Tải bản đầy đủ (.doc) (3 trang)

Đây Thôn Vĩ Dạ - Hàn Mặc Tử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (106.91 KB, 3 trang )

ĐẾN VỚI “ĐÂY THÔN VĨ DẠ”
của
Hàn Mặc Tử
Với nhiều bút hiệu: Minh Duệ Thị, Phong Trần, rồi Lệ Thanh, và cuối cùng là Hàn Mặc
Tử, Nguyễn Trọng Trí đã bước vào làng thơ. Đặc biệt dưới bầu trời thơ mới, bên cạnh những vì
sao như: Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Thế Lữ, Chế Lan Viên … vì sao Hàn Mặc Tử đã
toả ánh hào quang thi ca với màu sắc của riêng mình. Đọc thơ Hàn Mặc Tử, ta chìm đắm trong
ánh sáng khát vọng, khắc khoải của tình yêu trần thế với những thiên tình cổ lụy; ánh sáng chơi
vơi huyền hoặc của thiên nhiên, và để rồi với cuộc đời bất hạnh, thơ ông đã hoà nhập vào thứ
ánh sáng nhiệm màu của Đấng siêu nhiên trong niềm thanh khí diệu kì.
“ Đây Thôn Vĩ Dạ” cùng với nhiều giai thoại, nhiều cái nhìn dưới những lăng kính khác
nhau, nhưng chúng ta cũng phải thừa nhận nó là tiếng vọng của tình yêu, của tâm trạng nhà thơ
hoà quyên vào thế giới mộng mơ xứ Huế.
“Đây Thôn Vĩ Dạ” chỉ với 84 bước thơ mà Hàn Mặc Tử đã đưa ta về với mảnh vườn
thân thương, sông nước, mây trời, và con người xứ Huế. Những hình ảnh, màu sắc trong bài thơ
được Hàn Mặc Tử điểm tô bằng những ngôn từ giản dị, trong sáng. Ta có thể dung tưởng đó là
bức tranh với đôi nét chấm phá bằng những “gam” màu êm nhẹ của nghệ thuật hội hoạ mà chất
nặng ân tình. Đến với “Đây thôn Vĩ Dạ”, ta không thể đến bằng lối trực giao, mà phải cảm nhận
bằng lối thần giao. Tại sao? Bởi cái giản dị của ngôn từ lại là cái siêu thực với những “vườn ai”,
“sông trăng đó”, “khách đường xa”, “trắng quá”, “mờ nhân ảnh”, và “ai biết tình ai”. Tất cả
những cụm từ phiếm chỉ, thực - ảo, ta có thể nói đó là một Picaso của thi ca. Có ai đó đã so sánh
thơ của Hàn Mặc Tử với tranh của Picaso, nhất là trong tập “Thơ điên” của ông. Nhưng chưa
bao giờ “Đây thôn Vĩ Dạ” bị xếp vào loại thơ điên tuy có mặt trong tập thơ ấy. Nò là bài thơ
trong sáng trong cái lập thể, siêu thực của Hàn Mặc Tử.
Có một bức tranh vẽ: một cái “pipe”, một cây đàn “guitare” đã vỡ, bộ râu mép của anh
thợ máy, một nửa mặt nhìn nghiêng của người đàn bà, tất cả bị chằng chịt bởi những dây điện
thoại, và bao trùm bởi ánh tà huy, thế mà dưới bức tranh ghi chú: “Hoàng hôn trên Auteuil”.
“Đây thôn Vĩ Dạ” ta cũng có thể có một nhận xét tương đồng, Hàn Mặc Tử có nói đến
sông, đến gió, đến mây, đến trăng, lại có cả “hoa bắp lay”. Những hình ảnh này chẳng thấy gì
gắn liền với một thôn Vĩ, cho dù thôn Vĩ có hình ảnh sông Hương, vườn bắp, với trăng, nước,
mây trời, nhưng ta bảo nó là một miền sông nước nào đó cũng chẳng sao. Rồi đến tả tình, Hàn


Mặc Tử có nói đến “đường xa” và “áo trắng” nhưng lại “mờ nhân ảnh”. Tất cã như chẳng có gì
gắn với thôn Vĩ, thế mà Hàn Mặc Tử lại bảo: “Đây thôn Vĩ Dạ”.
Thế nên khi đọc bài thơ, ta không nên đọc theo đề tài, mà đọc bằng tâm trạng theo ngả
thần giao.
Bước vào khổ thơ thứ nhất:
“sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.”
Câu thơ đầu là lời trách, cố nhiên, nhưng rất nhẹ đối với người yêu của “ai” đó giữ lòng
Thần Kinh vời vợi nhớ mong. Nó như một nỗi nhớ từ xa xôi trở lại, rất gợi cảm. Hình ảnh của
thôn Vĩ ngày nào chợt sống dậy từ tiềm thức của nhà thơ. Đó là thôn Vĩ Dạ của những “hàng
cau” tràn ngập “nắng mới”, thôn Vĩ có mảnh “vườn ai mướt quá xanh như ngọc”. Hàn Mặc Tử
không tả mà ông chỉ với đôi nét bằng ấn tượng: hàng cau tràn ngập ánh ban mai. Hình ảnh với
khoảnh khắc thời gian nhưng là ấn tượng tiêu biểu đáng nhớ chẳng khác gì giọt sương đầu cành
của Reverdy: “Giọt nước rung rinh ở đầu chiếc lá”, nhất thời nhưng mãi mãi vấn vương. Với
mảnh vườn, thi sỹ họ Hàn cũng chẳng miêu tả cỏ cây, hoa lá, mà chỉ tập trung vào một màu
xanh, rất xanh vì là xanh mướt, mà lại “xanh như ngọc”, có một cái gì là lạ đối với người
1
thưởng thức, một lối so sánh không mấy phổ biến. Nhưng nếu đọc bằng cảm giác, ta mới thấy
không những chính xác mà lại còn hay. Bởi lẽ, không thể thay ngọc bằng một hình ảnh khác, vì
“bích” chỉ có sánh đôi với “ngọc”. Thế ra nó còn hàm chứa tình cảm nâng niu của Hàn Mặc Tử.
“Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên.
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”
Nếu đọc liền mạch hai câu thơ, ta mới cảm nhận được cái mướt xanh như ngọc. vì có ánh
náng chiếu rọi xuống màu xanh của màu lá thì mới tạo được hồi quang của ngọc bích – “
XANH NHƯ NGỌC”, siêu thực và tuyệt diệu, câu thơ đã vươn tới sự kì diệu của nghệ thuật.
Hàn Mạc Tử quả là một “ nghệ sĩ nhiệm mầu”, ông có một tâm hồn rung động để cảm thông và
cảm nhận một cách tế nhị những đường nét mong manh của hình sắc, những xao động êm đềm
của âm thanh, một nét gì rất Tây phương –“ The sound of silence”. Không, nhưng cũng rất

Đông phương:
“Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
“Trúc” biểu tượng người quân tử, “mặt chữ điền” muốn nói gương mặt của đấng nam nhi
cương nghị. Hai hình ảnh này phù hợp với “sao anh” ở câu đầu. Một câu thơ rất tạo hình được
đan kết bằng nghệ thuật ngôn ngữ hình tượng của thi ca. Vì chỉ có “anh” là “trúc”, “anh” với
gương “mặt chữ điền”.
Sang đến khổ thơ thứ hai, Hàn Mặc Tử đã đưa ta vào quỹ đạo khác của một hành tinh
khác. Đã xa rồi “khuôn mặt” với “vườn ai”, và chỉ còn lại:
“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăm về kịp tối nay”
Khác với khổ thơ đầu được khai bằng vần trắc để phô diễn cái réo rắt, gọi mời, thì khổ
thơ thứ hai được hòa âm với vần bằng, tạo nên âm điệu man mác, chơi vơi, êm ái, nhẹ nhàng
của không gian. Hàn Mặc Tử như muốn nhờ không gian nói lên tâm cảnh của mình. Hay nói
một cách khác, đây là bức tranh tâm trạng. “dòng nước” có “hoa bắp lay”, “bến sông” kia có
“thuyền ai đậu”. Đó là dòng sông Hương bên thôn Vĩ thật đấy, nhưng cũng chỉ là những gợi nhớ
một nối niềm xa xôi đã cuốn theo chiều gió. Vì đường mây cũng là lối gió, để cuối khổ thơ, tác
giả ngây ngất trong cảm giác mộng thực giao thoa:
“Có chở trăng về kịp tối nay”
Ánh trăng tràn ngập trong thi ca Hàn Mặc Tử. với Hàn Mặc Tử, trăng là cõi mộng, trăng
là tình si;trăng như một thực thể khát vọng hoan lạc nhục tình:
“Trăng nằm sóng soải trên cành liễu
Đợi gió đông về để lả lơi”
“Trăng sáng, trăng xa, trăng rộng quá
Hai người nhưng chẳng bớt bơ vơ”
“Ô hay chị Nguyệt trần truồng tắm”
Lộ cái khuôn vàng dưới đáy khe.”
Bốn câu thơ cuối cùng thấp thoáng, xa xôi màu bạc hạnh:
“Mơ khách đường xa, khách đường xa

Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”
Lúc này tâm trạng nhà thơ không còn là trạng thái “mộng thực giao thoa” nữa, mà đã
hoàn toàn rơi vào mộng giữa những ảo ảnh. Tại sao không là “em” để ứng với “anh” trong lời
thầm trách “sao anh không về” mà lại là “khách đường xa”. Ta liên tưởng đến “một khách má
hồng” nào đó thấp thoáng một lần gặp gỡ để hôm nay lạc vào vùng hoài tưởng, dường như có
một Thôi Hộ trong Hàn Mặc Tử:
“khứ niên, kim nhật, thử môn trung
2
Nhân diện, đào hoa tương ánh hồng
Nhân diện bất tri hà xứ khứ
Đào hoa y cực tiếu đông phong”
“Nhân diện” của Thôi Hộ “bất tri hà xứ khứ”, chỉ còn lại “hoa đào tiếu đông phong”,
“khách đường xa” cùa Hàn Mặc Tử thì lại “áo em trắng quá nhìn không ra”. Cả hai biểu tượng
cùng phát xuất từ tâm tưởng. Màu trắng của Hàn Mặc Tử, hoa đào cười với gió đông cùa Thôi
Hộ đều được phản chiếu từ tâm tưởng để cảm nhận hình ảnh ký ứa, mà ký ức chỉ là ảnh ảo của
ảnh thực. Từ cái thực của thôn Vĩ, Hàn Mặc Tử khéo léo và kín đáo giới thiệu màu áo ấy, màu
áo trắng đã phủ kín bài thơ bằng cảm xúc của ông, tình yêu chơi vơi nhưng da diết khôn nguôi.
“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh”
Ai biết tình ai có đậm đà?”
“Sương khói” của Hàn Mặc Tử là sương khói cực vi, cực diệu mà che cả “nhân ảnh”,
cuốn theo bao kỉ niệm hay kỉ niệm tan thành sương khói, ta có thể hiểu theo cả hai cách. Bằng
cách nào thì cũng chỉ giãi bày tình yêu trên con đường một chiều không giao điểm trùng phùng.
Câu thơ đã đưa ta lạc vào vùng suy tưởng, chẳng còn là thôn Vĩ Dạ của Xứ Huế nữa.Thứ
“sương khói” của Hàn Mặc Tử không phải là sương khói thiên nhiên của làng thôn nhỏ bé ấy.
“Ở đây” phải chăng là lòng Hàn Mặc Tử đang hoài tưởng và đắm đuối nhìn theo bằng ánh mắt
vi huyền, vi diệu của tâm hồn, chơi vơi, bồng bềnh, xa vắng trước “nhân ành”đậm nét Đông
phương.
Có thể nói, ba khổ thơ là ba hình ảnh giới hạn trong không gian, nếu nhìn từ một phía.

Nhưng với không gian ba chiều, “Đây thôn Vĩ Dạ” là tác phẩm toàn bích về nội dung và nghệ
thuật. Toàn bích đến độ trong sáng, dễ hiểu nếu chỉ đọc một lần. Nhưng càng phân tích, chúng
ta càng đi sâu vào vẻ đẹp với nhiều khám phá sâu xa, thầm kín từ cõi lòng Hàn Mặc Tử.
“Đây thôn Vĩ Dạ” - viên ngọc trân nhiều màu sắc trong chuỗi ngọc thi ca Việt Nam. Bởi
bài thơ là cả vẻ đẹp thiên nhiên và con người đất Thần Kinh mơ mộng – huyền ảo. Vẻ đẹp được
tạo nên từ một si mê, đắm đuối u hoài.
Bằng thi tài và nghệ thuật đặc biệt, Hàn Mặc Tử đã đem đến cho người đọc tình yêu quí
Huế. Từ đó, ta cũng trân trọng tâm hồn nhà thơ đối với xứ Huế và quê hương ./.
Nguyễn Minh Sơn
Trường THPT Mỹ Thới
11/ 1998
----------------
3

×