Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Phi trung tâm trong truyện ngắn raymond carver (TT)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (313.94 KB, 27 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ HẠNH

PHI TRUNG TÂM TRONG
TRUYỆN NGẮN RAYMOND CARVER
Chuyên ngành: Văn học nước ngoài
Mã số: 62.22.02.45

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

HÀ NỘI - 2017


Công trình được hoàn thành tại
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

Người hướng dẫn khoa học:

1. GS.TS. LÊ HUY BẮC
2. PGS.TS. LÊ NGUYÊN CẨN

Phản biện 1: PGS.TS ĐÀO DUY HIỆP
Trường Đại học KHXH&NV - ĐHQG Hà Nội
Phản biện 2: PGS.TS LÊ THỜI TÂN
Trường Đại học Thủ đô Hà Nội
Phản biện 3: PGS.TS NGUYỄN THANH TÚ
Tạp chí Văn nghệ Quân đội

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Trường,


họp tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
vào hồi…..giờ… ngày… tháng… năm 2017

Có thể tìm hiểu luận án tại:
- Thư viện Quốc gia Việt Nam
- Thư viện Trường Đại học Sư phạm Hà Nội


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Raymond Carver (1939 - 1988) là nhà văn của khuynh hướng tối giản
(“minimalism”, còn được dịch là chủ nghĩa cực hạn, chủ nghĩa thiểu tố),
được xem là “một Chekhov của nước Mỹ hậu hiện đại”, có nhiều ảnh hưởng
đến văn chương đương đại thế giới. Nghiên cứu sáng tác của Raymond
Carver, luận án làm sáng tỏ hơn về khuynh hướng văn chương tối giản và
góp phần minh định vị trí của nhà văn trong dòng chảy văn học thế giới.
Đã có nhiều công trình nghiên cứu sáng tác văn chương của Carver
trên thế giới, nhưng đi sâu xem xét và nghiên cứu truyện ngắn của ông từ
góc nhìn của nghệ thuật phi trung tâm - một trong những lí thuyết cơ bản
của chủ nghĩa hậu hiện đại, đến nay vẫn còn là khoảng trống.
Tìm hiểu lối viết của khuynh hướng tối giản kết hợp với nguyên lí
phi trung tâm, chúng tôi nhận thấy Carver xóa bỏ đặc tính một trung tâm
duy nhất trong văn học trước đây, kiến tạo những trung tâm mới trên nhiều
phương diện nghệ thuật, từ nhân vật, điểm nhìn cho đến cốt truyện,… tạo
ra phong cách nghệ thuật độc đáo của riêng ông, góp phần làm nên tính
chất dân chủ hóa trong đời sống văn chương.
Ở Việt Nam, việc giới thiệu và nghiên cứu Carver cũng như tác
phẩm của ông chưa nhiều. Hơn nữa, trong nhà trường hiện nay, nhất là

trường đại học, việc tiếp cận với những vấn đề mới của văn học như văn
học hậu hiện đại bên cạnh cơ hội bổ sung kiến thức, trau dồi hoạt động
nghiên cứu khoa học, tích lũy kinh nghiệm nhằm nâng cao chất lượng
giảng dạy đang là một nhu cầu cần thiết. Nghiên cứu truyện ngắn của một
trong số các nhà văn hậu hiện đại tiêu biểu như Raymond Carver, ở một
phạm vi nhất định, đề tài sẽ đóng góp được nhu cầu trên.
Tất cả những lí do trên là căn cứ khoa học cho phép chúng tôi thực
hiện đề tài: Phi trung tâm trong truyện ngắn Raymond Carver.
2. Mục đích nghiên cứu
2.1. Chỉ ra một cách hệ thống những đặc điểm cơ bản của nghệ thuật
phi trung tâm, về sự tan rã của kiểu nhân vật trung tâm, nghệ thuật phân tán
điểm nhìn và phân mảnh cốt truyện trong truyện ngắn của Raymond Carver.


2

2.2. Nhận diện những đóng góp của nghệ thuật phi trung tâm trong
truyện ngắn Raymond Carver trong xu hướng dân chủ hóa văn chương thế
giới và cảm quan thời đại của sự đổ vỡ những “giấc mơ Mỹ dưới thời
Reagan”, góp phần làm nên diện mạo của văn học Mỹ nửa sau thế kỷ XX.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là những khía cạnh, biểu hiện phi
trung tâm trong truyện ngắn của Raymond Carver.
Phạm vi nghiên cứu là các truyện ngắn của Raymond Carver. Những
trích dẫn tác phẩm được đưa vào luận án được chúng tôi trực tiếp dịch từ
cuốn Raymond Carver, Collected Stories (2009), The Library of America
(gồm 82 truyện ngắn và 4 tiểu luận), tham khảo bản dịch của Lâm Vũ
Thao, Dương Tường, Phạm Minh Điệp, Lê Huy Bắc.
4. Phương pháp nghiên cứu
Cơ sở phương pháp luận: Chúng tôi dựa vào nền tảng lí thuyết giải

cấu trúc trong mối tương quan với mĩ học hậu hiện đại để triển khai đề tài.
Các phương pháp và thao tác cụ thể:
- Phương pháp lịch sử - loại hình: dùng để khảo sát sự hình thành và
vận động của lý thuyết truyện ngắn hậu hiện đại, đặc trưng và các quan
niệm riêng của các nhà lý luận và Raymond Carver trong các lĩnh vực triết
học, văn học, và các phương diện nghệ thuật trần thuật.
- Phương pháp cấu trúc - hệ thống: dùng để tìm hiểu, nghiên cứu một
cách hệ thống các mô hình trần thuật phi trung tâm như nhân vật, điểm
nhìn và cốt truyện theo nguyên tắc hậu hiện đại của Raymond Carver.
- Phương pháp văn hóa - lịch sử: dùng để khảo sát quá trình hình
thành truyện ngắn Raymond Carver (điều kiện triết học, kinh tế - xã hội,
văn hóa - nghệ thuật) và nghiên cứu đặc thù lịch sử, văn hóa, văn học dân
tộc trong truyện ngắn Raymond Carver.
- Phương pháp so sánh - đối chiếu: dùng để nghiên cứu những tương
đồng và riêng biệt trong tư duy nghệ thuật truyện ngắn Raymond Carver
với tác giả văn xuôi theo xu hướng cổ điển, hiện đại và hậu hiện đại trong
văn học thế giới.


3

- Thao tác phân tích – tổng hợp: dùng để nghiên cứu những biểu
hiện làm nên giá trị nội dung cũng như hình thức nghệ thuật các tác
phẩm của Carver.
5. Những đóng góp mới của luận án
5.1. Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu truyện ngắn của Raymond
Carver - một nhà văn của khuynh hướng cực hạn dưới góc nhìn của lí
thuyết phi trung tâm, từ đó chỉ ra xu hướng dân chủ hóa trong lối viết
truyện ngắn làm nên sức hấp dẫn của không chỉ văn chương Mỹ những
thập niên cuối thế kỉ XX mà có sức lan tỏa đến văn chương đương đại thế

giới ở ba bình diện lớn: nhân vật phi trung tâm, nghệ thuật phân tán điểm
nhìn và phân mảnh cốt truyện.
5.2. Từ việc nghiên cứu nghệ thuật phi trung tâm trong truyện ngắn
của Carver, luận án chỉ ra sự tương tác hai chiều giữa sáng tác và cảm
quan thời đại. Phi trung tâm không chỉ làm nên diện mạo, đặc trưng
phong cách nghệ thuật của Carver mà hơn thế, nó góp phần làm nên diễn
ngôn về “mặt trái của nước Mỹ”, một nước Mỹ “ngập ngụa trong sự phân
hủy, bế tắc, mất niềm tin và những đổ vỡ”. Từ đó, hình ảnh nước Mỹ trung tâm một thời của thế giới, giấc mộng của con người Mỹ những thập
niên cuối thế kỷ XX được thay thế bằng hành trình kiếm tìm một thế giới
mới, thế giới của những cái bình dị, đời thường nhưng đem lại cảm giác
bình an và hạnh phúc.
6. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận án
được cấu trúc thành bốn chương:
Chương 1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Chương 2. Phi trung tâm nhân vật
Chương 3. Phân tán điểm nhìn
Chương 4. Phân mảnh cốt truyện


4

Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Những nghiên cứu về lí thuyết phi trung tâm
1.1.1. Nghiên cứu về lí thuyết phi trung tâm ở nước ngoài
Bắt đầu từ J. Derrida trong Cấu trúc, kí hiệu và trò chơi trong diễn ngôn
các khoa học nhân văn (Structure, Sign and Play in the Discourse of Human
Sciences), khái niệm phi trung tâm tiếp tục được làm rõ trong các công trình:
Postmordern Terms - Absence to Curtain Wall (Thuật ngữ hậu hiện đại - Sự

thiếu vắng vách ngăn), Encyclopedia of Contemporary Literary Theory:
Approaches, Scholars, Terms (Bách khoa toàn thư về lí thuyết văn học đương
đại: trường phái, học giả và thuật ngữ), A Dictionary of Literary and Thematic
Terms (Từ điển thuật ngữ theo chủ đề và văn học) của Edward Quinn.
Căn cứ vào những nguồn tư liệu trên, chúng tôi nhận thấy, tất cả các
tác giả đều khẳng định “phi trung tâm” là nguyên tắc nổi trội của chủ
nghĩa hậu hiện đại. Song, cụ thể, nguyên tắc “phi trung tâm” được biểu
hiện trên những phương diện nào trong văn bản thì chưa được đề cập tới.
1.1.2. Nghiên cứu về phi trung tâm ở Việt Nam
Ở Việt Nam, khái niệm phi trung tâm đã được một số nhà nghiên cứu
bàn tới, tuy không nhiều. Tựu trung, các tác giả đã làm rõ khái niệm phi
trung tâm (có nhiều trung tâm), chỉ ra sự gắn kết của nó với tính đa trị, đa
chủ đề và tập trung nghiên cứu ở phương diện nhân vật cùng với việc
khẳng định nguyên tắc phi trung tâm của chủ nghĩa hậu hiện đại gắn liền
với nguyên tắc mảnh vỡ.
Tóm lại, khi nghiên cứu về khái niệm phi trung tâm, cho đến nay, các
công trình nghiên cứu thường quy về bốn phương diện cơ bản:
1. Làm rõ khái niệm phi trung tâm (có nhiều trung tâm) và chỉ ra sự
gắn kết của nó với tính đa trị và đa chủ đề trong tác phẩm.
2. Hiện tượng phi trung tâm mới được xem xét ở phương diện nhân
vật và phương diện này đã có từ các tác phẩm văn chương thế kỉ XIX chủ
yếu ở thể loại tiểu thuyết, ngoại trừ thể loại truyện ngắn có Chekhov.
3. Gắn với xu hướng phi trung tâm ở thế kỉ XIX là đặc tính: dung


5

lượng tác phẩm ngắn và chủ yếu ở những tác phẩm có lời đối thoại
chiếm ưu thế.
4. Khẳng định nguyên tắc phi trung tâm chỉ trở thành dấu ấn riêng

của chủ nghĩa hậu hiện đại khi nó gắn liền với nguyên tắc mảnh vỡ (theo
tính chất sóng đôi).
1.1.3. Những vấn đề đặt ra
Dựa vào tất cả những khảo cứu trên, theo chúng tôi, phi trung tâm là
hiện tượng phân tán trung tâm (phá vỡ chỉnh thể, không có tính đồng nhất,
nguyên phiến) để tạo thành các trung tâm mà mỗi trung tâm mang một
nghĩa độc lập, có sức sống nội tại và có khả năng tương tác với nhau. Từ
đó, chúng tôi giải quyết một số vấn đề thuộc về thuật ngữ, cách dịch...
Về thuật ngữ, đa trung tâm có phải là phi trung tâm không? Đa trung
tâm hay phi trung tâm là cách gọi tên khái niệm của các nhà nghiên cứu
theo những hướng nghiên cứu khác nhau. Về bản chất, chúng có điểm giao
thoa. Theo chúng tôi, đa trung tâm là phi trung tâm khi nó có khả năng
tương tác. Về nguyên tắc, muốn tạo nghĩa phải có trung tâm, do đó, vấn đề
phi trung tâm không phải là phủ nhận trung tâm mà nó hướng tới một
hoặc nhiều trung tâm mới.
Liên quan đến cách dịch khái niệm, chúng tôi làm rõ thêm hai vấn đề.
Một là, lựa chọn từ dùng làm khái niệm trong luận án là decentralization (phi
trung tâm hóa) hay decenter (giải trung tâm/phi trung tâm)? Hiện nay, hai
khái niệm được dùng có liên quan là decentralization (phi trung tâm hóa) và
decenter (giải trung tâm/phi trung tâm). Trong những Từ điển mà chúng
tôi hiện có và tham khảo (A Dictionary of Literary and Thematic Terms (Từ
điển thuật ngữ theo chủ đề và văn học) của Edward Quinn, Postmordern
terms - Absence to Curtain Wall (Thuật ngữ hậu hiện đại - Sự thiếu vắng
vách ngăn), Encyclopedia of Contemporary Literary Theory: Approaches,
Scholars, Terms (Bách khoa toàn thư về lí thuyết văn học đương đại:
trường phái, học giả và thuật ngữ), Từ điển Oxford) đều sử dụng khái
niệm decenter. Đáng chú ý là, khái niệm decenter được dùng trong các Từ
điển thuật ngữ hầu hết đều được đặt trong tương quan so sánh: center và
decenter với mục đích chỉ rõ xu hướng dịch chuyển khái niệm này trong



6

nghiên cứu phê bình văn học. Center vốn được dùng với chức năng từ loại
vừa là danh từ vừa là động từ, cho nên chúng tôi cho rằng, trong mối tương
quan giữa chúng, khi thêm tiền tố de vào trước danh từ/động từ center thì
decenter được sử dụng với chức năng vừa là động từ vừa có thể được hiểu
như danh từ. Do đó, trong luận án, chúng tôi thống nhất cách lựa chọn
thuật ngữ decenter cho cả hai cách sử dụng từ loại này.
Hai là, decenter nên dịch là phi trung tâm hay giải trung tâm? Thực
ra, cách chuyển dịch nghĩa từ tiếng Anh sang tiếng Việt, chúng tôi nghĩ,
bản chất thuật ngữ không thay đổi, chỉ là cách chuyển dịch tên gọi sang
tiếng Việt. Bấy lâu, ở Việt Nam, vẫn dịch deconstruction là giải cấu trúc
hoặc “cái chết của chủ thể còn được các nhà nghiên cứu gọi là phản chủ
thể, phi tôi, giải tôi”, nghĩa là giải được dùng giống như phi… Các nhà
hậu hiện đại, khi đề xuất các định đề triết học của mình, “thường sử dụng
với số nhiều thậm phồn, đa (hyper, multy) như đa nguyên, đa trị, đa điểm
nhìn… Và đương nhiên để phát lộ được những cái đa đó, cần phải xuất
hiện một phạm trù giải, đả phá (tiếp đầu ngữ de, giải cấu trúc, giải trung
tâm,…), hiệu quả kéo theo là những cái độc tôn đều chết (dead, cái chết
của tác giả, cái chết của chủ thể…). Đặc tính phi trung tâm xuất hiện”.
Theo cách lí giải này, giải trung tâm là một phạm trù, còn phi trung tâm là
đặc tính. Chúng tôi nhận thấy, ranh giới trong cách dịch tiền tố de là phi
hay giải thực ra cũng chưa hoàn toàn phân định một cách rõ ràng, đôi khi,
chúng vẫn được dùng theo nghĩa tương đương, có thể thay thế cho nhau.
Vì vậy, theo chúng tôi, tiền tố de trong decenter có thể được dịch là phi
hoặc giải cùng hiểu theo nghĩa, chúng không phải là sự phủ nhận mà là xóa
bỏ tính duy nhất của một trung tâm để thay thế và xác lập thêm những trung
tâm mới. Trong luận án, chúng tôi thống nhất cách gọi là phi trung tâm.
Như vậy, phi trung tâm được manh nha từ thế kỉ XIX nhưng thực sự

đến thế kỉ XX, nó mới được cắt nghĩa rõ nét trên nền tảng của các định đề
triết học, chính trị, xã hội, kinh tế… Và sự phát triển của nó cũng mang
những dấu ấn mới (dung lượng, mức độ phổ biến - trở thành một xu hướng,
khả năng tiếp nhận, đặc biệt, luôn gắn liền với tính chất mảnh vỡ…).


7

1.2. Những công trình nghiên cứu về Raymond Carver
1.2.1. Nghiên cứu về Raymond Carver ở nước ngoài
Trên thế giới, nhiều công trình cung cấp cái nhìn toàn diện và hệ
thống về Raymond Carver, từ cuộc đời cho đến tác phẩm của ông trên
nhiều bình diện khác nhau. Từ những tư liệu có được, chúng tôi phân
nhóm theo hướng nghiên cứu, bao gồm:
Hướng nghiên cứu tiểu sử học bao gồm các công trình của William Stull,
Claude Grime, Arthur M. Saltzman, Marshall Bruce Gentry, Francesco Durante,
Gari William, Richar Ford, Harold Bloom, Kristin Dota, Paul Lauter,…
Hướng nghiên cứu xã hội học bao gồm các công trình của Mona
Simson, Lewis Buzbee, Kirk Nesset, Sandra Lee Kleppe, Chad Wriglesworth,
April King, Dân Carson…
Hướng nghiên cứu thi pháp học có các công trình của Miriam Marty
Clark, Laurie Champion, Daniel W. Lehman…
Hướng nghiên cứu khuynh hướng tối giản bao gồm các công trình
của Silvia Del Pozzo, Barbara Henning, Randolph Paul Runyon, Russell
Banks, John Powell, Thomas Dassler, Andra Stefanescu, Arthur A.
Browwn, Ewing Campbell,…
Hướng nghiên cứu liên ngành có các công trình của Bill Mullen,
Ayala Amir,…
Hướng nghiên cứu văn học so sánh bao gồm các công trình của
William Stull, Arthur F. Bethea, Kleppe, Brian Seeman,... Và một số luận

án của nghiên cứu sunh Âu Mỹ…
Từ công trình của các nhà nghiên cứu nước ngoài, chúng tôi thấy,
truyện ngắn của Raymond Carver được khảo cứu trên nhiều bình diện. Tuy
chưa có công trình nào trực tiếp bàn đến nghệ thuật “phi trung tâm”,
nhưng những công trình đó, ít nhiều đều có những gợi ý quý báu để chúng
tôi tiếp thu, đối thoại khi triển khai đề tài.
1.2.2. Nghiên cứu về Raymond Carver ở Việt Nam
Đến thời điểm này, tình hình nghiên cứu về Raymond Carver ở Việt
Nam nhìn chung vẫn chưa xứng tầm với tài năng, đóng góp của nhà văn.
Tổng quan tình hình nghiên cứu về Raymond Carver ở Việt Nam, chúng


8

tôi chú ý tới một số ý kiến của Lê Huy Bắc, Đào Duy Hiệp, Dương Tường,
Lâm Vũ Thao,… một số bài báo và luận văn thạc sĩ.
Tiểu kết: Với những tư liệu có được, chúng tôi nhận thấy, truyện
ngắn của Raymond Carver được nghiên cứu kỹ dưới nhiều góc độ khác
nhau. Tuy nhiên, cho đến nay, chưa có một công trình nào tập trung
chuyên sâu bàn về nghệ thuật phi trung tâm trong truyện ngắn của Carver,
một trong những vấn đề nghiên cứu theo xu hướng thi pháp học. Đây đó
trong các công trình, bài viết, xuất hiện một số phương diện, vấn đề có liên
quan đến những luận điểm chúng tôi bàn đến trong luận án. Đây là những
khơi mở quan trọng để chúng tôi có thể triển khai đề tài “Phi trung tâm
trong truyện ngắn Raymond Carver”.

Chương 2
PHI TRUNG TÂM NHÂN VẬT
Trong văn xuôi truyền thống và cả hiện đại sau này, nhân vật trung
tâm là “kênh” quan trọng để nhà văn gửi gắm những ý đồ nghệ thuật.

Nhân vật của văn chương hậu hiện đại gần như không đảm nhiệm vai trò
ấy nữa. Nhân vật bị “mờ hoá” chức năng trung tâm. Người ta không còn
thấy vai trò và sự hiện diện của một trung tâm duy nhất trong tác phẩm.
Thế giới nhân vật của Carver không còn tuân thủ theo những nguyên tắc
truyền thống mà đã bị phân rã trên các bình diện sau.
2.1. Đa trung tâm trong tổ chức nhân vật
2.1.1. Tính chất “đồng thời” trong thế giới nhân vật trung tâm
Khái niệm “nhân vật trung tâm” trong truyện ngắn của Carver dùng
để chỉ các nhân vật có chức năng, vai trò ngang nhau trong truyện, hoặc là
những nhân vật mang tư tưởng, tầm vóc cho một nhánh chủ đề trong chuỗi
các chủ đề của tác phẩm. Trong xu hướng tối giản nói chung và lối viết
truyện của Carver nói riêng, gần như không có truyện ngắn nào mang một
chủ đề duy nhất. Do vậy, nhiều nhân vật trung tâm cùng hiện diện là điểm
rất dễ nhận thấy, từ nhan đề cho đến các “rễ chùm” chủ đề trong truyện
của Raymond Carver.


9

2.1.1.1. Giải nhân vật trung tâm qua nhan đề truyện
Nhà văn đã giải nhân vật trung tâm bằng các cách đặt nhan đề: định
danh nhân vật dựa vào nghề nghiệp, quan hệ gia đình, xã hội; nhan đề là
những câu nghi vấn mang tính đối thoại, bỏ ngỏ; nhan đề trưng ra một
loạt nhân vật, sự việc tồn tại như trong một đẳng thức hoặc danh từ ở
dạng số nhiều; nhặt các sự vật, hình ảnh được nhắc tới làm nhan đề; lối
đặt nhan đề hoàn toàn dựa vào tiếng lóng và cách nhà văn có thể thay đổi
tiêu đề cho truyện ngắn của mình sau khi chỉnh sửa vài từ hoặc vài chi
tiết không đáng kể.
Tựu trung, cách nhặt nhan đề ngẫu nhiên hay lối sử dụng những câu
hỏi tu từ hoặc nhân vật ở dạng số nhiều… chính là cách giải chủ-đề-trungtâm-ý-nghĩa từ lối định danh nhân vật. Về mặt hình thức, các kiểu đặt

nhan đề ấy bước đầu cho phép người đọc nhận dạng kiểu nhân vật sẽ hiện
diện trong truyện của Carver không còn chiếm giữ vị trí độc tôn hay then
chốt như truyện ngắn trước kia. Và chắc hẳn, phi trung tâm nhân vật qua
cách đặt nhan đề chịu sự chi phối của nguyên tắc phi trung tâm trong lí
thuyết hậu hiện đại nói chung.
2.1.1.2. “Rải đều” nhân vật trung tâm
Nếu xem nhân vật trung tâm như là “ngôi sao”, là “chủ âm” trong
sáng tác, thì truyện của Carver xuất hiện rất nhiều các ngôi sao, các chủ
âm như thế bằng cách “rải đều”. “Rải đều” là cách thức nhà văn tạo cho
tác phẩm của mình có mặt hơn một nhân vật trung tâm song hành, đối
thoại với nhau. Để “rải đều” nhân vật trung tâm, Carver sử dụng lối kiến
tạo đa tầng nhân vật, phi trung tâm đối thoại và hình thức song hành các
nhân vật theo những hướng riêng một cách độc lập và đối sánh ngầm.
Đằng sau sự tổ hợp các mối liên kết giữa các nhân vật hoặc căn cứ
vào góc nhìn của mỗi nhân vật, người đọc có cách nhận diện xác thực về
“mặt tối của nước Mỹ” và cắt nghĩa được phần nào những hoài nghi, bất
an của con người hậu hiện đại.
2.1.2. Dịch chuyển nhân vật trung tâm
Theo quan niệm truyền thống, nhân vật trung tâm xuất hiện “xuyên
suốt tác phẩm từ đầu đến cuối về mặt ý nghĩa”. Nhân vật trung tâm vẫn có


10

mặt trong truyện ngắn của Carver nhưng khác là, sự tồn tại của nó không
mang tính xuyên suốt, nhất quán. Lối tạo ra những hoài nghi về một chủ
thể trong cách viết của Carver đem lại những nhận diện nhân vật trung tâm
theo cách rất khác nhau, tùy thuộc vào chủ quan và cảm nhận của bạn đọc
trước vô số những chủ đề được đề xuất. Kiểu hoán đổi, dịch chuyển này
tạo nên đặc tính phi trung tâm cho nhân vật của Carver.

Cách thức dịch chuyển của Carver là thay đổi vai trò trung tâm của
nhân vật và tạo ra tiếng nói quyền uy cho nhân vật ngoài lề. Từ đó, cảm
quan về cuộc sống dân chủ của những con người Mỹ được tái hiện luôn
gắn liền với những hoài nghi và mất niềm tin, những sự cô độc, vỡ vụn của
đời sống tinh thần không thể khỏa lấp bằng những giá trị vật chất.
2.2. Phá vỡ sự độc tôn về giới
Hầu hết các truyện ngắn của Carevr đều kể về các cặp đôi, hoặc là
vợ chồng hoặc là tình nhân hoặc là những người bạn khác giới sống
cùng nhau như vợ chồng và xóa bỏ sự tuyệt đối hoá của giới tính (thế
mạnh không nghiêng về phía nhân vật đàn ông hay đàn bà, không còn
mang đặc trưng giới).
2.2.1. Phi trung tâm nam giới
Ba mẫu đàn ông cơ bản được tạo dựng trong truyện ngắn của Carver
thường là: hoài nghi, mất niềm tin; nhường nhịn, hiền lành, ít lời đôi khi
đến khó hiểu, thường “ở hiền” nhưng không “gặp lành” và kiểu đàn ông bị
lép vế trước vợ (bất lực hoặc “quái đản” không bình thường). Có thể thấy,
thế giới đàn ông trong sáng tác của Carver khá đa dạng. Họ không hoàn
toàn tốt nhưng cũng không hoàn toàn xấu. Họ là sự phân mảnh của những
tấm ghép tạo nên bức tranh đời sống con người hậu hiện đại.
2.2.2. Phi trung tâm nữ giới
Những người phụ nữ trong truyện thường là được yêu chiều, được
chồng quan tâm chăm sóc, nhường nhịn và thường có tiếng nói nhất định
ảnh hưởng tới người đàn ông của mình. Và nhân vật nữ của Carver không
chỉ là “nạn nhân” mà còn là “nhân chứng”, thậm chí là “thủ phạm” gây ra
“bạo lực bằng lời nói” hoặc bạo hành dưới hình thức “lạm dụng tinh thần”.
Nghĩa là, trong cách cắt nghĩa vai trò của người phụ nữ, nhà văn đặt họ ở


11


góc độ phi trung tâm để lí giải cho vấn đề hiện thực tồn tại trong xã hội:
không có sự độc tôn phi lí cho một giới quyền nào, ấy mới là cách nhìn
thấu thị nhất.
Đằng sau sự phá vỡ tính độc tôn về giới, Carver đã cắt nghĩa và giải
mã cho “sự đổ vỡ của giấc mơ Mỹ” với những hoài nghi và sự xói mòn
niềm tin về cuộc sống Mỹ.
2.3. Nhân vật là những “mảnh vỡ”
Nhân vật mảnh vỡ là sự cắt mảnh, phân mảnh nhân vật ở nhiều kiểu
dạng khác nhau, không tồn tại nguyên phiến, không có một bản lí lịch
hoàn chỉnh. Và chân dung con người chỉ có thể tạm tái hiện được sau khi
đã lắp ghép, kết nối các miếng ghép riêng lẻ, rời rạc với nhau, nhiều khi
cần cả đến khả năng tư duy đặc biệt trong sự xâu chuỗi của bạn đọc.
2.3.1. Nhân dạng bất toàn sau mảnh ghép
Đó hoặc là nhân vật bị cắt mảnh lí lịch hoặc là mảnh vỡ nhân vật
được xâu chuỗi từ những biểu tượng đứt gãy và đặc biệt, mảnh vỡ nhân
vật của Carver được kết nối ở phần chìm của những mảnh vỡ nổi rời rạc.
Kiểu nhân vật mảnh vỡ có thể tái ghép thành hình (dẫu còn mỏng và
chưa toàn vẹn) cũng là một hình thức tương đối phổ biến của Carver, xóa
bỏ đặc tính trung tâm của nhân vật, vừa khơi gợi cảm quan về một thời đại
đổ vỡ, đứt gãy, hoài nghi, vừa tạo nên tính dân chủ hóa trong văn chương
nghệ thuật, góp phần khai thác được chiều sâu ngữ nghĩa tác phẩm.
2.3.2. Nhân vật là những mảnh vỡ không thể kết nối
Con người ở đây bị phân tán trở thành “một chủ thể phi trung tâm”,
bao hàm nhiều mảnh vụn, và tất cả đều bị hòa tan trong bối cảnh xám xịt
xung quanh”. Nhân vật là những cái tên mang tính kí hiệu là điểm dễ
nhận thấy trong truyện ngắn của Carver. Tính chất tôi/cá nhân không
còn là trung tâm nữa, tôi trở thành cái phi tôi. Thông qua thủ pháp tương
phản, những mảnh ghép vỡ vụn, khó kết dính là hình ảnh tiêu biểu cho
kiểu nhân vật mảnh vỡ không thể kết nối thành hình. Bên cạnh đó, nhân
vật mảnh vỡ không thể kết nối của Carver còn là sự hội tụ đồng thời

những mẩu ghép vỡ vụn.
Nhân vật mảnh vỡ là một trong những “kênh” giúp bạn đọc nhận ra


12

cảm quan hoài nghi, nỗi bất an, tuyệt vọng, sự đổ vỡ, mất niềm tin của
những con người Mỹ về một “giấc mơ Mỹ” trên hành trình kiếm tìm một
cuộc sống tốt đẹp.
Tiểu kết: Bằng lối văn chương cực hạn, kiệm lời và tiết chế ngôn
ngữ đến mức tối đa, cùng với tính chất “đồng thời” và “rải đều”, truyện
ngắn của Raymond Carver thực sự đã tạo ra một kiểu diện phi trung tâm
nhân vật ở nhiều dạng thái phong phú. Không còn kiểu nhân vật chính,
nhân vật phụ, nhân vật trung tâm xuyên suốt chiếm giữ vị trí độc tôn, bất
biến, nhân vật của Carver liên tục xác lập những vai, vị trí trung tâm mới
từ nhiều cách tạo dựng khác nhau. Mỗi nhân vật như là những thể nghiệm
cho bạn đọc một góc nhìn, một hướng tiếp cận riêng về tác phẩm. Đằng
sau nó là thế giới những nhân dạng đổ vỡ, hoài nghi, ngập ngụa trong sự
tan vỡ “giấc mơ Mỹ”. Con người trong thế giới phi trung tâm ấy buộc phải
xác lập lại hoàn toàn những giá trị sống sau những mất mát và trải nghiệm.
Do đó, có thể nói, hình thức phi trung tâm nhân vật làm nên nét đặc trưng
riêng của phong cách nghệ thuật Carver, đồng thời đem lại những khai phá
thú vị từ mỗi góc nhìn của độc giả. Khuynh hướng đa âm từ việc tìm hiểu
nhân vật của Carver đương nhiên đem lại cho truyện của ông sức hấp dẫn
đặc biệt, và kéo theo sẽ là những cốt truyện và điểm nhìn phi trung tâm
như là logic tất yếu mà chúng tôi sẽ bàn tiếp ở những chương sau.

Chương 3
PHÂN TÁN ĐIỂM NHÌN
Nguyên tắc phi trung tâm hoá trần thuật xuất phát từ sự đả phá các

đại tự sự tạo nên cái nhìn đa trị trong nghệ thuật kể chuyện. Do vậy, đa
điểm nhìn chưa hẳn là phi trung tâm, chỉ khi nó có nhiều điểm nhìn khác
nhau cùng hướng về một vấn đề thì nó mới trở thành phi trung tâm điểm
nhìn. Phân tán điểm nhìn trong truyện ngắn của Raymond Carver hiện diện
như những dạng thức của trò chơi. Ông đã tư duy về trò chơi từ phía
không hiện hữu, phi trung tâm. Từ trò chơi phân tán điểm nhìn, nhà viết


13

truyện ngắn người Mỹ này đã nới mở biên độ chủ đề cho các tác phẩm đến
vô cùng, tính đa chủ đề, do vậy, không chỉ được khơi gợi từ điểm nhìn của
nhân vật mà còn được đồng hành cùng bạn đọc từ sự khám phá những đổ
vỡ của những chủ đề trung tâm.
3.1. Đa điểm nhìn song hành và lắp ghép
Đa điểm nhìn song hành là hình thức phân tán điểm nhìn bằng cách
nhà văn sử dụng nhiều điểm nhìn cùng song song tồn tại và mỗi điểm nhìn
đều có khả năng trở thành trung tâm đồng thời gợi ra những cách hiểu
riêng biệt. Hình thức này có lúc là sự hiện diện đồng thời của nhiều điểm
nhìn cùng hướng về một sự việc, sự kiện nào đó trong truyện, có lúc xuất
hiện là kiểu nhiều điểm nhìn ngang bằng nhau từ đầu cho đến cuối truyện.
Những điểm nhìn song hành ấy khi chúng được lắp ghép, xâu chuỗi vào
với nhau sẽ khơi mở một hệ hình đa chủ đề trung tâm.
3.1.1. Nhiều điểm nhìn cùng hướng về một sự kiện
Từ sự xoá mờ ranh giới trung tâm của nhân vật cũng như cốt truyện
dẫn tới sự tồn tại đồng thời của nhiều điểm nhìn khác nhau là cách
Raymond Carver đã kết nối được cho những thế hệ của thời đại sau ông
nhập cuộc, nhận diện bản chất xã hội. Nước Mỹ, cuộc sống Mỹ, con người
Mỹ, giấc mơ Mỹ, không còn là trung tâm. Nó trở thành thứ bậc cho những
trung tâm giá trị mới được thiết lập.

3.1.2. Các điểm nhìn song hành và lắp ghép xuyên suốt câu chuyện
Điểm chung dễ nhận diện ở những truyện này là các điểm nhìn đan
bện, có mặt hầu khắp trong truyện ngang bằng nhau. Dường như, đây là
cách thức để nhà văn chứng tỏ cái nhìn khách quan nhất có thể trong khi
trần thuật. Các truyện như những thước phim dài ngắn khác nhau trình
chiếu cho bạn đọc nhìn thấy nhân vật và điểm nhìn của họ mà không kèm
theo bình luận hay phán xét của người trần thuật – người quay phim.
Quyền năng phán xét tối thượng nhất lại thuộc về độc giả. Nhờ đó, người
tiếp nhận có thể nhận ra những khả năng hiện thực có thể được đề xuất.
Như vậy, chủ đề của truyện có thể nhận ra được tương đối đa dạng từ
lối phi trung tâm điểm nhìn. Đa chủ đề trở thành một hệ hình tất yếu của
hình thức phân tán điểm nhìn. Từ góc độ tiếp nhận, lí thuyết phi trung tâm


14

được các nhà văn hậu hiện đại chuyển tải trong tác phẩm là có thực.
Đương nhiên, nó không tồn tại độc lập mà chịu sự chi phối và tương tác
cùng một số nguyên tắc khác như đa trị, mảnh vỡ, hỗn độn, ngẫu nhiên, rễ
chùm... Không những “có mặt” mà nó còn hiện diện mang tính “phủ khắp”
trong các sáng tác văn học sau này. Phi trung tâm là một nguyên tắc được
biểu hiện nổi bật trong truyện của Carver giúp độc giả có thể cảm nhận
được tác phẩm đa chiều hơn. Từ đó, cảm quan thời đại cũng được định
hình rõ nét và sâu sắc.
3.2. Đối thoại và hoán vị điểm nhìn
Tồn tại như một dạng thức của trò chơi ngôn ngữ, các điểm nhìn
trong truyện của Carver khi tham gia trò chơi đối thoại, chúng đã luân
chuyển linh hoạt vai trò của mỗi loại điểm nhìn và giữa các loại điểm nhìn
với nhau để phi trung tâm điểm nhìn, đem lại khuynh hướng dân chủ hoá
trong tự sự. Đối thoại và hoán vị điểm nhìn được xem là một phép nghịch

hợp (the oxymorons) của sự phân rã điểm nhìn người trần thuật trong
truyện ngắn của Carver, xóa nhòa thứ bậc trung tâm của các điểm nhìn,
bên cạnh điểm nhìn trung tính.
3.2.1. Khách quan hóa điểm nhìn
Sử dụng điểm nhìn bên trong hay bên ngoài, Carver đều có xu
hướng khách quan hóa để phân rã mức độ trung tâm độc tôn của một
điểm nhìn duy nhất. Đây là hình thức Carver không lấy điểm nhìn của tôi
để dán nhãn cho điểm nhìn khách quan. Tác giả chủ yếu sử dụng nghệ
thuật đối thoại giữa người kể và nhân vật hoặc lối trưng quan điểm chủ
quan của người kể lồng vào nhân vật mang tính nước đôi khó phân tách
hoặc để cho các nhân vật đồng thời lên tiếng trước một vấn đề nào đó
được trần thuật trong truyện..
Hầu hết truyện ngắn của Carver, thông thường khi chuyển sang giọng
kể chuyện khách quan, nhà văn thường dùng lời văn trực tiếp truyền thống,
sử dụng lời trong ngoặc kép kèm theo lời dẫn. Một số truyện ngắn của
Carver khách quan hóa điểm nhìn bằng việc hòa trộn các điểm nhìn với nhau
thông qua việc xóa nhòa ranh giới hình thức ngôn từ trực tiếp và gián tiếp.
Sự phá vỡ hình thức này là một trong những cách để nhà văn có thể


15

tạo nên tính đối thoại tự nhiên, gần gũi giữa các điểm nhìn. Carver phi
trung tâm điểm nhìn bằng lối kể theo nhiều kiểu kết hợp đan xen. Có lúc,
từ điểm nhìn của người kể chuyện khách quan ông lại chuyển sang điểm
nhìn bên trong, từ điểm nhìn người kể ông lại khéo léo chuyển sang điểm
nhìn nhân vật hoặc ông lựa chọn hình thức đối thoại giữa nhà văn với bạn
đọc khiến cho những trang viết của ông như đang đối thoại, trò chuyện,
trao đổi cùng bạn đọc. Tính dân chủ hoá trong lối viết của Carver, vì thế,
trở thành điểm cuốn hút đặc biệt cho độc giả.

3.2.2. Trò chơi luân chuyển điểm nhìn
Đây là hình thức phổ biến trong lối viết của Carver nhằm chuyển
điểm nhìn người kể sang nhân vật hoặc kể chuyện bằng lối thay đổi, dịch
chuyển các điểm nhìn. Thậm chí, đôi khi khó phân biệt được giữa điểm
nhìn người trần thuật và điểm nhìn nhân vật, hoặc giữa các nhân vật với
nhau. Đến Carver, điểm nhìn của nhân vật và người kể tỏ ra dân chủ hơn
qua cách chúng đối thoại với nhau. Truyện ngắn, do đó, gợi mở rất
nhiều cách hiểu.
Từ các hình thức đối thoại và hoán vị điểm nhìn, truyện ngắn của
Carver đem lại cho bạn đọc một sự nhận diện mới về kiểu luân chuyển
điểm nhìn tạo nên nguyên tắc phi trung tâm trong trần thuật hậu hiện đại.
Bức tranh hiện thực đời sống của con người những thập niên cuối thế kỷ
XX không chỉ được mở ra ở bề rộng (lối trần thuật trưng khách quan như
những ống kính máy quay phim, chụp ảnh) mà còn cả bề sâu theo cách
riêng, lạ, mới hơn trước. Và hình thức này đòi hỏi khả năng cao hơn ở
trình độ tiếp nhận do truyện không kể ra độc giả phải đọc được. Từ đó, vô
vàn cách tiếp nhận tác phẩm được khơi mở. Đây cũng là một trong những
biểu hiện rõ nét cho khuynh hướng dân chủ hoá văn chương.
3.3. Giọng trung tính và vật hóa điểm nhìn
3.3.1. Giọng điệu nước đôi của người kể
Kiểu trần thuật trung tính (neutral narration) “thường được so sánh
với con mắt của máy ảnh”, là kiểu “giọng điệu lơ lửng trên cao giữa bản
thân mình và người khác”, “là giọng điệu im lặng, sự hiện diện trong sự
vắng mặt, vừa mang tính cá nhân vừa phi cá nhân, vừa gần với nhân vật
vừa tách biệt với nhân vật” (Amir Ayala).


16

Khảo sát tất cả các truyện ngắn của Raymond Carver, có 29 truyện

sử dụng ngôi kể thứ nhất xưng tôi, chúng tôi và 42 truyện sử dụng ngôi kể
thứ ba xưng cô ta (she), anh ta (he) hoặc tên gọi cho nhân vật (name of
character). Đáng nói là, ngôi kể xưng tôi, chúng tôi của Carver không dùng
để kể lại chuyện chỉ của riêng cá nhân tôi mà hầu hết là kể về các nhân vật
khác liên quan đến tôi bằng giọng vô sắc. Từ đầu chí cuối, người kể giữ
thái độ khách quan bằng giọng điệu cũng hết sức khách quan, không bộc lộ
tình cảm, thái độ, bình luận, đánh giá về câu chuyện hay nhân vật.
Điểm nhìn từ các nhân vật tôi trong hầu hết 29 truyện ngắn (đã khảo
sát) đều chỉ là sự định danh ban đầu, sau đó dần bị ẩn chìm hoặc thậm chí
lấn lướt bởi các nhân vật khác, không phải tôi. Hình ảnh, sự việc, chuyện
kể, hành động, ngôn ngữ… dành cho tôi ít hơn so với các nhân vật. Hơn
nữa, thái độ, giọng điệu từ điểm nhìn của tôi rất trung tính, khó xác định
mức độ trung tâm thuộc về tôi – người kể hay tôi – nhân vật.
Carver đã đem lại sự cách tân khi ông tạo ra giọng điệu trần thuật vô
sắc, thái độ khách quan từ vị trí nước đôi của người trần thuật ngôi thứ
nhất xưng tôi. Bằng cách ấy, ông không chỉ làm cho các truyện ngắn tối
giản của mình được tiết chế (ngôn ngữ, giọng điệu, cảm xúc…) mà còn
giúp cho người đọc nhìn nhận về thế giới được tái hiện trở nên khách quan
hơn, đáng tin hơn.
3.3.2. Vật hóa điểm nhìn
Ayala Amir cho rằng “giọng điệu trần thuật đến từ đồ đạc” vốn là
một giọng điệu “hầu hết không thể tách rời được giọng điệu trần thuật có
một không hai của Raymond Carver” và “chúng là hiện thân cho không
gian của “cái nhìn bỏ ngỏ”… Cái nhìn bỏ ngỏ liên quan đến sự tiếp nhận
của tính chủ quan”. Truyện ngắn của Carver vốn mang đậm tính chất tối
giản, ngôn ngữ cũng như giọng điệu được tiết chế tối đa sự biểu lộ của
cảm xúc, thái độ trần thuật. Carver hoàn toàn triệt tiêu tính từ, ông thiên về
gợi hơn là tả. Hiếm khi, nhà văn miêu tả đồ vật. Chúng chỉ được nhắc tới
mang tính điểm xuyết, chính hay phụ, quan trọng hay thứ yếu hoàn toàn
phụ thuộc vào khả năng, tầm đón nhận của bạn đọc.

Đồ đạc (chiếc ti vi và chiếc ghế sô pha, chiếc gạt tàn và rèm cửa)


17

xuất hiện với mật độ và tần số tương đối dày đặc trong hầu hết các truyện.
Chắc hẳn, chúng là một kênh quan trọng trong việc thể hiện ý đồ nào đó
của tác giả nhưng được giấu kín tối đa. Từ đồ đạc, Carver chủ yếu giữ thái
độ trung tính, và do đó, điểm nhìn trung tâm không thuộc về người trần
thuật và cũng không thuộc về nhân vật.
Như vậy, vô số điểm nhìn khác nhau của người đọc sẽ được rọi chiếu
từ đồ vật, và giọng điệu trần thuật sẽ ở trạng thái nước đôi, trung lập đem
lại lối kể chuyện khách quan, từ đó, mở ra rất nhiều hệ quy chiếu khác
nhau, không bị ràng buộc hay bị giới hạn vào chủ quan của người trần
thuật nữa. Theo chúng tôi, đây là một trong những cách thức để Carver tạo
ra một giọng điệu tối giản riêng từ nghệ thuật phân tán điểm nhìn.
Tiểu kết: Bằng nhiều cách phân tán điểm nhìn, Raymond Carver đã
phi trung tâm điểm nhìn trong trần thuật. Thay vì nhận diện điểm nhìn
thuộc về người trần thuật hay nhân vật, điểm nhìn bên trong hay bên
ngoài,… các điểm nhìn trong truyện của Carver có lúc song hành và lắp
ghép với nhau, có lúc chúng đối thoại cùng nhau và hoán đổi ngôi vị cho
nhau khó xác định. Thậm chí, có lúc, nhà văn xóa nhòa ranh giới của các
điểm nhìn bằng cách sử dụng giọng trung tính từ thái độ nước đôi của
người trần thuật hay kéo đồ vật vào cuộc, biến đồ vật trở thành một nhân
vật có tiếng nói mới. Khả năng cực hạn của hình thức sẽ khơi mở sự vô
hạn của tiếp nhận. Theo cách ấy, “truyện ngắn của Carver tựa như những
mẫu giáo khoa về phân hủy” góp phần tạo ra hình ảnh chân thực về “một
thế giới tuyệt vọng và hiu hắt”.

Chương 4

PHÂN MẢNH CỐT TRUYỆN
Là nhà văn của chủ nghĩa cực hạn, Carver không có tham vọng bao
quát thế giới và đưa ra kết luận cuối cùng, do vậy, cốt truyện của ông là
những thể nghiệm mới cho sự hủy bỏ cốt truyện truyền thống. Những dạng
thức cốt truyện phân mảnh không chỉ chống lại nguyên tắc hệ thống, trật tự


18

và thứ bậc của chủ nghĩa cấu trúc mà còn xóa bỏ tính trung tâm của chủ đề
tạo nên tính đa trị cho tác phẩm theo lối giải cấu trúc, đem lại sự hứng thú
và say mê sáng tạo bất tận cho độc giả khi khám phá chúng.
4.1. Cốt truyện đa tầng và song song
4.1.1. Phân tầng cốt truyện không đồng bộ
Truyện của Carver có những tầng nhánh (thoạt đầu là những nhánh
cốt truyện phụ) tồn tại bên cạnh tầng cốt truyện chiếm dung lượng chủ đạo
trong mạch truyện kể, nhưng sau đó, tầng cốt truyện nhánh này có khả
năng trở thành cốt truyện trung tâm tương đương với tầng cốt truyện chủ
đạo ban đầu kia. Hình thức này có thể được mô hình hóa như sau:
Ban đầu

Sau đó

Cốt truyện nhánh (3)

Cốt truyện trung tâm (3)

Cốt truyện trung tâm (1,2)

Cốt truyện trung tâm (1,2)


Đặc điểm dễ nhận thấy nhất của hình thức cốt truyện này ở đặc tính
không đồng bộ, nghĩa là mức độ dày - mỏng, trung tâm - nhánh thoạt đầu
phân biệt rất rõ. Song Carver đã phi trung tâm chúng bằng cách trưng ra
cho người đọc những chi tiết có sức nặng ở cốt truyện nhánh, buộc người
đọc với tầm đón nhận riêng để tìm ra khả năng trung tâm của cốt truyện
mỏng, nhạt.
Như vậy, từ việc phân hóa các tầng bậc cốt truyện vốn không ngang
bằng về chức năng, thuộc tính, Carver đã chứng tỏ một điều rằng, truyện
ngắn cực hạn không chỉ tối giản về số lượng câu từ, mà còn có thể cô đọng
hơn dung lượng của các cốt truyện trong cùng một truyện ngắn, biến
chúng thành những mảnh cốt truyện và có khả năng thành những cốt
truyện trung tâm.
4.1.2. Phân tầng cốt truyện theo lớp lang
Cũng ở kiểu cốt truyện đa tầng và song song, nhưng các cốt truyện
lại có sự phân tách theo tầng, bậc rõ hơn (nghĩa là tính chất song song
của các tầng cốt truyện được nhận diện gần như đồng thời) và các tầng
cốt truyện về sau có sự dịch chuyển mức độ trung tâm tạo nên sự phi


19

trung tâm cốt truyện (cốt truyện ban đầu tưởng đóng vai trò trung tâm
thì sau đó lại trở thành cốt truyện đường viền cho cốt truyện nhánh trở
thành trung tâm). Chúng tôi tạm mô hình hóa cấu trúc của dạng cốt
truyện này như sau:
Ban đầu

Sau đó


Cốt truyện nhánh (3)

Cốt truyện trung tâm (3)

Cốt truyện trung tâm (2)

Cốt truyện trung tâm (2)

Cốt truyện nền/trung tâm (1)

Cốt truyện đường viền (1)

Để có thể nới mở biên độ chủ đề và những ẩn ý đa chiều của tác
phẩm, Carver đã sử dụng kiểu cốt truyện đa tầng và song song tương đối
phổ biến trong các tập truyện. Kiểu cốt truyện đặc trưng của nghệ thuật phi
trung tâm này buộc người đọc phải nhận diện các cốt truyện và có thể
nhập mình vào trong từng cốt truyện ấy để tiếp cận dần với những thông
điệp, những hàm ý có thể được ẩn chứa đằng sau chúng. Do đó, không có
cách hiểu nào là duy nhất cho những tác phẩm của Carver.
4.2. Cốt truyện đứt đoạn và tái sinh
Ở cấp độ cấu trúc văn bản của văn học hậu hiện đại, nhà nghiên cứu
người Hà Lan, Fokkema khi đưa ra nguyên tắc phi lựa chọn, ngoài các thủ
pháp toán học như sao chép, nhân bản và liệt kê của I. Hassan và D.
Lodge, bổ sung thêm hai thủ pháp nữa là là ngắt đoạn và làm dư thừa. Từ
“nguyên tắc đứt gãy cái biểu đạt” mà Gilles Deleuze và Felix Guattari đưa
ra, chúng tôi nhận thấy, ở phương diện cốt truyện, truyện ngắn của Carver
mang đặc điểm đứt gãy và tái sinh.
4.2.1. Đứt đoạn và tái sinh được tạo bởi sự sắp xếp phi logic
Khác với tính liền mạch của dạng cốt truyện thứ nhất, một nhóm các
truyện khác của Carver có kiểu cốt truyện đứt gãy, không liền mạch, tưởng

chừng ngưng đọng, ngắt quãng và kết thúc lưng chừng ở đó thì tiếp tục
được kể phi - logic - có - chủ - đích ở những đoạn sau.
4.2.2. Cốt truyện gián đoạn và kết nối
Hình thức này phân mảnh cốt truyện đang kể bằng một khoảng trống,
và Carver đã phủ đầy khoảng trống ấy bằng một câu chuyện khác chiếm


20

dung lượng dài đến nỗi, người đọc có cảm giác đương chuyển sang một
truyện mới. Khi độc giả có vẻ quên đi cốt truyện ban đầu thì bất ngờ nó
được tái sinh ở phần sau chót.
Như vậy, đứt gãy là một trong số sáu nguyên tắc đặc trưng của “rễ
chùm”, mà “rễ chùm” lại là một trong những định đề triết học hậu hiện đại,
do đó, cốt truyện của Carver mang đặc điểm này sẽ góp phần xác lập một
lần nữa vị trí của Carver trong dòng chảy văn học hậu hiện đại Mỹ. Và
diễn ngôn về nước Mỹ “ngập ngụa sự phân hủy”, đổ vỡ, bất an đã được cắt
nghĩa bằng tâm thức hậu hiện đại đặc thù theo cách của nhà văn.
4.2.3. Đứt đoạn và dư thừa trong cốt truyện tổng - phân - hợp
Đây là hình thức Carver thoạt đầu kể theo lối diễn dịch, trưng câu
chuyện bằng việc đưa ra kết luận (cho biết kết quả một sự việc/sự kiện
trong quá khứ) - hồi cố phân giải (kể lại những chuyện trước đó) - kết thúc
mới (kết quả của hiện tại).
Với những biểu hiện đa dạng của hình thức phi trung tâm cốt truyện
dưới dạng phân rã cốt truyện theo lối đứt đoạn và tái sinh, truyện kể của
Carver cho người đọc trôi dạt theo rất nhiều đường hướng tiếp cận và tiếp
nhận khác nhau, từ đó, nhà văn góp phần tạo ra khuynh hướng đa màu sắc
không chỉ cho lối kể chuyện của mình mà còn buộc người đọc phải biết
làm mới mình ngay trong mỗi lần đọc truyện của ông. Do đó, hình ảnh
cuộc sống và con người Mỹ bị phân mảnh, “vỡ mộng” được nhận diện trở

nên đa chiều, chân thực và không kém phần sinh động.
4.3. Cốt truyện kết nối tự do và ngẫu nhiên
Các cốt truyện như những mảnh vỡ được kết nối một cách tự do,
mang tính ngẫu nhiên, không phụ thuộc vào tính đồng nhất, gần gũi,
đồng bộ… Các tình tiết, sự kiện của cốt truyện lắp ghép, không tuân
theo một trật tự hay đường hướng nào. Những cái tự do và ngẫu nhiên
ấy tạo nên mạch văn sinh động, phóng khoáng, buộc người đọc phải
nhập cuộc thực sự để gắn kết những cái tưởng chừng vô chủ đích kia
vào một hệ thống nào đó.
Với số lượng truyện ít nhất, trong nhóm truyện này, nhánh các truyện
được kết nối tự do và ngẫu nhiên là những truyện được kể theo mạch chảy


21

trôi của nỗi nhớ hoặc trôi dạt tự do theo các mảnh vỡ cốt truyện. Có lúc,
người ta có cảm giác nếu cắt bỏ hoàn toàn mẩu chuyện đó đi thì câu
chuyện được kể dường như không ảnh hưởng gì.
Hình thức phân rã cốt truyện bằng sự kết nối ngẫu nhiên mang đặc
thù của “lối viết hậu hiện đại tìm kiếm nguyên tắc loại suy”, “thay vì tổ
chức lối viết theo nguyên tắc tương đồng và kế cận”. Ít nhất, ở phương
diện này, cốt truyện kết nối tự do và ngẫu nhiên trở thành một cách thức
hữu hiệu để phân rã cốt truyện, đem lại xu hướng phi trung tâm đặc trưng
cho lối viết của nhà văn tối giản Carver. Đằng sau nó, những “người trong
bao” không còn là hình ảnh ở nước Nga thế kỷ XIX mà trở nên quen thuộc
với nước Mỹ thế kỷ XX. Carver đặc biệt quan tâm là tầng lớp lao động trí
thức, có trình độ mà vẫn không thoát khỏi nguy cơ của sự bất ổn.
Tiểu kết: “Truyện biết nhiều hơn người kể” (Lê Huy Bắc) là cách
định danh chính xác cho truyện ngắn của Carver. Trong đó, phân mảnh cốt
truyện dưới ba hình thức: cốt truyện đa tầng và song song, cốt truyện đứt

đoạn và tái sinh, cốt truyện kết nối tự do và ngẫu nhiên là đặc trưng nổi
trội tạo ra tính phi trung tâm cốt truyện, đem lại khả năng “biết nhiều hơn”
từ bản thân tác phẩm mà không thuộc về người kể. Truyện của Carver
khác biệt so với truyện ngắn của các nhà văn khác ở khả năng kết nối.
Thay vì sự khám phá một cốt truyện trung tâm trước kia, giờ đây, tầng
tầng lớp lớp các cốt truyện cùng được bày ra và như một “ma trận”, người
chơi phải biết “trôi dạt” và “bóc tách” từng lớp lang ý nghĩa. Chỉ riêng
phương diện này, truyện ngắn của Raymond Carver đủ tạo nên một thử
nghiệm giá trị cho bạn đọc.

KẾT LUẬN
Chỉ 49 năm gắn bó với cuộc đời (1939 - 1988), sự nghiệp sáng tác
của Raymond Carver gắn liền với bốn tập truyện ngắn: Em làm ơn im đi
được không (1977), Bọn mình nói gì khi nói chuyện tình? (1981), Thánh
đường (1984), Mình đang gọi từ đâu (1988), một số tập thơ và bốn tiểu


22

luận. Dẫu sáng tác chưa phải là nhiều song những cách tân về thể loại, nhất
là ở phương diện truyện ngắn đã đưa ông lên vị trí hàng đầu của các nhà
văn nửa sau thế kỷ XX ở Hoa Kỳ, có tầm ảnh hưởng lớn trên thế giới.
Cùng với những đặc tính như mảnh vỡ, đa trị, rễ chùm,… phi trung tâm trở
thành một xu hướng đặc thù của truyện ngắn hậu hiện đại nói chung và
truyện ngắn cực hạn của Carver nói riêng. Việc nghiên cứu các vấn đề trên
trong bốn chương của luận án, cho phép đi tới các kết luận sau:
1. Hình thành một xu hướng, hiện diện như một định đề triết học của
chủ nghĩa hậu hiện đại, khái niệm phi trung tâm được đặt trong sự vận
động và phát triển của lịch sử như một tất yếu. Khi phi trung tâm là hiện
tượng phân tán trung tâm để tạo thành các trung tâm khác mà mỗi trung

tâm mang một hoặc nhiều nghĩa độc lập, có sức sống nội tại và có khả
năng tương tác với nhau thì khả năng tiếp nhận tác phẩm đương nhiên sẽ
thay đổi, mở ra nhiều cơ hội cho độc giả. Vai trò của người tiếp nhận được
trao ngang bằng, thậm chí còn lấn át cả tác giả, người đọc góp phần xác
lập liên tục những trung tâm mới. Định dạng rõ thêm những đặc trưng,
nguyên tắc cơ bản của lí thuyết phi trung tâm và soi chiếu vào sáng tác văn
học có thể xem là một trong những cách khám phá được chiều sâu giá trị
tác phẩm gắn liền với đặc trưng lịch sử, văn hóa, xã hội.
2. Trong sự phát triển chung của văn học hậu hiện đại, truyện ngắn
Raymond Carver từ chối những đại tự sự trước kia mà thay vào đó là khai
phá và dựng hình những tiểu tự sự, khiến ông trở thành nhà kí họa tài hoa
của những chuyện vặt vãnh, đời thường nhưng có khả năng khái quát lớn.
Cặp quan hệ: cái vặt vãnh, đời thường và khả năng khái quát vốn trái
nghịch nhau song chúng trở nên đan bện và logic bởi biện pháp nghệ thuật
chủ đạo mà Carver sử dụng là phi trung tâm. Đọc truyện của ông, ta không
chỉ thấy hình ảnh quen thuộc của nước Mỹ những thập niên cuối thế kỷ
XX mà vẫn thấp thoáng đâu đó, sự quen thuộc đối với mỗi chúng ta, ngay
giữa thời đại này. Từ sự phá vỡ hệ hình nhân vật, cốt truyện, điểm nhìn
trung tâm, truyện của nhà văn Mỹ này có thể khu biệt với các nhà văn
cùng thời và trước đó, đồng thời xác lập những thuộc tính mới của khái
niệm phi trung tâm so với thời điểm mới manh nha (thế kỉ XIX).


23

3. Thực chất, nhân vật và điểm nhìn là những kênh truyền phát có
khả năng tương tác và gắn bó gần gũi nhất trong truyện ngắn cực hạn
cũng như truyện của Carver. Điểm nhìn trần thuật được nhà văn gần như
trao trọn vẹn cho nhân vật, đồng thời, nhờ thế kéo được bạn đọc, dụ dỗ và
thách thức họ hoàn thành những mảnh vỡ dang dở. Chỉ cần nhập cuộc và

đồng sáng tạo cùng trò chơi phân tán điểm nhìn, độc giả thực sự đã bị
cuốn theo sự biến hóa hết sức khéo léo, khó lường từ Carver. Một khi đặc
quyền quan trọng, trung tâm không thuộc về một đối tượng cụ thể nào
(nhân vật, nhà văn, bạn đọc), tính đa trị của tác phẩm rõ ràng là vô cùng,
làm cho xu hướng dân chủ hóa văn chương từ sau văn học hiện đại càng
trở nên đậm đặc hơn.
4. Kiệm lời, tiết chế sắc thái giọng điệu, hạn chế tối đa tính chủ quan,
không chỉ là đặc trưng tiêu biểu của truyện ngắn cực hạn mà hơn thế nó
còn trở thành nguyên tắc chi phối tới khả năng xóa bỏ cốt truyện trung
tâm. Cốt truyện của Carver không hoàn toàn tuân thủ theo cốt truyện
truyền thống thường thấy, nhất là, hình thức phân mảnh cốt truyện tạo ra
nhiều hơn khả năng trao đổi, đối thoại và khơi mở vấn đề. Khi ấy, đọc
không còn đồng nghĩa với thao tác nhìn để nhận diện và nghĩ để tư duy,
truyện của Carver buộc ta phải thêm thao tác cầm bút để đánh dấu những
sự kiện, tình tiết tạo cốt truyện không đồng đẳng, không cùng thuộc tính,
thứ bậc với nhau để định hình và xác lập lại những mảnh vỡ. Từ đó,
nương theo những mảnh vỡ, hệ thống chủ đề các tác phẩm hậu hiện đại nói
chung và chủ nghĩa cực hạn nói riêng được nhận diện. Bằng cách ấy, có
thể xem như đây là một định hướng cho cách đọc và giải mã tác phẩm văn
học đương đại.
5. Phạm trù cái ngẫu nhiên không còn mới mẻ trong văn học. Đến
văn chương hậu hiện đại, cái ngẫu nhiên xuất hiện bên cạnh đặc tính phi
trung tâm đã trở thành mối quan hệ mang tính tất yếu trong tồn tại, được
cắt nghĩa dựa trên nền tảng những định đề triết học và mĩ học hậu hiện đại.
Từ cảm quan hậu hiện đại, các nhà văn, trong đó có Raymond Carver, đã
đem lại những diễn ngôn mới cho thời đại mình. Một thời đại vốn luôn tồn
tại những khối hỗn độn ngẫu nhiên, ở đó, con người hoài nghi với mọi giá



×