở ngoại thành thành phố Viêng Chăn năm 2013

35

3.4

Tình hình bệnh dịch tả lợn ở ngoại thành thành phố Viêng Chăn năm 2014

36

3.5

Tình hình bệnh dịch tả lợn ở ngoại thành thành phố Viêng Chăn năm
2012 theo lứa tuổi

3.6

39

Tình hình bệnh dịch tả lợn ở ngoại thành thành phố Viêng Chăn năm
2013 theo lứa tuổi

3.7

40


Tình hình bệnh dịch tả lợn ở ngoại thành thành phố Viêng Chăn năm
2014 theo lứa tuổi

3.8

41

Tình hình bệnh dịch tả lợn ở ngoại thành thành phố Viêng Chăn năm
43

2012 theo tháng
3.9

Tình hình bệnh dịch tả lợn ở ngoại thành thành phố Viêng Chăn năm
2013 theo tháng

3.10

44

Tình hình bệnh dịch tả lợn ở ngoại thành thành phố Viêng Chăn năm
2014 theo tháng

3.11

45

Tình hình tiêm phòng bệnh dịch tả lợn ở ngoại thành thành phố
Viêng Chăn


47

3.12

Kết quả khảo sát kháng thể dịch tả lợn theo địa phương.

49

3.13

Kết quả khảo sát kháng thể dịch tả lợn theo cơ cấu đàn.

49

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page vii


DANH MỤC HÌNH
Số hình

Tên hình

Trang

5

1.1


Bản đồ lưu hành bệnh dịch tả lợn tại một số nước khu vực châu Á

3.1

Bản đồ thành phố Viêng Chăn và khu vực ngoại thành

3.2

Tình hình bệnh dịch tả lợn ở ngoại thành thành phố Viêng Chăn theo

32

37

địa phương
3.3

Tình hình bệnh dịch tả lợn ở ngoại thành thành phố Viêng Chăn theo

38

lứa tuổi

3.4

Tình hình bệnh dịch tả lợn ở ngoại thành thành phố Viêng Chăn
theo tháng trong năm

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp


46

Page viii


MỞ ĐẦU

1. ĐẶT VẤN ĐỀ

Trong vài năm gần đây, chăn nuôi lợn ở Cộng hòa Dân Chủ Nhân Dân
Lào (CHDCND Lào) đã phát triển nhanh chóng. Tuy nhiên, việc phát triển chăn
nuôi loài gia súc này vẫn gặp phải nhiều yếu tố nguy cơ. Một trong những yếu tố
nguy cơ phải kể đến là bệnh dịch tả lợn. Bệnh dịch tả lợn là bệnh truyền nhiễm
của loài lợn, khi bệnh xảy ra sẽ giết chết nhiều lợn, tỷ lệ chết từ 60 - 90 %; số còn
lại không chết thì còi cọc, chậm lớn, làm giảm năng suất chăn nuôi và ảnh hưởng
đến chất lượng thịt và thậm chí tiềm ẩn mầm bệnh lây lan cho các đàn khác.
Bệnh dịch tả lợn đã và đang gây nhiều thiệt hại cho chăn nuôi lợn ở nhiều
nước trên thế giới cũng như ở Cộng hòa Dân Chủ Nhân Dân Lào. Hiện nay bệnh
được xếp vào một trong bốn bệnh truyền nhiễm nguy hiểm và đã được Bộ Nông
nghiệp đưa vào kế hoạch xây dựng chương trình phòng chống từng bước khống
chế để loại trừ. Cũng vì lý do đó mà bệnh dịch tả lợn cũng là một trong số các
bệnh được quy định phải tiêm phòng bắt buộc và phải công bố dịch. Tuy nhiên,
vì nhiều lý do khác nhau, nên kết quả của việc tiêm phòng còn thấp, dẫn đến đàn
lợn không được miễn dịch, dịch phát ra âm ỉ. Hiện tại Lào đang nhập 2 loại
vacxin dịch tả lợn sản xuất từ Thái Lan và Việt Nam. Vấn đề đặt ra là chất lượng
các loại vacxin nhập ngoại này có chất lượng ra sao khi sử dụng phòng bệnh cho
đàn lợn của Lào?
Theo thống kê của phòng thú y thành phố Viêng chăn, hàng năm xảy ra
nhiều ổ dịch lớn nhỏ khác nhau chết rất nhiều lợn của tỉnh, nhưng chu ý là năm
2012 có 2 ổ dịch lớn tại 4 huyện Nasaithong, Parkngum, Sangthong và Saythanee

làm chết 1960 con(2028 con mắc). Bệnh thường không diển hình cả về triệu
chứng lâm sàng cũng như về bệnh tích, điều này gây khó khăn cho việc chẩn
đoán. Vì vậy nhân viên thú y cơ sở thường nhầm lẫn với các bệnh khác nên
không đưa ra các biện pháp phòng chống kịp thời.
Xuất phát từ tình hình đặc điểm hiện nay của bệnh dịch tả lợn tại các
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 1


huyện ngoại thành thành phố Viêng Chăn nói riêng và cả nước nói chung, việc
điều tra xác định tình hình dịch bệnh, áp dụng các biện pháp chẩn đoán nhanh,
chính xác, sử dụng một loại vacxin tốt và thực hiện việc tiêm phòng hợp lý sẽ
góp phần khống chế được bệnh này một cách hiệu quả. Xuất phát từ vấn đề nêu
trên, chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài “Tình hình bệnh dịch tả lợn và sử
dụng vacxin trên đàn lợn nuôi tại ngoại thành thành phố Viêng Chăn”.
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU

- Xác định một số đặc điểm dịch tễ học bệnh dịch tả lợn ở những huyện
ngoại thành thành phố Viêng Chăn
- Khảo sát khả năng đáp ứng miễn dịch của đàn lợn sau khi tiêm phòng
vacxin dịch tả lợn.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 2


CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Tình hình hình chăn nuôi lợn tại ngoại thành thành phố Viêng Chăn


Ngoại thành thành phố Viêng Chăn có ngành chăn nuôi lợn khá phát triển,
cung ứng thịt lợn cho trung tâm thành phố. Tuy nhiên, quy mô chăn nuôi có sự
khác biệt giữa các huyện ngoại thành. chăn nuôi lợn năm 2012 - 2014 tại các
huyện ngoại thành Viêng Chăn được thể hiện.
Bảng 1.1 Tình hình chăn nuôi lợn ở ngoại thành thành phố Viêng Chăn
Năm 2012

Năm 2013

Năm 2014

(con)

(con)

(con)

Nasaithong

52.730

53.398

56.021

Parkngum

18.776


18.880

19.576

Sangthong

2.050

1.972

1.842

Saythanee

59.084

63.906

65.202

Tổng hợp

132.640

138.156

142.641

Huyện


1.2. Tình hình bệnh dịch tả lợn ở thế giới và ở chdcnd lào
1.2.1 Tình hình bệnh dịch tả lợn trên thế giới
Cho đến nay nguồn gốc của bệnh dịch tả lợn chưa được xác minh chính
xác, hiện vẫn còn hai quan điểm song song tồn tại:
- Năm 1810 bệnh dịch tả lợn được mô tả đầu tiên ở Tenessce. Đến năm
1833, bệnh dịch tả lợn được thông báo đầu tiên ở Ohio (Bắc Mỹ), sau đó bệnh lan
ra cả nước Mỹ nhất là vùng Cornbert, vì đây là vùng chăn nuôi lợn nhiều nhất).
Theo Dahle. J and B. Liess (1992) dịch diễn ra ở Pháp năm 1862, ở Đức 1893.
- Fuchs. F (1968) cho rằng bệnh xuất hiện đầu tiên ở Anh vào năm 1862,
sau đó lây lan sang các nước châu Âu khác là Đan Mạch, Thụy Điển vào năm
1887. Sau đó bệnh lan sang khắp các nước trên thế giới, ở Nam Mỹ năm 1899,
Nam Phi năm 1900.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 3


Kể từ đó bệnh dịch tả lợn tồn tại ở nhiều nước trên thế giới, thiệt hại về
kinh tế do dịch tả lợn gây ra rất lớn, năm 1997 các nước: Đức, Hà Lan, Italia,
Tây Ban Nha, Bỉ có hơn 10 triệu con lợn bị giết hủy (Rassow. D, 1997). ở Hà
Lan tính đến 31/12/1997 có 424 ổ dịch trong một năm. Cộng hòa liên bang Đức
từ tháng 11/1982 - 9/1984 có 1.457 ổ dịch xảy ra ở 248 đàn lợn giống, 777 đàn
lợn thịt và 412 đàn hỗn hợp, với 395.000 lợn bị xử lý. Năm 1984 ở Mêhyco có
179 ổ dịch, Malaysia có 5 ổ dịch, Hàn Quốc có 45 ổ dịch. Năm 1997 dịch tả
lợn xuất hiện ở Italia, Tây Ban Nha và Bỉ đều có nguồn gốc từ Hà Lan
(Mesplede. A, E. Albina, F. Madee, 1999). Năm 2000 bệnh xảy ra ở Anh, lây
lan 16 trang trại và 75000 lợn phải loại bỏ để khống chế dịch.
Do tầm quan trọng của bệnh dịch tả lợn, khi xảy ra gây chết nhiều lợn và
làm thiệt hại lớn về kinh tế nên nhiều nước đã xây dựng chương trình thanh toán

bệnh này. Theo thông báo của Tổ chức Thú y thế giới (OIE) năm 2009, bệnh dịch
tả đã được khống chế và an toàn dịch bệnh ở phần lớn các nước Châu Âu. Các
nước đã thanh toán được bệnh này là Úc, Bỉ, Canada, Pháp, Anh, Ai xơ len, Ai
len, Niu Di Lân, Bồ Đào Nha, các nước vùng scandinavia, Tây Ban nha, Thụy sỹ
và Mỹ. Ở Mỹ năm 1962, một chương trình thanh toán bệnh dịch tả lợn toàn liên
bang đã được khởi động và đến năm 1976 đã thanh toán được bệnh dịch tả lợn.
Tổng chi phí thanh toán bệnh dịch tả lợn lên tới 140 triệu USD. Cộng đồng Châu
Âu cũng đã hỗ trợ một chương trình thanh toán virus dịch tả lợn cho các nước
thành viên. Chương trình thanh toán dựa trên việc giết huỷ các đàn nhiễm bệnh
và các biện pháp vệ sinh thú y cũng như tăng cường pháp chế Thú y.
Ở các nước Châu Á dịch được khống chế ở các nước đang phát triển như
Nhật, Nam Triều tiên. Ở các nước Đông Nam Á cũng được khống chế ở các
nước Singapor, Malaysia, Indonesia, Thái Lan, Philippine. Trong cam kết của
các nước ASEAN, Malaysia cam kết sẽ thanh toán bệnh dịch tả lợn vào năm
2015, Philippine, Indonesia, Brunei, Thái Lan năm 2020, các nước khác đều có
lộ trình khống chế và thanh toán bệnh dịch tả lợn.
1.2.2. Ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào
Ở CHDCND Lào trong những năm gần đây đang đẩy mạnh ngành
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 4


chăn nuôi lợn. Tại Lào có 4 giống lợn địa phương là “Moo Chid”, “Moo
Laat”, “Moo Daeng” và “Moo Nonghaet”. Ngoài ra ở Lào cũng chăn nuôi
một số giống lợn nhập ngoại trong đó nhiều nhất là Landrace và Duroc
(Vongthilath and Blacksell, 2000).
Bệnh dịch tả lợn được coi là bệnh nghiêm trọng nhất ở lợn được chăn
nuôi tại Lào (Stür et al., 2002). Theo điều tra của Colan vào giai đoạn 20032005, đã phát hiện thấy bệnh dịch tả lợn ở Lào với số lượng là 30 ổ dịch trên
100 làng tại huyện Bolikhan và 5 ổ dịch trên 100 làng tại huyện Parkkading

(Conlan, 2006). Tuy nhiên, do hệ thống quản lý tình hình dịch bệnh tại Lào
còn chưa phát triển mạnh nên không cập nhật tình hình bệnh dịch tả lợn trên
hệ thống quản lý bệnh dịch của thế giới. Theo bản đồ tình hình dịch bệnh của
OIE (2015), tất cả những nước có biến giới với CHDCND Lào là Việt Nam,
Thái Lan, Campuchia, Myanmar và Trung Quốc đều có lưu hành bệnh dịch
tả lợn. Vì vậy, tại CHDCND Lào bệnh dịch tả lợn chắc chắn có lưu hành cho
tới ngày nay và chưa thể kiểm soát cũng như tiến tới thanh toán dịch bệnh.

Hình 1.1. Bản đồ lưu hành bệnh dịch tả lợn tại một số nước khu vực châu Á
(Nguồn: OIE, 2015)
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 5


1.3 Bệnh dịch tả lợn
Bệnh dịch tả lợn có nhiều tên gọi khác nhau: Classical swine fever, hog
cholera, swine fever, peste du porc, cólera porcina và virusschweinpest (OIE, 2009).
1.3.1. Virus dịch tả lợn
1.3.1.1. Phân loại
Năm 1885 Salmon và Smith cho rằng bệnh gây ra bởi một loại vi
khuẩn mà hai ông đặt tên là Bacillus cholerae suis (tức Salmonella cholerae
suis). Nhưng đến năm 1903, Schweinitz và Dorset đã xác định được tác nhân
gây bệnh dịch tả lợn là một loại virus còn vi khuẩn Bacillus cholerae suis chỉ
đóng vai phụ (Nguyễn Vĩnh Phước, 1978). Năm 1947 Holmes đặt tên cho
virus gây bệnh dịch tả lợn là Tortor suis. Từ đó việc xếp loại virus này có
nhiều ý kiến khác nhau. Những nghiên cứu gần đây đã xác định virus gây
bệnh dịch tả lợn là thành viên của họ Togavirideae, giống Pestivirus cùng
với virus gây bệnh tiêu chảy ở bò (Bovine Viral Diarrhea Virus - BVDV) và
virus gây bệnh Border ở cừu (Border Disease Virus). Nhưng khi nghiên cứu

về cấu trúc phân tử của Pestivirus cho thấy bộ gen của chúng (genome)
tương ứng với virus thuộc họ Flaviridae, nên giống Pestivirus được xếp vào
họ Flaviridae.
Theo thông tin chính thức từ Hội đồng phân loại quốc tế về virus học
– International Committee on Taxonomy of Viruses (2012) thì virus dịch tả
lợn thuộc họ Flaviridae, giống Pestivirus và Phân loại Baltimore (Baltimore
Classification) vào nhóm IV (+) ssRNA (Group IV: Positive-sense Singlestranded RNA viruses).
Virus gây bệnh dịch tả lợn ở Lào phân lập giai đoạn 1997 – 1999 được
xếp vào nhóm genogroup 2, phân nhóm subgroup 2.1 (Blacksell, 2005).
Về mặt độc lực: Trong tự nhiên tồn tại những chủng virus có độc lực
khác nhau. Những chủng có độc lực cao thường gây ra bệnh thể cấp tính và tỷ lệ
chết cao, các chủng có độc lực trung bình thường gây bệnh ở thể á cấp tính hoặc
mãn tính. Các chủng có độc lực thấp thường gây tỷ lệ chết cao đối với bào thai
và lợn sơ sinh. Theo Dunn. H. W (2000), độc lực của virus thường không ổn
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 6


định, việc tăng cường độc lực có thể được tiến hành sau một hoặc nhiều lần tiêm
truyền qua lợn. Ngày nay, người ta đã sử dụng các phương pháp làm giảm độc
lực của virus và thu được một số chủng nhược độc có thể sử dụng làm vacxin
như virus dịch tả lợn chủng C, chủng IFFA, chủng GPE(-), chủng Thiverval.
Trước đây người ta cho rằng kháng nguyên virus dịch tả lợn đồng nhất,
nhưng áp dụng kĩ thuật kháng thể đơn dòng (MCAS) có thể phân biệt virus dịch
tả lợn thành một số nhóm kháng nguyên (Edwards S., 1998). Độc lực của các
chủng gây bệnh thay đổi rất lớn. Các chủng độc lực cao gây bệnh thể cấp tính, tỉ
lệ chết cao, trong khi đó các chủng có độc lực trung bình thường gây các nhiễm
trùng á cấp tính và mãn tính. Các chủng virus độc lực yếu chỉ gây bệnh nhẹ, tuy
nhiên có thể gây chết thai lợn và lợn con mới sinh. Tùy thuộc vào độc lực của

chủng virus gây bệnh mà tỷ lệ chết có thể từ 0 - 100%.
1.3.1.2. Hình thái cấu trúc của virus
Virus dịch tả lợn thuộc loại ARN virus, một sợi đơn, có vỏ bọc là
lipoprotein. Quan sát dưới kính hiển vi điện tử, virus có dạng cấu trúc hình cầu
với nucleocapside đối xứng hình khối bao bọc bởi lớp màng ngoài. Virion là đơn
vị đặc hiệu của virus, có đường kính 40 - 50 nm (nanomet), đường kính của một
khối nucleocapside là 29 nm, là lớp vỏ bao bọc sợi ARN của virus, có những gai
lồi 6 - 8 nm tập trung trên bề mặt của virus. Bộ gene của virus là một chuỗi đơn
ARN, có độ dài 12 KB (Moormann R. J. M and M. M Hulot, 1998). Virus có 2
glycoprotein E155 và E146 KD ở trên bề mặt và 1 nucleocapside protein 36 KD
(Enzmann P. J and F. Weiland, 1978). Hệ số sa lắng là 140s - 180s. Hạt virus gây
nhiễm gồm 3 thành phần chính sau đây:
Nhân (core): nhân là một sợi đơn ARN nằm ở giữa hạt virus, nên virus
chủ yếu nhân lên trong bào tương của tế bào vật chủ. Theo Moening V, 1988,
nhân vừa là yếu tố di truyền, vừa là yếu tố sinh sản của virus. Theo Moorrman R.
J. M và M. M Hulot, 1998 bộ gene virus dịch tả lợn là một chuỗi ADN sợi đơn
dài khoảng 12 kilobases (KB), có trình tự sắp xếp giống nhau giữa gene của virus
dịch tả lợn và virus gây tiêu chảy ở bò (Bovine Viral Diarrhea Virus - BVDV)
và virus gây bệnh Border ở cừu (Border Disease Virus).
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 7


Vỏ protein (Nuleocapside): theo Van Oirchot J. T, 1992, vỏ protein mang
những thành phần bên ngoài có độ dày 29 nm, trên bề mặt có những gai lồi 6 - 8
nm là thành phần có tính chất bảo vệ virus. Theo P. J Enzmann và F. Weiland,
1978, lớp nucleocapside của virus bao gồm 2 glycoprotein có trọng lượng phân
tử là 55 KD (Kilodanton) và 46 KD cùng với một lớp 36 KD (Trần Đình Từ,
1990). Các protein này được đặt tên là Protein E1 (GP55), Protein E2 (GP46) và

protein C (G36). Bằng phương pháp đánh dấu các phân tử, các tác giả đã nhận
thấy E1 và E2 là những Glycoprotein nằm trên bề mặt của virus, E2 tạo nên các
gai của virus. Protein E1 chứa đựng các kháng nguyên chính của virus dịch tả
lợn. Trong tế bào bị nhiễm, E1 luôn được liên kết với một lycopeptide khoảng 47
KD (Mesplede A, E. Albina, F. Medee, 1999. Những nghiên cứu gần đây cho
thấy lớp vỏ protein gồm 4 thành phần: GP55, GP48, GP44 và GP33 cùng một số
các protein nhân 36KD, 23KD và 14KD (Taylor D. J, 1995). Bằng kỹ thuật miễn
dịch phóng xạ kết tủa, Stark R, F. T. Rumenap, G.Mayers, H. J. Thiel 1990 đã
nhận thấy GP48 và GP44 có chung một trục Protein thông thường. Cả 3 dạng này
đều nằm ở dạng nhị trùng có cầu nối Disulfide trong virus ở tế bào bị nhiễm.
Theo Thiel H. J., R. Stark, F. T. Rumenap, G. Mayers- 1991, những sự tương tác
đồng hóa trị phức tạp như vậy giữa những Glycoprotein cấu trúc đến nay chưa
được mô tả ở bất kỳ một ARN virus nào.
Thứ tự các Glycoprotein trên bộ gene của virus dịch tả lợn được sắp xếp
như sau: NH2 - GP44/GP48 - GP33 - GP55 - COOH.
1.3.1.3. Đặc tính nuôi cấy
Khi tiêm truyền qua cơ thể lợn, các chủng virus dịch tả lợn vẫn giữ
nguyên các đặc tính gây bệnh và miễn dịch (Moenning V, 1988). Sự thích nghi
của virus đối với các loài động vật khác nhau thường thay đổi tính gây bệnh của
virus đối với lợn. Trong các loài động vật thì chỉ có thỏ là được chú ý nhất, đặc
biệt là để chế tạo ra những chủng virus vaccine nhược độc.
Ngoài những tế bào có nguồn gốc từ lợn, virus dịch tả lợn có thể nhân lên
trong những tế bào động vật khác. Dòng tế bào thận lợn PK - 15 và SK - 6 rất
thích hợp cho việc nuôi cấy virus dịch tả lợn. Các chủng virus dịch tả lợn cường
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 8


độc thường không gây bệnh tích tế bào (CPE) khi chúng nhân lên trong môi

trường tế bào nuôi. Đối với những chủng được mô tả là có gây bệnh lý tế bào là
do trong thực tế chúng đã bị tạp nhiễm bởi một loại virus khác. Terpstra C, 1991
cũng cho rằng tác động gây CPE chỉ xuất hiện khi có Adenovirus.
1.3.1.4. Sự nhân lên của virus
Virus dịch tả lợn nhân lên có giới hạn trong nguyên sinh chất của tế bào
và không gây bệnh tích tế bào. Thế hệ đầu tiên của virus được giải phóng ra khỏi
tế bào khoảng 5 - 6 giờ sau khi gây nhiễm. Theo Saatkamp H.W, 1998, trong môi
trường tế bào, virus lây lan qua tế bào bên cạnh và từ tế bào mẹ sang tế bào con
qua cầu nối nguyên sinh chất, điều này dẫn đến không có khả năng phát hiện ra
kháng nguyên virus trên bề mặt tế bào bị nhiễm.
1.3.1.5. Sức đề kháng của virus dịch tả lợn
Virus dịch tả lợn có sức đề kháng yếu và tùy thuộc vào trạng thái vật lý
của chất chứa virus. Trong dịch nuôi cấy tế bào, virus bị vô hoạt ở 600C trong 10
phút; ở máu đã khử fibrin lại không bị vô hoạt ở 680C trong vòng 30 phút. Virus
có khả năng bền vững ở pH từ 5 - 10, trên và dưới giá trị pH này thì virus bị phá
hủy nhanh chóng vì vỏ virus có chứa lipid nên các dung môi của mỡ như ether,
chloform, deoxychlolate và nonided P40, saponin làm bất hoạt virus rất nhanh.
Người ta thường dùng NaOH 2% để tiêu độc chuồng trại. Virus có thể
sống trong phân gia súc trong vài ngày, sống lâu trong các sản phẩm là thịt. Thịt
lợn đông lạnh và chính những sản phẩm này là nguồn gieo rắc mầm bệnh rất
nguy hiểm. Không phát hiện ra virus trong thịt đã được chế biến và đóng hộp từ
thịt của những lợn bị bệnh (Terpstra C. 1991).
Trong máu, ở nhiệt độ bình thường, virus có thể sống được 3 tháng. Máu
trộn với axit phenic, virus mất độc lực trong 60 phút ở 580C, trong 7 ngày ở 370C.
Nếu bảo quản máu ở âm 200C, virus tồn tại tới 9 tháng, ở âm 400C virus tồn tại
trong 14 tháng; máu để khô trên phiến kính virus sống 5 - 6 ngày. Trong thịt xông
khói, virus sống được 37 ngày, thịt để trong tủ lạnh virus tồn tại tới 33 ngày, trong
thịt ướp đông 95 ngày. Trong thịt, nước tiểu, xác động vật chết thối, virus bị chết
trong vòng 2 - 3 ngày. Trong phân, rác virus bị mất hoạt tính sau khoảng 24 giờ.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp


Page 9


1.3.2 Một số đặc điểm dịch tễ học bệnh dịch tả lợn
1.3.2.1 Động vật cảm nhiễm
Trong tự nhiên, chỉ có loài lợn (cả lợn rừng và lợn nhà) mọi lứa tuổi đều
mắc bệnh dịch tả lợn. Những nghiên cứu gần đây cho thấy lợn con theo mẹ và
lợn cai sữa bị nhiễm nhiều nhất (Nguyễn Xuân Bình, 1998; Đào Trọng Đạt và
cộng sự, 1988); đáng chú ý là lợn nái nhiễm những chủng virus có độc lực thấp
gây bệnh cho thai và sơ sinh (Hanson. R. P, 1957).
Trong phòng thí nghiệm, khi tiêm truyền cho lợn mẫn cảm, bệnh phát ra
với triệu chứng, bệnh tích giống như trong tự nhiên. Tiêm virus cho thỏ, chuột
lang thì bệnh thường ở thể ẩn tính, có thể tái phân lập virus sau vài ngày. Tiêm
truyền cho thỏ liên tục qua nhiều đời (khoảng 150 đời) sẽ tạo ra một chủng virus
nhược độc, không độc với lợn nhưng vẫn giữ được đặc tính kháng nguyên, dùng
để chế văc xin nhược độc dịch tả lợn (Nguyễn vĩnh Phước, 1978).
Những lợn khỏe mạnh mang trùng có vai trò quan trọng trong dịch tễ học
của bệnh dịch tả lợn cổ điển, đặc biệt là ở những vùng virus có độc lực thấp. Lợn
ở những nơi này thường xuất hiện những thể bệnh không điển hình do những
chủng virus có độc lực thấp gây ra. Đây chính là nguồn tàng trữ mầm bệnh rất
nguy hiểm. Khi lợn nái mang thai bị nhiễm thường làm cho bào thai bị chết lưu,
hoặc lợn con bị chết sau khi sinh hoặc lợn được sinh ra nhưng yếu ớt. Những lợn
con này có thể bị chết sau khi sinh một thời gian ngắn. Virus có thể có thể gieo
rắc cho những lứa đẻ sau. Những lợn con bị nhiễm bệnh bẩm sinh có thể mang
virus suốt đời và gây ra sự truyền bệnh tiếp xúc, vì vậy gây khó khăn trong công
tác phòng chống bệnh (Van Oirchot J. T. 1998).
1.3.2.2. Chất chứa mầm bệnh
Trong cơ thể, virus hấp thu mạnh trên bạch cầu nên máu có độc lực
sớm nhất; các chất bài xuất như nước dãi, nước mũi, nước mắt, nước tiểu,

phân, các phủ tạng đều chứa virus; hạch lympho và lách chứa nhiều virus nhất
(OIE, 2009).
Những lợn bị nhiễm bệnh có thể thải virus trước khi phát bệnh và tiếp tục
thải virus trong quá trình bệnh, sự thải virus chỉ dừng lại khi kháng thể được sinh
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 10


ra. Vì vậy những lợn bị nhiễm virus có độc lực cao có thể thải virus với số lượng
lớn trong thời gian 10 -20 ngày, những lợn bị bệnh thể mãn tính thải virus liên
tục hoặc từng đợt cho đến khi chết.
1.3.2.3 Lứa tuổi mắc bệnh
Các nghiên cứu về dịch tễ học cho thấy bệnh dịch tả lợn xảy ra ở lợn mọi
lứa tuổi, nhưng tập trung nhiều nhất ở lợn con theo mẹ và lợn mới cai sữa. Theo
Đào Trọng Đạt, Trần Thị Tố Liên (1989), do đàn lợn đã được tiêm phòng vắc xin
nhiều năm nên tuổi mắc bệnh phụ thuộc vào sức đề kháng và tình trạng miễn
dịch của đàn lợn. Điều này khác với tính chất lây lan mạnh và lợn ở mọi lứa tuổi
bị bệnh, tỷ lệ chết tới 100% trong các ổ dịch của nhiều năm trước đây. Theo
Nguyễn Xuân Bình (1998), mặc dù quy trình tiêm phòng đã khép kín nhưng bệnh
dịch tả lợn vẫn xảy ra với lợn con và lợn thịt giai đoạn 30 - 90 ngày tuổi với tỷ lệ
1- 1,5% tổng đàn.
Như vậy, tỷ lệ mắc bệnh dịch tả lợn tùy thuộc vào tỷ lệ tiêm phòng của
đàn lợn và mức độ kháng thể trong cơ thể lợn đã được tiêm; phụ thuộc vào mức
độ kháng thể của lợn mẹ truyền qua sữa đầu mà lợn con thu nhận được, ở những
vùng có tỷ lệ tiêm phòng thấp hoặc không được tiêm phòng thì tỷ lệ chết cao và
xảy ra ở mọi lứa tuổi.
1.3.2.4 Mùa vụ bị bệnh
Bệnh dịch tả lợn phát ra quanh năm, nhưng do biến động của đàn lợn nên
bệnh có lúc tăng, lúc giảm. Dịch xảy ra hầu hết ở các tháng trong năm nhưng vẫn

có sự chênh lệch đáng kể giữa các tháng của vụ Đông - Xuân và Hè - Thu. Ngoài
ra, tình hình dịch bệnh cũng còn bị ảnh hưởng của nhiều yếu tố như tỷ lệ tiêm
phòng, số lợn lớn đã bị giết thịt, số lợn con ra đời chưa được tiêm phòng làm cho
số lượng cá thể mẫn cảm với bệnh dịch tả lợn trong khu vực tăng lên. Tại Lào,
bệnh dịch tả lợn cũng xuất hiện quanh năm nhưng tập trung vào tháng 8-10 và
tháng 4-6 (Conlan, 2006).
1.3.3 Triệu chứng và bệnh tích
1.3.3.1 Triệu chứng
Thể bệnh của bệnh dịch tả lợn ngày nay có nhiều thay đổi, tùy thuộc vào
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 11


lứa tuổi lợn, phương thức chăn nuôi, chủng virus, thời điểm nhiễm bệnh,…
nhưng các thể bệnh chủ yếu thường gặp là: thể quá cấp, thể cấp tính, thể mãn tính
và thể tiềm ẩn (không điển hình).
* Thể quá cấp
Lợn bệnh đột ngột, sốt cao kết hợp với trạng thái thương hàn. Lợn bệnh
tử vong trong vòng 24 - 48 giờ, con vật chưa kịp xuất hiện triệu chứng ỉa chảy.
Thể này còn gọi là thể bệnh dịch tả lợn khô.
* Thể cấp tính
Thời gian nung bệnh từ 3 - 4 ngày. ở thể này, lợn bệnh có triệu chứng điển
hình là sốt cao từ 41 - 420C, kéo dài 3 - 5 ngày. Con vật uể oải, mệt mỏi, ít vận
động, kém ăn hoặc bỏ ăn. Từ khi nhiễm bệnh đến 24 - 48 giờ thì mắt lợn sưng
húp, viêm kết mạc, mắt chảy rỉ. Xuất huyết ngoài da cũng có thể xuất hiện cùng lúc
với giai đoạn nhiệt độ tăng cao. Các triệu chứng ngoài da như điểm xuất huyết điển
hình màu đỏ (bằng đầu đinh ghim) hoặc có khi tạo thành mảng đỏ lớn ở vùng da
mỏng chân, bụng, bên trong đùi, da gốc tai,… thường ở giai đoạn cuối của bệnh.
Con vật bị viêm dạ dày, ruột, có triệu chứng nôn mửa. Lúc đầu lợn đi táo, có màng

nhầy bao quanh cục phân. Về sau ỉa chảy nặng, phân màu xám, mùi phân thối khắm
rất đặc trưng. Virus tấn công vào đường hô hấp thì con vật bị viêm niêm mạc mũi, tụ
huyết, xuất huyết ở phổi, rối loạn nhịp thở, khó thở. Virus xâm nhập vào hệ thống
thần kinh, gây xuất huyết màng não, con vật co giật, đi loạng choạng, liệt hai chân
sau. Những con vật không bị chết trong vòng 4 tuần sau khi nhiễm bệnh thì có thể
phục hồi nếu hàm lượng kháng thể trung hòa cao hoặc chuyển thành thể mãn tính.
Lợn nái chửa thường giảm khả năng sinh sản, sảy thai, đẻ non, thai khô,…
Mức độ nghiêm trọng của thể bệnh cấp tính tùy thuộc vào nhiều yếu tố
như: Tuổi con vật, khả năng đáp ứng miễn dịch, liều gây nhiễm và độc lực của
virus. Mổ khám thấy bệnh tích đặc trưng là xuất huyết hạch lâm ba. Huyết khối ở
lách, rìa lách bị nhồi huyết có hình răng cưa. Loét niêm mạc vùng van hồi manh
tràng. Trên bề mặt vết loét có phủ bựa, vẽ thành các vòng tròn đồng tâm, trông
giống như hình cúc áo. Xuất huyết thận, viêm cầu thận. Các hạch lympho chứa
đầy hồng cầu.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 12


* Thể mạn tính
Khi lợn bị bệnh mà sống đến quá 30 ngày thì được coi là thể mạn tính.
Đặc trưng của thể bệnh này là lợn ăn rất ít hay bỏ ăn, sốt, ỉa chảy kéo dài hoặc
ngắt quãng, bạch cầu giảm. Thể này kéo dài vài tháng và cuối cùng cũng chết
(Trần Đình Từ, 1990). Các giai đoạn của thể mãn tính gồm:
- Giai đoạn đầu kéo dài 10 - 15 ngày, các triệu chứng giống như thể cấp
tính nhưng nhẹ hơn.
- Giai đoạn thứ hai là giai đoạn thuyên giảm.
- Giai đoạn ba: sẽ bị bội nhiễm các loại mầm bệnh khác; con vật gầy yếu,
tử vong trong vòng 1 đến 3 tháng.
Bệnh tích không đặc trưng nhưng thường là xuất huyết đường tiêu hóa,

loét hình cúc áo ở niêm mạc ruột già, hạch lâm ba xuất huyết.
* Thể tiềm ẩn
Thể bệnh này thường là do lợn bị nhiễm virus bẩm sinh. Lợn có biểu hiện
như rối loạn sinh sản: chết thai, thai chết lưu, thai khô, thai gỗ, dị dạng, rối loạn vận
động, sảy thai, chết ngay sau khi sinh, chậm lớn. Virus có thể lưu hành một cách
không rõ ràng, nhất là các trường hợp lẻ tẻ nổ ra khi có các điều kiện không thuận
lợi (Đào Trọng Đạt, Trần Thị Tố Liên, 1989). Virus dịch tả lợn có khả năng đi qua
hàng rào bảo vệ của nhau thai để lây nhiễm cho bào thai. Sự lây truyền virus qua
nhau thai cũng đã được quan sát thấy ở lợn nái được tiêm phòng bằng một vắc xin
nhược độc không đầy đủ; hiện tượng này cũng thấy ở lợn nái bị nhiễm tự nhiên
chủng virus độc lực thấp.
Hậu quả của lây nhiễm trong giai đoạn mang thai nhẹ hay nặng phụ thuộc
vào giai đoạn mang thai bị nhiễm virrus, khả năng đáp ứng miễn dịch của bào thai
và độc lực của virus. Nếu bào thai bị nhiễm ở giai đoạn đầu của quá trình mang thai,
lúc mà bào thai chưa có khả năng sinh miễn dịch thì sau khi cảm nhiễm với tác nhân
gây bệnh, không có khả năng chống lại virus và trở thành vật mang trùng. Lây
nhiễm ở giai đoạn sau của quá trình mang thai thì bào thai sinh đáp ứng miễn dịch
và làm giảm nguy cơ mang trùng; chỉ những con lợn bị nhiễm trong giai đoạn đầu
của bào thai mới trở thành thể bệnh tiềm ẩn.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 13


Các nghiên cứu thực nghiệm đã chứng minh rằng phần lớn những lợn con
của những nái đã bị nhiễm virus trong thời kỳ có thai đều dung nạp miễn dịch;
chúng không hình thành được kháng thể mà mang virus thường xuyên; ngay cả
sữa đầu cũng không xác định được ở những lợn con này mang trùng bởi vì kháng
thể thường xuyên bị cố định bởi những virus lưu hành. Van Oirchot J. T. (1998)
cho thấy những lợn con sinh ra từ những lợn nái nhiễm virus lúc mang thai 90

ngày tuổi thì có thể sống được 2 - 3 tuần tuổi, nhưng cơ thể mang virus và không
có kháng thể trung hòa.
Bệnh dịch tả lợn thể không điển hình rất khó phân biệt vì bệnh kéo dài và
không có triệu chứng đặc trưng. Thể bệnh dịch tả lợn không điển hình được
nhiều tác giả đề cập đến như Đào Trọng Đạt, Trần Thị Tố Liên (1989), Terpstra.
C, (1991). Thể không điển hình biểu hiện dưới các dạng khác nhau như rối loạn
sinh sản hoặc bệnh lý sinh sản như sảy thai, thai gỗ, chết thai, thai dị hình, chết
sau khi sinh,…Theo Nguyễn Lương (1997) đây là thể bệnh dịch tả lợn khó phân
biệt vì bệnh kéo dài và không có các thời kỳ rõ rệt; virus lưu hành một cách
không rõ ràng, nhất là lợn sinh sản với các trường hợp ổ dịch nhỏ lẻ nổ ra khi có
điều kiện thuận lợi (Mesplede A, E. Albina, F. Madee, 1999). Nguyên nhân của
thể không điển hình có rất nhiều, như: Độc tố của virus, các nhiễm trùng thứ
phát, sức đề kháng bẩm sinh, loại thức ăn, phương thức chăn nuôi.
1.3.3.2 Bệnh tích
* Bệnh tích đại thể
Theo Đào Trọng Đạt và Trần Thị Tố Liên (1989), bệnh dịch tả lợn là bệnh
dịch tễ đàn, do vậy khi quan sát lâm sàng và bệnh tích phải quan sát từ 3 - 5 con
trở lên; nhưng tìm ra đầy đủ các bệnh tích điển hình của bệnh dịch tả lợn trong
thời gian gần đây là rất khó.
Thể cấp tính và mãn tính có thể quan sát thấy bệnh tích xuất huyết lấm
tấm ở da, kích thước khác nhau do hoại tử thoái hoá tế bào nội bì và máu khó
đông. Xuất huyết xảy ra nhiều nhất ở hạch lympho, thận, ít hơn ở tim, màng
thanh dịch, bóng đái, niêm mạc ruột, thanh quản, da và dưới da. Hạch lympho
thường sưng to và xuất huyết ở các xoang ngoại biên làm cho hạch lympho giống
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 14


đá hóa vân. Xuất huyết ở thận chủ yếu là lấm chấm và thường nằm dưới vỏ. Lách

có kích thước bình thường, thấy nhồi huyết dọc theo rìa, làm cho lách có hình
răng cưa. Virus tác động gây mụn loét ở niêm mạc ruột già sau khi gây hoại tử ở
những nang lâm ba riêng biệt. Những mụn loét xuất hiện dày, tròn hình cúc áo
trên bề mặt có những khối sợi huyết tạo những vòng tròn đồng tâm. Những khối
sợi huyết đông đặc lại từng đợt làm mụn loét dầy lên. Ngoài ra có thể quan sát
thấy hiện tượng có nước nhầy, lắng đọng sợi fibrin, xuất huyết cục bộ màng nhày
của đường tiêu hóa, đường hô hấp, phổi, cuối cùng nhiễm bệnh kế phát xảy ra
(Van Oirschot J. T, 1998). Tùy theo từng ổ dịch, độc lực của virus, sức đề kháng
của con vật, thời gian cảm nhiễm,… mà bệnh tích ở từng con ở từng ổ dịch có
thể không giống nhau và không đầy đủ như đã nêu. Theo quan sát trong thời gian
gần đây thì việc tìm thấy đầy đủ các bệnh tích, triệu chứng của bệnh dịch tả lợn
là rất khó.
Tuy nhiên, theo Trần Thị Dân và cộng sự (2000), bệnh tích của lợn có
triệu chứng lâm sàng dịch tả lợn tại các lò giết mổ ở Bà Rịa - Vũng Tầu chủ yếu
là: Thận sưng xuất huyết, bàng quang xuất huyết, lách nhồi huyết, phổi viêm xuất
huyết, hạch ruột sưng, xuất huyết,…
Thể bệnh mãn tính và thể bệnh phát muộn (Late onset) thường thấy teo
tuyến Thymus và sưng các khớp của xương sườn ở lợn con (Van Oirschot J.
T, 1998).
Trong trường hợp bệnh dịch tả lợn xảy ra ở lợn con thường ghép với bệnh
phó thương hàn, E.Coli,... gây những nốt loét tràn lan ở ruột, viêm phổi,... làm lu
mờ bệnh tích của bệnh dịch tả lợn
* Bệnh tích vi thể
Đặc trưng nhất là ở hệ lưới nội bì của thành mạch quản, các tế bào nội bì
sưng to, thoái hóa, thủy thũng; các mạch quản ngoại biên bị giãn rộng, một số bị
tắc mạch dẫn tới bệnh tích đặc trưng của bệnh dịch tả lợn là xung huyết, xuất
xuyết, nhồi huyết (thường thấy ở lách, hạch lympho, thận và đường tiêu hóa),
hoại tử, viêm não, viêm màng não đặc trưng bởi sưng và thoái hóa các tế bào nội
bì, nghẽn mạch, thấm nhiễm lymphocyte quanh mạch. Theo Van Oirschot J.T,
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp


Page 15


1998, sự gia tăng về số lượng các đại thực bào và sự suy yếu của hệ đơn bào ở
giữa hạch bạch huyết, lách, hạch amidan và những đám hạch ruột xảy ra trong
trường hợp bệnh mãn tính.
1.3.4 Các phương pháp chẩn đoán bệnh dịch tả lợn
Trước đây việc chẩn đoán bệnh dịch tả lợn thường dựa vào các biểu hiện
về triệu chứng, bệnh tích. Tuy nhiên, hiện nay bệnh dịch tả lợn đã diễn biến phức
tạp, do vậy phương pháp này tỏ ra không hiệu quả. Virus dịch tả lợn chỉ gây bệnh
cho loài lợn, lợn là loài động vật cảm thụ duy nhất nên việc tiêm truyền cho động
vật để chẩn đoán bệnh tốn kém về kinh tế hơn các động vật khác. Việc chẩn
đoán, phát hiện virus trong cơ thể lợn là khó khăn vì số lượng virus trong cơ thể
không nhiều. Các phương pháp hiện nay đang được áp dụng là: phát hiện kháng
nguyên hoặc phát hiện kháng thể trong các bệnh phẩm bằng phản ứng miễn dịch
huỳnh quang trực tiếp; nuôi cấy phân lập virus trên môi trường tế bào hoặc tiêm
truyền cho lợn; phản ứng trung hòa trên thỏ; phản ứng ngưng kết gián tiếp hồng
cầu; công thức bạch cầu; phản ứng kết tủa khuếch tán trên thạch; phản ứng miễn
dịch đánh dấu enzym (ELISA),...tuy nhiên mỗi phương pháp đều có những ưu,
nhược điểm riêng.
1.3.4.1. Chẩn đoán dựa vào triệu chứng, bệnh tích
Trong thực tế sản xuất tại các địa phương, việc dựa vào các triệu chứng,
bệnh tích để chẩn đoán bệnh dịch tả lợn là chủ yếu, tuy nhiên kết quả của phương
pháp này có độ chính xác không cao; nhưng rất cần thiết để có kết quả sơ chẩn ban
đầu trước khi tiến hành các phương pháp trong phòng thí nghiệm.
1.3.4.2. Chẩn đoán virus học
Chẩn đoán virus học phải được tiến hành nhanh chóng ngay trong ngày
khi lấy bệnh phẩm; phương pháp chẩn đoán virus học bao gồm: Kiểm tra máu và
bệnh phẩm trên kính hiển vi bằng cách làm tiêu bản, tiêm truyền động vật thí

nghiệm; phương pháp làm tăng cường độc lực của virus newcastle.
* Mẫu bệnh phẩm
- Trên động vật chết: Lách, hạch lympho, thận, amidan.
- Trên động vật sống: máu có chất chống đông, máu đựng trong ống
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 16


nghiệm khô; thai sảy.
* Phương pháp kiểm tra trên kính hiển vi bệnh phẩm máu và phủ tạng:
Làm tiêu bản, nhuộm gram để kiểm tra trên kính hiển vi; nếu không thấy vi
khuẩn thì có thể nghi đó là bệnh dịch tả lợn thuần túy sau khi đã có kết quả chẩn
đoán lâm sàng (các triệu chứng lâm sàng, bệnh tích đặc trưng của bệnh dịch tả
lợn); trường hợp có vi khuẩn thì có thể nghi ghép với bệnh đã phát hiện ra vi
khuẩn (Nguyễn Lương, 1997).
* Phương pháp tiêm truyền động vật thí nghiệm
Phương pháp phát hiện bệnh dịch tả lợn cổ điển chính xác nhất là tiêm
truyền cho lợn (Pearson J. E, 1998). Tuy nhiên phương pháp này có nhược điểm
là tốn thời gian (Có thể 3 - 4 tuần lễ) và tiền của. Phương pháp này thường được
áp dụng khi các triệu chứng lâm sàng và bệnh tích không đủ để kết luận bệnh
hoặc để có cơ sở pháp lý công bố dịch.
Theo Nguyễn Như Thanh (2001), lấy hạch, lách, tủy xương của lợn nghi
mắc bệnh trong ổ dịch nghiền với nước sinh lý, tiêm cho lợn khỏe (chưa tiêm vắc
xin dịch tả lợn lần nào) ở ngoài ổ dịch. Bệnh phẩm là 1 ml máu và 0,5g lách của
lợn nghi mắc bệnh pha thành huyễn dịch 1/10, xử lý kháng sinh rồi tiêm cho lợn
vào dưới da. Trong 3 ngày (nếu bệnh phẩm có virus) lợn được tiêm sẽ kém ăn, sốt
cao, táo bón, có hiện tượng viêm kết mạc mắt, mắt có dử...sau khoảng 1 tuần con
vật đi tháo, phân có mùi tanh khắm đặc trưng ; nếu kéo dài con vật có biểu hiện
thần kinh, liệt hai chân sau ; cuối cùng con vật bị hạ thân nhiệt và chết. Mổ khám

thấy các bệnh tích đặc trưng của bệnh dịch tả lợn.
* Phương pháp làm tăng cường độc lực của virus Newcastle
Người ta dùng môi trường tế bào một lớp chế từ dịch hoàn để cấy bệnh
phẩm nghi có virus dịch tả lợn, sau 5 ngày tiếp tục cấy virus Newcastle, thấy
virus newcastle nhân lên mạnh và gây bệnh tích tế bào, chứng tỏ trong bệnh
phẩm có chứa virus dịch tả lợn.
1.3.4.3. Chẩn đoán huyết thanh học
Hiện nay ở Việt Nam thường dùng một số phản ứng huyết thanh học sau
đây để nghiên cứu, chẩn đoán và giám sát bệnh dịch tả lợn:
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 17


×