Tải bản đầy đủ (.doc) (75 trang)

Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Chi nhánh Đông Đô – Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (625.11 KB, 75 trang )

LỜI MỞ ĐẦU

Việt Nam đang trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường có sự quản lý
của Nhà nước theo định hướng XHCN,cùng với công cuộc Công nghiệp hoá – Hiện
đại hoá, thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh,xã hội công bằng,dân chủ,văn minh
thì nền kinh tế đất nước cần phải được tăng trưởng và phát triển. Mặt khác trong bối
cảnh Việt Nam đã ra nhập WTO,nhu cầu vay vốn phát triển kinh tế của các Doanh
nghiệp ngày càng cao.Các Ngân hàng cũng xuất hiện ngày càng nhiều gồm cả ngân
hàng vốn nước ngoài với tiềm lực vô cùng lớn mạnh, việc cạnh tranh gay gắt giữa
các ngân hàng là điều không thể tránh khỏi.Chính vì vậy ở mỗi Ngân hàng cần có
một đội ngũ cán bộ làm công tác tín dụng nhằm giúp cho ngân hàng có quyết định
đúng đắn trong hoạt động cho vay,giúp ngân hàng thu được lợi nhuận và giảm rủi
ro,đảm bảo đồng vốn cho vay phát huy được hiệu quả kinh tế - xã hội.
Tại Chi nhánh Đông Đô – Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam,công tác
tín dụng có vai trò rất quan trọng,không chỉ trực tiếp tác động đến sự sống còn của
hoạt động kinh doanh tại Chi nhánh mà còn tác động gián tiếp tới sự phát triển của
đất nước.Do đó trong những năm gần đây,công tác tín dụng tại Chi nhánh Đông Đô
– NH ĐT & PT Việt Nam được chú trọng,không ngừng phát triển và đã đạt được
nhiều thành công.
Nhận thấy tính cấp thiết của vấn đề,sau thời gian thực tập,tìm hiểu thực tế tại
Chi nhánh Đông Đô – NH ĐT&PT Việt Nam em nhận thấy mục đích nghiên cứu
của đề tài là nhằm hệ thống hoá những lý luận cơ bản về công tác tín dụng trung và
dài hạn.Việc đánh giá chất lượng công tác tín dụng trung và dài hạn tại Chi nhánh
Đông Đô – NH ĐT&PT Việt Nam nhằm rút ra những kết quả,những hạn chế và chỉ
ra những nguyên nhân đưa đến hạn chế đó.Từ đó,đưa ra một số giải pháp và đề xuất
một số kiến nghị nhằm hoàn thiện nghiệp vụ tín dụng trung và dài hạn tại NHTM
nói chung và tại Chi nhánh Đông Đô –NH ĐT&PT Việt Nam nói riêng.


Khoá luận tập trung nghiên cứu các vấn đề có liên quan tới công tác tín dụng
trung và dài hạn.Phạm vi nghiên cứu là công tác cho vay vốn trung và dài hạn tại


Chi nhánh Đông Đô – NH ĐT&PT Việt Nam.
Trong quá trình nghiên cứu,khoá luận sử dụng các phương pháp như:
Phương pháp phân tích,luận giải,phương pháp chủ nghĩa duy vật biện chứng để
phân tích,đánh giá,rút ra kết luận và những đề xuất chủ yếu.Là một sinh viên sắp tốt
nghiệp trong giai đoạn này của đất nước,với những kiến thức đã được học tập tại
trường và mong muốn được góp phần nhỏ bé của mình vào việc giải quyết những
vấn đề bức xúc hiện nay trong hoạt động này của nghành ngân hàng.Vì vậy,em đã
chọn đề tài : “ Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Chi
nhánh Đông Đô – Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam “ để ngiên cứu
trong chuyên đề thực tập của mình.
Chuyên đề được trình bày theo bố cục như sau :
Chương I : Chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại các Ngân hàng
thương mai.
Chương II : Thực trạng chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Chi nhánh
Đông Đô –Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
Chương III: Ý kiến đề xuất và một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng tín
dụng trung và dài tại Chi nhánh Đông Đô – Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.


CHƯƠNG I: CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI
HẠN CỦA NHTM
1.1. HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN CỦA NHTM.
1.1.1 KHÁI NIỆM TÍN DỤNG.

Tín dụng (credit) xuất phát từ chữ la tinh là credo (tin tưởng, tín nhiệm). Trong
thực tế thì thuật ngữ này được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau:
Xét trên giác độ chuyển dịch quỹ cho vay từ chủ thể thặng dư tiết kiệm sang chủ
thể thiếu hụt tiết kiệm thì tín dụng được coi là phương pháp chuyển dịch quỹ từ
người cho vay sang người đi vay.
Trong một quan hệ tài chính cụ thể, tín dụng là một giao dịch về tài sản trên cơ

sở có hoàn trả giữa hai chủ thể.
Tín dụng còn có nghĩa là một số tiền cho vay mà các định chế tài chính cung cấp
cho khách hàng.
....
Như vậy có nhiều cách hiểu về “ tín dụng”, tuy nhiên theo quan điểm của em thì
tín dụng có thể được hiểu là: sự vay mượn hoặc sử dụng vốn của nhau dựa trên
nguyên tắc hoàn trả và sự tin tưởng.
Căn cứ vào hai tiêu thức là chủ thể và đối tượng tín dụng thì quan hệ tín dụng
gồm có các loại hình: Tín dụng thương mại, tín dụng ngân hàng, tín dụng nhà nước,
tín dụng thuê mua, tín dụng tiêu dùng và tín dụng quốc tế.
Trong phạm vi nghiên cứu, em chỉ xin đề cập đến “tín dụng” gắn liền với chủ
thể nhất định là ngân hàng. Theo đó, tín dụng ngân hàng là hoạt động tài trợ (cho
vay) của ngân hàng cho khách hàng. Theo Luật các tổ chức tín dụng của nước Cộng
hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, điều 49 ghi: “Tổ chức tín dụng được cấp tín dụng
cho tổ chức, cá nhân dưới các hình thức cho vay, chiết khấu thương phiếu và giấy tờ
có giá khác, bảo lãnh, cho thuê tài chính và các hình thức khác theo quy định của
Ngân hàng Nhà nước”.


Tín dụng ngân hàng được chia thành nhiều loại khác nhau căn cứ vào nhiều tiêu
thức khác nhau. Trong đó, phân chia theo thời gian có ý nghĩa quan trọng đối với ngân
hàng vì thời gian liên quan mật thiết đến tính an toàn và sinh lợi của tín dụng cũng như
khả năng hoàn trả của khách hàng. Theo thời gian thì tín dụng được phân thành:
Tín dụng ngắn hạn: Từ 12 tháng trở xuống, tài trợ cho tài sản lưu động của các
doanh nghiệp và các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân. Ngân hàng có thể áp
dụng cho vay trực tiếp hoặc gián tiếp, cho vay theo món hoặc theo hạn mức, có
hoặc không cần đảm bảo, dưới hình thức chiết khấu, thấu chi hoặc luân chuyển.
Tín dụng trung hạn: Từ trên 1 năm đến 5 năm (theo quy định của ngân hàng
nhà nước Việt Nam), tài trợ cho các tài sản cố định như phương tiện vận tải, trang
thiết bị chóng hao mòn, mở rộng sản xuất kinh doanh hay để xây dựng các dự án

mới có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh. Trong nông nghiệp, chủ yếu để
đầu tư vào các đối tượng sau: máy cày, máy bơm nước, xây dựng các vườn cây
công nghiệp như cà phê, điều...Bên cạnh đầu tư cho tài sản cố định, tín dụng trung
hạn còn là nguồn hình thành vốn lưu động thường xuyên của các doanh nghiệp, đặc
biệt là những doanh nghiệp mới thành lập.
Tín dụng dài hạn: Trên 5 năm và thời hạn tối đa có thể lên đến 20 – 30 năm,
nhiều trường hợp đặc biệt có thể lên đến 40 năm, tài trợ cho công trình xây dựng
như nhà, sân bay, cầu, đường, máy móc thiết bị có giá trị lớn, thường có thời gian
sử dụng lâu.
Nghiệp vụ truyền thống của các ngân hàng thương mại là cho vay ngắn hạn,
nhưng từ những năm 70 trở lại đây các ngân hàng thương mại đã chuyển sang kinh
doanh tổng hợp và một trong những nội dung đổi mới đó là nâng cao tỷ trọng cho
vay trung và dài hạn trong tổng số dư nợ của ngân hàng.
Ở các nước khác nhau, những ngân hàng khác nhau có thể có những cách quy
định khác nhau về thời gian trung và dài hạn.
1.1.2 PHÂN LOẠI TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN.

Phân loại tín dụng là việc sắp xếp các khoản tín dụng theo từng nhóm dựa trên
một số tiêu thức nhất định. Việc phân loại này tuy chỉ mang tính tương đối nhưng


nó lại rất quan trọng vì nó là cơ sở khoa học để thiết lập quy trình tín dụng một cách
thích hợp đồng thời góp phần nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng, nâng cao
chất lượng tín dụng.
Cũng như tín dụng nói chung, ta có thể phân chia tín dụng trung và dài hạn theo
những tiêu thức khác nhau:
- Căn cứ vào loại khách hàng:
• Cấp tín dụng cho doanh nghiệp: Ngân hàng cấp tín dụng cho những tổ chức
kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được kinh doanh theo
quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh. Quy

mô của hầu hết các khoản vay này là lớn, lãi suất thay đổi theo điều kiện thị trường.
• Cấp tín dụng cho cá nhân: các cá nhân có thể sử dụng vốn vay từ ngân hàng
nhằm mục đích kinh doanh hoặc tiêu dùng nhưng chủ yếu là để tiêu dùng. Quy mô
khoản tín dụng thường nhỏ hơn so với khoản cấp cho các doanh nghiệp, lãi suất
thường “cứng nhắc” và cao.
• Cấp tín dụng cho các đơn vị khác: các đơn vị như các tổ chức xã hội cũng cần
vốn với nhiều mục đích khác nhau, để giải quyết sự thiếu hụt vốn họ cũng có thể
vay từ ngân hàng.
- Căn cứ vào tính chất đảm bảo:
• Tín dụng có đảm bảo bằng tài sản cầm cố, thế chấp: Để giảm thiểu rủi ro
trong hoạt động tín dụng, các ngân hàng thường yêu cầu khách hàng của mình phải
có tài sản cầm cố hoặc thế chấp để ngân hàng có thể bán đi nếu khách hàng không
trả nợ. Về nguyên tắc, mọi khoản tín dụng của ngân hàng đều có đảm bảo.
• Tín dụng không đảm bảo bằng tài sản: Gồm có các hình thức là tín chấp và
bảo lãnh. Tín dụng không cần tài sản đảm bảo có thể được cấp cho các khách hàng
có uy tín, trung thực trong kinh doanh, thường là khách hàng làm ăn thường xuyên
có lãi, tình hình tài chính vững mạnh, quản trị có hiệu quả, ít xảy ra tình trạng nợ
nần dây dưa, hoặc món vay tương đối nhỏ so với vốn của người vay. Các khoản cho
vay theo chỉ thị của Chính phủ mà Chính phủ yêu cầu, không cần tài sản đảm bảo.
Các khoản cho vay đối với các tổ chức tài chính lớn, các công ty lớn, hoặc những


khoản cho vay mà ngân hàng có khả năng giám sát việc bán hàng... cũng có thể
không cần tài sản đảm bảo.
- Căn cứ vào mục đích sử dụng:
• Cho vay kinh doanh: các cá nhân, tổ chức vay vốn từ ngân hàng để mở rộng
sản xuất; đầu tư vào các ngành, lĩnh vực mới...nhằm tăng lợi nhuận, nâng cao doanh
số...chứ không phải để thỏa mãn các nhu cầu (ăn, mặc...) của cá nhân.
• Cho vay tiêu dùng: là các khoản cho vay nhằm tài trợ cho nhu cầu chi tiêu của
người tiêu dùng, bao gồm cá nhân và hộ gia đình. Đây là một nguồn tài chính quan

trọng giúp những người này trang trải nhu cầu nhà ở, đồ dùng gia đình, xe cộ, du
lịch, giáo dục, y tế...Việc cho vay tiêu dùng giúp các ngân hàng mở rộng quan hệ
với khách hàng, từ đó làm tăng khả năng huy động các loại tiền gửi cho ngân hàng
đồng thời tạo điều kiện đa dạng hóa hoạt động kinh doanh, nhờ vậy nâng cao thu
nhập và phân tán rủi ro cho ngân hàng. Với người tiêu dùng, nhờ vay tiêu dùng mà
họ được hưởng các tiện ích trước khi tích lũy đủ tiền và đặc biệt quan trọng hơn là
nó rất cần thiết cho những trường hợp khi cá nhân có các chi tiêu có tính cấp bách
như nhu cầu chi tiêu cho giáo dục và y tế.
- Căn cứ vào phương thức quản lý:
• Tín dụng trực tiếp: Ngân hàng cấp vốn trực tiếp cho người có nhu cầu đồng
thời người đi vay trực tiếp hoàn trả nợ vay cho ngân hàng. Tức là trong loại tín
dụng này có mối quan hệ trực tiếp giữa ngân hàng và khách hàng trong toàn bộ quá
trình từ khi nộp hồ sơ vay vốn, phân tích thẩm định, ra quyết định cho vay, giải
ngân, thu nợ... đến khi thanh lý hợp đồng vay.
• Tín dụng gián tiếp: khác với tín dụng trực tiếp là có sự tham gia của các tổ
chức trung gian trong toàn bộ tiến trình cho vay. Các tổ chức trung gian có thể là:
Tổ, đội, hội, nhóm (Hội cựu chiến binh, hội phụ nữ, hội nông dân...); hay những
người bán lẻ các sản phẩm đầu vào của quá trình sản xuất.
Hình thức này có rất nhiều ưu điểm: giảm thời gian, chi phí đi lại trong việc làm
thủ tục vay của người vay vốn, đồng thời thông qua các hội, tổ, nhóm thì người vay
sẽ được phổ biến kiến thức, kinh nghiệm sản xuất, kinh nghiệm quản lý vốn, giúp


người vay sử dụng vốn đúng mục đích, đạt kết quả, tránh rủi ro trong quá trình kinh
doanh... Đối với ngân hàng, ngân hàng sẽ chủ động chuẩn bị vốn để cho vay, sắp
xếp lịch giải ngân hợp lý, tránh ùn tắc hay quá tải vào cao điểm vụ sản phẩm. Tuy
nhiên, hình thức cho vay này bộc lộ khuyết điểm là các trung gian có thể lợi dụng vị
thế của mình và nếu ngân hàng không kiểm soát tốt sẽ tăng lãi suất để cho vay lại,
hoặc giữ lấy số tiền của các thành viên khác cho riêng mình.
- Căn cứ vào mức độ rủi ro: Xem xét về mặt rủi ro hay tính an toàn, tín dụng có thể

ở các “cung bậc” khác nhau: khoản có mức độ an toàn cao, khá, trung bình và thấp.
Để phân loại theo tiêu thức này, ngân hàng cần nghiên cứu các mức độ, các căn cứ
để chia loại rủi ro. Xếp loại tín dụng theo các dấu hiệu rủi ro từ thấp đến cao, nhiều
ngân hàng có thể chia tới rất nhiều thang bậc rủi ro. Cách phân loại này giúp ngân
hàng thường xuyên đánh giá lại khoản mục tín dụng, dự trù quỹ cho các khoản tín
dụng rủi ro cao, đồng thời để đánh giá chất lượng tín dụng.
• Tín dụng lành mạnh: Các khoản tín dụng có khả năng thu hồi cao.
• Tín dụng có vấn đề: Các khoản tín dụng có dấu hiệu không lành mạnh như
khách hàng chậm tiêu thụ, tiến độ thực hiện kế hoạch bị chậm, khách hàng gặp
thiên tai, khách hàng trì hoãn nộp báo cáo tài chính...
• Nợ quá hạn có khả năng thu hồi: Các khoản nợ đã quá hạn với thời hạn ngắn
và khách hàng có kế hoạch khắc phục tốt, tài sản đảm bảo có giá trị lớn...
• Nợ quá hạn khó đòi: Nợ quá hạn quá lâu, khả năng trả nợ rất kém, tài sản thế
chấp nhỏ hoặc bị giảm giá, khách hàng chây ì...
- Căn cứ vào phương pháp hoàn trả:


Tín dụng có thời hạn: là loại tín dụng có thỏa thuận thời hạn trả nợ cụ thể

theo hợp đồng. Trong loại này lại được phân chia tiếp, bao gồm:
o Tín dụng chỉ có một kỳ hạn trả nợ: là loại chỉ thanh toán một lần theo thời
hạn đã thỏa thuận.
o Tín dụng có nhiều kỳ hạn trả nợ cụ thể hay còn gọi là tín dụng trả góp: là
loại tín dụng mà khách hàng phải hoàn trả vốn gốc và lãi theo định kỳ. Loại


này thường được áp dụng rộng rãi trong cho vay bất động sản nhà ở thương
mại, cho vay tiêu dùng...



Tín dụng không có thời hạn cụ thể: đối với loại này thì ngân hàng có thể yêu

cầu hoặc để người vay tự nguyện trả nợ bất cứ lúc nào, nhưng phải báo trước một
thời gian hợp lý (có thể được thỏa thuận trong hợp đồng).
- Căn cứ vào các tiêu thức khác:
•Theo ngành kinh tế (Công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ...).
•Theo số lượng ngân hàng tham gia cấp tín dụng (Do một ngân hàng thực
hiện; đồng tài trợ).
- Bàn thêm về một số loại tín dụng trung và dài hạn khác:
• Tín dụng tuần hoàn: là một hình thức cho vay, trong đó ngân hàng cam kết
chính thức dành cho khách hàng một hạn mức tín dụng trong một thời hạn nhất
định. Cần chú ý rằng, cam kết này có thể kéo dài từ 1 đến 3 hoặc 5 năm, chính vì
vậy đây cũng là một loại tín dụng trung và dài hạn.
Khi có nhu cầu về vốn trung và dài hạn, các doanh nghiệp có thể sử dụng các
biện pháp để huy động vốn như: phát hành các chứng khoán, vay ngân hàng, vay
các tổ chức tín dụng khác...tuy nhiên, việc phát hành những chứng khoán mua, bán
trên thị trường không phải là biện pháp hàng đầu để các doanh nghiệp tài trợ cho
các hoạt động của họ vì rất mất thời gian để tiến hành công việc này trong khi cơ
hội thì lại “đến” và “đi” rất nhanh. Chính vì vậy, nguồn vốn được tài trợ từ ngân
hàng là vô cùng quan trọng. Họ có thể vay ngân hàng dưới hình thức tín dụng tuần
hoàn để tài trợ cho nhu cầu tăng trưởng tài sản lưu động, sử dụng khi ngân hàng
chưa xác định được phần tài sản lưu động thường xuyên của doanh nghiệp.
• Tín dụng thuê mua: là hình thức vay tài sản thông qua một hợp đồng tín dụng
thuê mua.
Khách hàng thường đến vay ngân hàng với mục đích là mua tài sản. Tuy nhiên
trong nhiều trường hợp, khách hàng không thể đáp ứng được các điều kiện để vay.
Để giúp khách hàng có thể thực hiện được mục đích, đồng thời không để bỏ lỡ các
cơ hội kinh doanh, các ngân hàng đã tiến hành mua tài sản theo yêu cầu của khách



hàng và cho khách hàng thuê lại. Tài sản này không nằm trong tài sản của doanh
nghiệp mà nằm trong tài sản của ngân hàng, chính vì vậy ngân hàng có thể thu hồi
để bán hoặc cho người khác thuê khi người thuê không trả nợ được. Điều này góp
phần làm giảm thiệt hại cho ngân hàng. Thông thường, để thực hiện nghiệp vụ này,
các ngân hàng thường thiết lập các công ty còn để chuyên quản. Công ty con này có
nhiệm vụ nghiên cứu cùng với bên vay để lựa chọn các máy móc, trang thiết bị
thích hợp để thực hiện hợp đồng thuê mua.
1.1.3. VAI TRÒ CỦA HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN CỦA
NHTM TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG.

Tín dụng trung và dài hạn cũng là hoạt động tín dụng nên nó cũng có vai trò
như hoạt động tín dụng nói chung. Vai trò đó được thể hiện ở các điểm sau:
 Góp phần làm ổn định nền kinh tế (quá trình sản xuất kinh doanh của các cá
thể, cá nhân thường xuyên hơn), tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế:
hoạt động sản xuất kinh doanh không phải lúc nào cũng suôn sẻ, các tổ chức, cá
nhân luôn phải đương đầu với những khó khăn để tồn tại cũng như để đi lên. Một
trong những khó khăn mà đa số họ gặp phải trong bối cảnh cạnh tranh hiện nay là
sự thiếu hụt vốn trong kinh doanh. Bên cạnh việc đi vay mượn ở người thân, bạn
bè...còn gọi là vay nóng thìj việc các tổ chức, cá nhân đi vay ở các ngân hàng để
đáp ứng nhu cầu về vốn là rất thường xuyên.
 Tích tụ và tập trung vốn (góp phần làm giảm số tiền nhàn rỗi, nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn, tiết kiệm tiền mặt trong lưu thông và khắc phục lạm phát tiền tệ).
Mỗi người, với một khoản tiền nhỏ thì rất khó có thể đầu tư, kinh doanh hay
mua những vật có giá trị lớn. Nhưng nếu nhiều người góp lại thì nó sẽ trở thành một
khoản tiền lớn. Tuy nhiên việc tập trung các lượng vốn nhỏ này lại rất khó khăn đối
với chỉ một người hay một nhóm người mà họ không được mọi người trong xã hội
biết đến. Trong khi đó lại có rất nhiều người cần một lượng tiền lớn, nhiều công
trình, dự án cần vốn lớn để đầu tư…Để kết nối những trường hợp trên lại, chúng ta
phải nhờ đến các tổ chức tín dụng mà đặc biệt là các ngân hàng. Cũng thông qua
hoạt động này của ngân hàng, số tiền nhàn rỗi trong dân cư sẽ giảm xuống vì họ có



một nơi để “đầu tư” kiếm lời thay vì cất giữ ở nhà, do đó lượng tiền mặt trong lưu
thông sẽ giảm, khắc phục lạm phát tiền tệ.
 Là công cụ điều tiết vĩ mô thông qua việc phân bổ lại các nguồn lực, qua đó
góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Xuất phát từ một nền nông nghiệp lạc hậu với những hậu quả nặng nề do chiến
tranh để lại, nền kinh tế nước ta so với các nước trên thế giới mới chỉ được xếp là
“nước đang phát triển”. Sự tụt hậu về kinh tế, kỹ thuật…của nước ta là rất lớn. Để
tiến lên hội nhập với thế giới, không có con đường nào khác ngoài con đường công
nghiệp hóa, hiện đại hóa; chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nặng về nông nghiệp sang
phát triển các ngành công nghiệp và dịch vụ. Muốn vậy, Nhà nước cần phải phân bổ
các nguồn lực cho hợp lý giữa các ngành này. Một trong những cách để làm điều đó
là thông qua hoạt động tín dụng, đặc biệt là tín dụng trung và dài hạn. Với cách này,
khi Nhà nước muốn mở ra hay phát triển một ngành, lĩnh vực, Nhà nước sẽ có
những khuyến khích trong chính sách tín dụng như có những ưu đãi về lãi suất, thời
hạn, tài sản đảm bảo trong việc vay vốn…để các cá nhân, doanh nghiệp chú ý đến
và thực hiện đầu tư.
 Thực hiện chức năng phản ánh, tổng hợp và kiểm soát các hoạt động kinh tế,
góp phần thúc đẩy chế độ hạch toán kinh tế.
Thật vậy, thông qua hoạt động này của ngân hàng, ta có thể biết được nền kinh
tế đang cần vốn như thế nào. Mà ta biết rằng, một nền kinh tế phát triển luôn có nhu
cầu lớn về vốn cho sản xuất, kinh doanh. Chính vì vậy nó sẽ phản ánh một phần về
hoạt động kinh doanh của một đất nước.
Kiểm soát và giám đốc bằng đồng tiền là một trong những chức năng của tín
dụng, tức là nó sử dụng đồng tiền để xây dựng các thước đo, chỉ tiêu, đồng thời xác
định xem các hoạt động sản xuất kinh doanh có hợp pháp, hợp lệ hay không, có
hiệu quả hay không. Do đó nó có vai trò quan trọng trong việc tổng hợp, kiểm soát
các hoạt động kinh tế, thúc đẩy chế độ hạch toán kinh tế.



1.2 CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN CỦA NHTM.
1.2.1 QUAN NIỆM VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG.

Tín dụng trung và dài hạn cũng là hoạt động tín dụng nên nó cũng có vai trò
như hoạt động tín dụng nói chung. Vai trò đó được thể hiện ở các điểm sau:
 Góp phần làm ổn định nền kinh tế (quá trình sản xuất kinh doanh của các cá
thể, cá nhân thường xuyên hơn), tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế:
hoạt động sản xuất kinh doanh không phải lúc nào cũng suôn sẻ, các tổ chức, cá
nhân luôn phải đương đầu với những khó khăn để tồn tại cũng như để đi lên. Một
trong những khó khăn mà đa số họ gặp phải trong bối cảnh cạnh tranh hiện nay là
sự thiếu hụt vốn trong kinh doanh. Bên cạnh việc đi vay mượn ở người thân, bạn
bè...còn gọi là vay nóng thì việc các tổ chức, cá nhân đi vay ở các ngân hàng để đáp
ứng nhu cầu về vốn là rất thường xuyên.
 Tích tụ và tập trung vốn (góp phần làm giảm số tiền nhàn rỗi, nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn, tiết kiệm tiền mặt trong lưu thông và khắc phục lạm phát tiền tệ).
Mỗi người, với một khoản tiền nhỏ thì rất khó có thể đầu tư, kinh doanh hay
mua những vật có giá trị lớn. Nhưng nếu nhiều người góp lại thì nó sẽ trở thành một
khoản tiền lớn. Tuy nhiên việc tập trung các lượng vốn nhỏ này lại rất khó khăn đối
với chỉ một người hay một nhóm người mà họ không được mọi người trong xã hội
biết đến. Trong khi đó lại có rất nhiều người cần một lượng tiền lớn, nhiều công
trình, dự án cần vốn lớn để đầu tư…Để kết nối những trường hợp trên lại, chúng ta
phải nhờ đến các tổ chức tín dụng mà đặc biệt là các ngân hàng. Cũng thông qua
hoạt động này của ngân hàng, số tiền nhàn rỗi trong dân cư sẽ giảm xuống vì họ có
một nơi để “đầu tư” kiếm lời thay vì cất giữ ở nhà, do đó lượng tiền mặt trong lưu
thông sẽ giảm, khắc phục lạm phát tiền tệ.
 Là công cụ điều tiết vĩ mô thông qua việc phân bổ lại các nguồn lực, qua đó
góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Xuất phát từ một nền nông nghiệp lạc hậu với những hậu quả nặng nề do chiến
tranh để lại, nền kinh tế nước ta so với các nước trên thế giới mới chỉ được xếp là

“nước đang phát triển”. Sự tụt hậu về kinh tế, kỹ thuật…của nước ta là rất lớn. Để


tiến lên hội nhập với thế giới, không có con đường nào khác ngoài con đường công
nghiệp hóa, hiện đại hóa; chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nặng về nông nghiệp sang
phát triển các ngành công nghiệp và dịch vụ. Muốn vậy, Nhà nước cần phải phân bổ
các nguồn lực cho hợp lý giữa các ngành này. Một trong những cách để làm điều đó
là thông qua hoạt động tín dụng, đặc biệt là tín dụng trung và dài hạn. Với cách này,
khi Nhà nước muốn mở ra hay phát triển một ngành, lĩnh vực, Nhà nước sẽ có
những khuyến khích trong chính sách tín dụng như có những ưu đãi về lãi suất, thời
hạn, tài sản đảm bảo trong việc vay vốn…để các cá nhân, doanh nghiệp chú ý đến
và thực hiện đầu tư.
 Thực hiện chức năng phản ánh, tổng hợp và kiểm soát các hoạt động kinh tế,
góp phần thúc đẩy chế độ hạch toán kinh tế.
Thật vậy, thông qua hoạt động này của ngân hàng, ta có thể biết được nền kinh
tế đang cần vốn như thế nào. Mà ta biết rằng, một nền kinh tế phát triển luôn có nhu
cầu lớn về vốn cho sản xuất, kinh doanh. Chính vì vậy nó sẽ phản ánh một phần về
hoạt động kinh doanh của một đất nước.
Kiểm soát và giám đốc bằng đồng tiền là một trong những chức năng của tín
dụng, tức là nó sử dụng đồng tiền để xây dựng các thước đo, chỉ tiêu, đồng thời xác
định xem các hoạt động sản xuất kinh doanh có hợp pháp, hợp lệ hay không, có
hiệu quả hay không. Do đó nó có vai trò quan trọng trong việc tổng hợp, kiểm soát
các hoạt động kinh tế, thúc đẩy chế độ hạch toán kinh tế.
1.2.2 MỘT SỐ CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG VÀ
DÀI HẠN

Như đã đề cập ở trên, chất lượng tín dụng là một chỉ tiêu vừa mang tính định
lượng lại vừa mang tính định tính. Với những chỉ tiêu định tính, việc xác định là hết
sức khó khăn, nó chỉ mang tính tương đối. Với nhóm chỉ tiêu định lượng, có dễ
dàng hơn nhưng vẫn có nhiều tranh cãi, theo quan điểm của em thì hệ thống phản

ánh chất lượng tín dụng trung và dài hạn gồm các chỉ tiêu:


 Chỉ tiêu định lượng
• Tỷ lệ nợ quá hạn, nợ gia hạn trung và dài hạn:
Tỷ lệ nợ quá hạn trung và dài hạn là tỷ lệ phần trăm giữa nợ quá hạn trung - dài
hạn và tổng dư nợ trung – dài hạn của Ngân hàng thương mại ở một thời điểm nhất
định, thường là cuối tháng, cuối quý, cuối năm. Nợ gia hạn về bản chất cũng là nợ
quá hạn nhưng đã được tăng thêm thời hạn vay. Tỷ lệ này làm rõ trong dư nợ ngoài
phần nợ thực sự quá hạn thì đã có bao nhiêu phần trăm quá hạn.
Vì tín dụng là việc sử dụng vốn của nhau dựa trên nguyên tắc hoàn trả và sự tin
tưởng nên trong hoạt động tín dụng, tính an toàn (khả năng hoàn trả của người vay)
là yếu tố quan trọng nhất để cấu thành chất lượng tín dụng. Khi một khoản vay
không được trả một đúng hạn như đã cam kết mà không có lý do chính đáng thì nó
đã vi phạm một trong ba nguyên tắc tín dụng quan trọng của ngân hàng và nó bị
chuyển sang nợ quá hạn với lãi suất cao hơn lãi suất bình thường. Trên thực tế, phần
lớn các khoản nợ quá hạn là các khoản nợ có vấn đề, có khả năng mất vốn, tức là
tính an toàn thấp.
Trong hoạt động kinh doanh, rủi ro xảy ra cho ngân hàng là điều đương nhiên và
do đó việc tồn tại nợ quá hạn và nợ gia hạn là không thể tránh khỏi. Tuy nhiên, nếu
một ngân hàng thương mại có nhiều khoản nợ quá hạn thì nó sẽ gặp nhiều khó khăn
trong kinh doanh vì có thể bị mất vốn, ảnh hưởng đến khả năng thanh toán và làm
giảm thu nhập của ngân hàng, nặng hơn nữa thì ngân hàng có thể đi đến bờ vực phá
sản. Còn nợ gia hạn là một biện pháp giúp khách hàng vượt qua những khó khăn
tạm thời nhưng nếu quá nhiều khoản được gia hạn nợ thì chứng tỏ danh mục cho
vay của ngân hàng thương mại thực sự đang có vấn đề. Ngân hàng nào có tỷ lệ nợ
quá hạn, nợ gia hạn cao sẽ bị đánh giá là có chất lượng tín dụng thấp, ảnh hưởng
đến hiệu quả kinh doanh ở thời điểm hiện tại cũng như trong tương lai.
• Lợi nhuận thu được từ hoạt động tín dụng trung và dài hạn
Khoản mục tín dụng thường chiếm khoảng 70% tổng tài sản, trong đó có sự

đóng góp không nhỏ của tín dụng trung và dài hạn. Với quy mô đó, hoạt động tín
dụng trung và dài hạn mang lại thu nhập lớn cho ngân hàng; có ảnh hưởng cũng lớn


đến rất nhiều yếu tố như chiến lược kinh doanh của ngân hàng, dự trữ, đầu tư,
vay… chính vì lý do đó mà có thể nói rằng chỉ tiêu này cũng rất quan trọng trong
việc đánh giá chất lượng tín dụng. Dựa vào chỉ tiêu này ta còn có thể tính thêm
được một vài chỉ tiêu khác phản ánh chất lượng tín dụng như:
Lợi nhuận từ tín dụng trung – dài hạn
Tỷ lệ sinh lời trung và dài hạn =
Tổng dư nợ trung và dài hạn
Lợi nhuận của hoạt động tín dụng Trung-dài hạn
Tỷ lệ lợi nhuận trung – dài hạn =
Tổng lợi nhuận từ hoạt động tín dụng
• Chỉ tiêu quay vòng vốn:
Thu nợ trung-dài hạn
Vòng quay vốn tín dụng trung và dài hạn =
Dư nợ tín dụng trung-dài hạn bình quân
Chỉ tiêu này phản ánh số vòng chu chuyển của vốn tín dụng trung và dài hạn
(thường là một năm). Đây là một chỉ tiêu quan trọng thường được các ngân hàng
tính toán để đánh giá khả năng tổ chức quản lý vốn tín dụng và chất lượng tín dụng
trong việc đáp ứng nhu cầu khách hàng. Chỉ tiêu này càng tăng càng phản ánh tình
hình tổ chức quản lý vốn tín dụng tốt, chất lượng tín dụng cao.
• Cơ cấu vốn đầu tư:
Mục đích của các ngân hàng là an toàn và sinh lời (bên cạnh các mục tiêu thực
hiện chính sách của nhà nước) vì vậy trong hoạt động tín dụng nói riêng và các hoạt
động khác nói chung của ngân hàng luôn có sự cân nhắc giữa an toàn và sinh lời.
Hoạt động tín dụng trung và dài hạn có thể đem lại lợi nhuận cao nhưng nếu cho
vay quá nhiều mà không quan tâm đến khả năng thanh toán của ngân hàng thì rủi ro
cũng sẽ rất cao, tức là tính an toàn thấp. Hơn nữa, nếu ngân hàng cho vay quá nhiều

trong một ngành, lĩnh vực nào đó mà không đa dạng hóa các lĩnh vực đầu tư thì như


người ta thường nói, ngân hàng đã “đặt quá nhiều trứng trong một rổ”, không phân
tán được rủi ro. Do đó, các ngân hàng phải quyết định quy mô, tỷ trọng đầu tư vào
các lĩnh vực một cách hợp lý để vừa bảo đảm an toàn vốn lại vừa có thể thu lại lợi
nhuận cao nhất.
• Giá trị tài sản đảm bảo và tỷ lệ thanh toán nợ do bán tài sản của người vay:
Để vay được tiền từ ngân hàng, các cá nhân, doanh nghiệp sẽ phải áp dụng các
biện pháp để bảo đảm tiền vay, các biện pháp đó có thể là: tín chấp, bảo lãnh, có tài
sản cầm cố, thế chấp. Trong trường hợp hoạt động kinh doanh của người vay thua
lỗ, không thể lấy từ lợi nhuận để trả ngân hàng:
 Nếu là bảo lãnh, tín chấp: người vay phải bán tài sản để trả nợ ngân hàng.
 Nếu là vay có tài sản đảm bảo: ngân hàng sẽ là người bán tài sản đó đi để
xiết nợ. Nếu số tiền bán được lớn hơn số tiền vay thì sau khi trừ đi khoản nợ,
ngân hàng sẽ phải trả lại người vay, nếu số tiền bán được lại nhỏ hơn số tiền
vay thì ngân hàng sẽ phải chịu lỗ.
Ta gọi chung khoản tiền thực mà ngân hàng thu được từ việc bán tài sản của
khách hàng là A, tổng doanh số thu nợ là B. Khi đó xác định được chỉ tiêu:
Tỷ lệ thanh toán nợ do việc bán tài sản của người vay =A/B
• Phân loại tài sản:
Nếu như ở phần nguồn vốn, các thành phần: tiền gửi, tiền vay...là các khoản mà
ngân hàng phải trả cho khách hàng thì bên phần tài sản, các thành phần: tiền gửi ở
ngân hàng khác, chứng khoán, tín dụng... lại là những khoản mang lại thu nhập,
giúp cho ngân hàng tạo lợi nhuận.
Cơ cấu tài sản gồm có:
 Ngân quĩ: Trong đó bao gồm
o Tiền mặt trong két: gồm nội tệ, ngoại tệ, vàng và các kim khí quý, đá quý
khác.
o Tiền mặt dùng để thanh toán, chi trả nhưng nó lại không sinh lời và trên

phương diện an toàn thì nó là đối tượng của trộm cướp, làm giả...


o Tiền gửi tại ngân hàng khác: Gồm tiền gửi tại ngân hàng nhà nước, tại các
ngân hàng và tổ chức tín dụng khác. Các ngân hàng thương mại gửi tiền tại
ngân hàng nhà nước để thực hiện dự trữ bắt buộc, ngoài ra còn để thanh toán
bù trừ...Ngoài ra còn gửi ở các ngân hàng thương mại khác để đổi lấy các
dịch vụ như tập hợp séc, giao dịch ngoại tệ, mua giúp các chứng khoán...
 Chứng khoán: Các ngân hàng nắm giữ chứng khoán vì mục tiêu thanh khoản
và đa dạng hóa tài sản, và chúng mang lại thu nhập cho ngân hàng.
 Tín dụng: Là loại tài sản chiếm tỷ trọng lớn nhất ở phần lớn các ngân hàng
thương mại, phản ánh hoạt động đặc trưng của ngân hàng, đồng thời nớ mang lại
phần lớn thu nhập của ngân hàng.
 Các tài sản khác: Gồm có: Tài sản ủy thác; phần hùn vốn; các tài sản khác như
nhà cửa, trang thiết bị...của ngân hàng; và tài sản ngoại bảng.
Ngân hàng thương mại luôn phải quản lý tài sản với nội dung chuyển hóa nguồn
vốn - tiền gửi, tiền vay vốn của chủ - thành các loại tài sản như ngân quĩ, tín dụng,
chứng khoán, tài sản khác theo một phương thức thích hợp nhằm tối đa hóa lợi ích
của ngân hàng trên cơ sở đảm bảo an toàn, nâng cao chất lượng của hoạt động ngân
hàng nói chung và của hoạt động tín dụng nói riêng.
 Chỉ tiêu định tính:
• Khả năng thu hút khách hàng của ngân hàng (qua uy tín, kết quả hoạt động,
các dịch vụ đi kèm như tư vấn…): Một ngân hàng sẽ không thể hoạt động được nếu
không có khách hàng. Khả năng thu hút khách hàng của ngân hàng không chỉ phụ
thuộc vào kết quả hoạt động của ngân hàng mà còn phụ thuộc vào uy tín về chất lượng
phục vụ, về quan hệ với các tổ chức tài chính khác...của ngân hàng. Khách hàng sẽ
không muốn giao dịch với những ngân hàng không có uy tín vì rủi ro có thể xảy ra đối
với họ làm gián đoạn quá trình kinh doanh, hoặc làm mất đi cơ hội kinh doanh của họ.
Bên cạnh đó, ngân hàng có thể tăng khả năng thu hút khách hàng thông qua các
hoạt động đi kèm với hoạt động tín dụng như: dịch vụ tư vấn, thẻ tín dụng...

• Tuân thủ các quy định do ngân hàng nhà nước đề ra trong lĩnh vực tín dụng
trung và dài hạn: Nhận thức được vai trò và chức năng của các ngân hàng trong nền


kinh tế, Nhà nước luôn có những chính sách quy định về hoạt động của họ, mà một
trong những quy định hết sức quan trọng đó là những quy định về hoạt động tín
dụng trung và dài hạn. Tuân thủ các quy định này của Nhà nước chính là sự tuân
thủ pháp luật, góp phần ổn định nền tiền tệ quốc gia, giúp cho nền kinh tế có sự
tăng trưởng cao và bền vững - tăng chất lượng tín dụng của ngân hàng.
• Góp phần vào việc thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất
nước (đáp ứng vốn cho những ngành, lĩnh vực mũi nhọn nhờ đó đã giải quyết công
ăn việc làm cho nhiều lao động…): Hoạt động tín dụng mở rộng sẽ đáp ứng nhu cầu
vốn cho nền kinh tế: các dự án đầu tư có hiệu quả cao sẽ không bị thiếu vốn, tức là
nó có thể đi vào hoạt động, tạo công ăn việc làm và tăng thu nhập cho nhiều người
lao động, giải quyết một vấn đề vô cùng “bức xúc” của mỗi quốc gia, và xét về mặt
đóng góp cho xã hội-đó là chất lượng tín dụng.
Để đánh giá các chỉ tiêu trên một cách chính xác thì rất là khó vì nó là những chỉ
tiêu định tính, không tính toán được như những chỉ tiêu định lượng. Tuy nhiên,
trong khi so sánh với nhiều ngân hàng, tổ chức tín dụng cùng hoạt trong một môi
trường kinh tế, môi trường pháp lý...và cùng chịu sự chỉ đạo của các chính sách thì
ta cũng sẽ có thể dễ dàng đánh giá được các chỉ tiêu này. Và thông qua đó, ta cũng
có thể một phần thấy được chất lượng tín dụng của các ngân hàng.
1.2.3 SỰ CẦN THIẾT PHẢI NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG VÀ
DÀI HẠN

1.2.3.1 Nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn là để phát triển kinh tế.
Sinh ra từ nền sản xuất hàng hoá,tín dụng hay cho vay đã có những đóng góp
đáng kể trong việc thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung vốn để đẩy mạnh quá trình
phát triển xã hội.
Ngày nay cùng với sự phát triển của sản xuất và lưu thong hàng hoá,tín dụng

cũng ngày càng phát triển nhằm cung cấp them các phương tiện giao dịch để đáp
ứng nhu cầu giao dịch hàng ngày,ngày càng tăng trong xã hội.Trong điều kiện
đó,chất lượng tín dụng cũng ngày càng được quan tâm,bởi lẽ:


Đảm bảo chất lượng tín dụng là điều kiện để ngân hàng làm tốt vai trò trung
tâm thanh toán: khi chất lượng tín dụng được đảm bảo sẽ tăng vòng quay vốn cho
vay,với một lượng tiền như cũ có thể thực hiện được số lần giao dịch lớn hơn,tạo
điều kiện tiết kiệm tiền trong lưu thông,củng cố sức mua của đồng tiền.
Chất lượng tín dụng góp phần kiềm chế lạm phát,ổn định tiền tệ,tăng trưởng
kinh tế,tăng uy tín quốc gia.Điều này xuất phát từ chức năng tạo tiền của ngân hàng
thương mại,thông qua cho vay chuyển khoản,thực hiện thanh toán không dùng tiền
mặt,ngân hàng thương mại có thể mở rộng tiền ghi sổ gấp nhiều lần so với số tiền
thực có,hoặc là vì lí do nào đó,các chủ tài khoản có khả năng phát hành séc và thanh
toán bằng các phương tiện khác cho khách vượt quá số tiền gửi thực có,hay khi
ngân hàng xử lý nghiệp vụ thanh toán cho khách hàng đã cung cấp cho doanh
nghiệp một khối lượng thanh toán bằng cách ghi “có” trước ghi “nợ” sau.Như vậy
nghiệp vụ tín dụng của ngân hàng thương mại có quan hệ chặt chẽ với khối lượng
tiền trong lưu thông và là nguyên nhân tiềm ẩn của lạm phát.Đảm bảo chất lượng
tín dụng sẽ tạo khả năng giảm bớt tiền thừa trong lưu thông,góp phần hạn chế lạm
phát ổn định tiền tệ,tăng uy tín quố gia bằng việc phát huy tác dụng của các sản
phẩm,dịch vụ trong tương lai của các công trình đầu tư.
Hoạt động tín dụng là công cụ thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về
phát triển kinh tế xã hội theo từng ngành,từng lĩnh vực.Mặt khác thông qua sự đánh
giá phân tích khả năng phát triển của cá đối tượng định đầu tư để có những quyết
định đúng đắn nhằm khai thác khả năng tiềm tang về tài nguyên,lao động,tiền
vốn…để tăng cường năng lực sản xuất,cung cấp ngày càng nhiều sản phẩm cho xã
hội,giải quyết công ăn việc làm,tăng thu nhập cho người lao động…Chất lượng tín
dụng trung và dài hạn được nâng cao sẽ góp phần tăng hiệu quả sản xuất xã hội,đảm
bảo sự phát triển cân đối giữa các vùng,các ngành trong cả nước,ổn định và phát

triển kinh tế.
Tín dụng nói chung và tín dụng trung và dài hạn nói riêng có quan hệ mật thiết
với nền kinh tế xã hội,thiết lập một mối cơ chế chính sách cho vay đồng bộ,có hiệu


quả sẽ có tác động tích cực tới mọi mặt của nền kinh tế xã hội,điều đó cũng thể hiện
chất lượng hoạt động co vay trong nền kinh tế thị trường.
1.2.3.2 Nâng cao chất lượng tín dụng quyết định sự tồn tại và phát triển của
các ngân hàng thương mại.
Chất lượng tín dụng trung và dài hạn làm tăng khả năng cung cấp dịch vụ của
các ngân hàng thương mại do tạo thêm nguồn vốn từ việc tăng vòng quay vốn cho
vay và thu hút được nhiều khách hàng bởi các hình thức của sản phẩm,dịch vụ tạo
ra một hình ảnh tốt đẹp về biểu tượng,uy tín của ngân hàng và sự trung thành của
ngân hàng.
Chất lượng tín dụng trung và dài hạn làm tăng khả năng sinh lời của các sản
phẩm,dịch vụ ngân hàng do giảm được sự chậm trễ,giảm chi phí nghiệp vụ,chi phí
quản lý,các chi phí thiệt hại do không thu hồi được vốn cho vay.
Chất lượng tín dụng trung và dài hạn đảm bảo khả năng thanh toán và lợi nhuận
của ngân hàng,tạo thế mạnh cho ngân hàng trong cạnh tranh.
Chất lượng tín dụng trung và dài hạn tạo thuận lợi cho sự tồn tại lâu dài của
ngân hàng vì chất lượng tín dụng cho phép ngân hàng có những khách hàng trung
thành và uy tín đem lại nhiều lợi nhuận cho ngân hàng.Chất lượng tín dụng sẽ củng
cố thêm mối quan hệ xã hội của ngân hàng và điều này là rất cần thiết ở các ngân
hàng thương mai.
Với những ưu thế trên,việc củng cố và tăng cường chất lượng tín dụng trung và
dài hạn là sự cần thiết khách quan vì sự tồn tại và phát triển lâu dài của ngân hàng
thương mại.Và cũng chính vì vậy, chất lượng tín dụng luôn luôn đòi hỏi những sự
cải tiến,không ngừng sáng tạo.



CHƯƠNG II: CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI
HẠN TẠI CHI NHÁNH ĐÔNG ĐÔ-NH ĐT&PT VN
2.1 : KHÁI QUÁT VỀ CHI NHÁNH ĐÔNG ĐÔ- NH ĐT&PT VN
2.1.1 : QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN.

Hệ thống Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam,tiền than là Ngân hàng Kiến
thiết Việt Nam được thành lập từ năm 1957,đến nay đã có 48 năm xây dựng,trưởng
thành,góp phần vào sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc.
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam là một trong bốn Ngân hàng
thương mại quốc doanh lớn nhất Việt nam.Ngay từ khi được thành lập,với vai trò là
ngân hàng chuyên ngành phục vụ trong lĩnh vực xây dựng cơ bản,Ngân hàng Đầu
tư và Phát triển đã sử dụng các nghiệp vụ ngân hàng: Cho vay vốn lưu động thi
công xây lắp,sản xuất cung ứng vật liệu xây dựng,thanh toán, (chuyển khoản và tiền
mặt) trong xây dựng cơ bản để chuyển tải toàn bộ vốn Ngân sách nhà nước dành
cho xây dựng cơ bản,hình thành nên cơ sở vật chất , kĩ thuật cho đất nước, góp phần
thực hiện các nhiệm vụ chiến lược trong từng thời kì cách mạng của dân tộc.
Chi nhánh NHDT&PT Đông Đô được thành lập trên ơ sở nâng cấp phòng Giao
dịch 2-SGD I (14Láng Hạ), đi vào hoạt động từ 31/7/2004 theo QĐ số 191/QĐ- HĐQT
ngày 05/97/2004 của Hội đồng quản trị Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam với mục đích
mở rộng mạng lưới,nâng cao khả năng cạnh tranh và thương hiệu của BIDV.
Là một trong những cơ sở tiên phong đi đầu trong hệ thống NHĐT&PTVN
chú trọng triển khai nghiệp vụ ngân hàng bán lẻ, đối tượng phục vụ là các doanh
nghiệp vừa và nhỏ ,các doanh nghiệp ngoài quốc doanh,tư nhân,cá thể…Sau 3 năm
hoạt động Chi nhánh đã tạo được một mô hình tương đối chuẩn của Chi nhánh bán
lẻ được TT chứng nhận phù hợp tiêu chuẩn – Quacert thuộc Tổng cục tiểu chuẩn đo
lường chất lượng cấp giấy chứng nhận Hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn
ISO 9001:2000 trong lĩnh vực hoạt động : Cung cấp Dịch vụ thanh toán,tín dụng và
bảo lãnh.



Với mục tiêu đa dạng hóa sản phẩm,dịch vụ để phục vj trọn gói khách hàng lấy
phát triển dịch vụ và đem lại tiện ích cho khách hàng làm nền tảng : Tính đến nay
NH đã có khoảng 100 sản phẩm và dịch vụ,phục vụ cho gần 1000 đối tượng là
doanh nghiệp và 15000 cá nhân.
Hoạt động theo mô hình giao dịch một cửa (tiết kiệm thời gian giao dịch của
khách hàng) với mô hình quy trình nghiệp vụ ngân hàng hiện đại,áp dụng công
nghệ tiên tiến theo đúng dự án hiện đại hóa ngân hàng Viêt nam hiện nay.
Đội ngũ cán bộ trẻ,năng động được đào tạo chính quy tại các trường đại học
trong nước nắm bắt nhanh những thay đổi của công nghệ thông tin,nhanh nhạy với
thị trường tài chính và chính sách đổi mới của nhà nước để áp dụng trong quá trình
công tác.Sau khi tuyển dụng được TW và Chi nhánh đào tạo thực tế và nâng cao
nghiệp vụ chuyên môn phù hợp với mô hình hoạt động của CN.
2.1.2. NHỮNG THUẬN LỢI KHÓ KHĂN.

2.1.2.1 Thuận lợi.
- Nền kinh tế Việt Nam tiếp tục phát triển với tốc độ cao,môi trường kinh tế,xã
hội,chính trị ổn định,các chương trình kinh tế trọng điểm các dự án lớn được triển
khai mạnh và phát huy hiệu quả
- Được sự quan tâm chỉ đạo sát sao của ban lãnh đạo NH ĐT&PT VN và ban
giám đốc Chi nhánh, đặc biệt trong thời gian triển khai dự án Hiện Đại Hoá.
- Hiện nay,Chi nhánh là đơn vị được áp dụng những chương trình,hệ thống phần
mềm máy tính rất hiện đại.
- Chi nhánh đã được thực hiện hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuâmr chất
lượng quốc tế ISO 9000 – 2000, đồng thời dự án hiện đại hoá Ngân hàng đã đi vào
hoạt động và sự tuân thủ chặc chẽ quy trình nghiệp vụ và nề nếp lao động đã tạo
điều kiện thuận lợi cho mọi hoạt động của Chi nhánh.
2.1.2.2 Khó khăn.

- Tình hình kinh tế chính trị thế giới có nhiều diễn biến không thuận lợi.Xung đột
chiến tranh tại nhiều điểm nóng trên thế giới cùng với sự phát triển không ổn định

của một số nền kinh tế lớn trên thế giới.


- Nền kinh tế trong nước có sự tăng trưởng phát triển nhưng phải chịu không ít
những trở ngại do thiên tai dịch bệnh.
- Tiềm lực vốn của nền kinh tế hạn chế,quá trình cải cách các doanh nghiệp còn
châm.Thêm vào đó là độ cạnh tranh hoạt động Ngân hàng ngày càng gay gắt,cơ hội
tìm kiếm lợi nhuận càng ít và khoảng cách chênh lệch thu chi tính trên một đồng
vốn ngày càng bị thu hep.
- Là một Chi nhánh mới được thành lập, số lượng khách hàng còn ít,đồng thời
lại diễn ra trong thời điểm gần cuối năm.Do đó những trở ngại ban đầu của Chi
nhánh mới cộng với khối lượng công việc lớn dồn vào cùng một thời điểm là những
khó khăn không nhỏ phải đối mặt và vượt khó.
2.1.3

KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH TRONG 3 NĂM GẦN NHẤT

2005;2006 2007.
Số liệu kinh doanh trong 3 năm từ 2005 đến 2007 :
Đơn vị: tỷ đồng

STT

CHỈ TIÊU

TH 2005

TH 2006

TH 2007


1

Tổng tài sản

1.428

2.183

2.720

2
3

Huy động vốn cuối kỳ
Dư nợ tín dụng
- Ngắn hạn
- Trung dài hạn TM
Dư nợ theo loại tiền VNĐ
Dư nợ tín dụng BQ
Nợ quá hạn
Thu dịch vụ dòng
Chênh lệch thu chi
Trích DPRR(luỹ kế trong năm)
Lợi nhuận trước thuế
Lợi nhuận sau thuế BQ/người
Số lao động

1.279
731

488
244
557
494
0.88
3.9
15.01
6
9.01
0.057
113

2.107
1.387
731
656
1.085
960
1.39
8.1
37
11
25.90
0.143
130

2.566
2.076
1.163
914

1.599
1.765
2
16
70
30
40
0.296
135

4
5
6
7
8
9
10
11
12

2.1.3.1 Tình hình huy động vốn.

Huy ®éng d©n c

2005
73%

2006
70%


2007
65%


Huy ®éng tæ chøc kinh tÕ
- VN§
- Ngo¹i tÖ
- Ng¾n h¹n
- Dµi h¹n

27%
65,6%
34,4%
53%
47%

30%
66%
34%
48%
52%

35%
75%
25%
40%
60%

Chi nhánh Đông Đô thành lập từ tháng 7/2004 với mức huy động vốn
chuyển giao từ SGD I tại thời điểm đó đạt 729 tỷ đồng, sau 5 tháng hoạt động đến

cuối năm 2004 chi nhánh đã đạt 818 tỷ đồng tăng 12% so với thời điểm chuyển
giao. Đến năm 2005, tổng nguồn vốn tự huy động đạt 1.279 tỷ đồng tăng 461 tỷ so
với 31/12/2004.
Trong năm 2006, tổng tài sản từ 1,428 tỷ đồng năm 2005 tăng lên 2,183 tỷ
đồng năm 2006 (tăng 53,2% so với năm 2005). Mức huy động vốn bình quân, dư nợ
tín dụng cũng tăng một cách đáng kể. Lãi suất tiền gửi USD được điều chỉnh 5 lần,
tiền gửi VNĐ được điều chỉnh 3 lần trong năm 2006 thể hiện sự tích cực trong công
tác điều chỉnh lãi suất theo diễn biến thị trường. Tổng huy động trên tổng tài sản đạt
96.5%, huy động VNĐ đạt 66%, huy động USD đạt 34% so với tổng huy động.
Trong năm 2007,tổng tài sản tăng từ 2.183 tỷ đồng(2006) lên 2.720 tỷ đồng
(tăng 537 tỷ tức gần 25%).Tổng huy động trên tổng tài sản đạt 94.3% .Huy động
VND đạt75%,huy USD là 25% do năm vừa qua lãi suất USD giảm so với cùng kì
năm 2006.
Về cơ bản, cơ cấu nguồn vốn tương đối đồng đều về kỳ hạn bảo đảm tốt nhu
cầu về thanh khoản, giai ngân tín dụng cũng như đầu tư tiền gửi tại H.O góp phần
làm tăng nguồn vốn huy động toàn ngành.
2.1.3.2 Công tác tín dụng.
Tính đến hết năm 2005 tổng hư nợ tín dụng đạt 731 tỷ đồng (quy đổi) tăng 464
tỷ so với 31/12/2004 đạt 99,4% so với kế hoạch 2005, đến thời điểm 30/06/2006 tổng
dư nợ tín dụng tại Chi nhánh Đông Đô là: 1.089 tỷ VND tăng 295 tỷ đồng so với đầu
năm 2006 và đến cuối năm 2006 tổng dư nợ tín dụng đạt 1387 tỷ VND.Đến năm 2007


tổng dư nợ Tín dụng đã lên đến 2076 tỷ VNĐ tăng 689 tỷ đồng hay gần 50% so với
thời điểm 2006.Đây quả là những bước tiến rất đáng tự hào của Chi nhánh.
Kết quả thực hiện cụ thể qua các năm:
Đơn vị : tỷ đồng
Năm 2005
Số
TT


Chỉ tiêu

TỔNG DƯ NỢ
I Theo thành phần kinh tế
1 - Doanh nghiệp NN
- Công ty CP, TNHH,
2
DNTN,Hộ cá thể
II Theo thời gian
1 - Ngắn hạn
2 - Trung, dài hạn
III Theo loại tiền
1 VND
2 Ngoại tệ

Dư nợ

Tỷ trọng
(%)

731

Năm 2006
Tỷ
Dư nợ

trọng

Năm 2007

Dư nợ

(%)
1.387

Tỷ trọng
(%)

2.076

402

55

277.4

20

727

35

329

45

1109.6

80


1.349

65

488
243

66,7
33,3

731
656

52,7
47,3

1.163
914

56
44

557
174

76,2
13,8

1085
302


78,2
11,8

1.163
914

56
34

Qua bảng trên có thể thấy trong thời gian qua Chi nhánh Đông Đô đã tích cực
mở rộng và tập trung cấp tín dụng đối với các đối tượng kinh tế ngoài Quốc
doanh.Nếu trong năm 2005 tỷ trọng cho vay đối với khu vực nhà nước đạt 55% và
45% đối với khu vực ngoài quốc doanh thì đến Tháng 6/2006 tỷ lệ dư nợ của nhóm
khách hàng ngoài quốc doanh chiếm xấp xỉ 55% và đến cuối năm 2006 đã là
80%.Tỷ trọng cho vay đối với khu vực nhà nước chiếm 20% đây chủ yếu là những
doanh nghiệp có quan hệ lâu năm với BIDV vì vậy, chi nhánh vẫn tiếp tục duy trì
quan hệ tín dụng.Sang năm 2007 tỷ trọng này lần lượt là 35% và 65%. Về cơ cấu dư
nợ theo thời hạn cho vay : Năm 2005 dư nợ ngắn hạn đạt 488 tỷ đồng chiếm 66,7%
tổng dư nợ. Đến 30/06/06 dư nợ ngắn hạn đạt 613 tỷ đồng,đến cuối năm là 731 tỷ
chiếm 52,7% tổng dư nợ..Năm 2007 dự nợ ngắn hạn đạt1.163 tỷ đồng tăng 432 tỷ
đồng so với năm 2006,chiếm 56% tổng dư nợ tuy nhiên tỷ trọng này sẽ giảm mạnh
khi các dự án cho vay dài hạn của chi nhánh được giải ngân.


Trong tổng dư nợ ngắn hạn, tỷ trọng cho vay xây lắp và cho vay kinh doanh bất
động sản là rất cao. Tổng dư nợ hai đối tượng này hết tháng 6/2006 là trên 55% dư
nợ ngắn hạn. Trong khi đó tỷ lệ dư nợ vay có đảm bảo của các đối tượng này lại rất
thấp chỉ chiếm trên 30%. Đây là đối tượng tìm ẩn nhiều rủi ro không khuyến khích
cho vay. Vì vậy trong thời gian tới cần có những chính sách và phương pháp quản

lý nhằm giảm dần dư nợ ở nhóm đối tượng khách hàng này đề hạn chế những rủi ro
xảy ra.
2.1.3.3 Dịch vụ.
Kết quả thực hiện qua các năm :
Đơn vị : tỷ đồng
Chỉ tiêu
Thu dịch vụ ròng
Thu DV ròng/ Lợi nhuận TT

Năm 2005
3.9
43,3%

Năm 2006
8.1
32,27%

Năm 2007
16
40%

Hiện nay hoạt động dịch vụ đang là mũi nhọn của các NHTM trên cả nước,
Chi nhánh Đông Đô cũng lấy đây là mục tiêu kinh doanh của Chi nhánh. Năm 2005
thu dịch vụ ròng của Chi nhánh đạt 3.9 tỷ đồng đến năm 2006 thu dịch vụ đạt 8.1 tỷ
đồng tăng 4.2 tỷ so với năm 2005,tức tăng hơn 100%,đặc biệt chỉ trong 6 tháng đầu
năm 2006 chỉ tiêu thu dịch vụ của Chi nhánh đã hoàn thành 69 % kế hoạch kinh
doanh.Năm 2007 thu dịch vụ ròng của Chi nhánh tiếp tục tăng manh,đạt 16 tỉ đồng
gần gấp đôi năm 2006.
Các sản phảm dịch vụ cụ thể tại Chi nhánh NHĐT&PT Đông Đô :
1.Tín dụng :

1.1.Cho vay tổ chức kinh tế
-Cho vay ngắn hạn bổ sung vốn lưu động.
-Cho vay trung hạn đầu tư dự án
-Cho vay dài hạn đầu tư dự án
-Cho vay đồng tài trợ,hợp vốn các dự án
1.2.Bảo lãnh :


×