Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

An Toàn Lương Thực của các dân tộc thiểu số ở vùng cao Việt Nam dưới tác động của yếu tố xã hội và văn hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (241.88 KB, 20 trang )

Bài 3
An toàn lơng thực
của các dân tộc thiểu số ở vùng cao Việt Nam
dới tác động của yếu tố xã hội và văn hoá
Tiến sĩ Vơng Xuân Tình
Viện Dân tộc học
An toàn lơng thực (Food security) là vấn đề nóng bỏng của toàn cầu hiện nay, đặc biệt với

các dân tộc thiểu số - những c dân mà trong quá trình phát triển thờng chịu nhiều thiệt thòi và
sống ở mức nghèo khổ. Lơng thực ở đây đợc hiểu không chỉ là các loại ngũ cốc (cung cấp chất
bột), mà là toàn bộ nguồn thức ăn của con ngời.
Thực ra, vấn đề an toàn lơng thực đã đợc nêu lên từ những năm của thập kỷ 70. Năm
1986, Ngân hàng thế giới (World Bank) đã có định nghĩa nh sau: "An toàn lơng thực là cơ hội
có đợc của tất cả mọi ngời ở mọi thời gian để có đủ lơng thực cho các hoạt động và điều kiện
sức khoẻ". Còn theo bản "Đệ trình kế hoạch hành động về vấn đề lơng thực toàn cầu" của Liên
hợp quốc họp tại Rome, tháng 11 năm 1996, một lần nữa lại khẳng định: "An toàn lơng thực chỉ
tồn tại khi tất cả mọi ngời, ở bất kỳ thời gian nào đều có đợc nguồn lơng thực, không những
đầy đủ mà còn đảm bảo dinh dỡng để đáp ứng nhu cầu và sở thích ăn uống, đáp ứng cho các
hoạt động và điều kiện sức khoẻ của họ" (dẫn theo Jonathan Rigg, 2001).
Nh vậy, vấn đề then chốt của an toàn lơng thực là phải đảm bảo đợc điều kiện để tiếp
cận với các nguồn lơng thực và phải thích ứng với sự đổi thay của nguồn lơng thực ấy khi

những điều kiện tự nhiên và xã hội chuyển đổi. Theo Maxwel và Wiebe, an toàn lơng thực của
những c dân không thuộc khu vực đô thị gắn bó rất mật thiết với chế độ sở hữu đất đai và nguồn
tài nguyên. Các tác giả đã nêu lên sơ đồ của chuỗi quan hệ đó nh sau: Đất đai - Sản phẩm Thu nhập - Tiêu thụ - Tình trạng dinh dỡng (Daniel Maxwel and Keith Wiebe, 1998). Trên thực

tế, an toàn lơng thực còn có liên quan tới gia tăng dân số, tới thị trờng và dịch vụ về lơng thực,
tới các nguồn trợ cấp, mối quan hệ xã hội, văn hoá và cả chính sách về lơng thực của mỗi quốc
gia. Khi đề cập tới vấn đề an toàn lơng thực, có thể ở nhiều cấp độ: từ thế giới, quốc gia, vùng,
địa phơng, nhóm c dân đến hộ gia đình.
Báo cáo này trình bày về tình trạng an toàn lơng thực của các dân tộc thiểu số ở vùng cao


Việt Nam dới tác động của yếu tố xã hội và văn hoá. Các yếu tố xã hội có ảnh hởng mạnh mẽ
đến an toàn lơng thực của c dân nơi đây chủ yếu là chế độ hởng dụng đất đai, chính sách
định canh định c, chính sách xoá đói giảm nghèo và chính sách xã hội, chính sách thị trờng...

Mặt khác, những nhân tố về văn hoá nh tập quán ăn uống, tập quán chia sẻ thức ăn, tập quán
tơng trợ và giúp đỡ trong cộng đồng... cũng tác động không nhỏ đến an toàn lơng thực của họ.

168


I. Tình trạng an toàn lơng thực của các dân tộc thiểu số ở
vùng cao Việt Nam
I.1. An toàn lơng thực trong xã hội truyền thống
Trong số 53 dân tộc thiểu số ở nớc ta hiện nay, trừ ngời Hoa, ngời Chăm và Khơ-me, có
tới 50 dân tộc chủ yếu sinh sống tại vùng cao. Trong xã hội truyền thống, với nền kinh tế tự cung
tự cấp, vấn đề an toàn lơng thực của họ chủ yếu dựa trên những cơ sở sau đây:
- Nguồn lơng thực từ canh tác nông nghiệp. Sống trong khu vực Đông Nam á lục địa - một
trong những cái nôi phát sinh ra cây lúa, nên với các dân tộc tại vùng cao nớc ta, dù ở miền núi
phía Bắc hay vùng Trờng Sơn - Tây Nguyên, có điểm khá thống nhất là đều lấy gạo làm nguồn
lơng thực chủ yếu. Có một số tộc ngời sống ở một vài địa phơng nh ngời H'Mông, ngời
Dao, ngời Lô Lô sinh sống tại vùng cao nguyên núi đá tỉnh Hà Giang lại lấy ngô làm nguồn
lơng thực chính, bởi do đặc điểm sinh thái trong vùng chỉ phù hợp với cây lơng thực này.
Do lấy gạo làm nguồn lơng thực chủ yếu nên hoạt động chính trong nông nghiệp là canh
tác lúa. Tuỳ theo từng nơi, dựa trên điều kiện sinh thái mà đồng bào trồng lúa nớc hay lúa cạn.

Tại những khu vực thung lũng - nơi c trú của các dân tộc nh Tày, Nùng, Mờng, Thái..., việc
canh tác lúa nớc khá phát triển, và trong truyền thống, nhiều dân tộc đã biết thâm canh. Còn ở
khu vực vùng rẻo cao, vùng Tây Nguyên, một nền nông nghiệp nơng rẫy lại đợc hình thành từ
lâu đời. Tuy nhiên, do cha có điều kiện đầu t kỹ thuật nên năng suất lúa trong xã hội truyền
thống không cao, lúa nớc thờng chỉ đạt 1 - 2 tấn/ha/vụ. Với lúa nơng, nếu là nơng phát ở

rừng già trong vụ đầu cũng đạt mức độ trên 1 tấn/ha, còn các vụ tiếp theo thì giảm hơn.
Bên cạnh lúa là cây trồng chính, đồng bào các dân tộc ở vùng cao còn trồng thêm nhiều
cây lơng thực bổ trợ, nh ngô, sắn, khoai sọ, khoai lang, dong riềng, kê, mạch... Rất nhiều loại
rau, đậu, đặc biệt là những loại nh bầu, bí, rau cải, rau dền, đậu tơng, đậu đũa, hành, tỏi, sả,
ớt..., cùng với các loại cây ăn quả nh chuối, đu đủ, mít, dứa..., cũng đợc gieo trồng (chủ yếu
trồng trên nơng rẫy) để giải quyết nhu cầu thực phẩm hàng ngày.
Chăn nuôi ở vùng cao, bên cạnh việc đảm sức kéo (trâu, bò) hoặc sử dụng cho vận chuyển
(ngựa, voi), phần lớn đợc dùng để làm nguồn thực phẩm. Có khu vực vùng cao nh của ngời
H'Mông ở Kỳ Sơn - Nghệ An, đàn bò rất phát triển. Tại đây, bò đợc nuôi chủ yếu để trao đổi và
dùng trong cúng bái. Các loại gia súc, gia cầm nh lợn, gà... đợc nuôi ở hầu khắp các vùng,
những loại nh dê, vịt, ngan, ngỗng... thờng đợc nuôi ở vùng thung lũng. Cùng với các loại rau
đậu, thịt của gia súc, gia cầm đã góp phần tăng cờng nguồn thực phẩm cho đồng bào các dân
tộc vùng cao.
Cá nuôi cũng là một nguồn thực phẩm quan trọng với nhiều c dân, nhất là các c dân
vùng thung lũng. ở các dân tộc nh Tày, Nùng, Mờng, Thái..., ngoài nuôi cá ở ao, đồng bào còn
có tập quán nuôi cá ruộng. Ngời H'Mông và ngời Dao ở Hoàng Su Phì - Hà Giang, tuy sống
trên vùng đất dốc, canh tác ruộng bậc thang nhng cũng thả cá ruộng. Khi trời ma to, ngời ta
cắm vào ruộng một số cành cọ làm tán lợp; vì thế, cá sẽ ở lại ruộng mà không vợt đi theo dòng
nớc... Giống cá nuôi đều là cá tự nhiên, đợc khai thác hoặc lấy trứng ở sông suối rồi đem ơng.
Với loại cá thả ở ruộng, hầu hết là cá chép.

169


- Nguồn lơng thực khai thác từ thiên nhiên. Đây là nguồn lơng thực có vị trí quan trọng
trong xã hội truyền thống, bởi nó bổ trợ cho nguồn lơng thực từ canh tác. Nh đã trình bày, do
năng suất thấp và do thiên tai, dịch bệnh hoành hành nên canh tác nông nghiệp chỉ đáp ứng
phần nào nhu cầu lơng thực của ngời dân vùng cao. Những khi đói kém, hoặc để bổ sung cho
nguồn lơng thực không canh tác đợc, ngời dân phải dựa vào thu nhập bằng săn bắn và hái
lợm. Các hoạt động này diễn ra gần nh quanh năm, trong đó, việc thu hái các loại rau, củ, quả

chủ yếu vào mùa xuân và mùa hè; còn đánh bắt cá, săn bắn thú thờng có hiệu quả vào mùa thu
và mùa đông. Hoạt động hái lợm thờng cho các loại chất bột (củ mài, thân một số loại cây họ
cau... ) và rau xanh (rau rừng, măng, nấm, mọc nhĩ... ); còn săn bắt thì cho nguồn đạm (chim thú,
côn trùng, thuỷ sản... ).
Trong xã hội truyền thống, hoạt động săn bắt và hái lợm ở vùng cao phát triển và có hiệu
quả còn bởi điều kiện thiên nhiên, môi trờng và xã hội cho phép. Do đất rộng, ngời tha, và luật
tục của hầu hết các dân tộc thiểu số đều cho mọi ngời dân có quyền đợc tiếp cận với nguồn tài
nguyên nên hoạt động đó ít bị cản trở. Săn bắt, hái lợm còn đợc phân công theo giới và lứa
tuổi, đợc liên kết không chỉ một làng mà nhiều làng, đợc tiến hành không chỉ bởi nhu cầu ăn
uống mà còn do nếp sống văn hoá (giải trí, lấy thức ăn thờ cúng... ).
- Nguồn lơng thực từ trao đổi và tơng trợ trong cộng đồng. Sống trong tình trạng tự cung
tự cấp nên những trao đổi, mua bán về lơng thực của các dân tộc thờng ít xảy ra; hoặc thờng
diễn ra theo chiều hớng: đồng bào bán những sản phẩm nông nghiệp và săn bắt, hái lợm để có
tiền mua vật phẩm khác. Tuy nhiên, điều này cũng thờng chỉ xuất hiện ở các dân tộc miền núi
phía Bắc, đặc biệt là vùng Đông Bắc - nơi có điều kiện tiếp xúc với nền kinh tế hàng hoá, đã có
hệ thống chợ vùng. Còn ở khu vực Tây Bắc và Tây Nguyên, đồng bào thờng trao đổi bằng vật
phẩm.
Tơng trợ trong cộng đồng có vị trí rất quan trọng trong an toàn lơng thực của ngời dân

vùng cao. Việc tơng trợ thờng diễn ra trong phạm vi gia đình, dòng họ và làng hay liên làng. Tại
vùng Trờng Sơn - Tây Nguyên, thậm chí tới trớc năm 1975, vẫn tồn tại nguyên tắc: một gia đình
không bao giờ bị đứt bữa nếu hộ khác trong làng vẫn còn lơng thực. Về bản chất, hoạt động
tơng trợ đợc dựa trên cơ sở cộng đồng về sở hữu, bởi toàn bộ đất đai và nguồn tài nguyên là
thuộc cộng đồng; các cá nhân chỉ có quyền khai thác. Trớc năm 1945, chế độ sở hữu này còn
tồn tại ở hầu khắp các dân tộc thiểu số tại vùng rẻo cao miền núi phía Bắc và vùng Trờng Sơn Tây Nguyên. Ngay các dân tộc sống tại vùng thung lũng Tây Bắc nh Mờng và Thái, chế độ
công hữu về ruộng nớc vẫn còn phổ biến. Còn với đất nơng rẫy và rừng núi, sông suối thì về cơ
bản vẫn thuộc sở hữu cộng đồng. Bên cạnh chế độ sở hữu, các thiết chế khác nh dòng họ, tổ
chức làng bản cũng góp phần quan trọng để duy trì cách thức tơng trợ này. Tại Tây Nguyên, sự

tồn tại của nhà dài và mối quan hệ xã hội trong nhà dài (đại gia đình) là những nhân tố duy trì lâu

bền quan hệ tơng trợ triệt để về lơng thực.
Nh vậy, trong xã hội truyền thống, vấn đề an toàn lơng thực của mỗi gia đình các dân tộc
ở vùng cao đợc dựa trên các cơ sở nh sau:
Canh tác nông nghiệp + Săn bắt, hái lợm + Tơng trợ
_______________________________________________
An toàn lơng thực (hộ gia đình)

170


Trong điều kiện kỹ thuật canh tác truyền thống ít biến đổi và phát triển thì điều kiện tự
nhiên, mối quan hệ sở hữu và thiết chế xã hội có tác động lớn đến an toàn lơng thực của ngời

dân vùng cao; còn chính sách của các thể chế chính trị và yếu tố thị trờng lại ít ảnh hởng.

I.2. Thực trạng an toàn lơng thực của các dân tộc vùng cao hiện nay
Vấn đề an toàn lơng thực của các dân tộc thiểu số ở vùng cao nớc ta có sự chuyển biến
kể từ sau khi thực hiện công cuộc Đổi Mới (1986), mà trực tiếp là chịu ảnh hởng của cơ chế kinh
tế thị trờng, chính sách Khoán 10, Luật đất đai 1993 và một số chính sách đầu t, phát triển

khác ở vùng dân tộc và miền núi.
Về cơ bản, vấn đề an toàn lơng thực của các dân tộc thiểu số vẫn dựa trên cơ sở canh tác
nông nghiệp, khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên và tơng trợ, song tính chất và mức độ đã
đổi thay; và ngoài ra, an toàn lơng thực còn chịu tác động của các chính sách của Nhà nớc và
của cơ chế thị trờng. Tuy nhiên, chúng tôi sẽ trình bày những vấn đề đó kỹ hơn ở mục sau.
Trong phần này, chúng tôi chỉ nêu lên bức tranh về an toàn lơng thực trong đời sống của các
dân tộc ở vùng cao hiện nay.
Nói tới an toàn lơng thực, cho đến nay, các cơ quan chức năng thờng chỉ đề cập đến mức
thu nhập bình quân lơng thực - tức ngũ cốc - để đảm bảo nguồn thức ăn tối thiểu theo tập quán
ăn uống của c dân trồng trọt. Hiện tại, Việt Nam là nớc xuất khẩu gạo đứng hàng thứ 2 trên thế

giới, với mức trên dới 4 triệu tấn/năm. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa chúng ta đã giải quyết
tốt vấn đề an toàn lơng thực, bởi rất nhiều chi phí quốc gia phải trông chờ vào hạt gạo; mặt khác,
ngời trồng lúa xuất khẩu lại hầu hết là nông dân vùng đồng bằng sông Hồng và sông Cửu Long.
Với ngời nông dân các dân tộc vùng cao, việc mua lơng thực chỉ có đợc khi họ có sản phẩm
hàng hoá. Trớc khi phân tích tình trạng thu nhập lơng thực của ngời nông dân vùng cao, cần
nhận thấy rằng cho đến nay, thu nhập từ trồng trọt, nhất là lơng thực của họ vẫn chiếm vị trí chủ
yếu. Có một số nơi, đồng bào đã canh tác các loại cây hàng hoá (cây công nghiệp, cây ăn quả)
nhng cha nhiều. Những nguồn thu từ chăn nuôi lại khá khiêm tốn; bởi hầu hết sản phẩm chăn
nuôi chỉ đủ chi dùng cho cúng bái, tết lễ nên khó trở thành hàng hoá. Bên cạnh đó, ngành nghề
còn kém phát triển. Nếu xem xét thu nhập bình quân đầu ngời của vùng miền núi phía Bắc và
Tây Nguyên qua một số năm khi so với các vùng khác, sẽ có kết quả nh sau (Bảng 1).
Bảng II.3.1. Thu nhập bình quân đầu ngời của vùng miền núi phía Bắc và Tây Nguyên
Đơn vị: đồng/năm
1994

1995

1996

1997

Cả nớc

168.110

206.100

226.700

261.500


Miền núi phía Bắc

132.360

160.650

173.760

205.060

Tây Nguyên

197.150

241.140

265.600

300.130

Đơn vị

Nguồn: Phạm Quang Hoan, Vơng Xuân Tình, Ma Trung Tỷ: 1999, tr. 28

Trên thực tế, thu nhập này cha phản ánh đúng mức độ nghèo đói của đồng bào dân tộc
thiểu số. Ví dụ về trờng hợp Tây Nguyên: Trong các năm cuối thập kỷ 90, vùng đất này phát
triển mạnh mẽ bởi mở rộng diện tích cà phê và giá cà phê tăng. Song ai là ngời có thu nhập từ
cây công nghiệp này ? Rõ ràng hầu hết là ngời Kinh, còn đồng bào dân tộc thiểu số chỉ chiếm


171


một tỉ lệ nhỏ. Qua khảo sát của chúng tôi, tại nhiều nơi, nếu đồng bào có trồng loại cây công
nghiệp ấy cũng không cho năng suất cao, bởi họ không có điều kiện đầu t và thiếu kỹ thuật canh
tác (Phạm Quang Hoan, Vơng Xuân Tình: 1999). Mức độ thu nhập cũng nh nguyên nhân kể
trên khiến tỉ lệ số hộ nghèo đói ở vùng dân tộc và miền núi còn cao (Bảng 2). ở đây, việc đánh
giá nghèo đói đợc dựa trên tiêu chí của Bộ Lao động - Thơng binh - Xã hội, và các tiêu chí này
chủ yếu dựa trên cơ sở thu nhập về lơng thực: Hộ đói có mức thu nhập dới 13 kg
gạo/ngời/tháng (tơng đơng 45.000đ); hộ nghèo: với mức dới 15 kg gạo/ngời/tháng (tơng
đơng 55.000 đ) (Lê Du Phong, Hoàng Văn Hoa, Nguyễn Văn áng: 2000, tr. 18).
Bảng II.3.2. Tỉ lệ hộ đói nghèo ở một số vùng cao trong so sánh với khu vực khác
Đơn vị:%
1997

1998

Miền núi phía Bắc

25,27

23,45

Đồng bằng sông Hồng

10,35

8,96

Khu Bốn cũ


25,10

22,47

Duyên hải miền Trung

17,70

15,28

Tây Nguyên

28,60

23,25

9,20

7,58

19,08

16,70

Địa phơng

Đồng bằng Nam Bộ

Cả nớc


Nguồn: Phạm Quang Hoan, Vơng Xuân Tình, Ma Trung Tỷ: 1999, tr. 28

Bảng 2 cho thấy tỉ lệ hộ đói nghèo ở hai vùng miền núi phía Bắc và Tây Nguyên - nơi có
nhiều đồng bào dân tộc thiểu số nhất - thuộc diện cao nhất. Bảng 3 sẽ cho thêm ví dụ về tình
trạng nghèo đói ở một số tỉnh của miền núi phía Bắc.
Bảng II.3.3. Tỉ lệ hộ nghèo đói ở một số tỉnh miền núi phía Bắc (1998)
Đơn vị:%
Tỉnh

Tỉ lệ hộ nghèo đói

Tỉnh

Tỉ lệ hộ nghèo đói

Hà Giang

25,0

Bắc Kạn

32,0

Tuyên Quang

12,5

Phú Thọ


18,0

Cao Bằng

25,0

Bắc Giang

18,9

Lạng Sơn

26,0

Quảng Ninh

16,0

Lào Cai

32,0

Hoà Bình

24,3

Yên Bái

16,0


Sơn La

31,3

Thái Nguyên

11,5

Lai Châu

33,8

Nguồn: Phạm Quang Hoan, Vơng Xuân Tình, Ma Trung Tỷ: 1999, tr. 29

Bảng 4 trình bày về tình trạng đói nghèo ở một tỉnh tại khu vực Tây Nguyên: tỉnh Đắk Lắk.
Trong bảng này không có phân chia về dân tộc, song c dân tại Khu vực III thì hầu hết là các dân
tộc thiểu số. Có nhận xét chung: nếu chỉ căn cứ vào lơng thực quy thóc, với mức 251
kg/ngời/năm của khu vực này, sẽ thấy không mấy thấp hơn chỉ số tơng tự khi so với Khu vực II
(263 kg); thậm chí còn cao hơn cả Khu vực I (215 kg). Song nếu xem xét về mức thu nhập, sẽ
thấy: C dân tại Khu vực III chỉ bằng 1/2 của Khu vực II, và bằng 1/3 của Khu vực I. Điều đó đã

172


tạo nên sự chênh lệch về mức sống khá lớn giữa các c dân dân tộc thiểu số và c dân đô thị chủ yếu là ngời Kinh - ở ngay trong nội tỉnh (Bùi Thế Cờng, Vơng Xuân Tình: 1999).
Bảng II.3.4. Tình hình đói nghèo của tỉnh Đắk Lắk (1998)
Chỉ số

Đơn vị tính


Toàn tỉnh

Khu vực I

Khu vực II

Khu vực III

1. Thu nhập bình quân của 1
ngời/năm

triệu đ

3,85

5,41

2,99

1,43

2. Lơng thực quy thóc của 1
ngời/năm

kg

240

215


263

251

3. Số hộ đói - Tỉ lệ so với
dân số

hộ

13.214

2.032

6.113

5.069

%

4%

2%

5%

13%

4. Số hộ nghèo

hộ


32.578

7.582

17.270

7.726

- Tỉ lệ so với dân số

%

11%

6%

13%

20%

5. Số hộ trung bình

hộ

166.925

66.770

75.951


24.204

- Tỉ lệ so với dân số

%

55%

49%

59%

62%

6. Số hộ khá

hộ

55.872

35.318

18.827

1.727

- Tỉ lệ so với dân số

%


18%

26%

15%

4%

7. Số hộ giàu

hộ

34.912

23.204

11.118

590

- Tỉ lệ so với dân số

%

12%

17%

9%


2%

Nguồn: Báo cáo Về thực trạng đời sống đồng bào dân tộc bản địa của tỉnh. Ban Dân tộc tỉnh
Đắk Lắk, 1999.

Qua các bảng trên, chúng ta thấy tình trạng đói nghèo (dựa trên tiêu chí về lơng thực) của
một số địa phơng thuộc vùng cao. Tại các điều tra trên diện rộng, việc phân loại tình trạng đói
nghèo theo dân tộc là vấn đề nan giải; vì vậy, trong bài viết này, chúng tôi chỉ xin trình bày tình
trạng đó ở những nghiên cứu cụ thể.
Xin nêu ví dụ về tình trạng đói nghèo của ngời Rơ-măm, một dân tộc có dân số ít: cả tộc
ngời này chỉ có trên 300 nhân khẩu, sống tập trung tại 1 làng - làng Le, xã Mo Ray, huyện Sa
Thầy, tỉnh Kon Tum. Theo điều tra thực địa của chúng tôi vào năm 2000, có 28/77 hộ gia đình
trong làng (chiếm hơn 36%) thuộc diện nghèo đói (Vơng Xuân Tình: 2001). Bảng 5 sẽ cho biết
thêm về tình trạng đói nghèo tại 3 xã vùng cao của tỉnh Quảng Ngãi, nơi mà c dân ở đây phần
lớn là dân tộc Hrê. Tỉ lệ hộ đói nghèo của các xã này rất cao: xã Long Môn lên tới trên 90%, xã
Ba Lế - trên 80%; còn thấp nhất là xã Sơn Linh cũng trên 70%.
Bảng II.3.5. Tình trạng đói nghèo của dân tộc Hrê năm 1998
Đơn vị

Tổng
số hộ

Hộ đói
Tổng số

Hộ nghèo

Tỉ lệ (%)


Tổng số

Tỉ lệ (%)

Xã Long Môn (huyện Minh Long)

201

80

39,8

109

54,2

Xã Ba Lế (huyện Ba Tơ)

219

72

32,8

113

51,6

Xã Sơn Linh (huyện Sơn Hà)


836

135

16,1

475

56,8

Nguồn: Trung tâm nghiên cứu t vấn và phát triển: 1999

Tình hình nghèo đói của các dân tộc thiểu số tại một số vùng miền núi phía Bắc cũng
không mấy khả quan hơn. Nghiên cứu thực địa của chúng tôi tại huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai trong

173


năm 1998 cho thấy: có tới 80% số hộ gia đình H'Mông ở các xã Lao Chải, Hầu Thào, Sử Pán
thiếu ăn từ 1 tháng trở lên.
Nếu xem xét tình trạng nghèo đói của các dân tộc thiểu số trong so sánh với dân tộc Kinh,
sẽ thấy mức chênh lệch quá lớn. Trong năm 1998, nếu nh ngời Kinh chỉ có 31% nghèo đói, thì
tỉ lệ đó ở các dân tộc thiểu số là 75%, tức cao gấp hơn 2 lần (Hội nghị nhóm t vấn các nhà tài trợ
cho Việt Nam, 14-15/12/1999).

II. Tác động của yếu tố xã hội và văn hoá tới an toàn lơng
thực của các dân tộc thiểu số ở vùng cao
I.1. Tác động của một số chính sách
II.1.1. Chính sách đất đai
Năm 1986 là thời điểm mở đầu của tiến trình Đổi Mới ở Việt Nam, và có thể khẳng định, tiến

trình ấy đợc đột phá bằng những cải cách về đất đai.
Việc quản lý và sử dụng đất đai nông nghiệp trong cơ chế kinh tế tập trung, quan liêu bao
cấp ở giai đoạn trớc đã không phát huy đợc tiềm năng lao động của ngời dân. Đó là nguyên
nhân chủ yếu khiến cho năng suất lao động thấp và tình trạng thiếu đói triền miên ở cả vùng đồng
bằng và miền núi. Để thúc đẩy sự gắn bó của ngời nông dân với đất đai, năm 1988, Bộ Chính trị
đã ban hành Nghị quyết 10, hay còn gọi là Khoán 10. Khác với Khoán 100 - loại khoán việc cho
xã viên hợp tác xã, thực chất của Khoán 10 là khoán sản phẩm, tức giao ruộng đất cho ngời
nông dân canh tác và ngoài khoản thuế cùng số phụ thu khác cho hợp tác xã, họ đợc hởng
phần hoa lợi còn lại. Tuy nhiên tại vùng cao, ảnh hởng của chính sách Khoán 10 vẫn hạn chế,
bởi về cơ bản, Khoán 10 mới đợc thực hiện với đất ruộng nớc.
Phải tới khi Luật đất đai năm 1993 ra đời, sự tác động về chính sách đất đai của Nhà nớc
đến vùng dân tộc thiểu số mới toàn diện và mạnh mẽ hơn. Theo Điều 20 của Luật đất đai, đợc
sửa đổi bổ sung vào năm 1998, "Nhà nớc giao đất cho các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử
dụng ổn định lâu dài. Thời hạn giao đất ổn định lâu dài để trồng cây hàng năm, nuôi trồng thuỷ
sản là 20 năm, để trồng cây lâu năm là 50 năm. Khi hết thời hạn, nếu ngời sử dụng đất có nhu
cầu tiếp tục sử dụng và trong quá trình sử dụng đất chấp hành đúng pháp luật về đất đai thì đợc
Nhà nớc giao đất để tiếp tục sử dụng... " (Một số văn bản về phát triển nông nghiệp nông thôn.
2000: 369). Về mức sử dụng đất, căn cứ theo Luật đất đai, Chính phủ đã ra Nghị định số 64/CP
(năm 1993), trong đó quy định : i. Đối với đất nông nghiệp trồng cây hàng năm: ở các tỉnh vùng
đồng bằng Nam Bộ và thành phố Hồ Chí Minh, mỗi hộ gia đình hoặc cá nhân đợc sử dụng
không quá 3 ha; tại các tỉnh và thành phố trực thuộc trung ơng khác - không quá 2 ha. ii. Đối với
đất nông nghiệp để trồng cây lâu năm, các xã đồng bằng không quá 10 ha; các xã trung du, miền

núi không quá 30 ha (Một số văn bản về phát triển nông nghiệp nông thôn. 2000: 282-283).
Ngoài các chính sách trên, còn có những văn bản liên quan trực tiếp hơn đến vấn đề đất
đai ở vùng dân tộc thiểu số, đó là Nghị định số 02/CP (1994) quy định về việc giao đất lâm nghiệp
cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng lâu dài vào mục đích lâm nghiệp; Quyết định số
202/TTg (1994) quy định về việc khoán bảo vệ rừng, khoanh nuôi tái sinh rừng và trồng rừng
(Chính sách và chế độ pháp lý đối với đồng bào dân tộc và miền núi. 1996: 150-171). Nhằm thực


174


hiện tốt việc giao đất cho hộ gia đình và cá nhân, Nhà nớc chủ trơng cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất. Theo Điều 3 của Luật đất đai 1993, hộ gia đình và cá nhân "... có quyền
chuyển đổi, chuyển nhợng, cho thuê, thừa kế, thế chấp quyền sử dụng ruộng đất " (Luật đất đai.
1994: 7).
Nh vậy, xét trên văn bản, tác động của Luật đất đai năm 1993, của Luật sửa đổi bổ sung
một số điều của Luật đất đai năm 1998, một mặt, đã kế thừa yếu tố sử dụng đất đai truyền thống,
đó là trao quyền sử dụng ruộng đất cho ngời trực tiếp sản xuất; mặt khác vẫn tăng cờng kiểm
soát của Nhà nớc về đất đai. Việc kiểm soát đó đợc thực hiện qua văn bản giao đất và mức
thuế cho ngời nhận đất.

Với Luật đất đai năm 1993, sở hữu cộng đồng về đất đai không đợc thừa nhận. Trong thời
kỳ trớc năm 1986, do các hợp tác xã và tập đoàn sản xuất lúc hợp lúc tan, thậm chí có nơi không
có tổ chức này, nên tại một số địa phơng - nhất là ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, việc sử dụng
đất đai theo cách thức truyền thống còn có điều kiện tồn tại. Đến nay, việc sử dụng ấy bị mất cơ
sở, bởi đất đai đợc giao cho hộ gia đình, cá nhân và các tổ chức. Các "tổ chức" ở đây, theo xác
định của Điều 1 trong Luật đất đai, là "tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân, cơ quan Nhà
nớc, tổ chức chính trị xã hội" (Luật đất đai. 1994: 6). Nh vậy, các "tổ chức" này đều có tính chất
hành chính, không phải cộng đồng.
Trong quá trình thực hiện Khoán 10 và Luật đất đai 1993, đã tác động nhiều mặt đến đời
sống kinh tế, xã hội ở vùng cao, đặc biệt tới vấn đề an toàn lơng thực. Đến nay, ở hầu hết vùng
thung lũng - nơi canh tác lúa nớc, năng suất lúa đều tăng. Ngay tại Tây Nguyên, nơi ít có điều
kiện thâm canh lúa nớc, song sản lợng lúa trong những năm qua đều tăng: năm 1995 đạt
650.000 tấn, tăng gấp hơn hai lần so với năm 1986; và tới năm 1997 còn đạt tới 850.000 tấn.
Nguyên nhân chính dẫn tới kết quả này là bởi ngời dân đợc trao quyền sử dụng đất đai (Vũ
Đình Lợi, Bùi Minh Đạo, Vũ Thị Hồng. 2000: 141). Tại một số nơi, đồng bào dân tộc thiểu số nh

Tày, Dao, Ê-đê, Gia-rai, Mnông... còn biết phát triển kinh tế vờn, thậm chí cả kinh tế trang trại

(trồng cam, trồng cà phê hoặc mô hình trang trại kinh doanh tổng hợp)..., nên đã có nhiều cải
thiện về thu nhập (Rita Lilijtrom, Eva Linkog, Nguyen Van Ang and Vuong Xuan Tinh. 1998: 3550, 250-275; Pham Quang Hoan and Vuong Xuan Tinh, 1999).
Bên cạnh mặt tích cực, chính sách đất đai cũng có ảnh hởng tiêu cực tới vấn đề an toàn
lơng thực, do tính không công bằng trong sử dụng đất của một số địa phơng. Tính không công
bằng xuất phát từ một số nguyên nhân sau đây:
Thứ nhất, đó là việc tranh chấp đất đai. Ngay từ khi triển khai Khoán 10, ở một số địa

phơng tại miền núi phía Bắc, điển hình là tỉnh Lạng Sơn đã xảy ra tình trạng đòi lại ruộng đất ông
cha đã góp vào hợp tác xã. Từ đó, dẫn đến hiện tợng tranh chấp đất đai: tranh chấp giữa cá
nhân và cá nhân, cá nhân với tập thể. Tại huyện Lộc Bình của tỉnh, nơi c trú chủ yếu của các
dân tộc Tày, Nùng, Kinh, chỉ tính từ đầu năm 1989 đến tháng 5 - 1990, đã có 189 vụ tranh chấp
ruộng đất, với 80,7 ha, trong đó có 69 vụ tranh chấp thuộc nội bộ gia đình (Viện Dân tộc học.
1993: 180). Việc tranh chấp và bao chiếm đất đai còn gia tăng, ngay với một số dân tộc nh Dao,
H'Mông ở vùng cao, khi thực hiện chủ trơng giao đất, giao rừng cho hộ gia đình (Vuong Xuan
Tinh and Peter Hjamdah, 1997). Tại khu vực Tây Nguyên, từ năm 1990 - 1998, đã có hơn 2.500
vụ tranh chấp đất đai phải đa lên các cấp có thẩm quyền giải quyết (Vũ Đình Lợi, Bùi Minh Đạo,

175


Vũ Thị Hồng. 2000: 157). Riêng tỉnh Đắk Lắk, trong những năm gần đây, với 117 vụ tranh chấp,
có 39 vụ liên quan đến đồng bào dân tộc tại chỗ (Vũ Ngọc Kích, Nguyễn Thị Phơng Hoa...
2000).
Thứ hai, việc mua bán đất đai diễn ra ngày càng phổ biến ở các vùng dân tộc thiểu số trong

nhiều năm qua. ở một số tỉnh miền núi phía Bắc, mua bán đất đai đã xuất hiện ngay từ khi thực
hiện Khoán 10 (Viện Dân tộc học. 1993: 180). Còn tại Tây Nguyên, do phát triển cây cà phê và
tình trạng di dân tự do nên việc mua đất của đồng bào dân tộc tại chỗ càng diễn ra phổ biến. ở
tỉnh Đắk Lắk, vào năm 1996, có nơi giá đất lên tới 40-50 triệu đồng/ha. Cũng tại tỉnh này, có
những làng của ngời dân tộc bản địa bán đất cho dân di c tự do lên tới gần 20 vụ (Vũ Đình Lợi,

Bùi Minh Đạo, Vũ Thị Hồng. 2000: 154). Còn ở xã Ea Nuol, huyện Buôn Đôn cùng tỉnh, đến năm
1999, có hơn 100 ha đất của các dân tộc Ê-đê, Mnông đợc bán cho ngời Kinh ở thị xã Buôn Mê
Thuột (Bui The Cuong and Vuong Xuan Tinh. 2000).
Thứ ba, các cơ quan và tổ chức của Nhà nớc vẫn còn sử dụng số lợng đất khá lớn. Tuy

Nhà nớc đã cắt giảm bớt đất đai của các nông, lâm trờng để giao cho địa phơng, song tại một
số nơi, nhất là Tây Nguyên, số lợng đất đai do nông, lâm trờng quản lý vẫn nhiều. ở 3 tỉnh Đắk
Lắk, Gia Lai và Kon Tum, với 88 lâm trờng và 57 nông trờng, vẫn quản lý tới 1.950.000 ha đất
rừng và rừng, chiếm 44% diện tích tự nhiên của 3 tỉnh (giảm 26% so với giai đoạn trớc năm
1986) (Vũ Đình Lợi, Bùi Minh Đạo, Vũ Thị Hồng. 2000: 124).
Cùng với dân số gia tăng và nạn di dân tự do, việc tranh chấp, bao chiếm, mua bán đất đai
nói trên dẫn đến hậu quả tất yếu là nhiều vùng, nhiều hộ dân tộc ít ngời bị thiếu đất canh tác.
Theo một điều tra ở 7 xã, phờng thuộc tỉnh Lai Châu, bình quân mỗi nhân khẩu có 300 m2 ruộng
nớc, 700 m2 đất nơng lúa và khoảng 800 m2 đất nơng trồng các loại cây khác. Qua phỏng vấn
1.147 ngời làm ruộng nớc, có 910 ngời (79%) trả lời là thiếu, và chỉ có 2 ngời trả lời là thừa
đất canh tác. Còn khi hỏi 1.685 ngời chuyên làm nơng rẫy, kết quả nh sau : thiếu đất canh tác
- 734 ngời (46,3%), thừa đất canh tác - 5 ngời (0,3%) (Viện Dân tộc học. 1998: 51). Còn ở Tây
Nguyên thì tỉnh Đắk Lắk thiếu đất trầm trọng hơn cả. Năm 1997, khi điều tra tại 29 xã và 81 buôn
của ngời dân tộc bản địa (thuộc vùng III), kết quả cho thấy: chỉ có 7/29 xã và 15/81 buôn đủ đất
canh tác; 9/29 xã và 17/81 buôn thiếu 1/3 đất canh tác; 6/29 xã và 28/81 buôn thiếu 1/2 đất canh
tác; 7/29 xã và 21/81 buôn thiếu 3/4 đất canh tác (Vũ Đình Lợi, Bùi Minh Đạo, Vũ Thị Hồng. 2000:
163). Còn theo Báo cáo chung của nhóm công tác các chuyên gia Chính phủ - Nhà tài trợ - Tổ
chức phi chính phủ trong năm 1998, khi nhìn trên diện rộng, kết quả lại cha mấy bi quan: ở miền
núi phía Bắc có 3,7% số hộ gia đình không có đất canh tác. Tỉ lệ đó ở vùng Tây Nguyên thấp hơn,
chỉ có 2,6% (Hội nghị nhóm t vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam, 14-15/12/1999).
ảnh hởng tiêu cực khác của chính sách đất đai tới an toàn lơng thực của các dân tộc

thiểu số ở vùng cao là do không thừa nhận sự quản lý cộng đồng về đất đai nên đã hạn chế việc
tiếp cận nguồn lơng thực, thực phẩm đợc khai thác từ thiên nhiên của nhiều hộ gia đình, đặc


biệt với các hộ ở vùng rẻo cao và hộ nghèo. Cho đến nay, tại nhiều nơi, nguồn thức ăn khai thác
từ thiên nhiên vẫn còn có vị trí quan trọng với đồng bào các dân tộc. Điều tra của chúng tôi ở xã
Nậm Ty, huyện Hoàng Su Phì - Hà Giang vào năm 1998 cho thấy, đồng bào Dao ở đây vẫn thu
hái đợc hơn 40 loại rau, củ rừng. Song nh đã trình bày, theo tinh thần Luật đất đai 1993, sở hữu
cộng đồng về đất đai lại không đợc thừa nhận. Việc hạn chế nguồn tài nguyên, nhất là tài
nguyên rừng do cộng đồng quản lý, tại một số nơi, đã làm cho chăn nuôi giảm sút. Ví dụ ở xã Văn

176


Miếu, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ: trớc năm 1998, đàn trâu bò ở đây khá phát triển, có hộ
nuôi hàng chục con, nhng nay mỗi hộ trung bình chỉ nuôi 1 - 2 con, vì thiếu chỗ chăn thả. Sở dĩ
có tình trạng này bởi rừng đã giao cho các hộ gia đình. Việc mất rừng cộng đồng cũng ảnh hởng
tới nguồn thức ăn nh củ mài, măng, nấm, rau rừng... của nhiều hộ gia đình.

II.1.2. Chính sách định canh định c
Công tác định canh định c (ĐCĐC) đợc áp dụng chủ yếu với các dân tộc thiểu số, nhất là
ở khu vực vùng cao. Trong thời gian khá dài, công tác định canh định c đợc thực hiện theo cơ
chế của Nghị quyết 38/CP (1968). Từ năm 1989 - 1990, công tác này đổi mới theo tinh thần Nghị
quyết 22 (1989) và Quyết định 72 (1990) - những chính sách dành u tiên cho sự phát triển ở
vùng dân tộc và miền núi sau khi khởi xớng công cuộc Đổi Mới. Lúc này, trong chỉ đạo và điều
hành công tác ĐCĐC đã có sự biến chuyển, nhng các đề án thực thi cụ thể lại không có. Trong
Quyết định 327 (1992), công tác ĐCĐC đợc đa vào Chơng trình 327, song nhiệm vụ của
Chơng trình 327 lại là trồng rừng và chủ yếu dựa vào các nông lâm trờng nên việc gắn với công
tác ĐCĐC càng có nhiều bất cập. Để khắc phục sự bất cập đó, Nghị quyết 556 (1995) đã tách
riêng trồng rừng với vấn đề ĐCĐC. Tuy vậy, do Chơng trình 327 nằm trong Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn nên thực tế ĐCĐC vẫn thực hiện theo cơ chế của Nghị quyết 327.
Để thực hiện công tác ĐCĐC, bên cạnh việc xây dựng "điện, đờng, trờng, trạm", kể từ

sau năm 1986 đến nay, các dự án vẫn chú trọng giúp ngời dân khai phá ruộng nớc, phát triển

kinh tế vờn và chăn nuôi, trồng rừng, khoanh nuôi bảo vệ rừng; mở các lớp khuyến nông, khuyến
lâm... Vì thế, những hoạt động này đã góp phần nhất định vào vấn đề an toàn lơng thực của các
dân tộc thiểu số ở vùng cao.
Tuy đã đạt đợc một số thành tựu nhng khiếm khuyết cơ bản của các chính sách này là
cha xác định rõ đối tợng của ĐCĐC. Mặt khác, công tác ĐCĐC có phần nào còn áp đặt, ít chú
ý tới ý kiến và nhu cầu cấp thiết của ngời dân, đặc biệt là về tăng thu nhập. Nhiều dự án cho
định canh định c chỉ chú ý đến xây dựng cơ bản mà ít quan tâm tạo nguồn nhân lực và tăng thu
nhập cho những đối tợng ĐCĐC (Nguyễn Văn Huy, Lê Duy Đại, 1999, tr. 14). Ngay ở một số nơi
đầu t cho nông nghiệp song do khảo sát và triển khai thiếu chu đáo nên vẫn bị thất bại.

II.1.3. Chính sách xoá đói giảm nghèo và chính sách xã hội
Chính sách xoá đói giảm nghèo đợc thể hiện rõ nhất trong đờng lối của Đảng Cộng sản
Việt Nam qua các Nghị quyết Đại hội lần thứ VII (giữa nhiệm kỳ), Đại hội lần thứ VIII, Chỉ thị số
23/ CT-TW năm 1997 của Bộ Chính trị, Nghị quyết Hội nghị Trung ơng lần thứ 5 (khoá VIII) năm
1997. Còn Chơng trình xoá đói giảm nghèo xuất hiện lần đầu tiên ở thành phố Hồ Chí Minh,
năm 1992. Năm 1993, Bộ Lao động - Thơng binh - Xã hội đã có chỉ thị cho các địa phơng xây
dựng chơng trình này, và đến tháng 8 - 1998, tất cả các tỉnh, thành phố trong cả nớc đều có
chơng trình xoá đói, giảm nghèo. Ngày 23 - 7 - 1998, Chính phủ đã có Quyết định số 133 QĐTTg về Chơng trình mục tiêu quốc gia xoá đói giảm nghèo trong giai đoạn 1998 - 2000. Với vùng
dân tộc và miền núi, vấn đề này đã đợc đề cập trong nhiều chính sách, đặc biệt là Quyết định số
135/ QĐ-TTg của Chính phủ: Chơng trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn ở
miền núi và vùng sâu, vùng xa (đợc gọi tắt là Chơng trình 135).

Thực ra, các chơng trình đã và đang thực hiện ở vùng dân tộc và miền núi, xét cho cùng,
hầu hết đều có tác động xoá đói giảm nghèo. Ví dụ, những dự án phục vụ cho công tác định canh

177


định c thờng giúp địa phơng xây dựng đờng sá, trờng học, trạm xá, cho hộ gia đình vay
vốn... Chơng trình 327 và chơng trình phủ xanh 5 triệu ha đất trống đồi núi trọc, cũng chính là

giúp hộ gia đình nông dân tạo thu nhập bằng nghề rừng; ngoài ra, ngời dân còn đợc vay vốn
để phát triển sản xuất và chăn nuôi. Song với Quyết định 135 thì mục tiêu chính là xoá đói giảm
nghèo cho các xã đặc biệt khó khăn, phần lớn thuộc vùng dân tộc và miền núi.
Các xã thuộc Chơng trình 135 đều thuộc Khu vực III - khu vực đặc biệt khó khăn, đến nay
gồm trên 2.000 xã. Nơi đây có hơn 20 thành phần dân tộc sống ở mức nghèo khổ. Trong năm
1997, ở miền núi có khoảng 1,73 triệu hộ đói nghèo và hầu hết các hộ này thuộc khu vực III. Tại
các xã đặc biệt khó khăn, có 700 xã cha có đờng ô tô đến trung tâm xã. Số ngời thất học
chiếm 60%, có nơi chiếm đến 90%.
Mục tiêu của Chơng trình 135 là nâng cao nhanh đời sống vật chất, tinh thần cho các dân
tộc ở những xã đặc biệt nêu trên, tạo điều kiện để đa nông thôn vùng này thoát khỏi tình trạng
nghèo nàn, lạc hậu, chậm phát triển, hoà nhập vào sự phát triển chung của cả nớc, góp phần
bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, an ninh quốc phòng.Thời gian để thực hiện Chơng trình là từ
năm 1998 - 2005, với các nhiệm vụ chủ yếu: Bố trí lại dân c ở những nơi cần thiết; đẩy mạnh sản
xuất nông - lâm nghiệp; phát triển cơ sở hạ tầng; quy hoạch và xây dựng các trung tâm cụm xã;
đào tạo cán bộ cơ sở. Trong quá trình thực hiện, sẽ có sự lồng ghép với một số chơng trình nh
Định canh định c, Chơng trình 327, và các chơng trình về y tế, giáo dục... Kinh phí để thực

hiện chơng trình đợc huy động từ nguồn lực của Chính phủ và các địa phơng, các ngành, các
cấp trong nớc. Mỗi huyện thuộc phạm vi chơng trình là 1 dự án, mỗi xã là một tiểu dự án, riêng
với nguồn kinh phí Nhà nớc là 400 triệu đ/năm. Song qua gần 3 năm triển khai, phần lớn nguồn
kinh phí đó vẫn chỉ đợc đầu t vào cơ sở hạ tầng.
Nh đã trình bày, thực hiện chính sách xoá đói giảm nghèo ở vùng dân tộc và miền núi,
ngoài chơng trình mục tiêu là Chơng trình 135, còn có nhiều hoạt động khác, trong đó phải kể
tới Dự án dành cho các dân tộc đặc biệt khó khăn. Xin nêu ví dụ về Dự án dành cho dân tộc Rơ
măm - một dân tộc có dân số ít. Cả tộc ngời này chỉ có trên 300 ngời, sống tập trung tại làng
Le, xã Mo Ray, huyện Sa Thầy, tỉnh Kon Tum. Dự án này đợc thực hiện từ 1992 - 1995, với mức
đầu t 1.403 triệu đồng, chủ yếu hỗ trợ đồng bào nâng cao mức sống của hộ gia đình, trong đó
có phát triển sản xuất nông nghiệp, nh khai hoang ruộng nớc (42 triệu đồng), trồng cây công
nghiệp (60 triệu đồng), giống cây ăn quả (20 triệu đồng), giống chăn nuôi (189 triệu đồng) và các
hỗ trợ cho sản xuất khác (25 triệu đồng)... Tuy nhiên, hiệu quả của đầu t cha cao. Chẳng hạn,

tại thời điểm chúng tôi khảo sát, vờn cây cà phê của các hộ gia đình hầu nh chết gần hết do
thiếu nớc, thiếu phân bón; lúa nớc ít đợc thu hoạch vì đồng bào không quen làm ruộng; cây ăn
quả chỉ còn một ít xoài, nhng không bán đợc, và đồng bào chỉ lấy quả ăn chơi... (Vơng Xuân
Tình: 2001).
Liên quan đến thu nhập của ngời dân vùng cao còn có các chính sách xã hội, đặc biệt là
chính sách với thơng binh, gia đình liệt sĩ và những ngời có công với nớc. Với các dân tộc tại
vùng miền núi phía Bắc, số ngời đợc hởng chính sách này không nhiều, song tại khu vực
Trờng Sơn - Tây Nguyên, các đối tợng ấy lại chiếm số lợng đáng kể, bởi đây là khu căn cứ
của hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Có nơi nh làng Le, xã Mo Ray, huyện Sa
Thấy, tỉnh Kon Tum, có hơn 3/4 số hộ gia đình có thu nhập từ các khoản của chế độ, chính sách
và phụ cấp công tác, với khoảng trên 100 triệu đồng/năm; bằng khoảng 1/2 thu nhập từ canh tác

178


lúa của làng trong cùng năm (Vơng Xuân Tình: 2001). Một ví dụ khác: ở thôn Tà Ay, xã Hồng
Trung, huyện A Lới, tỉnh Thừa Thiên - Huế, nơi c trú của đồng bào Tà-ôi, cũng có khoảng 2/3
số hộ gia đình thuộc diện chính sách đợc nhận trợ cấp, phụ cấp và lơng. Giá trị của thu nhập
này trong một năm gần bằng thu nhập từ canh tác nông nghiệp (Vơng Xuân Tình, 2000). Tuy
nhiên, cần thấy rằng, nguồn thu nhập đó không thể kéo dài và vì thế thiếu tính bền vững.

II.1.4. Chính sách thị trờng
Đờng lối Đổi Mới ở Việt Nam mà cốt lõi là chuyển nền kinh tế quan liêu bao cấp sang kinh

tế thị trờng theo định hớng xã hội chủ nghĩa đã có những tác động nhất định tới thu nhập và
làm đa dạng nguồn lơng thực, thực phẩm của các dân tộc ở vùng cao. Tại những nơi thuận lợi về
giao thông hoặc gần đờng biên, những nơi có điều kiện phát triển cây công nghiệp..., một số hộ
gia đình đã tiếp cận đợc với kinh tế hàng hoá. ở đây, cơ cấu kinh tế truyền thống đã có sự đổi
thay: thay vì sản xuất nông nghiệp tự cấp tự túc, ngời dân đã canh tác một số loại sản phẩm để
bán. Những sản phẩm này có thể là cây công nghiệp (cà phê, hồ tiêu, cao su - vùng Tây

Nguyên), cây ăn quả (nh mận Bắc Hà - Lào Cai), cây dợc liệu (hồi, trẩu, quế - Lạng Sơn, Yên
Bái... ). Mặt khác, chính nền kinh tế thị trờng đã khiến bà con ở nhiều vùng khai thác triệt để hơn
nguồn lợi từ thiên nhiên (lâm sản, thú rừng, rắn, rùa, ba ba... ) để đem bán.
Việc tăng thu nhập của ngời dân vùng cao còn đợc bổ sung bằng lao động làm thuê.
Nh đã biết, trong truyền thống, ngời dân nơi đây không có thói quen thuê mớn nhân công. Chỉ
từ khi xuất hiện nền kinh tế thị trờng, lao động làm thuê mới trở nên phổ biến. Tại vùng Tây
Nguyên, ngời dân địa phơng chủ yếu làm thuê cho ngời Kinh, với các công việc liên quan đến
canh tác cây cà phê. Thuê mớn nhân công cũng đã diễn ra ngay trong nội bộ tộc ngời. Có gia
đình, nguồn thu nhập từ lao động làm thuê chiếm phần lớn trong tổng thu nhập của họ trong năm
(Phạm Quang Hoan, Vơng Xuân Tình, 1999). Trở lại ví dụ về làng Le của ngời Rơ-măm: Thu
nhập của dân làng cũng liên quan đến hoạt động làm thuê trong nông nghiệp. Hiện nay, đã xuất
hiện hiện tợng thuê mớn nhân công ở trong làng. Khi đói kém, một số hộ gia đình thờng đi làm
thuê cho nhà khác để lấy tiền mua lơng thực, với mức khoảng 10.000 đ/ngày công (không tính
bữa cơm tra) (Vơng Xuân Tình: 2001).
ảnh hởng khác của kinh tế thị trờng là đã phát triển mạng lới dịch vụ, tạo điều kiện

thuận lợi cho đồng bào vùng cao mua bán, trao đổi về lơng thực, thực phẩm. Có nơi, dịch vụ đó
còn góp phần thay đổi tập quán ăn uống của ngời dân. Ví dụ tại vùng cao núi đá ở tỉnh Hà
Giang, trong truyền thống, ngời dân chỉ quen lấy ngô làm nguồn lơng thực. Khi kinh tế thị
trờng phát triển, bên cạnh ăn ngô, nhiều gia đình còn bán các sản phẩm trồng trọt, chăn nuôi và
thủ công nghiệp để mua gạo. Bên cạnh đó, đồng bào vùng cao cũng sử dụng ngày càng phổ
biến các loại đồ ăn, thức uống sản xuất từ công nghiệp. Song lại có nơi, chính kinh tế thị trờng
góp phần gìn giữ tập quán ăn uống truyền thống. Ngời Thái ở các huyện Thuận Châu và Mờng
La tỉnh Sơn La vốn quen ăn nếp, nhng trong vụ chiêm xuân, họ lại trồng lúa tẻ. Sở dĩ họ làm vậy
vì năng suất lúa tẻ vụ này cao, và họ sẽ bán để mua thóc nếp... Mạng lới dịch vụ hàng hoá,
trong đó có dịch vụ về lơng thực, thông qua hàng quán, đã phát triển đến tận buôn làng tại rất
nhiều nơi thuộc khu vực vùng cao. Những ngời làm dịch vụ này hầu hết là dân tộc Kinh - có thể
xen c với đồng bào dân tộc thiểu số, hoặc từ nơi khác đến làm ăn.
Mặt trái của kinh tế thị trờng ở khía cạnh đáng xem xét là đã tạo nên sự lệ thuộc ngày
càng phổ biến của ngời dân vào hàng quán; trong khi đồng bào vùng cao cha nhạy bén với


179


kinh tế thị trờng, dễ bị những ngời buôn bán lợi dụng, thậm chí bị bóc lột. Khảo sát ở làng Le
của ngời Rơ-măm, thuộc xã Mo Ray, huyện Sa Thầy, tỉnh Kon Tum, có tới trên 80% số gia đình
phải cắm nợ ở hàng quán, và chủ yếu là nợ hàng lơng thực, thực phẩm. Việc dễ dàng cắm nợ
của đồng bào có thể giải quyết một số nhu cầu trớc mắt, song không có ý nghĩa xoá đói giảm
nghèo, mà ngợc lại, chỉ duy trì thêm sự nghèo đói mà thôi (Vơng Xuân Tình, 2001).

II.2. Tác động của các yếu tố văn hoá
II.2.1. Sự duy trì các hình thức tơng trợ
Mặc dù đã trải qua nhiều đổi thay và có sự tác động nhất định của kinh tế thị trờng, song
nhìn chung, yếu tố văn hoá truyền thống vẫn ảnh hởng tới an toàn lơng thực của đồng bào các
dân tộc vùng cao. Nh đã trình bày, tập quán chia sẻ lơng thực lúc khó khăn là một đặc điểm nổi
bật trong quan hệ cộng đồng của nhiều dân tộc. Trong xã hội truyền thống, và cả hiện tại, nhiều
khi rất khó xác định việc vay và trả ở các dân tộc. Ví dụ, ở ngời Giẻ-Triêng, nếu có ai vay thứ gì
của ngời khác thì lúc trả, không nhất thiết phải với số lợng tơng tự. Với ngời Tà-ôi (nhóm Ba
hy), dân làng có thể đến tuốt lúa của nhà có rẫy chín sớm để ăn trớc, rồi khi rẫy của mình thu
hoạch thì hoàn trả sau, nhng nếu thất thu cũng không mang nợ số thóc kia. Theo tập quán của
ngời Ba-na, một cá nhân có thể nhận của ngời khác số thóc chừng một gùi nhỏ mà không phải
tính nợ (Vơng Xuân Tình, 2000).
Năm 2000, khi tiến hành khảo sát tập quán trợ giúp lơng thực của ngời Rơ măm, chúng
tôi vẫn thấy tập quán ấy còn duy trì phổ biến trong cộng đồng của họ. Sự trợ giúp đợc biểu hiện
ở các hình thức nh cho, tặng, biếu... Vì thế, việc trợ giúp cha hẳn vì đói kém mà có thể còn bởi
các nguyên nhân khác (hảo tâm, quý trọng... ). Nếu một gia đình bị thiếu ăn, họ thờng nhận
đợc trợ giúp trớc tiên của những ngời trong dòng họ, láng giềng, bạn bè... Khi xem xét việc trợ
giúp lơng thực của một hộ gia đình khá giả, trong 1 năm (1999-2000) chúng tôi đã thống kê, hộ
này cho 8 hộ gia đình khác hơn 50 kg gạo, 2 kg cá và một số bột ngọt, nớc mắm; ngoài ra còn
cho 5 hộ vay hơn 2.000 kg thóc. Còn một hộ khá giả khác cũng cho 11 ngời thân (cả trong và

ngoài làng) gần 1.000 kg thóc... (Vơng Xuân Tình: 2001).
Xin nêu thêm ví dụ ở dân tộc Tà-ôi. Việc tơng trợ những gia đình gặp khó khăn trong họ,
trong làng vẫn đợc duy trì ở dân tộc này. Trở lại ví dụ về làng Tà Ay, xã Hồng Trung, khi chúng
tôi đặt câu hỏi: "Từ đầu năm đến nay, ông (bà) có giúp đỡ bằng vật chất cho gia đình nào gặp
khó khăn trong làng hay không ?", những ngời đợc phỏng vấn không mấy khó khăn kể ra các
đối tợng đã đợc họ giúp. Ví dụ trờng hợp ông Quỳnh Dao, già làng của thôn. Trong năm 2000,
gia đình ông đã giúp cho 1 ngời với 1 con lợn giống, 2 ngời - 2 thùng lúa (mỗi thùng khoảng 20
kg), 3 ngời - 3 đôi gà giống, ngoài ra còn cho nhiều ngời mắm, muối, mỡ, mì chính... Anh Hồ
Văn Linh, trởng thôn thì giúp mọi ngời nh sau: 1 ngời với 50 lon gạo, 1 ngời - 20 lon gạo, 1
ngời - 6 lon gạo, 1 ngời - 3 con gà giống, 1 ngời - 1 con lợn giống (Vơng Xuân Tình, 2000).
Cới xin, tang ma, bệnh tật, hoạn nạn... là những việc rất cần trợ giúp của họ hàng và buôn
làng, bởi trong hoàn cảnh này, gia chủ phải chi tiêu khá lớn. Với đám cới, tuy có thời gian chuẩn
bị, song sự cố gắng của một gia đình đôi khi quá sức nếu họ thuộc về dân tộc có tập quán thách
cới cao. Vì thế, gia chủ thờng phải vay mợn của anh em, họ hàng và dân làng. Trong ngày
cới, dân làng đến thăm hỏi và có thể mừng bằng rợu, gạo, gà...

180


Ma chay cũng hầu nh là việc của cả dân làng. Khi làng có ngời chết, các dân tộc đều có
tập quán nghỉ lao động sản xuất để lo cho tang lễ. Tuỳ theo khả năng của mỗi gia đình mà có thể
mang cho tang chủ rợu, gà, trứng, thuốc lá... ở ngời Gia-rai, buôn làng sẽ giúp tang chủ chôn
cất ngời chết, làm nhà mồ và mỗi phụ nữ mang đến đám tang vài lon gạo, ít củi, ít lá để đựng
thức ăn và giúp việc nấu nớng (Lu Hùng, 1994: 209). Còn theo nghiên cứu của chúng tôi, với
ngời Tà-ôi ở thôn Tà Ay, xã Hồng Trung, huyện A Lới, tỉnh Thừa Thiên- Huế, đến nay, khi gia
đình nào có ngời chết, mỗi hộ mang đến giúp những vật phẩm nh: gạo (từ 2-20 ống), rợu (1
chai trở lên), thuốc lá (ít nhất 1 bao, nếu là thuốc lá sợi của ngời dân tộc thiểu số tự trồng thì
càng quý), củi (2 bó trở lên), hơng... Nếu bố hoặc mẹ của già làng bị mất thì số lợng đem tới
nhiều gấp 2 - 3 lần ngời dân thờng (Vơng Xuân Tình, 2000).
Gắn với ma chay, một số dân tộc còn tổ chức lễ bỏ mả. Trong lễ này, ngời ta phải dành

chi phí khá lớn cho hiến tế, ăn uống, và dân làng cũng tự nguyện giúp đỡ, đóng góp. Theo tập
quán của ngời Ba-na, mỗi hộ đều mang rợu, thịt, trứng... đến góp. Với ngời Gia-rai, dân làng
sẽ giúp chặt ống bơng để đựng nớc, chặt ống lồ ô để nớng cơm lam, lấy củi, lấy rau và đem
tới các loại lơng thực, thực phẩm nh gạo, lợn, gà, rợu... Khi gia đình nào gặp hoạn nạn, rủi ro
nh cháy nhà, ốm đau..., cũng đợc cộng đồng nhờng cơm, sẻ áo hoặc trợ giúp công lao động.

II.2.2. Chia phần, biếu phần và ăn uống trong lễ hội - nguồn lơng thực luân
chuyển của cộng đồng
Yếu tố văn hoá tác động tới vấn đề an toàn lơng thực còn phải kể tới trờng hợp chia
phần, biếu phần hay mời mọc nhau ăn uống theo lệ tục. Đây đợc xem nh nguồn lơng thực
luân chuyển trong cộng đồng, bởi mỗi gia đình hay cá nhân đều có quyền cho và nhận. Đến nay,

nhiều dân tộc vẫn duy trì tập quán: khi một thành viên trong làng săn đợc thú lớn hoặc đánh bắt
đợc nhiều cá, họ thờng đem cho hoặc biếu toàn thể dân làng hay những ngời trong dòng họ.
Ví dụ, tại làng Le của ngời Rơ-măm, cũng giống nh nhiều vùng dân tộc thiểu số khác ở Tây
Nguyên, gia đình nào có việc lớn nh cới xin, tang ma, lễ bỏ mả... cũng là việc chung của cả
làng, thậm chí của nhiều ngời thuộc làng khác. Vào dịp này, chi phí cho ăn uống rất tốn kém, bởi
hầu nh mọi thành viên trong làng đều có mặt ở buổi lễ, thậm chí còn đợc nhận phần thịt biếu.
Trong năm 1999, lễ hội lớn của làng Le gồm có: 11 lễ đâm trâu (làm lễ pơ thi và cúng Giàng), 5
đám cới và 7 đám ma. Để làm lễ đâm trâu, thờng gia chủ giết 1 con trâu và 1 con lợn (có nhà
giết 2 trâu và 1 con lợn). Với đám cới, ngời ta thờng chỉ thịt từ 1-2 con lợn. Đám ma thì tuỳ
từng hoàn cảnh mà làm to hay nhỏ. Có đám ma trong làng đã chi dùng hết 1 con trâu, 1 con bò, 7
con lợn (mỗi con khoảng 3 - 4 nắm tay, tức quãng 20 kg). Ngay cả khi làm lễ nhu may (lễ mở kho
lúa, lúc thu hoạch xong), dân làng vẫn có tục lệ: mỗi gia đình làm một hôm để có thể mời cho
khắp các hộ trong làng tới dự.
Nhiều dân tộc vẫn tồn tại tập quán: Với mỗi gia đình, gia súc nuôi là thuộc về t hữu, nhng
khi giết thịt con vật thì bà con dân làng lại đơng nhiên cùng hởng phần. Con vật thờng chỉ
đợc giết thịt vào dịp lễ hội. Các thành viên trong làng đều đợc mời tham dự. Sau khi ăn xong,
họ còn đợc chia phần đem về. Vì thế, tục ngữ Ba-na có câu: "Con trâu sống là của nhà, con trâu
chết là của làng" (Lu Hùng, 1994: 215). Với sản phẩm săn bắt đợc từ tự nhiên (thú rừng, cá... ),

đồng bào cũng có tập quán chia sẻ. Nếu săn bắt đợc ít, họ nấu chín rồi mời những ngời đàn
ông trong họ, trong làng đến uống rợu; nếu đợc nhiều thì chia phần cho cả làng. Tập quán ấy
đến nay vẫn còn lu giữ tại nhiều nơi, nh ở xã Hồng Trung, huyện A Lới: khi săn đợc thú nhỏ,

181


ngời ta đem nấu cháo rồi mời mọi ngời cùng đến ăn. Tuỳ theo tập quán từng dân tộc mà ngời
săn đợc thú có thể giữ bộ phận nào đó của con vật, còn lại thì chia cho dân làng. Theo phong
tục của ngời Tà-ôi (nhóm Ba hy), nếu ai đánh thuốc cá ở suối, ngời khác có quyền đến bắt; và
ngời bắt đợc nhiều phải chia cho ngời đợc ít (Vơng Xuân Tình: 2000).

Kết luận
Trải qua hơn 10 năm thực hiện công cuộc Đổi Mới, vấn đề an toàn lơng thực của các dân
tộc thiểu số ở vùng cao đã có nhiều biến đổi. Khi xét tới an toàn lơng thực của hộ gia đình hay
nhóm c dân trớc hết phải dựa trên cơ sở thu nhập. Tại các dân tộc thiểu số ở vùng cao, thu
nhập của ngời dân chủ yếu từ các nguồn: canh tác nông nghiệp, săn bắt, hái lợm và trợ cấp
của Nhà nớc. Những nguồn thu nhập trên chịu sự tác động của các chính sách của Nhà nớc,
đặc biệt là những chính sách về đất đai, định canh định c, xoá đói giảm nghèo, chính sách xã
hội và chính sách về thị trờng. Tác động tích cực của các chính sách nêu trên tới an toàn lơng
thực, trớc hết phải kể tới việc tăng năng suất lúa và chuyển đổi cơ cấu cây trồng; tuy nhiên,
những biến đổi này chủ yếu diễn ra ở vùng thung lũng có truyền thống trồng lúa nớc và những
nơi thuận lợi phát triển cây công nghiệp. Tại một số vùng đất dốc, nơi đồng bào các dân tộc có
truyền thống canh tác nơng rẫy cũng đã có sự chuyển đổi cơ cấu cây trồng để phù hợp với điều
kiện phát triển nơng định canh. Thu nhập của ngời dân ở nhiều nơi, nhất là khu vực III, đợc bổ
sung thêm từ nguồn hỗ trợ của Nhà nớc, thông qua các dự án phát triển và trợ cấp xã hội.
Nguồn lơng thực của ngời dân vùng cao còn phong phú hơn bởi sự giao lu của thị trờng, của

những dịch vụ về lơng thực...
Bên cạnh mặt tích cực, ảnh hởng tiêu cực của các chính sách nêu trên, nhất là chính sách

đất đai tới an toàn lơng thực, là làm giảm khả năng tiếp cận với nguồn lơng thực khai thác từ
thiên nhiên - nguồn lơng thực vẫn giữ vai trò nhất định, đặc biệt với các hộ nghèo. Mặt khác, các
chính sách về đất đai còn gây nên sự bất bình đẳng trong sử dụng đất - cơ sở của bất bình đẳng
trong thu nhập của không ít hộ gia đình ở vùng cao.
Các yếu tố văn hoá vẫn giữ vị trí nhất định tới an toàn lơng thực. Tập quán ăn uống còn

chi phối việc sử dụng nguồn lơng thực. Truyền thống tơng trợ, chia sẻ nguồn thức ăn cũng có ý
nghĩa không nhỏ trong việc đảm bảo điều kiện về lơng thực của mỗi gia đình hoặc cá nhân trong
cộng đồng. Đây có thể coi nh một loại bảo hiểm về lơng thực khi họ bị thất bát hay gặp rủi ro.
Nh vậy, nếu so sánh với xã hội truyền thống, vấn đề an toàn lơng thực của ngời dân
vùng cao hiện nay đã có những biến đổi. Từ nền lơng thực dựa trên điều kiện Canh tác nông
nghiệp + Săn bắt, hái lợm + Tơng trợ, đến nay, nguồn lơng thực của hộ gia đình các dân tộc

nơi đây, tuỳ theo điều kiện của từng nơi, đã bổ sung thêm những yếu tố mới, đó là: Canh tác nông
nghiệp + Lao động làm thuê + Săn bắt, hái lợm + Hỗ trợ của Nhà nớc + Tơng trợ + Vay nợ.

Tuy vấn đề an toàn lơng thực của các dân tộc hiện nay còn bảo lu các yếu tố truyền thống,
song vai trò của một số yếu tố lại có xu hớng giảm. Những hoạt động về săn bắn, hái lợm và sự
tơng trợ trong cộng đồng các dân tộc đang có xu thế giảm đi, và ngợc lại, việc làm thuê và vay
nợ để đảm bảo nhu cầu lơng thực lại có xu hớng gia tăng...
Qua tình hình nghèo đói ở vùng dân tộc và miền núi hiện nay cho thấy, vấn đề an toàn
lơng thực của các dân tộc, nhất là ở vùng cao và vùng sâu, vùng xa còn thiếu tính bền vững.

182


Điều đó thể hiện qua thu nhập từ sản xuất còn thấp, trong khi cuộc sống của nhiều ngời dân vẫn

phụ thuộc vào trợ cấp của Nhà nớc hoặc vay nợ. Để khắc phục tình trạng này, rõ ràng, cần quan
tâm hơn nữa để xây dựng hệ thống chính sách nhằm đảm bảo an toàn lơng thực cho vùng này.

Trong hệ thống đó, cần đặc biệt chú ý tới điều chỉnh chính sách đất đai để tăng cờng vai trò
quản lý cộng đồng, giảm bớt việc mất đất của ngời nghèo; mặt khác, phải điều chỉnh mục tiêu và
nội dung của các dự án phát triển nhằm tăng nguồn thu nhập của ngời dân vùng cao. Sau cùng,

việc gìn giữ nếp sống tơng thân tơng ái - truyền thống văn hoá tốt đẹp của các dân tộc - cũng
sẽ góp phần đảm bảo an toàn lơng thực trong điều kiện hiện nay của ngời dân nơi đây./.

183


Food security from the field of social-economic of ethnic
minorities group point of view
Dr. Vuong Xuan Tinh
Institute of Ethnology, National Center for Social Sciences and Humanities
Access to food sources and adaptability with changes of the food sources when natural and
social conditions change play the key role in food security. In reality, food security is related to
population growth, market and food services of each nation. In mountainous regions, food
security is strongly influenced by social factors such as land policies, policies for settlement of
cultivation and residence, poverty reduction and hunger elimination policy and other policies. In
addition, social factors such as drinking and eating habits, interdependence and mutual support in
a community also have influences on food security.
Food sources of people in mountainous regions are obtained from agricultural cultivation,
natural exploitation, exchange and mutual support between people in a community... With the
current constrain of traditional, under-developed farming techniques, natural conditions,
ownership relations and social institutions have larger influences on food security of people in
mountainous regions than politic institutions and market factors.
Income derived from cultivation, especially food, is still the main income in mountainous
regions. Fruit trees and industrial crops have just been cultivated in small quantity. Income from
livestock breeding is low because most livestock products are used for festivals, ceremonial
offerings, wedding ceremonies and funeral... Non-agricultural jobs have not been developed...

Therefore, the rate of poor and hungry households is high (30% or more). For example, in Dak
Lak Province, the average income/person/year in 1998 was 3.85 million VND, but it was only 1.43
million VND in region III, the most difficult - high mountain area, and 2.99 million VND in region II low mountain area. Hunger and poverty is common in mountainous regions; food security is not
stable. In the northern mountain region, a lot of households do not have enough food for 1 or 2
months. For instance, 80% of H'Mong households in Lao Chao, Hau Thao, and Su Pan
communes, Sa Pa District, Lao Cai Province suffered from food shortage for more than 1 month
in 1998.
Land policies are one of the most important factors that influence food security. According
to the 1993 Law on Land, which is amended in 1998, mountainous people are granted 5 land use
rights, especially the right to long-term land use, to allocation of forest land, and to land use
certificate. Thus, people have opportunities to expand cultivated land and improve household
economy. However, there are still shortcomings and defects due to the fact that land laws and
policies do not match local customs and local cultures. Beside that, land laws place more
emphasis on State's general inflexible regulations. There have been problems of land disputes;
land trading; and land appropriation by State owned forestry enterprises. Spontaneous
reclamation and expansion of land have led to forest destruction, causing the reduction in natural
resources. Consequently, it threatens food security. Immigration resulting in population increase,
establishment of new economic zones and poverty reduction and hunger elimination programs,

184


and policies for market circulation and trading assistance can all have large impacts on food
security.
Mutual support and interdependence in each community are also very important. Although
the market economy has been formed and operated in all regions, the traditional custom of
sharing livelihood sources, especially food sources, of ethnic minorities in upland regions still
exists. Mutual food support as a traditional cultural custom has never been abolished in these
regions. Funerals, weddings, rural festivals with eating, drinking, food sharing, gift giving customs
... also provide a source of food, though infrequent, to contribute to household food security. The

low sense of private ownership of ethnic minority people makes them support each other in their
needs for food on the one hand, and causes personal sluggishness in efforts to provide
themselves with sufficient food on the other hand.
In conclusion, it is impossible to impose sameness in examining and solving the food
security of ethnic minority people in the mountainous region like doing that in low land region. In
this case, the social and cultural factors must be considered.

185


Tài liệu tham khảo
Ban Dân tộc tỉnh Đắk Lắk. 1999. Báo cáo Về thực trạng đời sống đồng bào dân tộc bản địa của
tỉnh.
Chính sách và chế độ pháp lý đối với đồng bào dân tộc và miền núi. 1996. Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
Bui The Cuong and Vuong Xuan Tinh. 2000. Health and Education Needs of Ethnic Minorities in
the Greater Mekong Sub-Region. ADB. TA No. 5794-REG.
Daniel Maxwell and Keith Wiebe. 1998. Land tenure and Food security: A review of concepts,
evidence, and methods. Land Tenure Center. University of Wisconsin-Madison.
Khổng Diễn (Chủ biên). 1999. Dân tộc Khơ mú ở Việt Nam. Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội. Phần
viết về Tập quán ăn uống.
Bùi Minh Đạo. 2000. Trồng trọt truyền thống các dân tộc tại chỗ Tây Nguyên. Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
Hồ Ly Giang. 2000. Tập quán ăn uống của ngời H'Mông ở hai xã Hang Kia, Pà Cò, huyện Mai
Châu, tỉnh Hoà Bình. Tạp chí Dân tộc học, Số 1.
Government of the Socialist Republic of Vietnam. 1996. Towards National Food Security. Country
Paper, prepared for the World Food Submit, Rome, Italy, 13-17 November, 1996.
Helen Young. Food scarcity and famine : Assessment and response. Oxfam Practical Heath
Guide No. 7.
Phạm Quang Hoan, Hùng Đình Quý (Chủ biên). 1999. Văn hoá truyền thống ngời Dao Hà

Giang. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Phần viết về Tập quán ăn uống.
Phạm Quang Hoan, Vơng Xuân Tình. 1999. Hệ thống dữ liệu phát triển dân tộc thiểu số. UNDP,
D án VIE/96010.
Phạm Quang Hoan, Vơng Xuân Tình, Ma Trung Tỷ. 1999. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về
phát triển bền vững vùng dân tộc và miền núi. Uỷ ban Dân tộc và Miền núi. Báo cáo đề
tài.
Hội nghị nhóm t vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam, 14-15/12/1999. Tấn công nghèo đói. Báo cáo.
Nguyen Van Huy, Le Duy Dai. 1998. General Report on Development Policies Research in Ethnic
Minorities and Mountainous Areas. Report, VIE 96/010 - UNDP.
Lu Hùng. 1994. Buôn làng cổ truyền xứ Thợng. Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội.
Vũ Ngọc Kích, Nguyễn Thị Phơng Hoa... 2000. Báo cáo kết quả khảo sát pháp luật đất đai đối
với đồng bào dân tộc thiểu số tại Đắk Lắk và Trà Vinh. Tổng cục Địa chính. Dự án pháp
luật đất đai.
Vũ Đình Lợi - Bùi Minh Đạo - Vũ Thị Hồng. 2000. Sở hữu và sử dụng đất đai ở các tỉnh Tây
Nguyên. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
Luật đất đai. 1994. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

186


Ministry of Labor, Invalid and Social Affairs. Standard, actual situation and causes of poverty
solutions for poverty reduction in poor communes. 1998. Report.
Một số văn bản pháp luật hiện hành về phát triển nông nghiệp, nông thôn. 2000. Nxb Lao động xã hội, Hà Nội.
Neil. Jamieson, Lê Trọng Cúc, A. Terry Rambo. 1999. Những khó khăn trong công cuộc phát
triển miền núi ở Việt Nam. Đại học quốc gia Hà Nội/Trung tâm nghiên cứu tài nguyên và
môi trờng. Báo cáo chuyên đề.
Jonathan Rigg. 2001. Food security, vulnerability and risk : linking food, poverty and livelihoods.
Paper presented at the Workshop "Sustainable livelihoods in South-Aast Asia", Hanoi,
April, 2001.
Lê Du Phong, Hoàng Văn Hoa, Nguyễn Văn áng. 2000. Giải quyết vấn đề phân hoá giàu nghèo

ở các nớc và Việt Nam. Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
Rita Lilijtrom, Eva Linkog, Nguyen Van Ang and Vuong Xuan Tinh. 1998. Profit and Poverty in
Rural Vietnam. Curzon.
Vuong Xuan Tinh and Peter Hjamdah. 1997. A study of Hmong and Dao Land Management and
Land Tenure in Nam Ty Commune, Hoang Su Phi District, Ha Giang Province. Report.
SIDA.
Vơng Xuân Tình. 1999. Tập quán ăn uống của ngời Việt ở vùng Kinh Bắc xa. Luận án Tiến sĩ
khoa học Lịch sử, chuyên ngành Dân tộc học.
Vuong Xuan Tinh. 2000. Project Specific Indigenous People' s Development Plan. Poverty
Reduction in 4 Central Region Provinces Project. ADB. Report.
Vơng Xuân Tình. 2001. An toàn lơng thực của ngời Rơ-măm. Tạp chí Dân tộc học, số 5.
Trung tâm nghiên cứu và phát triển (Trung tâm KHXH & NVQG), 1999. Thực trạng nghèo đói và
các giải pháp xoá đói, giảm nghèo ở xã Long Môn huyện Minh Long, xã Ba Lế huyện Ba
Tơ, xã Sơn Linh huyện Sơn Hag tỉnh Quảng Ngãi. Hà Nội, Báo cáo điều tra.
Hữu Sơn. 1998. Đặc điểm các món ăn trong ngày lễ hội. Tạp chí Dân tộc học. Số 1.
Mai Thanh Sơn. 1998. Đôi nét về tập quán ăn uống của ngời Phù Lá. Tạp chí Dân tộc học, Số 1.
Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Đắk Lắk. Tháng 5/2001. Báo cáo tình hình dân c và đời
sống của đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Đắk Lắk.
Viện Dân tộc học. 1993. Những biến đổi về kinh tế-văn hoá ở các tỉnh miền núi phía Bắc. Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
Viện Dân tộc học. 1998. Những vấn đề dân tộc học và kinh tế - xã hội của các dân tộc vùng thuỷ
điện Sơn La. Báo cáo.

187



×