Tải bản đầy đủ (.docx) (4 trang)

bài thu hoạch chính trị 2016

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (105.12 KB, 4 trang )

Tư duy mới của Đảng về đối tác, đối tượng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc
Xác định đúng đối tác, đối tượng là vấn đề quan trọng, căn cứ chủ yếu để đề ra
chính sách đối nô ôi, đối ngoại cùng với kế sách xây dựng và bảo vê ô Tổ quốc. Đây
cũng là mô ôt quan điểm chỉ đạo của Đảng trong “Chiến lược bảo vê ô Tổ quốc
trong tình hình mới”.
Đánh giá đúng tình hình thế giới, khu vực và trong nước, kết hợp với phân tích, dự báo
xu hướng phát triển trong thời gian tới, Nghị quyết 28-NQ/TW của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng (khóa XI) về Chiến lược bảo vêê Tổ quốc trong tình hình mới đã xác
định rõ mục tiêu, phương châm, quan điểm chỉ đạo và nôêi dung, giải pháp để thực hiêên;
trong đó, viêêc xác định đối tác, đối tượng được đăêc biêêt coi trọng.
Nếu như trước đây, trong Nghị quyết Trung ương 8 (khóa IX) vấn đề đối tác, đối tượng
được Đảng ta xác định như môêt nguyên tắc và nằm trong mối quan hêê giữa thuâên lợi
và hạn chế, thách thức, thì tại Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) viêêc xác định đối tác,
đối tượng được Đảng ta khái quát thành môêt trong những quan điểm cơ bản xuyên
suốt quá trình thực hiêên Chiến lược bảo vêê Tổ quốc của toàn Đảng, toàn dân và toàn
quân ta. Theo đó, tại quan điểm thứ sáu của Nghị quyết, Đảng ta đã xác định “Vâ ân
dụng đúng đắn quan điểm về đối tác, đối tượng: Những ai tôn trọng độc lập chủ quyền,
thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều
là đối tác; bất kỳ thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước ta
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng của chúng ta”. Như vâêy,
với Nghị quyết Trung ương 8 (khóa IX), tuy nôêi hàm của đối tác, đối tượng không thay
đổi, nhưng viêêc đưa nó trở thành môêt quan điểm chỉ đạo đã thể hiêên sự đổi mới tư duy
quan trọng của Đảng, phù hợp với điều kiêên, bối cảnh và xu thế thời đại, đáp ứng yêu
cầu bảo vêê Tổ quốc trong tình hình mới. Điều này cũng phù hợp với môêt trong những
mục tiêu xuyên suốt của Đảng và Nhà nước ta là, lấy giữ vững môi trường hòa bình, ổn
định để phát triển đất nước là mục tiêu cao nhất của cách mạng. Mă êt khác, khi đề câêp
đến mối quan hêê biêên chứng giữa đối tác và đối tượng, Nghị quyết Trung ương 8 (khóa
IX) mới chỉ nêu ra tính hai măêt của “môêt số đối tác” tồn tại, đan xen trong bối cảnh hôêi
nhâêp kinh tế quốc tế. Trong khi đó, Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) đã khẳng định
tính hai măêt tồn tại, đan xen môêt cách phổ biến trong “mỗi đối tác” và “mỗi đối tượng”,


đòi hỏi chúng ta phải có cái nhìn biêên chứng khoa học để trong từng thời điểm cụ thể
nhâên biết rõ đâu là đối tác để tranh thủ hợp tác và đâu là đối tượng để đấu tranh. Đây
là sự phát triển mới, nhìn nhâên vấn đề linh hoạt hơn, tạo tiền đề, nền tảng để các cấp,
các ngành, các lực lượng, các địa phương và toàn dân nêu cao tinh thần cảnh giác,
vừa hợp tác, vừa đấu tranh trên tất cả các lĩnh vực. Với quan điểm chỉ đạo chiến lược
đó, chúng ta đã có nhiều chủ trương, chính sách đúng đắn để “thêm bạn, bớt thù”, tăng
cường sự hợp tác hữu nghị với các nước. Nhờ vậy, tranh thủ khai thác, phát huy được
các măêt tích cực của các đối tác để phát triển kinh tế - xã hôêi, hạn chế được những măêt
tiêu cực của đối tượng, góp phần bảo đảm sự ổn định chính trị, trâ êt tự, an toàn xã hôêi,
tạo nền tảng vững chắc để xây dựng và bảo vêê Tổ quốc.
Hiêên nay, Viêêt Nam đã có quan hêê đối tác chiến lược với hơn 20 quốc gia trên thế giới;
trong đó có các nước lớn, các nước láng giềng, bạn bè truyền thống. Trong khi tăng
cường quan hêê đối tác, chúng ta kiên trì giải quyết thỏa đáng các vấn đề nảy sinh, các
tranh chấp, nhất là các tranh chấp trên Biển Đông bằng biêên pháp hòa bình trên cơ sở
tuân thủ luâêt pháp quốc tế, nhất là Công ước Liên hợp quốc về Luâêt Biển năm 1982,


Tuyên bố về ứng xử của các bên trên Biển Đông (DOC), không để xảy ra xung đôêt, đối
đầu, nhằm kiến tạo và củng cố môi trường hòa bình để phát triển đất nước; đồng thời,
kiên quyết đấu tranh để giữ vững chủ quyền, lãnh thổ. Tuy nhiên, hiện nay nhận thức
về đối tác, đối tượng trong hội nhập quốc tế, nhất là hội nhập quốc tế trong lĩnh vực
quốc phòng, an ninh còn bộc lộ môêt số hạn chế. Trong lúc tranh chấp chủ quyền biển,
đảo đang là vấn đề nổi côêm, thì môêt bôê phâên cán bôê, đảng viên và nhân dân có xu
hướng chỉ quan tâm đến đối tượng có ý đồ và hành đôêng xâm chiếm biển, đảo, mà
xem nhẹ, chưa thấy hết sự nguy hại của đối tượng “diễn biến hòa bình” (DBHB) và thúc
đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, hoăêc ngược lại. Cùng với đó, có bôê phâên chỉ chú
trọng đến đối tượng gây ra các thách thức an ninh truyền thống, coi nhẹ đối tượng gây
ra các mối đe dọa an ninh phi truyền thống, thâêm chí cho rằng chỉ có chủ nghĩa đế quốc
mới thực hiêên “DBHB”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Môêt bôê phâên khác lại
chưa nhâên thức đầy đủ về sự cần thiết phải lựa chọn, xây dựng đối tác, chuyển hóa đối

tượng thành đối tác trong quá trình hội nhập quốc tế. Từ nhận thức hạn chế, chưa đầy
đủ, có thể dẫn đến hành động cực đoan, chủ quan, sơ hở, mất cảnh giác, phạm sai
lầm, làm mất cơ hội hợp tác; dễ bị lợi dụng kích động, khoét sâu, phân hóa, chia rẽ, gây
mất ổn định chính trị, làm suy yếu sức mạnh bảo vệ Tổ quốc, thâêm chí tạo thời cơ cho
các thế lực thù địch dễ bề can thiêêp từ bên ngoài. Vì vâêy, quán triệt sâu sắc, vận dụng
đúng đắn, sáng tạo quan điểm về đối tác, đối tượng của Đảng vào thực tiễn hiê n
ê nay là
vấn đề rất quan trọng, đòi hỏi phải triển khai nhiều giải pháp đồng bôê.
Trước hết, viêêc nhâên thức và vâên dụng quan điểm về đối tác, đối tượng phải được quán
triêêt và thực hiêên môêt cách thường xuyên, nghiêm túc ở tất cả các cấp, các ngành, các
lực lượng, các địa phương và toàn dân, bảo đảm không làm cản trở tới cơ hô êi hôêi
nhâêp, hợp tác, nhưng cũng không mơ hồ, mất cảnh giác trong quan hêê với các đối tác.
Tuy nhiên, viêêc xử lý các mối quan hêê đối tác, đối tượng đòi hỏi các cấp, các ngành
xem xét trên quan điểm tổng thể, lấy lợi ích cơ bản, lâu dài của quốc gia, dân tô êc làm
nền tảng; không vì lợi ích cục bôê, trước mắt mà làm tổn hại đến lợi ích của đất nước.
Để nhâên diêên đúng đối tác, đối tượng và sự chuyển hóa giữa chúng, cần coi trọng công
tác nghiên cứu, dự báo chiến lược; kịp thời phát hiêên cơ hôêi để khai thác; đồng thời,
nhâên rõ thách thức để hóa giải, đề phòng, không để rơi vào thế bị đôêng, bất ngờ, đối
đầu, bị cô lâêp.
Hai là, trong bối cảnh hiêên nay, chúng ta cần nhâên thức rõ và có đối sách để giải quyết
các mối quan hêê giữa nguy cơ “DBHB” trong nước với các hoạt đôêng xâm phạm chủ
quyền lãnh thổ từ bên ngoài. Theo đó, “DBHB” gây mất ổn định chính trị trong nước là
cơ hội để các thế lực có tham vọng xâm phạm chủ quyền lãnh thổ, biển đảo. Ngược lại,
khi có xung đột vũ trang và hành đôêng lấn chiếm biển, đảo là cơ hội để các thế lực thù
địch lợi dụng kích động gây bạo loạn lật đổ, can thiệp xóa bỏ chế độ chính trị và thành
quả cách mạng của nhân dân ta. Các nguy cơ này sẽ nghiêm trọng hơn nếu trong xử lý
vấn đề đối tác, đối tượng phạm sai lầm, dẫn đến sự chuyển hóa ngược từ đối tác thành
đối tượng, hoặc để các thế lực thù địch có tham vọng riêng thỏa hiệp xâm hại chủ
quyền, lãnh thổ, lợi ích quốc gia và chế độ XHCN.
Ba là, đối tác, đối tượng là những vấn đề không dễ nhâên biết. Nó có thể tồn tại trong

cùng môêt chủ thể, hoăêc đan xen ở các chủ thể khác nhau, khó có thể “gọi măêt”, “chỉ
tên”. Song, đối với sự nghiêêp bảo vêê Tổ quốc, nhất là trong Chiến lược Quốc phòng,
Chiến lược Quân sự,... cần xác định công khai hợp lý đối tượng theo phân cấp, ở thời


điểm, tình huống thích hợp, không để lẫn lộn giữa chiến lược và sách lược, dẫn đến bị
động, lúng túng trong xử lý.
Trên cơ sở nhiệm vụ và giải pháp của Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) chỉ đạo về
đường lối đối ngoại và hội nhập quốc tế, hiện nay quan hệ giữa nước ta với các nước,
các tổ chức và cá nhân trên thế giới, có thể phân chia thành các nhóm đối tác, như: đối
tác chiến lược tin cậy, đối tác chiến lược toàn diện, đối tác toàn diện và đối tác chiến
lược. Sự phân chia đó, là định hướng quan trọng để các cấp, các ngành, các lực lượng
vâên dụng đối sách thích hợp, dựa trên tư duy thực tế, linh hoạt mở rộng quan hệ đối
tác, thu hẹp đối tượng; trong đó, cần đặc biệt quan tâm việc lựa chọn, xây dựng cho
được “bạn chiến lược tin cậy” làm chỗ dựa vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc.
Về đối tượng của cách mạng Việt Nam có thể phân chia theo các nhóm sau:
1. Đối tượng có âm mưu lật đổ chế độ XHCN, sử dụng đòn tiến công chính là “DBHB”,
thúc đẩy nhanh quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” để thay đổi chế độ ta. Khi có
điều kiện, thời cơ, nhất là khi ta phạm sai lầm trong xử lý các tình huống chiến lược,
chúng sẽ kích động gây bạo loạn lật đổ, xung đột vũ trang hoặc chiến tranh, với các
dạng thức mới: chiến tranh ủy nhiệm, chiến tranh thông tin, kinh tế, tài chính, chiến
tranh mạng,... Với đối tượng này, chúng ta cần tiếp tục phát triển, mở rộng quan hệ đối
tác toàn diện một cách chủ động, thận trọng, giữ đúng nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ
quyền, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, không làm ảnh hưởng đến các
nước khác; tận dụng mọi cơ hội mở rộng hợp tác trên các lĩnh vực có thể hợp tác, góp
phần phát triển kinh tế, xã hội, tăng cường quốc phòng, an ninh.
2. Đối tượng có tham vọng về chủ quyền lãnh thổ, ngấm ngầm thực hiêên âm mưu xâm
lấn biên giới, biển, đảo thuôêc chủ quyền lãnh thổ của ta. Họ công khai thực hiện “chiến
lược biên giới mềm” nhằm kiềm chế, chi phối chính sách đối nội, đối ngoại, buộc ta

phải đi vào quỹ đạo, nhượng bộ về chủ quyền, lợi ích quốc gia. Khi có thời cơ, có thể
gây xung đột vũ trang, chiến tranh chiếm giữ lãnh thổ, chiếm đoạt tài nguyên của nước
ta. Với đối tượng này, cần tranh thủ những điểm tương đồng, hạn chế bất đồng, tăng
cường sự tin cậy về chính trị, dựa trên đối sách linh hoạt, thực tế, kiên quyết bảo vệ
vững chắc chủ quyền lãnh thổ, lợi ích quốc gia và chế độ XHCN.
3. Đối tượng do bị tác động của“DBHB” dẫn đến “tự chuyển hóa” có thể gây ra “biến
động chính trị”, hoặc tự giác trở thành đồng minh của đối tượng có âm mưu lật đổ chế
độ ta. Đối tượng này gồm: các phần tử thoái hoá biến chất, cơ hội chính trị, suy thoái
về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, tham ô, lãng phí, quan liêu. Đây là lực
lượng “giấu mă ât”, có thể nằm trong các tổ chức chính trị, chính trị - xã hôêi hòng chống
phá từ bên trong. Với đối tượng này “cần phải kịp thời ngăn chặn, xử lý những kẻ chủ
mưu, cầm đầu, ngoan cố” kết hợp với giáo dục, cảm hóa. Chủ động đấu tranh với âm
mưu, hoạt động “DBHB” của các thế lực thù địch. Không để hình thành tổ chức chính trị
đối lập dưới bất kỳ hình thức nào.
4. Đối tượng gây thảm họa thiên tai, môi trường có thể dẫn đến khủng hoảng kinh tế,
chính trị - xã hội, tạo cơ hội để các đối tượng khác lợi dụng khoét sâu, thực hiện mục
tiêu chiến lược của họ. Chúng có thể ở trong và ngoài nước thực hiê ên âm mưu hủy
hoại nguồn nước, phá hoại môi trường, bất chấp lợi ích của quốc gia, dân tộc,... nhằm
đạt được mục tiêu chính trị nhất định. Đây là loại đối tượng mới, cần đă êc biêêt quan tâm.
Với đối tượng này, nếu thuộc nội bộ cần kiên trì “lấy giáo dục, thuyết phục là chính, đi
đôi với giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương, xử lý nghiêm minh hành vi vi phạm pháp luật”.


Nếu thuôêc đối tượng bên ngoài, cần kiên trì đàm phán hòa bình, dựa vào luật pháp,
công ước quốc tế, tranh thủ các tổ chức khu vực, tổ chức quốc tế, không để mâu thuẫn
tăng cao đe dọa sự ổn định chính trị - xã hội của ta.
Bên cạnh đó, cần thống nhất nhận thức về sự chuyển hóa giữa đối tượng, đối tác là
một vấn đề nhạy cảm, phức tạp. Trong lịch sử, một số chính trị gia đã sớm rút ra kết
luận: “không có đồng minh vĩnh viễn và kẻ thù truyền kiếp, chỉ có lợi ích dân tộc là lâu
dài”. Luận điểm này được các quốc gia ngày càng nhận thức rõ ràng hơn. Vì thế, đến

nay các nước rất coi trọng mở rộng quan hệ đối tác ở các cấp độ khác nhau tùy theo lợi
ích dân tộc. Đối với nước ta, quá trình hội nhập quốc tế, cần đa dạng hóa về nội dung,
hình thức quan hệ, hợp tác, góp phần đưa quan hệ hợp tác với các nước đi vào chiều
sâu, ổn định, vững chắc, nhất là với các nước láng giềng, các nước lớn, các nước
ASEAN, các nước bạn bè truyền thống,... Trên cơ sở đó, không ngừng củng cố, tăng
cường sự tin cậy về chính trị, đồng thời chủ động đấu tranh ngăn ngừa, không để các
thế lực thù địch, lôi kéo chuyển hóa gây bất lợi cho ta.



×