Tải bản đầy đủ (.doc) (82 trang)

Giáo Trình Đa Dạng Sinh Học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (941.36 KB, 82 trang )

PSG. TS. TÔN THẤT PHÁP

Giáo trình

ĐA DẠNG SINH HỌC

1


Chương 1

MỞ ĐẦU
1.1. Định nghĩa
Theo Công ước Đa dạng sinh học, khái niệm "Đa dạng sinh học" (biodiversity,
biological diversity) có nghĩa là sự khác nhau giữa các sinh vật sống ở tất cả mọi nơi, bao
gồm: các hệ sinh thái trên cạn, trong đại dương và các hệ sinh thái thuỷ vực khác, cũng như
các phức hệ sinh thái mà các sinh vật là một thành phần,...; thuật ngữ này bao hàm sự khác
nhau trong một loài, giữa các loài và giữa các hệ sinh thái.
Có thể coi, thuật ngữ "đa dạng sinh học" lần đầu tiên được Norse và McManus (1980)
định nghĩa, bao hàm hai khái niệm có liên quan với nhau là: đa dạng di truyền (tính đa dạng
về mặt di truyền trong một loài) và đa dạng sinh thái (số lượng các loài trong một quần xã
sinh vật). Có nhiều định nghĩa về đa dạng sinh học được đưa ra, định nghĩa được đưa ở trên
là định nghĩa được dùng trong Công ước Đa dạng sinh học. Các định nghĩa khác về Đa dạng
sinh học:
- toàn bộ gen, các loài và các hệ sinh thái trong một vùng hoặc trên toàn thế giới .
- tính đa dạng của sự sống dưới mọi hình thức, mức độ và mọi tổ hợp, bao gồm đa
dạng gen, đa dạng loài và đa dạng hệ sinh thái . [FAO]
- tính đa dạng, trạng thái khác nhau về đặc tính hoặc chất lượng (R.Patrick,1983)
- sự đa dạng và tính khác nhau của các sinh vật sống và các phức hệ sinh thái mà
chúng tồn tại trong đó. Tính đa dạng có thể định nghĩa là một số lượng xác định các đối
tượng khác nhau và tần số xuất hiện tương đối của chúng. Đối với đa dạng sinh học, những


đối tượng này được tổ chức ở nhiều cấp độ, từ các hệ sinh thái phức tạp đến các cấu trúc hoá
học là cơ sở phân tử của vật chất di truyền. Do đó, thuật ngữ này bao hàm các hệ sinh thái,
các loài, các gen khác nhau và sự phong phú tương đối của chúng. (OTA, 1987).
- tính đa dạng của sự sống và các quá trình hoạt động của nó (U .S. Forest Service,
1990).
- bao gồm tất cả các loài thực vật, động vật, vi sinh vật, các hệ sinh thái và quá trình
sinh thái học mà chúng tham gia . Đây là khái niệm bao trùm cho mức độ phong phú của tự
nhiên, bao gồm cả số lượng và tần số xuất hiện của các hệ sinh thái, các loài và các gen di
truyền trong một tổ hợp xác định. (McNeely et al., 1990).
- tính đa dạng của sự sống ở mọi cấp độ tổ chức, biểu hiện bởi số lượng và tần số xuất
hiện tương đối của các đối tượng (gen, sinh vật, hệ sinh thái) (EPA, 1990).

2


- toàn bộ sự đa dạng và khác nhau giữa các sinh vật sống và trong chính sinh vật đó,
cũng như đối với các hệ sinh thái mà các sinh vật tồn tại trong đó; bao hàm cả đa dạng hệ
sinh thái hoặc đa dạng quần xã, đa dạng loài và đa dạng di truyền (Pending legislation, U .S.
Congress 1991).
- tính đa dạng của sinh vật ở mọi cấp độ, từ những biến dị di truyền trong cùng một
loài đến sự đa dạng của các loài, giống/chi, họ và thậm chí cả các mức phân loại cao hơn; bao
gồm cả đa dạng hệ sinh thái, gồm cả các quần xã sinh vật trong các sinh cảnh cụ thể và các
điều kiện vật lý mà chúng sinh sống trong đó (Wilson, 1992).
- là phức hệ vượt quá sự hiểu biết và có giá trị không thể đo đếm được, đa dạng sinh
học là toàn bộ tính đa dạng của sự sống trên trái đất (Ryan, 1992).
- tính đa dạng về cấu trúc và chức năng của các dạng sống ở các mức di truyền, quần
thể, loài, quần xã và hệ sinh thái (Sandlund et al., 1993).
1.2. Đối tượng môn học
Đa dạng sinh học là một phân môn của sinh học, đa dạng sinh học lấy đối tượng là
toàn bộ sinh vật sống trên trái đất làm đối tượng nghiên cứu của mình. Sự đa dạng của đời

sống được làm rõ bằng nhiều cách khác nhau. Một số hướng của sự đa dạng này có thể bắt
đầu được tạo nên nhờ vào phân biệt giữa các yếu tố khác nhau. Có 3 nhóm đa dạng cơ bản
được tạo nên là: đa dạng di truyền; đa dạng loài và đa dạng hệ sinh thái.
Đa dạng di truyền bao gồm các thành phần của các mã di truyền cấu trúc cơ thể
(nucleotides, genes, chromosomes) và sự biến đổi trong cấu trúc giữa các cơ thể của cùng
một quần thể và giữa các quần thể khác nhau.
Đa dạng loài bao gồm các bậc phân loại và các thành phần của nó, từ các cá thể đến
các loài, chi và cao hơn.
Đa dạng hệ sinh thái bao gồm các mức độ sinh thái khác nhau của quần thể, thông qua
nơi ở và ổ sinh thái, đến sinh cảnh.
Như vậy, đa dạng sinh học sẽ tập trung nghiên cứu sự đa dạng trong sinh vật từ di
truyền cho đến các hệ sinh thái. Tuy nhiên, đối với mỗi cấp độ đa dạng sẽ có những mặt
thuận lợi và khó khăn riêng khi tiến hành nghiên cứu. Đối với đa dạng di truyền, các quần thể
được thiết lập từ các cá thể, mỗi một cá thể có một thành phần nhiễm sắc thể, các nhiễm sắc
thể được cấu thành từ các gen và gen được cấu thành từ nucleotide. Ngược lại, trong đa dạng
loài, giới, ngành, họ, chi, loài, dưới loài, quần thể và cá thể hình thành nên một chuổi tổ hợp,
trong đó tất cả các nhân tố ở mức thấp hơn nằm trong mỗi mức cao hơn. Cùng với quá trình
tiến hoá, sự tổ chức phân loại này của đa dạng sinh học phản ánh một khái niệm tổ chức trung
tâm của sinh học hiện đại.

1.3. Sơ lược lịch sử về đa dạng sinh học

3


Những bằng chứng minh họa được cung cấp từ các hóa thạch và phân tử, một vài sự
kiện lớn về sự sống trên trái đất, cùng với niên đại của chúng được tái hiện trong bảng sau:
Kỷ nguyên
Tiền
cambrian

Paleozoic

Thời kỳ
Precambrian
Cambrian
Ordovician
Silurian
Devonian
Carboniferous
Permian

Mesoic

Triassic
Jurassic
Cretaceous

Cenozoic

Tertiary

Quaternary

Thời gian (triệu
Các sự kiện lớn
năm)
4500
Khởi thủy sự sống, các tổ chức đa bào
đầu tiên
550

Tất cả các ngành lớn xuất hiện được ghi
nhận từ hóa thạch, bao gồm động vật có
xương sống đầu tiên
500
Cá có hàm đầu tiên
440
Sự xâm chiếm đất liền bởi thực vật và
chân khớp
410
Sự đa dạng hóa của cá xương (teleost),
xuất hiện lưỡng thê và côn trùng
360
Rừng được bao phủ bởi thực vật có mạch,
xuất hiện bò sát và sự ưu thế của lưỡng
thê
290
Sự tuyệt chủng của nhiều loài không
xương sống ở biển, xuất hiện bò sát giống
thú và côn trùng ngày nay.
250
Nguồn gốc và sự đa dạng chủ yếu là bò
sát, xuất hiện thú, cây hạt trần chiếm ưu
thế
210
Bò sát thống trị và cây hạt trần chiếm ưu
thế, xuất hiện chim
140
Xuất hiện thực vật hạt kín, sự thống trị
của bò sát và nhiều nhóm động vật không
xương sống bị tuyệt chủng và kết thúc

một giai đoạn
65
Đa dạng hóa của thú, chim, côn trùng hút
phấn và hạt kín. Tertiary muộn/tiền
Quaternary- thời kỳ đỉnh cao của đa dạng
sinh học
1.8
Xuất hiện loài người

(Nguồn:www.IUCN.org)
Qua bảng trên cho thấy rằng có vẻ như tất cả các sinh vật đều có chung một nguồn
gốc. Tất nhiên, đa dạng sinh học đã được tăng lên từ giai đoạn giữa, ước tính khoảng 3.5-4.0
tỷ năm trước (trái đất có tuổi khoảng 4,5-5,0 tỷ năm, vì vậy sự sống đã xuất hiện khắp nơi
hầu hết chúng đều tồn tại), đầu tiên sự gia tăng này diễn ra rất chậm.
Một trong những sự thay đổi quan trọng đó là đã mở ra một sự phát triển lớn về đa
dạng sinh học, đã tạo ra sinh vật đa bào. Các sinh vật đa bào có lẽ đã không đa dạng hóa cho
đến 1,4 tỷ năm trước, lúc đó gần 60% sự sống trước đó đã hoàn toàn mất đi. Đặc biệt các
động vật đa bào đã không bắt đầu đánh dấu sự đa dạng cho đến khoảng 600 triệu năm trước,
vào lúc đó khoảng 80% sự sống trước đó đã bị biến mất. Các sinh vật vào thời kỳ này chỉ dài
khoảng vài milimét. Đến Kỷ Palaeozoic (cổ sinh) và trên đá của thời kỳ Cambrian (550 triệu
năm trước), các nhà khoa học đã tìm thấy sự xuất hiện ngẫu nhiên của các động vật đa bào
(metazoan) có kích thước khá lớn. Các nhà khoa học đã ước tính rằng nếu sự bùng nổ đa
dạng sinh học vào thời kỳ Cambrian được tiếp tục bằng một tỷ lệ hằng số cho đến nay thì đại
dương có thể xuất hiện 1060 họ metazoan, thay vì 103 như hiện nay (Sepkoski, 1997). Trên
4


thực tế, tất cả các nhóm động vật lớn ngày nay đều được ghi nhận ở hóa thạch trong thời kỳ
Cambrian (Kevin J Gaston, 2004).
Gould, 1989 đã đưa ra giả thuyết rằng sự đa dạng của các tổ chức đạt cao nhất vào

thời gian bùng nổ đa dạng sinh học của giai đoạn Cambrian. Sự chiếm cứ đất liền của động
vật, thực vật (440 triệu năm trước), tiếp theo là sự đa dạng hóa của chúng, ngay sau các sinh
vật đa bào trong biển. Vì vậy, sự sống của động vật đến từ chổ một ít loài hoàn thiện thành
nhiều cấu trúc cơ thể khác nhau trong thời kỳ Cambrian, đến ngày nay chúng ta nhìn thấy
nhiều loài nhưng ít cấu trúc cơ thể hơn.
Khoảng 100 triệu năm trước đã có sự tăng lên và phát triển ổn định của đa dạng sinh
học, chúng đã đạt đến cực điểm vào cuối thời kỳ Tertiary (đệ tam) và đầu Quaternary (đệ tứ),
vào thời kỳ này có nhiều loài và số bậc phân loại động vật thực vật cao hơn (cả dưới biển và
trên cạn) so với trước đó (Signor, 1990).

5


Chương 2
KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÒ CỦA ĐA DẠNG SINH HỌC

2.1. Khái niệm chung về đa dạng sinh học
2.1.1. Các định nghĩa và ví dụ
Theo định nghĩa của Quỹ Quốc tế về Bảo tồn Thiên nhiên (World Wildlife Fund) thì đa
dạng sinh học là “sự phồn thịnh của cuộc sống trên trái đất, là hàng triệu loài động vật,
thực vật và vi sinh vật, là những nguồn gen của chúng và là các hệ sinh thái phức tạp
cùng tồn tại trong môi trường sống”. Như thế, đa dạng sinh học cần phải được xem xét ở
ba mức độ. Đa dạng sinh học ở mức độ loài bao gồm tất cả sinh vật trên trái đất từ vi
khuẩn đến các loài động vật, thực vật và nấm. Ở mức nhỏ hơn, đa dạng sinh học bao
gồm sự khác biệt về gen giữa các loài, khác biệt về gen giữa các quần thể cách ly nhau
về địa lý cũng như khác biệt giữa các cá thể cùng chung sống trong một quần thể. Đa
dạng sinh học cũng bao gồm sự khác biệt trong các quần xã sinh học nơi các loài đang
sinh sống, các hệ sinh thái trong đó các quần xã tồn tại và cả sự khác biệt của các mối
tương tác giữa chúng với nhau. Sự khác biệt giữa đa dạng sinh học ở 3 mức độ khác
nhau được thể hiện qua bảng 1.1.


Bảng 1.1. Các mức độ đa dạng sinh học
Đa dạng loài

Đa dạng di truyền

Đa dạng sinh thái

Giới (Kingdom) Quần thể (Population)

Sinh đới (Biome)

Ngành (Phyla) Cá thể (Individual)

Vùng sinh thái (Bioregion)

Lớp (Class)

Nhiễm sắc thể
(Chromosome)

Cảnh quan (Landscape)

Bộ (Order)

Gene

Hệ sinh thái (Ecosystem)

Họ (Family)


Nucleotide

Nơi ở (Habitat)

Giống
(Genera)

Tổ sinh thái (Niche)

Loài (Species)
(Nguồn:Peter J.Bryant. Biodiversity and conservation)
2.1.2. Các nội dung của đa dạng sinh học

6


2.1.2.1. Đa dạng loài
Đa dạng loài bao gồm tất cả loài trên trái đất. Mỗi loài thường được xác định theo
một trong hai cách. Thứ nhất, một loài được xác định là một nhóm các cá thể có những đặc
tính hình thái, sinh lý, sinh hoá đặc trưng khác biệt với những nhóm cá thể khác (định nghĩa
về hình thái của loài). Thêm vào đó, sự khác biệt về DNA cũng được sử dụng để phân biệt
những loài có đặc điểm hình thái bên ngoài gần như giống hệt nhau (loài đồng hình), như
các loài vi khuẩn. Thứ hai là một loài có thể được phân biệt như là một nhóm cá thể có thể
giao phối giữa chúng với nhau để sinh sản thế hệ con cái hữu thụ và không thể giao phối
sinh sản với các cá thể của các nhóm khác (định nghĩa về sinh học của loài).
Định nghĩa về hình thái của loài thường được các nhà sinh học hay các nhà phân
loại học, sử dụng để định loại, đặt tên khoa học cho những mẫu vật là những loài mới. Định
nghĩa về sinh học của loài là định nghĩa thường được các nhà sinh học di truyền sử dụng do
đây là cơ sở trong mối liên hệ về gen hơn là các đặc điểm về cấu tạo hình thái khác. Tuy

nhiên, trong thực tế, định nghĩa sinh học của loài là khó sử dụng bởi vì nó đòi hỏi những
kiến thức về các cá thể thực sự có khả năng trong việc giao phối với nhau, những thông tin
như vậy thường không phải lúc nào cũng có sẵn. Do vậy, trong thực tế các nhà sinh học
thực hành thường mô tả các loài này bằng các đặc điểm hình thái cho đến khi loài đó được
các nhà phân loại đặt tên La tinh.
Hiện nay, có khoảng 1,7 triệu loài đã được mô tả. Ít nhất là hai lần số đó còn chưa mô
tả, chủ yếu là côn trùng và các nhóm chân khớp khác trong vùng nhiệt đới (Bảng 1.2).

Bảng 1.2. Tổng số các loài đã được mô tả
Nhóm
Vi khuẩn và tảo lam

Số loài mô tả
4.760

Nấm

46.938

Tảo

26.900

Rêu

17.000

Hạt trần
Hạt kín
Động vật nguyên sinh


IUCN. 1997

258.000

IUCN. 1997

35.000
5.000

Ruột khoang

9.000

Giun tròn và giun dẹp

24.000

Giáp xác

40.000

Côn trùng

950.000

Các nhóm Chân khớp và các
nhóm động vật không xương
sống khác


130.000

Da gai

Lưỡng cư

WCMC. 1998

980

Bọt biển (Thân lỗ)

Thân mềm

Nguồn

70.000
6.100
28.100
5.578

7

IUCN. 1997


Bò sát

8.134


Chim

9.932

Thú

4.842
1.680.264

Kiến thức của chúng ta về số lượng loài là chưa chính xác do nhiều loài khó thấy
còn chưa được phân loại học chú ý. Ví dụ như ve bét, giun tròn và nấm sống trong đất và
các loài côn trùng sống trong rừng nhiệt đới có kích thước rất nhỏ và khó nghiên cứu. Các
loài này có thể lên tới hàng trăm ngàn thậm chí triệu loài. Các loài vi khuẩn cũng được biết
rất ít. Chỉ có khoảng 4000 loài vi khuẩn được các nhà vi sinh vật biết đến do những khó
khăn trong việc nuôi cấy và định loại. Việc lấy mẫu khó khăn đã cản trở chúng ta nghiên cứu
tìm hiểu về số lượng các loài trong đại dương. Đại dương có lẽ là nơi có tính đa dạng lớn
nhất. Một ngành động vật mới, ngành Loricefera lần đầu tiên phát hiện vào năm 1983 nhờ
vào các mẫu vật thu được ở đáy biển sâu và không nghi ngờ gì là sẽ có nhiều loài hơn nữa
sẽ được phát hiện.
Các quần xã sinh vật mới sẽ còn được khám phá thường các quần xã này nằm
trong các vùng hẻo lánh nơi mà con người khó tới gần được. Các kỹ thuật thăm dò chuyên
biệt, đặc biệt ở các vùng biển sâu và các vùng trời các rừng nhiệt đới đã khám phá ra các
cấu trúc quần xã khác thường.
Các quần xã động vật khác nhau, đặc biệt là côn trùng, thích ứng cuộc sống dưới
tán lá tầng cao của rừng rậm nhiệt đới, hiếm khi chúng thích nghi được với điều kiện sống ở
trên mặt đất.
Một vùng rừng mưa miền núi hẻo lánh nằm giữa Việt Nam và Lào vừa mới được các
nhà sinh học khảo sát trong thời gian gần đây. Tại đây họ đã phát hiện được một số loài thú
mới cho khoa học đó là Mang lớn (Megamuntiacus vuquangensis), Sao La (Pseudoryx
nghetinhensis), Mang Trường Sơn (Muntiacus truongsonensis) và Mang lá (Muntiacus

rooseveltorum).
Trên phạm vi toàn thế giới còn cần rất nhiều nổ lực để có thể hoàn thiện được danh
mục đầy đủ các loài. Mỗi năm các nhà phân loại trên thế giới mô tả được khoảng 11.000
loài, và như vậy, để có thể mô tả hết các loài trên thế giới (ước tính 10 đến 30 triệu loài) dự
kiến phải tốn từ 750 năm đến 2.570 năm, trong khi đó có nhiều loài đã bị tuyệt chủng trước
khi chúng được mô tả và đặt tên.
2.1.2.2. Đa dạng di truyền
Đa dạng di truyền bao gồm các thành phần các mã di truyền cấu trúc nên cơ thể
sinh vật (nucleotides, genes, chromosomes) và sự sai khác về di truyền giữa các cá thể
trong một quần thể và giữa các quần thể với nhau.

8


Hình 2: Đa dạng di truyền của loài Keo má trắng Platycercus eximius (ở Úc) thể hiện qua
màu sắc và đốm thân. Sơ đồ còn chỉ ra các vùng phân bố của chúng (Nguồn: Richard B
Primack).
Đa dạng di truyền trong nội bộ loài thường là kết quả của tập tính sinh sản của các
cá thể trong quần thể. Một quần thể là một nhóm các cá thể giao phối với nhau và sản sinh
ra con cái hữu thụ. Một loài có thể có một hay vài quần thể khác nhau. Một quần thể có thể
chỉ gồm một số ít cá thể hay có thể có hàng triệu cá thể.
Các cá thể trong một quần thể thường rất khác nhau về mặt di truyền. Sự đa dạng
về bộ gen có được do các cá thể có các gen khác nhau, gen là một đơn vị di truyền cùng
với những nhiễm sắc thể được đặc trưng bởi những protein đặc biệt. Các dạng khác nhau
của gen được gọi là allen và những sự khác biệt nảy sinh qua đột biến, là những sự thay
đổi xảy ra trong DNA, đơn vị cấu thành nhiễm sắc thể của cá thể. Sự khác biệt của các allen
trong gen có thể ảnh hưởng đến sự phát triển và sinh lý của các cá thể một cách khác nhau.
Sự sai khác di truyền tăng lên khi con cái nhận được đầy đủ tổ hợp gen và nhiễm
sắc thể của bố mẹ trong quá trình tái tổ hợp gen xảy ra trong quá trình sinh sản hữu tính.
Gen được trao đổi giữa các nhiễm sắc thể trong quá trình giảm phân và tổ hợp mới được

tạo thành khi nhiễm sắc thể từ bố mẹ kết hợp để tạo nên một tổ hợp thống nhất cho con cái.
Tổng số các sắp xếp của gen và allen trong quần thể được coi là quỹ gen (gene pool),
trong khi một tổ hợp nào đấy của gen và allen trong bất kỳ cá thể nào thì được gọi là kiểu
di truyền (genotype). Kiểu hình (phenotype) của một cá thể nói lên các đặc điểm về hình
thái, sinh lý, sinh hoá là kết quả của biểu hiện kiểu gen trong một môi trường nhất định.
Sai khác di truyền cho phép các cá thể thích ứng với những thay đổi của môi trường.
Nhìn chung, các loài quí hiếm phân bố hẹp ít có sự đa dạng di truyền hơn các loài có phân
bố rộng và kết quả là chúng dễ bị tuyệt chủng hơn khi điều kiện môi trường thay đổi.

9


2.1.2.3. Đa dạng quần xã và hệ sinh thái
Đa dạng về hệ sinh thái là thước đo sự phong phú về sinh cảnh, nơi ở, tổ sinh thái
và các hệ sinh thái ở các cấp độ khác nhau. Sự đa dạng này được phản ảnh quan trọng
nhất bởi sự đa dạng về sinh cảnh, các quần xã sinh vật và các quá trình sinh thái trong sinh
quyển. Chẳng hạn như sự phân bố của các loài sinh vật theo không gian khác nhau, nghĩa
là đặc trưng cho từng sinh cảnh khác nhau. Rừng nhiệt đới thường xanh đã phân thành
nhiều tầng và các thuỷ vực cũng phân thành các tầng nước khác nhau về thuỷ lý, thuỷ hoá
để sử dụng tối ưu năng lượng của hệ sinh thái và tạo cho tính đa dạng sinh học càng cao.
Môi trường vật lý, đặc biệt là vòng tuần hoàn năm của nhiệt độ và lượng mưa, ảnh
hưởng đến cấu trúc và đặc điểm của quần xã sinh vật, quyết định địa điểm đó sẽ là rừng,
đồng cỏ, sa mạc hay đất ngập nước. Quần xã sinh vật cũng có thể biến đổi tính chất vật lý
của hệ sinh thái. Ví dụ, trong một hệ sinh thái trên cạn, tốc độ gió, độ ẩm, nhiệt độ và tính chất
đất đai có thể bị ảnh hưởng do cây cối và các động vật sống tại đó.
Trong một quần xã sinh vật, mỗi loài sử dụng một nhóm tài nguyên nhất định, tạo
thành tổ sinh thái của loài đó. Tổ sinh thái cho một loài thực vật có thể bao gồm loại đất mà
loài đó sống, lượng ánh sáng mặt trời và độ ẩm mà loài đó cần, kiểu hệ thống thụ phấn và
cơ chế phát tán của hạt,... Tổ sinh thái của một loài động vật có thể bao gồm kiểu nơi sinh
sống của loài, biên độ nhiệt độ mà loài đó có thể sống được, các loại thức ăn và lượng nước

mà chúng cần,... Bất cứ thành phần nào của tổ sinh thái đều là nguồn tài nguyên có giới hạn
và do đó có ảnh hưởng đến giới hạn kích thước của quần thể.

Các hệ sinh thái trong sinh quyển tồn tại ở hai môi trường có sự khác biệt về các đặc
tính lý hoá và sinh học. Đó là môi trường trên cạn và môi trường dưới nước. Các hệ sinh thái
trên cạn được đặc trưng bởi các quần hệ thực vật, chiếm sinh khối lớn và gắn liền với khí hậu
địa phương, do đó tên của quần xã cảnh quan vùng địa lý gọi là khu sinh học (biome), thường
là tên của quần hệ thực vật ở đấy. Khu sinh học là một hệ sinh thái lớn, đặc trưng bởi kiểu khí
hậu đặc thù, bao gồm các loài động vật sống trong quần hệ thực vật, thích ứng tốt với môi
trường tự nhiên. Nhìn chung trên lục địa đã hình thành các biom chính như sau:

Đài nguyên hay đồng rêu (Tundra)
Đồng rêu bao quanh bắc cực và vành đai phần bắc của lục địa Âu Á, Bắc Mỹ, chiếm
khoảng 20% diện tích trái đất. Đây là một vùng nhiều đầm lầy giá lạnh, băng tuyết với nhiều
đụn rêu rãi rác. Mùa đông dài khắc nghiệt, mùa hè ngắn. Số loài thực vật rất ít, chủ yếu là
rêu, địa y và cỏ bông lau, phong lùn và liễu miền cực. Động vật đặc trưng là hươu tuần lộc,
hươu kéo xe, thỏ, có sói Bắc cực, gấu trắng Bắc cực, chim cánh cụt,…Nhiều loài chim sống
thành từng bầy lớn, chúng di cư xuống vùng vĩ độ thấp để tránh rét mùa đông.

10


Rừng mưa nhiệt đới (Tropical rain forests)

Xuất hiện ở vùng gần xích đạo. Khí hậu luôn ấm (từ 20 đến 25 0C) lượng mưa dồi
dào (ít nhất 1900 mm/năm). Rừng mưa là một biome có độ giàu có nhất, cả về độ đa dạng
và tổng sinh khối. Rừng mưa nhiệt đới có cấu trúc phức tạp, với nhiều cấp độ của đời sống.
Hơn một nửa các dạng sống trên cạn xuất hiện trong biom này.

11



Trong khi nhiều động vật sống trên mặt đất, thì hầu hết các động vật rừng mưa nhiệt
đới có đời sống trên các cây gỗ. Các động vật đó trải qua toàn bộ đời sống của chúng trên
tán rừng. Các loại côn trùng ở các rừng mưa nhiệt đới rất phong phú và phần lớn trong số
chúng là chưa được xác định.
Mối là đặc trưng cho sự phân hủy của chu trình dinh dưỡng của gỗ. Chim có xu
hướng màu sắc sáng, thường tạo cho chúng tìm kiếm thức ăn như các loài sâu ngoại lai. Bò
sát và lưỡng thê xuất hiện nhiều. Khỉ hầu (Lemurs), Cu li (sloths), và khỉ (monkeys) ăn các
loài trái cây trong rừng mưa nhiệt đới. Nhóm loài ăn thịt lớn nhất là nhóm mèo. Sự xâm
chiếm và phá hủy nơi ở đang là nguy cơ cho các loài động vật, thực vật ở đây.
Một vài rừng nhiệt đới ở Ấn Độ, Đông Nam Á, Tây Phi, Trung và Nam Mỹ có tính
mùa và các cây ở đó rụng lá vào mùa khô.

Rừng ôn đới (temperate forests)
Sinh cảnh rừng ôn đới xuất hiện ở miền đông của Bắc Mỹ, Đông Á, và nhiều nước
Châu Âu. Lượng mưa nhiều từ 750-1500 mm. Sự phát triển theo mùa được xác định rõ ràng
giữa 140 đến 300 ngày. Các loài thực vật ưu thế bao gồm sồi, thích, và những cây gỗ lớn lá
rụng khác. Cây gỗ của rừng lá rụng có tán lá rộng, trong đó chúng rụng đi vào mùa thu và
mọc trở lại vào mùa xuân. Mật độ tán lá cho phép sự phát triển tốt cho các tầng cây bụi ở bên
dưới, một tầng cây thảo, và sau đó thường được bao phủ bởi rêu và dương xỉ. Sự sắp xếp bên
dưới này đã cung cấp nhiều nơi ở cho nhiều loại côn trùng và chim. Các rừng lá rụng ngoài ra
còn chứa nhiều thành phần của họ gậm nhấm, trong đó chúng cấp thức ăn cho linh miêu, chó
sói, và cáo (foxes). Ngoài ra vùng này là nơi ở của nai và gấu đen. Mùa Đông ở đây không
lạnh như ở rừng phương bắc, vì vậy mà nhiều loài bò sát và lưỡng thê có khả năng sống sót.

Đồng cỏ (Grasslands)

12



Các đồng cỏ xuất hiện trong vùng nhiệt đới và ôn đới với lượng mưa thấp hay mùa
khô kéo dài. Các đồng cỏ xuất hiện ở Mỹ, Châu Phi, Châu Á, và Úc. Đất ở vùng này rất dày
và phì nhiêu, vì vậy rất phù hợp cho nông nghiệp. Các đồng cỏ hoàn toàn không có cây gỗ,
và có thể cung cấp lượng cỏ lớn cho các loài động vật ăn cỏ. Các đồng cỏ tự nhiên đã từng
bao phủ hơn 40% bề mặt trái đất.
Hầu hết các đồng cỏ ngày nay được sử dụng cho phát triển mùa màng, đặc biệt lúa
mỳ và ngô. Các loài cỏ là thực vật chiếm ưu thế, trong khi đó động vật ăn cỏ và các loài đào
hang là động vật chiếm ưu thế.
Các đồng cỏ ôn đới bao gồm các thảo nguyên ở Nga, Các đồng hoang ở Nam Mỹ,
và các đồng cỏ (prairies) ở Bắc Mỹ. Đời sống của động vật bao gồm chuột, chó đồng, thỏ,
và các động vật khác sử dụng nhóm này làm thức ăn. Các đồng cỏ chứa một lượng cỏ lớn
cho trâu bò và loài linh dương sừng dài, nhưng với những hoạt động của con người, một
lượng lớn đồng cỏ đã bị suy thoái.
Vùng cây bụi thấp (savanna) là một dạng đồng cỏ của nhiệt đới nhưng có một vài
cây gỗ. Savanna chứa nhiều loài động vật ăn cỏ nhất (linh dương sừng dài, ngựa vằn, linh
dương đầu bò và một số các loài khác). Môi trường ở đây cung cấp một quần thể lớn các
loài ăn thịt như sư tử, báo ghepa (cheetahs), linh cẩu, và báo (leopards). Các thực vật nhỏ
hơn không bị tiêu thụ bởi các loài ăn cỏ, chúng bị tấn công bởi mối và các loài phân hủy
khác.

Cây bụi (Shrubland, Chaparral)
Sinh cảnh cây bụi được ưu thế bởi các cây bụi nhưng lá nhỏ có màu xanh đậm thường
có màng dày, biểu bì có sáp, và thân dưới đất dày vì vậy có thể chống chịu vào mùa hè khô
và hay cháy. Một số loài cây lá tiêu giảm và phát triển thành gai. Các vùng cây bụi xuất hiện
một phần ở Nam Mỹ, phía Tây Úc, miền trung Chile, và xung quanh biển Địa Trung Hải.
Cây bụi dày đặc ở California, ở đó mùa hè nóng và rất khô, được gọi là chaparral. Loại cây
bụi ở Địa Trung Hải thiếu một tầng dưới và có lớp mùn rác ở bề mặt đất do vậy cũng rất dễ
cháy. Hạt của nhiều loài có đòi hỏi về sức nóng và hoạt động tạo sẹo do lửa để kích thích sự
13



nảy mầm. Khu hệ động vật rất khác nhau giữa các vùng trong biome này và thường có tính
đặc hữu.

Sa mạc (Deserts)

Các sa mạc được đặc trưng bởi điều kiện khô và biên độ nhiệt lớn. Không khí khô
dẫn đến biên độ nhiệt độ rộng vào ban ngày. Hoang mạc khác nhau nhiều phụ thuộc vào
lượng mưa, khoảng dưới 250 mm/năm. Một số hoang mạc khô đến nổi không có một loài
thực vật nào có thể sống được. Ví dụ sa mạc Naomid ở Châu Phi, sa mạc AtacamaSechura ở Chi lê và Pêru.
Các loài cây trong sinh cảnh này đã phát sinh một loạt các thích nghi để lấy nước và
chống chịu với điều kiện nhiệt độ khắc nghiệt. Như cây có rể sâu để hút nước, lá biến thành
gai nhọn,… Số loài động vật ít, động vật có xương sống cở lớn như lạc đà một bướu, linh
dương, báo, sư tử,… Các loài gậm nhấm trong đất (chuột túi và chuột đàn) rất phong phú.
Hầu hết các loài chim là chim chạy. Trong số các loài sâu bọ cánh cứng, họ Tenebrinidae
chiếm ưu thế và là những loài đặc trưng của sa mạc. Sự thích ứng của động vật với đời
sống hoang mạc rất rõ, biểu hiện ở những đặc điểm chống khô nóng. Ngoài ra có hiện

14


tượng di cư theo mùa, ngủ hè hay dự trữ thức ăn, sinh sản đồng loạt vào thời kỳ có độ ẩm
cao.

Rừng lá kim (Taiga, Boreal Forest)

Rừng lá kim phân bố rộng ở hầu hết các vùng phía Bắc của Bắc Âu và Bắc Mỹ. Ngoài
ra, rừng này còn có vành đai xuất hiện ở một vài nơi khác, ở đó có các tên gọi khác nhau: khi
nó ở gần các đỉnh núi gọi là rừng lá kim ở núi; và rừng mưa ôn đới dọc theo bờ biến Thái

Bình Dương cho đến Nam California. Lượng mưa thấp khoảng 100 đến 400 mm/năm và có
mùa sinh trưởng ngắn. Mùa đông lạnh và ngắn, trong khi đó mùa hè có xu hướng ấm. Rừng
lá kim đặc trưng bởi các loài cây thẳng như Vân sam, Lãnh sam, Thiết sam và Thông. Các
loài cây gỗ này có lá và vỏ bảo vệ dày, cũng như lá có dạng kim có thể chịu đựng trọng lượng
của tuyết tích tụ lại. Các khu rừng lá kim hạn chế với các loài cây tầng thấp, và bề mặt đất
được bao phủ bởi một lớp rêu và địa y. Thông, Tùng-bách, cây Dương đỏ, cây Phong và cây
Phi lao là những loài cây phổ biến; chó sói, gấu Mỹ và tuần lộc là các loài động vật phổ biến.
Tính ưu thế của một số loài được thể hiện rõ ràng, nhưng tính đa dạng thấp khi so sánh với
các khu sinh quyển ôn đới và nhiệt đới.
Các khu sinh học ở nước
Môi trường nước ít khắc nghiệt hơn so với môi trường trên cạn. Các sinh vật thuỷ sinh
bơi lội trong nước nhờ vào lực đẩy của nước và không phải đối phó với tình trạng khô hạn.
Các chất dinh dưỡng hoà tan chi phối sự phân bố của các sinh vật. Các khu sinh học ở nước
được chia thành khu sinh học nước ngọt và khu sinh học biển.
Khu sinh học biển:
Khu sinh học biển chứa nhiều muối hoà tan hơn khu sinh học nước ngọt. Có hai phân
hạng trong khu sinh học này đó là quần xã sống đáy và quần xã sống trong tầng nước. Theo
độ sâu, quần xã sống đáy được chia thành vùng ven bờ và vùng sâu. Quần xã sống trong tầng
15


nước được chia thành quần xã sống trôi nổi và quần xã tự bơi. Tầng nước từ 200 mét trở lên
có ánh sáng xâm nhập vào được gọi là tầng giàu dinh dưỡng.
Khu sinh học nước ngọt:
Khu sinh học nước ngọt được chia thành 2 vùng là khu sinh học nước chảy và khu
sinh học nước đứng. Nước trong các thuỷ vực nước ngọt lớn thường có sự phân tầng nhiệt độ.
Ở một số hồ lớn vùng ôn đới thường có hiện tượng chu chuyển nước theo mùa, nhờ đó các
chất dinh dưỡng được đưa từ tầng sâu lên tầng mặt, giúp cho sự phát triển của các sinh vật
nổi trong hồ.


2.2. Vai trò của đa dạng sinh học
2.2.1. Những giá trị kinh tế trực tiếp
2.2.1.1. Giá trị cho tiêu thụ:
Bao gồm các sản phẩm tiêu dùng cho cuộc sống hàng ngày như củi đốt và các loại
sản phẩm khác cho các mục tiêu sử dụng như tiêu dùng cho gia đình và không xuất hiện ở thị
trường trong nước và quốc tế. Những sản phẩm này không đóng góp gì vào giá trị GDP vì
chúng không được bán cũng như không được mua.
Những nghiên cứu về những xã hội truyền thống tại các nước đang phát triển cho
thấy cộng đồng cư dân bản địa khai thác, sử dụng nguồn tài nguyên xung quanh như củi
đun, rau cỏ, hoa quả, thịt cá, dược phẩm và nguyên vật liệu xây dựng. Ví dụ 80% dân số
trên thế giới vẫn dựa vào những dược phẩm mang tính truyền thống lấy từ các loài động
vật, thực vật để sử dụng để sơ cứu ban đầu khi họ bị nhiễm bệnh. Trên 5.000 loài được
dùng cho mục đích chửa bệnh ở Trung Quốc, Việt Nam và khoảng 2.000 loài được dùng tại
vùng hạ lưu sông Amazon.
Một trong những nhu cầu không thể thiếu được của con người là protein, nguồn này
có thể kiếm được bằng săn bắn các loài động vật hoang dã để lấy thịt. Trên toàn thế giới,
100 triệu tấn cá, chủ yếu là các loài hoang dã bị đánh bắt mỗi năm. Phần lớn số cá này
được sử dụng ngay tại địa phương
2.2.1.2. Giá trị sử dụng cho sản xuất:
Là giá bán cho các sản phẩm thu lượm được từ thiên nhiên trên thị trường trong nước và
ngoài nước. Sản phẩm này được định giá theo các phương pháp kinh tế tiêu chuẩn và
giá được định là giá mua tại gốc, thường dưới dạng sơ chế hay nguyên liệu. Ví dụ, hàng
năm tiền thu mua vỏ quế ở Việt Nam khoảng 1 triệu đôla, còn tiền bán các loại thuốc chế
biến từ vỏ quế khoảng 2,5 triệu đôla. Tại thời điểm hiện nay, gỗ là một trong những sản
phẩm bị khai thác nhiều nhất từ rừng tự nhiên với giá trị lớn hơn 100 tỷ đôla mỗi năm.
Những sản phẩm lâm nghiệp ngoài gỗ còn có động vật hoang dã, hoa quả, nhựa, dầu,
mây và các loại cây thuốc.
Giá trị sử dụng cho sản xuất lớn nhất của nhiều loài là khả năng của các loài đó
cung cấp những nguyên vật liệu cho công nghiệp, nông nghiệp và là cơ sở để cải tiến cho
các giống cây trồng trong nông nghiệp. Sự phát triển các giống mới có thể mang lại những

kết quả kinh tế to lớn. Ví dụ, việc phát hiện một loài cây lưu niên có họ hàng với ngô tại Tây
Mehicô đáng giá hàng tỷ đôla vì nó lai tạo giống ngô có thể trồng nhiều năm mà không cần

16


gieo trồng hàng năm nữa. Những loài hoang dã có thể có thể dùng như những tác nhân
phòng trừ sinh học.
Thế giới tự nhiên là nguồn vô tận cung cấp những nguồn loại dược phẩm mới. 25%
các đơn thuốc ở Mỹ có sử dụng các chế phẩm được điều chế từ cây, cỏ.....
2.2.2. Những giá trị kinh tế gián tiếp
Những giá trị kinh tế gián tiếp là những khía cạnh khác của đa dạng sinh học như
các quá trình xảy ra trong môi trường và các chức năng của hệ sinh thái là những mối lợi
không thể đo đếm được và nhiều khi là vô giá. Do những lợi ích này không phải là hàng hoá
hay là dịch vụ, nên thường không được tính đến trong quá trình tính toán giá trị GDP của
quốc gia. Tuy vậy, chúng có vai trò rất quan trọng trong công việc duy trì những sản phẩm
tự nhiên mà nền kinh tế của các nước đó phụ thuộc. Nếu như các hệ sinh thái tự nhiên
không còn khả năng cung cấp những lợi ích như vậy thì phải tìm những nguồn tài nguyên
thay thế khác thường đắt hơn nhiều.
2.2.2.1. Giá trị sử dụng không cho tiêu thụ:
Các quần xã sinh vật mang lại hàng loạt các hình thức dịch vụ môi trường mà không
bị tiêu thụ trong quá trình sử dụng. Giá trị không tiêu thụ này đôi khi có thể tính toán dễ dàng
như trong trường hợp giá trị của những loài côn trùng thụ phấn cho cây trồng. Sự xác định
những giá trị dịch vụ sinh thái khác có thể còn khó hơn nhất là trên phạm vi toàn cầu. Sau
đây là một phần các lợi nhuận do đa dạng sinh học mang lại nhưng thường không được
tính trong các bảng báo cáo đánh giá tác động môi trường hay trong các tính toán GDP.
Khả năng sản xuất của hệ sinh thái: khoảng 40% sức sản xuất của hệ sinh thái trên
cạn phục vụ cho cuộc sống của con người. Tương tự như vậy, ở những vùng cửa sông, dãi
ven biển là nơi những thực vật thuỷ sinh và tảo phát triển mạnh, chúng là mắt xích đầu tiên
của hàng loạt chuỗi thức ăn tạo thành các hải sản như trai, sò, tôm cua,...

Bảo vệ tài nguyên đất và nước: các quần xã sinh vật có vai trò quan trọng trong việc
bảo vệ rừng đầu nguồn, những hệ sinh thái vùng đệm, phòng chống lũ lụt và hạn hán cũng
như việc duy trì chất lượng nước.
Điều hoà khí hậu: quần xã thực vật có vai trò vô cùng quan trọng trong việc điều hoà
khí hậu địa phương, khí hậu vùng và ngay cả khí hậu toàn cầu.
Phân huỷ các chất thải: các quần xã sinh vật có khả năng phân huỷ các chất ô nhiễm
như kim loại nặng, thuốc trừ sâu và các chất thải sinh hoạt khác đang ngày càng gia tăng do
các hoạt động của con người.
Những mối quan hệ giữa các loài: nhiều loài có giá trị được con người khai thác,
nhưng để tồn tại, các loài này lại phụ thuộc rất nhiều vào các loài hoang dã khác. Nếu
những loài hoang dã đó mất đi, sẽ dẫn đến việc mất mát cả những loài có giá trị kinh tế to
lớn. Một trong những quan hệ có ý nghĩa kinh tế lớn lao nhất trong các quần xã sinh vật là
mối quan hệ giữa cây rừng, cây trồng và các sinh vật phân giải sống trong đất, phân huỷ
các chất hữu cơ, cung cấp các chất dinh dưỡng cho cây trồng.
Nghỉ ngơi và du lịch sinh thái: mục đích chính của các hoạt động nghỉ ngơi là việc
hưởng thụ mà không làm ảnh hưởng đến thiên nhiên thông qua những hoạt động như đi
thám hiểm, chụp ảnh, quan sát chim, thú, câu cá. Du lịch sinh thái là một ngành du lịch không
khói đang dần dần lớn mạnh tại nhiều nước đang phát triển, nó mang lại khoảng 12 tỷ đôla
năm trên toàn thế giới. Trước đây khi tình hình xã hội còn ổn định, Ruanda đã biến ngành du

17


lịch xem khỉ đột (Gorilla) trở thành ngành công nghiệp thu được lợi nhuận ngoại tệ đứng thứ
ba so với các ngành khác. Đầu những năm 1970, người ta ước tính rằng mỗi con sư tử ở
Vườn Quốc gia Amboseli của Kenia có thể mang lại 27.000 đôla/năm từ khách du lịch, còn
đàn voi mang lại trị giá 610.000 đôla/năm.
Giá trị giáo dục và khoa học: nhiều sách giáo khoa đã biên soạn, nhiều chương trình
vô tuyến và phim ảnh đã được xây dựng về chủ đề bảo tồn thiên nhiên với mục đích giáo
dục và giải trí. Một số lượng lớn các nhà khoa học chuyên ngành và những người yêu thích

sinh thái học đã tham gia các hoạt động quan sát, tìm hiểu thiên nhiên. Các hoạt động này
mang lại lợi nhuận kinh tế cho khu vực nơi họ tiến hành nghiên cứu khảo sát; nhưng giá trị
thực sự không chỉ có vậy mà còn là khả năng nâng cao kiến thức, tăng cường tính giáo dục
và tăng cường vốn sống cho con người.
Quan trắc môi trường: những loài đặc biệt nhạy cảm với những chất độc có thể trở
thành hệ thống chỉ thị báo động rất sớm cho những quan trắc hiện trạng môi trường. Một số
loài có thể được dùng như những công cụ thay thế máy móc quan trắc đắt tiền. Một trong
những loài có tính chất chỉ thị cao là địa y sống trên đá hấp thụ những hoá chất trong nước
mưa và những chất gây ô nhiễm trong không khí. Thành phần của quần xã địa y có thể
dùng như chỉ thị sinh học về mức độ ô nhiễm không khí. Các loài động vật thân mềm như
trai sò sống ở các hệ sinh thái thuỷ sinh có thể là những sinh vật chỉ thị hữu hiệu cho quan
trắc môi trường.

2.2.2.2. Giá trị lựa chọn
Giá trị lựa chọn của một loài là tiềm năng của chúng để cung cấp lợi ích kinh tế cho
xã hội loài người trong tương lai. Do những nhu cầu của xã hội luôn thay đổi, nên phải có
một giải pháp nào đó để bảo đảm an toàn. Một trong những giải pháp đó là phải dựa vào
những loài động, thực vật trước đây chưa được khai thác. Những chuyên gia về côn trùng
tìm kiếm những loài côn trùng có thể sử dụng như các tác nhân phòng trừ sinh học; các nhà
vi sinh vật học tìm kiếm những loài vi khuẩn có thể trợ giúp cho các quá trình nâng cao năng
suất sản xuất; các nhà động vật học lựa chọn các loài có thể sản xuất nhiều protein; các cơ
quan y tế. chăm sóc sức khỏe và các công ty dược phẩm đang có những nổ lực rất lớn để
tìm kiếm các loài có thể cung cấp những hợp chất phòng chống và chữa bệnh cho con
người.
2.2.2.3. Giá trị tồn tại
Nhiều người trên thế giới đã biết tôn trọng cuộc sống hoang dã và tìm cách bảo vệ
chúng. Con người có nhu cầu được tham quan nơi sinh sống của một loài đặc biệt và được
nhìn thấy nó trong thiên nhiên hoang dã bằng chính mắt mình. Các loài như gấu trúc, sư tử,
voi và rất nhiều loài chim khác lại càng đòi hỏi sự quan tâm đặc biệt của con người. Giá trị
tồn tại như thế luôn luôn gắn liền với các quần xã sinh vật của những khu rừng mưa nhiệt

đới, các rạn san hô và những khu vực có phong cảnh đẹp. Kinh phí để bảo vệ đa dạng sinh
học, nhất là tại các nước đang phát triển lên tới hàng triệu nếu không nói là cả tỷ đô la mỗi
năm. Số tiền này cũng nói lên tầm quan trọng của giá trị tồn tại của các loài và các quần xã.
2.2.2.4. Những khía cạnh mang tính đạo đức
Dựa trên những ý tưởng về đạo đức, vấn đề bảo tồn tất cả các loài được đặt ra mà
không tính đến giá trị kinh tế của chúng. Những khẳng định sau đây là rất quan trọng cho

18


sinh học bảo tồn vì chúng đưa ra những nguyên nhân tại sao chúng ta phải bảo vệ sự tồn
tại của tất cả các loài trong đó có những loài có giá trị kinh tế không cao.
Mỗi một loài đều có quyền tồn tại: tất cả các loài đều có quyền tồn tại. Trên cơ sở
đó, sự tồn tại của các loài phải được bảo đảm mà không cần tính đến sự phong phú hay
đơn độc hoặc có tầm quan trong đối với con người hay không. Tất cả các loài là một phần
của tạo hoá và đều có quyền được tồn tại như con người ở trên trái đất này. Con người
không những không có quyền làm hại các loài khác mà còn có trách nhiệm bảo vệ sự tồn tại
của chúng.
Tất cả các loài đều quan hệ với nhau: giữa các loài có một quan hệ chằng chịt và
phức tạp, là một phần của các quần xã tự nhiên. Việc mất mát của một loài sẽ có ảnh
hưởng đến các thành viên khác trong quần xã. Cho nên, chúng ta ý thức được sự cần thiết
bảo tồn các loài, bảo tồn đa dạng sinh học cũng chính là bảo vệ mình. Khi thế giới tự nhiên
đạt được sự phồn thịnh, cuộc sống của con người cũng được phồn thịnh và bền vững.
Con người phải sống trong một giới hạn sinh thái như các loài khác: tất cả các loài trên
thế giới bị giới hạn bởi khả năng sức tải của môi trường sống. Mỗi một loài sử dụng nguồn tài
nguyên trong môi trường để tồn tại và số loài sẽ bị suy giảm khi những nguồn tài nguyên này bị
huỷ hoại và cạn kiệt đi. Con người phải hành động rất thận trọng để hạn chế những ảnh hưởng
có hại gây ra cho môi trường tự nhiên. Những ảnh hưởng tiêu cực không chỉ gây hại đối với các
loài mà còn gây hại đến chính bản thân con người.
Con người phải chịu trách nhiệm như những người quản lý trái đất: nếu như chúng ta

làm tổn hại đến những nguồn tài nguyên thiên nhiên trên trái đất và làm cho các loài bị đe
dọa tuyệt chủng thì những thế hệ tiếp theo sẽ phải trả giá bằng một cuộc sống có chất
lượng thấp. Do vậy, con người ngày nay phải biết sử dụng các nguồn tài nguyên một cách
khôn ngoan, tránh gây tác hại cho các loài và các quần xã sinh vật.
Sự tôn trọng cuộc sống con người và sự đa dạng văn hoá phải được đặt ngang tầm
với sự tôn trong đa dạng sinh học: việc đánh giá cao giá trị đa dạng văn hoá và thế giới tự
nhiên làm cho con người biết tôn trọng hơn đối với tất cả sự sống phong phú và phức tạp
của nó. Những cố gắng đem lại hoà bình cho toàn thể các dân tộc trên thế giới và chấm dứt
tình trạng nghèo khó, bạo lực và phân biệt chủng tộc sẽ mang lại lợi ích cho loài người và
cho cả đa dạng sinh học. Những hành động bạo lực trong xã hội loài người là một trong
những hình thức khốc liệt tàn phá đa dạng sinh học.
Thiên nhiên có những giá trị tinh thần và thẩm mỹ vượt xa giá trị kinh tế của nó: trong
lịch sử, những nhà sáng lập ra tôn giáo, những nhà thơ, nhà văn, những nghệ sĩ và nhạc sĩ
đã thể hiện những cảm hứng do họ nhận được từ thiên nhiên. Đối với nhiều người, để có
được những cảm hứng như thế họ cần phải sống với một môi trường thiên nhiên hoang sơ,
chưa bị tác động bởi con người. Hầu như ai cũng hào hứng và thích thú khi được chiêm
ngưỡng thế giới nguyên khai hoang dã và những phong cảnh đẹp. Nhiều người coi trái đất
như là một sản phẩm kỳ diệu của tạo hoá với những điều linh thiêng cần được tôn trọng
theo phong cách riêng.
Đa dạng sinh học là cốt lõi đế xác định nguồn gốc sự sống: hai trong số những
huyền thoại chính của thế giới triết học và khoa học là sự sống được hình thành như thế
nào và tại sao lại có sự đa dạng sinh học như ngày nay. Hàng ngàn chuyên gia sinh học tìm
hiểu, nghiên cứu những vấn đề này và ngày càng đang tiến dần đến câu trả lời. Tuy vậy khi
các loài bị tuyệt chủng có nghĩa là mất đi những mắt xích quan trọng và huyền thoại đó khó
tìm được lời giải.

19


Chương 3

SỰ SUY THOÁI VÀ TỔN THẤT
ĐA DẠNG SINH HỌC
3.1. Sự phân bố đa dạng sinh học
Môi trường giàu có nhất về số lượng loài có lẽ ở các rừng nhiệt đới, rạn san hô, các hồ lớn ở vùng nhiệt đới và ở các biển
sâu. Sự phong phú về loài cũng tìm thấy ở các sinh cảnh khô cạn vùng nhiệt đới như các rừng lá rụng, cây bụi, đồng cỏ và
sa mạc và ở các cây bụi ôn đới thuộc khí hậu Địa Trung Hải, như ở Nam Mỹ, Nam California và Tây Nam Australia. Trong
các rừng mưa nhiệt đới, tính đa dạng sinh học chủ yếu dựa vào nhóm động vật phong phú nhất là lớp côn trùng. Trong các
rạn san hô, và các biển sâu, sự đa dạng sinh học thuộc nhiều ngành và lớp khác nhau. Sự đa dạng trong các biển sâu nhờ
vào diện tích lớn, tính ổn định của môi trường cũng như vào sự biệt hoá của các loại nền đáy khác nhau.

Đa dạng loài lớn nhất là ở vùng rừng nhiệt đới. Mặc dù rừng nhiệt đới chỉ chiếm 7%
diện tích trái đất, chúng chứa hơn 1/2 loài trên thế giới. Đánh giá này chỉ dựa vào các mẫu
côn trùng và chân khớp, là những nhóm chính về số loài trên thế giới. Đánh giá về số lượng
các loài côn trùng chưa được mô tả ở rừng nhiệt đới nằm trong phạm vi từ 5 đến 30 triệu
loài; hiện tại, con số 10 triệu loài là tạm chấp nhận và được sử dụng nhiều trong các tài liệu
hiện nay. Nếu là 10 triệu loài, có nghĩa là côn trùng chiếm đến 90% số loài trên thế giới.
Khoảng 40% loài thực vật có hoa trên thế giới (100.000 loài) ở vùng nhiệt đới, trong khi 30%
loài chim trên thế giới phụ thuộc vào những khu rừng nhiệt đới.
Rạn san hô tạo nên một nơi tập trung khác về loài. Các loài san hô bé nhỏ tạo ra các
hệ sinh thái san hô vĩ đại, là vùng biển tương đương với rừng nhiệt đới về sự phong phú
loài và độ phức tạp. Rạn san hô lớn nhất thế giới là rạn San Hô Lớn (Great Barrier Reefs) ở
bờ biển phía đông nước Úc, có diện tích là 349.000 km 2. Rạn san hô này có hơn 300 loài
san hô, 1500 loài cá, 4000 loài thân mềm, 5 loài rùa biển và là nơi sinh sản của khoảng 252
loài chim. Rạn san hô này chiếm 8% loài cá trên thế giới mặc dù chúng chỉ chiếm 0,1% diện
tích đại dương.
Đối với hầu hết các nhóm sinh vật, sự đa dạng loài tăng về hướng nhiệt đới. Ví dụ
như Kenia có 308 loài thú, trong khi đó Pháp chỉ có 113 loài mặc dù hai nước này có cùng
diện tích. Sự tương phản này đặc biệt chặt chẻ đối với cây cỏ và thực vật có hoa: một hecta
rừng Amazon ở Peru hay vùng đất thấp ở Malaisia có thể có đến hơn 200 loài cây, trong khi
đó ở rừng Châu Âu hay nước Mỹ thì chỉ có khoảng 30 loài trong cùng diện tích. Kiểu đa

dạng của các loài trên đất liền cũng giống như ở biển, nghĩa là cũng gia tăng sự đa dạng
loài về phía nhiệt đới. Ví dụ rạn San hô lớn ở Úc, phía Bắc có 50 giống trong khi phía Nam
chỉ có 10 giống san hô.
Nhân tố lịch sử cũng rất quan trọng trong việc xác định kiểu phân bố đa dạng về loài.
Những vùng đất cổ có nhiều loài hơn các vùng đất mới. Các vùng có tuổi địa chất già hơn
có nhiều thời gian hơn để nhận được các loài phát tán từ các nơi khác và cũng có nhiều
thời gian hơn để các loài thích nghi đáp ứng với các điều kiện địa phương.
Sự phong phú về loài cũng bị ảnh hưởng bởi các biến đổi về địa hình, khí hậu và
môi trường địa phương. Trong các quần xã trên cạn, sự giàu có về loài theo xu hướng tăng
ở các địa hình thấp, tăng theo lượng bức xạ của mặt trời và tăng theo lượng mưa. Sự thay
đổi lớn về nhiệt độ theo mùa là một nhân tố khác ảnh hưởng nhiều đến số lượng loài ở
vùng ôn đới.

20


Sự phong phú loài cũng có thể lớn hơn ở những nơi có địa hình phức tạp, để tạo
nên những sự cách ly di truyền, thích ứng địa phương, và sự biệt hoá có thể xảy ra. Những
vùng có tính địa chất phức tạp, tạo ra một sự đa dạng về các loại đất, có ranh giới rõ rệt,
dẫn đến sự đa dạng trong các quần xã và các loài có sự thích nghi với mỗi loại đất riêng.
3.2. Những điểm nóng về đa dạng sinh học trên thế giới
Khi mà ngân quỹ dùng cho việc bảo tồn thiếu hụt thì việc đưa ra số loài đe dọa tuyệt
chủng để xác định quyền ưu tiên bảo tồn là vấn đề thiết yếu. Norman Myers, nhà sinh thái
học Anh đưa ra khái niệm điểm nóng đa dạng sinh học vào 1988 để nói về tình trạng nan
giải mà những người bảo vệ môi trường phải đối mặt: những vùng nào có vai trò quan trọng
nhất để bảo tồn loài và sinh cảnh? Mục tiêu của khái niệm điểm nóng là những nơi bị đe dọa
lớn nhất tới số loài lớn nhất và cho phép những nhà bảo tồn tập trung những nổ lực về chi
phí hiệu quả ở đó. 25 điểm nóng đa dạng sinh học chứa 44% tất cả các loài thực vật và
35% tất cả các loài động vật có xương sống trên cạn chỉ chiếm 1,4% diện tích hành tinh.


Các điểm nóng đa dạng sinh học trên thế giới

Hình 1. Các điểm nóng đa dạng sinh học trên thế giới
1. Tropical Andes

14. Polynesia & Micronesia

2. Sundaland

15. New Caledonia

3 Mediterirranean Basin

16. Guinean Forests of West Africa

4. Madagasca & Indian Ocean
Island

17. Choco-Darian-Western Ecuador

5. Indo - Burma

19. California Floristics Province

6. Caribbean

20. Succulent Karoo

7. Atlantics Forest


21. New Zealand

8. Philippines

22. Central Chile

18. Western Ghats & Sri Lanka

21


9. Cape Floristic Regions

23. Caucasus

10. Mesoamerica

24. Wallacea

11. Brazilian Cerrado

25. Eastern Arc Moutains & Coastal

12. Southest Australia
13. Mountains of Southest China
Nguồn: www.IUCN. org
Có hai nhân tố được xem xét để chỉ định điểm nóng. Điểm nóng là những vùng chứa
đựng một số lớn các loài đặc hữu và đồng thời bị tác động một cách đáng kể các hoạt
động con người.
Tính đa dạng thực vật là cơ sở sinh học cho sự chỉ định điểm nóng; để là một điểm nóng,

một vùng phải có 1.500 loài cây đặc hữu. Sự có mặt của thực vật nguyên sinh là cơ sở
để đánh giá tác động con người trong một vùng; để là một điểm nóng. một vùng phải bị
mất đi hơn 70% môi trường sống nguyên thuỷ của nó.
Phần lớn các điểm nóng nằm trong các đảo hay các vùng biệt lập trên các lục địa là
những hệ sinh thái riêng biệt rất dễ bị huỷ hoại. Hầu hết các loài bị tuyệt chủng là những loai
riêng biệt. Điều gì làm những loài này có thể bị tổn thương hơn cho tới tuyệt chủng hơn
những loài khác? Theo định nghĩa, những loài riêng biệt không phải là những loài phân bố
rộng. Chúng bị giới hạn bởi chỗ ở thích hợp trên những vùng biệt lập, một hòn đảo thực
hoặc trong một vùng biệt lập của lục địa. Khi quần thể đó bị mất đi, thì loài bị tuyệt chủng.
Chúng cũng có thể bị tổn thương bởi vì lịch sử tiến hóa của chúng chỉ quen với những loài
thường gặp của chúng, những loài cùng tiến hoá với chúng qua những thời kỳ dài của thời
gian. Chúng thường không được chuẩn bị để cạnh tranh với những loài du nhập và những
loài ngoại lai, những "bạn" đồng hành tiêu biểu cho chế độ thực dân của con người. Sự
tuyệt chủng của các loài chim trên thế giới là những ví dụ. Những loài chim lớn như chim
Moa và chim Dodo, đã mất khả năng bay do chúng sống trong môi trường không có vật dữ
và vì vậy, chúng dễ dàng là mục tiêu cho con người và những vật săn mồi ngoại lai.
Con người đã bị thu hút tới các điểm nóng tự nhiên trong suốt lịch sử. Những phong
cảnh được thay đổi trước hết do những người săn bắt và hái lượm, rồi bởi những người
trồng trọt nông nghiệp và những mục đồng và rộng lớn nhất là chế độ buôn bán thực dân
những mặt hàng nông nghiệp. Trong năm trăm năm trước, nhiều loài bị khai thác tới cá thể
cuối cùng. Ngày nay, viêc gia tăng dân số nhanh trong các điểm nóng góp phần tới sự suy
thoái điểm nóng do việc du nhập của những loài ngoại lai, việc buôn bán bất hợp pháp
những loài bị đe doạ, nền nông nghiệp đốt nương làm rẫy, khai mỏ, xây dựng đường cao
tốc, đập nước và tràn dầu. Mười một điểm nóng đã mất ít nhất 90% cây cỏ tự nhiên nguyên
thuỷ và ba trong số đó đã mất 95%.
Theo định nghĩa, điểm nóng là những nơi tập trung của đa dạng sinh học độc nhất.
Chúng tao ra một sự đa dạng về những loài và hệ sinh thái bị đe doạ và xứng đáng sự chú
ý bảo tồn. Việc so sánh điểm nóng bởi các tiêu chuẩn khác nhau rất hữu ích để hiểu những
sự khác nhau giữa chúng. Quan trọng hơn, nó có thể giúp đỡ xúc tiến việc đầu tư ưu tiên
bảo tồn ở quy mô toàn cầu.


22


Điểm nóng có thể được đánh giá dựa vào tính độc nhất của đa dạng sinh học, số
lượng nơi ở bị mất và nơi ở được bảo vệ, và số loài đặc hữu trong một diện tích nhỏ. Tất cả
những nhân tố này là quan trọng trong việc quyết định nơi nào được bảo tồn.
Có một số nhân tố quan trọng để việc xác định tình trạng ưu tiên của một điểm nóng.
Các nhân tố quan trọng nhất để xem xét là số của những loài thực vật và động vật tìm thấy
trong điểm nóng và không có ở nơi nào khác trên thế giới; mức độ của sự mất mát nơi ở và
số loài thực vật và động vật đặc hữu trên đơn vị diện tích.
Lấy tất cả những nhân tố này để tính toán, thì vùng Madagascar và những hòn đảo
ở Ấn Độ Dương, Philippines, Sundaland, Atlantic Forest và vùng Caribbean được coi như
những nơi nóng nhất của các điểm nóng (Bảng 1.3). Những điểm nóng này xuất hiện trong
tốp mười của ít nhất bốn của năm nhân tố. Nói cách khác, đa dạng sinh học độc nhất của
năm điểm nóng này bị mất đi và có nguy cơ cao của việc mất nó nếu không có hoạt động
bảo tồn có hiệu quả và tức thời.
Bảng 1.3. Các điểm nóng nhất về đa dạng sinh học trên thế giới
Các điểm nóng

Thực vật Động vật Thực vật Động vật % hệ thực
đặc hữu có xương đặc hữu / có xương vật còn lại
đặc hữu 100 km2 đặc hữu /
100 km2

Madagascar &
Indian Ocean
Islands

9.704


771

16.4

1.3

9.9

Philippines

5.832

518

64.7

5.7

3.0

Sundaland

15.000

701

12.0

0.6


7.8

Atlantic Forest

8.000

654

8.7

0.6

7.5

Caribbean

7.000

779

23.5

2.6

11.3

Indo-Burma

7.000


528

7.0

0.5

4.9

Western Ghats &
Sri Lanka

2.180

355

17.5

2.9

6.8

Eastern Arc
Mountains &
Coastal Forests

1.500

121


75.0

6.1

6.7

Nguồn: Myers. N., 2000.
Các điểm nóng có những sự tập trung cao nhất của đa dạng sinh học duy nhất trên hành
tinh. Chúng cũng là những nơi có nguy cơ lớn nhất của sự phá hủy. Nhu cầu cho sư bảo
tồn trong những vùng này là khẩn cấp để ngăn ngừa một làn sóng tuyệt chủng loài. Với
thời gian không nhiều và quỹ bảo tồn có hạn, chúng ta phải thực hiện những chương
trình và những chiến lược có hiệu quả trong việc bảo vệ đa dạng sinh học. Để làm được
điều đó, chúng ta cần phải hiểu chi tiết hiện trạng trong những vùng này, ví dụ:

23


Các loại đa dạng sinh học: Những loài nào tập trung trong những vùng nào? Đa
dạng sinh học đang thay đổi trong cả thời gian như thế nào?
Những nhân tố góp phần tới việc mất mát đa dạng sinh học: Những hoạt động và
những chính sách của con người tác động và tiếp tục đe doạ đa dạng sinh học.
Hiệu quả
bảo tồn: Những hoạt động bảo tồn nào đã có hiệu quả (hoặc không hiệu quả) trong việc
ngăn chặn sự phá hủy trong điểm nóng là gì?
Khả năng bảo tồn: Chúng ta có kiến thức và công cụ cần thiết để gìn giữ điểm nóng
hay không ?
Điểm nóng là những nơi biến động. Chính trị, xã hội, và phong cảnh sinh vật trong điểm nóng thay đổi theo thời gian.
Chúng ta cần phải liên tục đánh giá - hoặc quan trắc - tình trạng trong những vùng này. Ngoài việc cung cấp thông tin về
những gì đã xảy ra, việc quan trắc còn tạo cơ hội để dự báo hoặc đoán trước cái gì có thể xảy ra, dựa vào những gì đã
xảy ra trước đây. Đây là cốt lõi của Hệ thống cảnh báo sớm (Early Warning System) của Trung tâm Khoa học đa dạng sinh

học ứng dụng (CABS) thuộc tổ chức Bảo tồn Quốc tế (IUCN).

3.3. Nguyên nhân suy thoái đa dạng sinh học.
3.3.1. Khai thác quá mức

Nhằm thoả mãn các nhu cầu của cuộc sống, con người đã thường xuyên săn bắn, hái
lượm thực phẩm và khai thác các nguồn tài nguyên khác. Khi dân số loài người vẫn còn ít và
phương pháp thu hái còn thô sơ, con người đã thu hái và săn bắt một cách bền vững mà
không làm cho các loài trở nên tuyệt chủng. Tuy vậy, khi dân số tăng lên, nhu cầu khai thác
tài nguyên cũng tăng theo. Các phương pháp thu hái dần dần được cải tiến và trở nên hữu
hiệu hơn. Việc khai thác quá mức là nguyên nhân thứ hai sau nguyên nhân mất nơi cư trú và
là một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn các loài đến tuyệt chủng.
Trong luật lệ xã hội từ xa xưa, đã tồn tại những qui định nghiêm ngặt hạn chế việc
khai thác quá mức các nguồn tài nguyên thiên nhiên, ví dụ, quyền được phép săn bắn trong
một khu vực nhất định được kiểm soát rất chặt chẽ; một số khu vực hoàn toàn không được
phép săn bắn; cấm săn bắn các con cái, con non và theo những kích cở qui định; không được
săn bắn vào một số thời gian trong năm và vào một số thời gian trong ngày. Các quy định này
đảm bảo cho sự khai thác các nguồn tài nguyên được lâu dài hơn và bền vững hơn. Thế mà
trên thế giới ngày nay, các nguồn tài nguyên thiên nhiên đang bị khai thác bằng các phương
tiện nhanh nhất mà con người có thể có. Hể có thị trường tiêu thụ sản phẩm là người dân sẽ
tìm cách khai thác tối đa nguồn tài nguyên của họ để sử dụng, để bán sản phẩm thu lợi nhuận
làm giàu. Việc khai thác quá mức các nguồn tài nguyên thường được đẩy mạnh hơn khi thị
trường thương mại có nhu cầu sử dụng một loài chưa hề được khai thác trước kia hoặc mới
chỉ được khai thác trong phạm vi một địa phương nhỏ hẹp.
Các nhà nghiên cứu trong lĩnh vực quản lý các loài hoang dã, đánh bắt cá và lâm
nghiệp đã cố gắng xây dựng một phương pháp tính toán mô hình để xác định số lượng tối đa
có thể khai thác được một cách bền vững của các nguồn tài nguyên. Lượng tối đa nguồn tài
nguyên có thể khai thác được một cách bền vững là sản lượng có thể thu hoạch hằng năm
tương đương với năng suất mà quần thể tự nhiên sản sinh ra được. Trong thực tế việc săn bắt
khai thác các loài theo định mức cho phép là khó thực hiện. Để thỏa mãn nhu cầu kinh doanh

buôn bán địa phương và duy trì việc làm, các chính phủ thường đặt ra mức kế hoạch khai
thác quá cao gây tổn hại đối với các nguồn tài nguyên. Một điều khó khăn nữa là dù định
mức khai thác có thể ổn định, nhưng bản thân nguồn tài nguyên tự nó lại biến đổi; việc đánh
bắt cá theo một định mức bình quân trong suốt cả năm vào thời điểm mà sản lượng nguồn cá
bị suy giảm do điều kiện thời tiết không bình thường có thể làm suy thoái hoặc hủy hoại
nghiêm trọng quần thể của loài cá này. Các loài di cư vượt qua biên giới hai quốc gia đi vào
hải phận quốc tế rất khó có thể được khai thác một cách bền vững do vấn đề phối hợp thực
hiện các công ước thỏa thuận quốc tế.
24


Điều hy vọng cho các loài đang bị khai thác quá mức là đến một lúc nào đó chúng
chỉ còn lại ít ỏi và sẽ không còn là đối tượng săn bắt thương mại và số lượng của chúng sẽ
có điều kiện để phục hồi.
3.3.2. Sự du nhập các loài ngoại lai
Phạm vi sống về địa lý của nhiều loài được giới hạn bởi các hàng rào do chính các
yếu tố môi trường và khí hậu tạo ra ngăn cản sự phát tán. Các sa mạc, đại dương, đỉnh núi,
và những dòng sông đều đã ngăn cản sự di chuyển của các loài. Con người đã làm thay đổi
cơ bản đặc tính này bằng việc vận chuyển phát tán các loài trên toàn cầu. Tại thời kỳ trước
cách mạng công nghiệp, con người mang các cây trồng và vật nuôi từ chổ này sang chổ
khác khi họ tạo dựng những nơi định cư và các thuộc địa mới. Ngày nay đã có một lượng
lớn các loài do vô tình hay cố ý, được đem đến những khu vực không phải là nơi cư trú gốc
của chúng. Những loài đó đã được du nhập do các nguyên nhân sau đây:

Chế độ thuộc địa của các nước Châu Âu: những người Châu Âu mang đến
một vùng thuộc địa mới mang theo các hàng trăm giống chim, thú của Châu Âu để làm cho
phong cảnh ở đây trở nên thân quen với họ cũng như tạo ra thú vui săn bắn.

Nghề trồng cây cảnh và làm nông nghiệp: nhiều loài cây được mang đến và
trồng tại những vùng đất mới như cây cảnh, cây nông nghiệp hoặc cây cho chăn nuôi gia súc.

Rất nhiều loài trong số đó thoát vào tự nhiên và thâm nhập vào các loài bản địa.


Những sự vận chuyển không chủ đích: thường xảy ra là các hạt cỏ vô tình
bị thu hoạch cùng các hạt ngũ cốc được đem bán và được gieo trên địa bàn mới. Chuột và
các loài côn trùng cư trú bất hợp pháp trên máy bay, tàu thủy, các vectơ truyền bệnh, các
động vật ký sinh được vận chuyển cùng với các động vật chủ của chúng. Các tàu thuyền
thường mang theo các loài ngoại lai trong các khoang hầm. Các túi đất để dằn tàu thường
mang theo các hạt cỏ và ấu trùng sống trong đất. Các túi nước để dằn tàu đổ ra ở cảng
thường đem theo các loại rêu tảo, động vật không xương sống và các loại cá nhỏ.


Phần lớn các loài du nhập không sống được tại những nơi mới đến do môi
trường không phải lúc nào cũng phù hợp với điều kiện sống của chúng. Dù vậy, vẫn có
một tỷ lệ nhất định các loài nhập cư thiết lập được cuộc sống trên vùng đất mới và nhiều
loài trong đó còn vượt trội, xâm lấn các loài bản địa. Các loài du nhập này thậm chí còn
cạnh tranh với các loài bản địa để có được nguồn thức ăn và nơi ở. Các loài du nhập còn
ăn thịt các loài bản địa cho đến khi chúng tuyệt chủng hoặc làm chúng thay đổi nơi cư trú
đến mức nhiều loài bản địa không thể nào tồn tại được nữa.
Tại sao các loài du nhập lại dễ dàng xâm nhập và chiếm lĩnh các nơi cư trú và
thay thế các loài bản địa đến như vậy? Một trong những lý do quan trọng là ở nơi cư trú
mới chưa có các loài thiên địch của chúng như các loài động vật là kẻ thù, các loài côn
trùng và các loài ký sinh, gây bệnh. Các hoạt động của con người đã tạo nên những điều
kiện môi trường không bình thường, như sự thay đổi các nguồn dinh dưỡng, gây cháy
rừng, tăng lượng ánh sáng,... đã tạo cơ hội cho các loài du nhập thích ứng nhanh hơn và
loại trừ được các loài bản địa.

3.3.3. Sự phá hủy những nơi cư trú
Mối đe dọa chính đối với đa dạng sinh học là nơi cư trú bị phá hủy và mất mát. Do vậy
việc làm có ý nghĩa nhất để bảo vệ đa dạng sinh học là bảo tồn nơi cư trú của các loài.

Mất nơi cư trú là nguy cơ đầu tiên làm cho các loài động vật có xương sống bị tuyệt

25


×