HỌ VÀ TÊN GIÁO VIÊN: HỒ THỊ MỸ LỢI
ĐƠN VỊ: TRƯỜNG TIỂU HỌC CHU VĂN AN - PLEIKU
MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 4 VIẾT BÀI VĂN MIÊU TẢ
ĐẠT KẾT QUẢ TỐT
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
Trường Tiểu học là nơi đầu tiên trẻ em được học tập tiếng Việt, chữ viết với
phương pháp nhà trường, phương pháp học tập tiếng mẹ đẻ một cách khoa học. Học
sinh tiểu học chỉ có thể học tập các mơn học khác khi có kiến thức tiếng Việt. Bởi đối
với người Việt, tiếng Việt là phương tiện giao tiếp, là công cụ trao đổi thông tin và
chiếm lĩnh tri thức. Môn Tiếng Việt trong chương trình Tiểu học có nhiệm vụ hồn
thành năng lực hoạt động ngôn ngữ cho học sinh. Năng lực hoạt động ngôn ngữ được
thể hiện trong 4 dạng hoạt động, tương ứng với bốn kỹ năng: nghe, nói, đọc, viết. Từ
đó, các em có thể học tập và giao tiếp trong môi trường học tập lứa tuổi, giúp học sinh
có cơ sở để tiếp thu kiến thức ở lớp trên. Trong mơn Tiếng Việt có nhiều phân mơn,
mỗi phân môn chứa đựng một bộ phận kiến thức nhất định, chúng bổ trợ cho nhau để
người học học tốt Tiếng Việt. Trong đó, Tập làm văn là phân mơn mang tính chất
tổng hợp, sáng tạo, thực hành, thể hiện đậm nét dấu ấn cá nhân. Tập làm văn, viết
văn, hành văn là cái đích cuối cùng cao nhất của việc học tiếng Việt ở tiểu học. Đối
với học sinh tiểu học, biết nói đúng, viết đúng, diễn đạt mạch lạc đã là khó; để nói,
viết hay, có cảm xúc, giàu hình ảnh lại khó hơn nhiều. Cái khó ấy chính là cái đích mà
phân mơn Tập làm văn địi hỏi người học cần dần đạt tới. Từ đó, các em được mở
rộng vốn sống, rèn luyện tư duy, bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc thẩm mỹ, hình thành
nhân cách. Chương trình Tập làm văn ở tiểu học chủ yếu là dạy văn miêu tả. Ngay từ
lớp 2, 3, các em đã được làm quen với văn miêu tả khi được tập quan sát và trả lời câu
hỏi. Lên lớp 4, các em phải hiểu thế nào là văn miêu tả, biết cách quan sát, tìm ý, lập
dàn ý, viết đoạn văn và liên kết đoạn văn thành một bài văn miêu tả đồ vật, cây cối
hoặc con vật - những đối tượng gần gũi và thân thiết của các em.
1
Thật vậy, trong chương trình mơn Tiếng Việt Tiểu học nói chung, Mơn Tiếng
Việt lớp 4 nói riêng, phân mơn Tập làm văn có một vai trị đặc biệt quan trọng – Ở
phân môn tập làm văn, bên cạnh việc sử dụng các kĩ năng đã được hình thành và phát
triển từ các mơn học khác như: nghe, nói, đọc, viết (phân môn Tập đọc); giải nghĩa từ,
dùng từ, đặt câu (phân mơn Luyện từ và câu); viết đúng chính tả, chính âm (phân mơn
Chính tả)…thì phân mơn Tập làm văn cịn hình thành và phát triển một hệ thống các
kĩ năng riêng... Thông qua học Tập làm văn, học sinh có điều kiện tiếp cận vẻ đẹp của
con người, của thiên nhiên qua các bài văn, đoạn văn điển hình. Khi phân tích đề Tập
làm văn, học sinh lại có dịp hướng tới cái chân - thiện - mĩ được định hướng trong các
đề bài. Những cơ hội đó làm nảy nở tình cảm u mến, gắn bó với thiên nhiên, với
con người và những việc xung quanh của các em, giúp cho tâm hồn, tình cảm của các
em thêm phong phú. Đó là những nhân tố quan trọng góp phần hình thành nhân cách
tốt đẹp của các em, đặc biệt trong tình hình xã hội hiện nay, một bộ phận giới trẻ có
biểu hiện của lối sống vơ cảm… Chính vì vậy, việc hình thành và rèn luyện kĩ năng
viết văn cho học sinh là một yêu cầu rất cần thiết.
Qua nhiều năm giảng dạy ở khối lớp 4, tôi nhận thấy việc dạy và học phân môn
Tập làm văn - đặc biệt là văn miêu tả có một số khó khăn nhất định đó là:
- Việc hồn thành bài văn miêu tả đối với học sinh lớp 4 thường rất khó khăn.
Do đặc điểm tâm lí, học sinh tiểu học còn ham chơi, khả năng tập trung chú ý quan
sát chưa tinh tế, năng lực sử dụng ngôn ngữ chưa phát triển tốt, dẫn đến khi viết văn
miêu tả, học sinh còn thiếu vốn hiểu biết về đối tượng miêu tả,…hoặc không biết cách
diễn đạt điều muốn tả.
- Đa số học sinh tỏ ra lúng túng khi làm bài, đa số các em nghiêng về kể nhiều
hơn tả.
- Vốn hiểu biết về thực tế cũng như vốn từ ngữ của các em còn hạn chế.
- Các em chưa có kĩ năng dùng từ đặt câu cho chính xác.
- Chưa biết sắp xếp các ý sao cho đúng trình tự miêu tả.
2
- Chưa biết cách chuyển ý giữa các đoạn, làm cho các đoạn văn trong một bài
văn rời rạc, chưa có sự liên kết tốt.
- Chưa bộc lộ cảm xúc của mình qua bài viết.
- Một số em có năng lực học tập tốt thì đa số bài viết của các em bó hẹp vào
khn khổ của những bài văn mẫu; Tuy nhiên những từ ngữ, hình ảnh trong bài văn
mẫu khơng phù hợp với thực tế mà mang tính sáo rỗng, cứng nhắc.
Từ những lí do trên, là một giáo viên đã nhiều năm giảng dạy khối lớp 4, tơi
suy nghĩ làm sao tìm ra biện pháp giảng dạy phù hợp nhằm thực hiện mục tiêu của
môn học - đó là giúp các em học sinh biết cách quan sát và ghi lại những quan sát của
mình một cách chân thật, sinh động bằng những từ ngữ, hình ảnh giàu cảm xúc mà
phù hợp với thực tế các em, đồng thời góp phần cùng các mơn học khác mở rộng vốn
sống, rèn luyện tư duy logíc, tư duy trừu tượng, bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc thẩm mĩ,
hình thành nhân cách cho học sinh. Đó chính là lí do và mục đích mà tơi lựa chọn đề
tài: “Một số biện pháp giúp học sinh lớp 4 viết bài văn miêu tả đạt kết quả tốt”. Đây
là kinh nghiệm mà tơi rút ra trong q trình giảng dạy.
3
PHẦN II: NỘI DUNG
1. Thực trạng:
Ở lớp 4 văn miêu tả được học từ tuần 14 cho đến hết tuần 33, hệ thống bài học
được sắp xếp rất hợp lí và logic. Nhìn chung có 3 dạng bài cơ bản đó là :
- Miêu tả đồ vật.
- Miêu tả cây cối.
- Miêu tả con vật.
Cụ thể như sau:
Văn miêu tả
Học kì I Học kì II Cả năm
Khái niệm miêu tả
1 tiết
1 tiết
Miêu tả đồ vật
6 tiết
4 tiết
10 tiết
Miêu tả cây cối
11 tiết
11 tiết
Miêu tả con vật
8 tiết
8 tiết
Tổng cộng số tiết
7 tiết
23 tiết
30 tiết
Qua nội dung chương trình Tập làm văn trên, ta thấy thể loại văn miêu tả khá
trọng tâm và quan trọng trong chương trình Tập làm văn lớp 4. Bởi văn miêu tả vẽ ra
các sự vật, sự việc, hiện tượng, . . . bằng ngôn ngữ một cách sinh động, cụ thể. Văn
miêu tả giúp người đọc nhìn rõ chúng, tưởng như mình đang “xem tận mắt, bắt tận
tay”. Tuy nhiên, hình ảnh đồ vật, cây cối, con vật gần gũi với các em. . . do văn miêu
tả tạo nên không phải là một bức ảnh chụp lại, sao chép lại một cách vụng về. Nó là
sự kết tinh của những nhận xét tinh tế, những rung động sâu sắc mà người viết đã thu
lượm được khi quan sát cuộc sống. Tuy nhiên, để thực hiện được các điều này quả là
một điều không đơn giản. Việc làm trước tiên của tôi là tiến hành điều tra thực trạng
của học sinh trong lớp tôi trong năm học 2014 – 2015 vừa qua, tôi đánh giá bài làm
của các em theo 2 mức cụ thể như sau:
* Học kì I năm học: 2014 - 2015
- HS hoàn thành bài viết: 22 em, tỉ lệ: 57,9 %
4
- HS chưa hoàn thành bài viết: 16 em, tỉ lệ: 42,1 %
+ Số học sinh hoàn thành bài viết được đánh giá kĩ năng làm văn theo 2
mức:
a/ Kĩ năng phân tích đề bài, kĩ năng tìm ý và lựa chọn ý, kĩ năng xây
dựng dàn ý. Kĩ năng dùng từ, đặt câu, viết đoạn, liên kết đoạn văn thành
bài văn.
b/ Kĩ năng thể hiện cảm xúc, cảm nhận sâu sắc của mình về bài viết.
2. Biện pháp thực hiện:
17 em
5 em
Xuất phát từ thực trạng trên, tôi đã đưa ra một số biện pháp tiến hành trên cơ sở
các phương pháp đặc trưng của phân môn mà Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định nhằm
nâng cao chất lượng dạy học sinh lớp 4 viết văn miêu tả mà tơi đã áp dụng có hiệu
quả. Cụ thể như sau:
a/ Biện pháp chung:
- Nghiên cứu sách giáo viên, các tài liệu tham khảo liên quan đến việc dạy và
học phân môn Tập làm văn lớp 4.
- Dạy học bằng các phương pháp và hình thức phù hợp nhằm phát huy tính tích
cực học tập mơn tập làm văn của học sinh.
- Sử dụng đồ dùng dạy học có hiệu quả (Tranh ảnh, vật thật).
- Tích cực ứng dụng cơng nghệ thông tin trong giảng dạy nhằm chuyển tải nội
dung cần lĩnh hội đến với học sinh một cách nhẹ nhàng, có hiệu quả.
- Quan tâm đến các đối tượng học sinh trong lớp - đặc biệt là các đối tượng học
sinh yếu; trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ khi các em gặp lúng túng trong giờ học.
- Kết hợp với các môn học khác cung cấp thêm vốn từ cho học sinh.
- Bản thân giáo viên ln tìm tịi, học hỏi kinh nghiệm qua sách báo, qua đồng
nghiệp để cải tiến, đầu tư cho mỗi bài dạy.
Công việc này được tôi tiến hành xuyên suốt ngay từ đầu năm học.
Đối với học sinh tôi trực tiếp giảng dạy, khi viết văn, các em chưa biết cách
trau chuốt, gọt giũa lời văn, câu văn được bóng bẩy, mang tính “Nghệ thuật”, mà đa
số các em “nghĩ sao thì viết vậy”; cộng với việc ít đọc sách báo, ít tham khảo các bài
5
văn hay – câu chuyện hay - bổ ích ở sách báo, làm cho các em gặp nhiều khó khăn khi
làm bài văn miêu tả. Đa phần các em trong lớp tơi đều sống ở mơi trường thành thị,
ngồi giờ học trên lớp, các em chỉ biết quanh quẩn trong nhà, một số em giải trí bằng
các trị chơi game trên internet, do đó vốn sống của các em rất hạn chế - đây cũng là
một trong những nguyên nhân gây khó khăn trong việc rèn kĩ năng viết văn của các
em. Cho nên việc trước tiên là giáo viên cần phối kết hợp với gia đình, tạo cho các em
có nhiều cơ hội tiếp xúc với các câu chuyện - các tác phẩm văn học một cách tự
nguyện, các em được tiếp xúc với các cảnh quan thiên nhiên trong thực tế - điều này
làm nảy nở trong các em tình yêu thiên nhiên, cung cấp nhiều hơn “vốn sống” cho các
em. Ngồi ra trong q trình học tập, giáo viên chú ý rằng các phân môn trong môn
Tiếng Việt – nhất là phân môn Luyện từ và câu giúp cung cấp vốn từ ngữ cho học
sinh, rèn luyện cho các em cách dùng từ, đặt câu, hướng cho các em từ “ngôn ngữ tự
nhiên” thành “ngôn ngữ nghệ thuật”. Kết quả cuối cùng của việc dạy Tập làm văn là
hiệu quả của những đoạn văn, bài văn. Bài văn hay là bài văn đạt tốt các yêu cầu về
nội dung, nghệ thuật và cảm xúc. Vì vậy, trong mỗi giờ Tập làm văn giáo viên cần
thực hiện tốt các yêu cầu này.
Ở lớp 4, để viết bài văn miêu tả, học sinh thường trải qua các khâu cơ bản là:
- Tìm hiểu cấu tạo của bài văn tả đồ vật, tả cây cối, tả con vật.
- Phân tích các văn bản mẫu.
- Quan sát, lập dàn ý chi tiết.
- Viết thành bài văn hoàn chỉnh.
- Học tập, rút kinh nghiệm qua giờ trả bài.
Để tiến hành mỗi hoạt động trong từng tiết học có hiệu quả, giáo viên và học
sinh lần lượt giải quyết các yêu cầu nói trên.
b. Các biện pháp cụ thể:
Biện pháp 1: Tìm hiểu cấu tạo bài văn miêu tả.
Trước hết cần phải cho học sinh hiểu rõ miêu tả là làm cho đối tượng mà ta đã
từng nghe, từng thấy .. như được hiện ra trước mắt người nghe, người đọc. Từ việc
6
nắm chắc thế nào là miêu tả, giáo viên cần giúp học sinh phân biệt được miêu tả trong
văn chương và miêu tả trong khoa học.
- Cho học sinh đọc văn bản mẫu ở sách giáo khoa, hướng dẫn học sinh xác định
phần mở bài, thân bài, kết bài.
- Cho học sinh rút ra ghi nhớ về cấu tạo của bài văn miêu tả.
Biện pháp 2: Phân tích các văn bản mẫu.
Ở bước này, giáo viên hướng dẫn học sinh đọc, phân tích để hiểu và thấy được
nghệ thuật quan sát và miêu tả, đồng thời thấy được cách chọn lọc chi tiết, cách sử
dụng những hình ảnh đẹp trong bài văn miêu tả.
Ví dụ:
• Bài “Cấu tạo bài văn miêu tả đồ vật” - Sách Tiếng Việt 4 tập 1 trang 143.
- Cho học sinh đọc bài văn “Cái cối tân”.
- Ngoài việc khai thác bài theo các câu hỏi được gợi ý trong sách giáo khoa.
Giáo viên hướng dẫn học sinh phân tích thêm bài văn bằng các câu hỏi như:
+ Tác giả tả những sự vật gì?
+ Tác giả quan sát sự vật bằng những giác quan nào?
+ Tìm một chi tiết thể hiện sự quan sát tinh tế của tác giả.
…
- Sau khi tìm hiểu xong bài văn, Giáo viên cần nhấn mạnh cho học sinh thấy
nghệ thuật quan sát và chọn lọc chi tiết tả cảnh của tác giả bài văn.
* Đối với Phần luyện tập “Tả cái trống trường”- sách Tiếng Việt 4 tập 1 trang
145. Sau khi học sinh thực hiện xong yêu câu của sách giáo khoa.
- Giáo viên yêu cầu học sinh phân tích để thấy được những hình ảnh đẹp trong
mỗi bài văn.
- Cách tiến hành bài này là:
+ Cho học sinh đọc bài văn.
+ Giáo viên giới thiệu hình ảnh về cái trống trường cho học sinh quan sát.
7
+ Cho học sinh nêu ý kiến về hình ảnh mà các em thích trong bài văn? Có thể
u cầu các em nêu lí do vì sao mình thích hình ảnh đó.
- Giáo viên cần tơn trọng ý kiến của học sinh, đặt biệt khen ngợi những em tìm
được những hình ảnh đẹp và giải thích được lí do vì sao mình thích hình ảnh đó (u
cầu khơng bắt buộc).
+ Sau cùng, giáo viên chốt lại các hình ảnh đẹp ở bài văn và hướng cho học
sinh nên đưa các hình ảnh đẹp vào bài văn miêu tả.
Biện pháp 3: Hướng dẫn học sinh cách quan sát đối tượng miêu tả, cách
lựa chọn hình ảnh, nội dung miêu tả và sắp xếp ý, đoạn.
* Quan sát đối tượng miêu tả cần chú ý:
Đây là khâu quan trọng và mấu chốt để học sinh có cơ sở viết thành bài văn,
đoạn văn hồn chỉnh. Vì vậy, giáo viên cần u cầu học sinh có sự chuẩn bị bài trước
khi đến lớp – đó là nhắc các em quan sát kĩ sự vật định tả trước khi vào học bài mới,
điều này giáo viên nhắc nhở các em trong phần dặn dò cuối buổi học. Bởi học sinh
hay nghĩ rằng với cảnh vật hay con vật quen thuộc hằng ngày thì khơng cần phải quan
sát lại, điều này là hoàn toàn sai lầm. Sự tiếp xúc hằng ngày chỉ cho ta những nhận
biết hời hợt, chung chung, chưa tồn diện. Có quan sát kĩ nhiều mặt, nhiều lượt, bằng
nhiều giác quan thì mới có những hiểu biết đầy đủ, phong phú và chính xác. Quan sát
trực tiếp cịn cho ta những cảm xúc “nóng hổi” để đưa vào bài viết, tránh được sự tẻ
nhạt.
Bước đầu tiên để làm văn miêu tả là giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh cách
quan sát. Trong văn miêu tả, quan sát có một vai trị rất quan trọng. Khi quan sat
không chỉ sử dụng mắt nhìn mà cịn phải dùng tất cả các giác quan: xúc giác, thính
giác, vị giác,... Nếu khơng có quan sát thì vốn hiểu biết và trí tưởng tượng của học
sinh rất khó phát triển. Văn miêu tả gắn chặt với tâm hồn, cũng như với óc quan sát
tinh tế của con người. Chính những kết quả quan sát đã đem lại cho học sinh những
cảm nhận về sự vật hiện tượng cần miêu tả. Chẳng hạn, nếu học sinh chưa từng nhìn
8
thấy cây bàng thì học sinh sẽ khơng thể miêu tả về cây bàng và cũng khơng có ấn
tượng hay nhận thức gì về cây bàng.
Khi dạy học sinh quan sát, giáo viên cần nhấn mạnh rằng bất kì sự tưởng tượng
dù phong phú đến đâu cũng đều bắt nguồn từ thực tế, gắn với đời sống thực tế. Và
muốn có sự hiểu biết thực tế thì cần phải quan sát. Những câu văn, bài văn miêu tả
hay, có hồn và sinh động là những câu văn, bài văn của người biết quan sát, có tài
quan sát và chịu khó quan sát. Chỉ cần chúng ta chịu khó quan sát, chúng ta sẽ có thể
thấy được rất nhiều điều trong cuộc sống mà các em chưa bao giờ thấy hoặc chưa bao
giờ để ý thấy. Mỗi một nhà văn muốn viết được những bài văn miêu tả hay cần phải
có sự quan sát trải nghiệm thực tế thì mới có thể viết được lên những câu văn hay,
sinh động mà mỗi khi đọc, người đọc dường như tưởng tượng ra được cả sự vật đó.
Từ những hiểu biết về quan sát như vậy, khi dạy học sinh về văn miêu tả, giáo viên
cần dạy các em cách quan sát.
* Quan sát phải gắn liền với so sánh và tưởng tượng.
Tưởng tượng có vai trị tích cực trong cuộc sống. Tưởng tượng tạo nên những
hình ảnh rực rỡ, phản ánh rõ ước mơ, lí tưởng của con người. Đối với văn miêu tả,
tưởng tượng có vai trị đặc biệt quan trọng. Nhờ có tưởng tượng mà tất cả những hình
ảnh, màu sắc, âm thanh... đều có thể được tái hiện trước mắt chúng ta. Tất cả những
chi tiết đặc trưng nhất của sự vật trong thực tế không phải lúc nào cũng bộc lộ, nhưng
nhờ có tưởng tượng mà sự vật mới hiện ra với những nét đặc trưng của nó.
Văn miêu tả nhằm giúp người đọc hình dung ra sự vật, sự việc một cách sinh
động, cụ thể. Vì thế, khi viết văn, người ta thường dùng liên tưởng, so sánh. Nhờ có
liên tưởng, so sánh mà văn miêu tả khơi gợi được trí tưởng tượng, óc sáng tạo của
người đọc.
Do đó, khi hướng dẫn học sinh quan sát, giáo viên cần hướng dẫn học sinh phát
hiện ra những nét giống nhau giữa các sự vật hiện tượng. Hay nói cách khác, khi quan
sát, học sinh phải hình dung được trong đầu xem hình ảnh mình vừa quan sát được
giống với những hình ảnh nào mà mình đã biết.
9
Ví dụ: Khi hướng dẫn học sinh quan sát con vật mà em u thích, giáo viên có
thể đặt ra hệ thống câu hỏi giúp học sinh liên tưởng và so sánh:
+ Khi nhìn từ xa trơng con mèo như thế nao? Hình dáng ra sao? Có bộ lơng
màu gì? Có những bộ phận gì?
+ Khi chú mèo di chuyển trơng như thế nào? Nhìn con mèo liên tưởng đến hình
ảnh gì? Màu sắc của các bộ phân trên co thể con mèo như thế nào? Con mèo có gì nổi
bật? ...
Với hệ thống câu hỏi như trên, học sinh khơng những viết ra những điều mình
quan sát được mà cịn có thể viết ra những câu văn giàu hình ảnh.
Ngồi ra, giáo viên cịn có thể đọc cho học sinh nghe những đoạn văn, đoạn thơ
có nhiều hình ảnh so sánh và liên tưởng hay.
Ví dụ đoạn văn tả về ngoại hình của một con mèo: Đó là con mèo của nội em
đem từ quê lên cho em. Lông nó đen tuyền, mượt như nhung. Em đặt ln tên cho nó
là Nhung. Vuốt tay lên người nó bàn tay như dịu đi bởi cài mượt mà của bộ lông dày.
Hai con mắt trong vắt, lồ lộ, óng ánh như hịn thủy tinh màu lam. Mũi nó đen bóng
như láng mỡ. Hai mép tua tủa những hàng ria. Mồi lần nó ngáp ngủ, cái lưỡi thè dài
ra ngồi miệng, đỏ hồng như trái ớt chín. Lúc ấy bốn chân nó chỗi ra, lưng uốn
cong cong như cái vịng, đi dựng lên như cái cần câu. Nhung có bộ vuốt cực sắc.
Nó có thể bấm vào cây cau leo lên thoăn thoắt đến gần ngọn rồi buông người nhảy
xuống mà cứ êm ru bởi dưới các bàn chân là một nệm thịt như nệm “Kim đan”.
Chính vì vậy, khi dạy văn miêu tả cho học sinh, giáo viên cần chú ý hướng dẫn
các em sử dụng các hình ảnh so sánh, nhân hóa. Muốn được như vậy, giáo viên phải
hướng dẫn các em quan sát thật kĩ những sự vật mà mình muốn miêu tả, từ đó các em
có sự so sánh, liên tưởng xem các hình ảnh đó giống với cái gì để viết được những
câu văn hay và sinh động.
Dưới đây là một đoạn văn mà học sinh đã quan sát, miêu tả rất kĩ về cây
phượng. Trong đoạn văn này, em đã biết sử dụng những hình ảnh so sánh, nhân hóa
rất sinh động và gợi cảm.
10
Sân trường em trồng rất nhiều loài cây nhưng em vẫn thích nhất là cây
phượng.
Khơng biết cây phượng này trồng bao lâu rồi nhưng từ khi em bước vào lớp
một đã nhìn thấy. Thân to mấy người ơm khơng xuể, vỏ cây màu nâu xám. Lên cao,
thân cây chĩa ra nhiều nhánh lớn. Lá phượng xanh tươi, mượt mà. Mỗi ngọn lá rộng
bằng trang vở, gồm nhiều chiếc lá nhỏ xíu mọc đối nhau. Gân lá cứng màu xanh
nhạt, chìa từng cặp cũng đối nhau đều đặn hai bên cuống lá to chạy dài đến gần
ngọn lá rủ xuống mềm mại.
Hoa phượng có năm cánh mọc từng chùm, khi nở, hoa phượng xòe ra như
bướm, bốn cánh màu đỏ, cánh kia trắng ngà điểm nhiều chấm đỏ dày và cứng hơn.
Nhị hoa thì vươn dài, đầu to, mang túi phấn hơi cong.
Mùa hè đến những chùm hoa phượng nở rộ đỏ rực cả một vùng. Đây là hình
ảnh đọng lại trong tâm tưởng em mỗi khi những chú ve sầu bắt đầu râm ran vì nó gần
gũi và gắn bó nhất với nhiều kỉ niệm của tuổi học trị.
Có thể nói liên tưởng và tưởng tượng có vai trị đặc biệt quan trong trong khi
viết văn miêu tả. Giáo viên phải giúp học sinh hiểu rằng tưởng tượng phải dựa trên
thực tế, khơng có nghĩa là nghĩ vu vơ và khơng có cơ sở thực tế. Để học sinh biết cách
liên tưởng đúng, giáo viên phải giúp học sinh tập quan sát, tìm hiểu thực tế một cách
có ý thức, có thói quen, có phương pháp. Từ đó các em mới có nền tảng và có cơ sở
để tưởng tượng đúng.
Vì thế, giáo viên nên hướng cho học sinh biết quan sát theo cách quan sát
tìm hiểu khoa học có mục đích khác nhau.
+ Mục đích quan sát khoa học là tìm ra cơng cụ cấu tạo của sự vật, đặc điểm
tính chất nổi bật của sự vật đó.
+ Quan sát văn học tìm ra màu sắc, âm thanh hình ảnh tiêu biểu và cảm xúc của
người đối với sự vật.
* Quan sát bằng nhiều giác quan.
- Quan sát bằng mắt nhận ra màu sắc, hình khối, sự vật.
11
- Quan sát bằng tai nhận ra âm thanh, nhịp điệu, gợi cảm xúc.
- Quan sát bằng mũi nhận ra những mùi vị tác động đến tình cảm.
- Quan sát bằng vị giác và xúc giác, quan sát cảm nhận…
Nhờ cách quan sát này mà các em ghi nhận được nhiều ý, giúp bài văn đa
dạng, phong phú và sinh động.
* Quan sát tỉ mỉ nhiều lần.
Muốn tìm ra ý của đoạn văn, học sinh phải quan sát kỹ, quan sát nhiều lần sự
vật đó. Tránh quan sát qua loa như ta nhìn lướt qua hay liếc nhìn sẽ khơng tìm ra ý
hay cho bài văn.
* Học sinh cần xác định rõ vị trí, thời điểm, thời gian, trình tự quan sát.
- Học sinh có thể lựa chọn các trình tự quan sát khác nhau
+ Trình tự khơng gian: Quan sát từ trên xuống dưới hoặc từ dưới lên trên, từ
trái sang phải hay từ ngồi vào trong.
+ Trình tự thời gian: Quan sát từ sáng đến tối, từ lúc bắt đầu đến khi kết thúc...
+ Trình tự tâm lý: Thấy nét gì nổi bật thu hút bản thân, gây cảm xúc quan sát
trước.
* Hướng dẫn học sinh xác định được yêu cầu quan sát của bài văn.
* Phải tìm được những nét riêng tiêu biểu của sự vật. Không cần thống kê tỉ mỉ
chi tiết về sự vật, sự việc, chỉ cần chép lại những đặc điểm mà mình cảm nhận sâu sắc
nhất.
* Để làm được bài văn đúng u cầu của đề bài, q trình quan sát khơng thể
dàn đều mà phải tìm ra trọng tâm quan sát, thường là nét chính của bài nêu bật chủ đề
của đoạn văn và dụng ý của nguời viết. Có như vậy bài viết mới tránh khỏi dàn trải,
nhạt nhẽo, lan man và lạc đề.
* Tạo hứng thú và cảm xúc.
Quan sát trong văn học cần tạo cho học sinh hứng thú say mê. Từ đó bộc lộ
được cảm xúc của bản thân trước đối tượng quan sát. Có hứng thú, cảm xúc học sinh
mới dễ dàng tìm từ, chọn ý giúp cho việc diễn tả sinh động và hấp dẫn.
12
Giáo viên phải chuẩn bị các câu hỏi gợi ý giúp học sinh quan sát. Chẳng
hạn:
+ Thể loại của bài văn là gì?
+ Kiểu bài văn là gì?
+ Trọng tâm miêu tả sự vật nào?
+ Quan sát sự vật đó vào lúc nào?
+ Quan sát theo thứ tự nào?
+ Quan sát bằng giác quan nào?
+ Quan sát như vậy nhìn thấy hình ảnh gì?
+ Nghe thấy âm thanh gì, có cảm xúc gì?
+ Có nhận xét gì qua những quan sát đó?
* Tổ chức cho học sinh quan sát.
Tuỳ theo đề bài, giáo viên tổ chức cho các em quan sát ngay tại địa điểm có đối
tượng cần tả. Nếu khơng thể tổ chức quan sát được, thì giáo viên tổ chức hướng dẫn
học sinh quan sát trước khi tới lớp và ghi chép những điều cảm nhận được.
- Học sinh phải tự làm việc, tự quan sát, tự ghi chép là chính.
- Giáo viên có thể nêu câu hỏi chung cho cả lớp. Có thể nêu những câu hỏi gợi
mở, học sinh trả lời miệng. Giáo viên cũng có thể gợi ý các em phát hiện những nét
đặc sắc của bầu trời, cây cối, đồ vật, con vật xung quanh...
- Bên cạnh, giáo viên cần nhắc các em quan sát phải đi đơi với việc tìm từ ngữ
để diễn tả đúng và sinh động điều đã quan sát được.
- Cân nhắc để lựa chọn được một thứ tự sắp xếp các chi tiết sẽ tả mà mình coi là
thích hợp hơn cả.
- Khi vào học bài mới, giáo viên ln nhắc học sinh nhớ: Mỗi bài văn cần có bố
cục 3 phần: Mở bài, thân bài, kết bài. Với mỗi bài văn, công việc đầu tiên của tôi là
yêu cầu học sinh tìm hiểu đề bài; học sinh đọc kĩ đề bài nhiều lần rồi trả lời các câu
hỏi về vấn đề chính trong đề bài.
+ Đề bài thuộc thể loại gì? Đề bài yêu cầu tả gì?
13
- Giáo viên gạch chân bằng phấn màu dưới các từ ngữ quan trọng để học sinh
chú ý.
- Nếu đối tượng miêu tả chưa gần gũi với học sinh thì giáo viên cần giới thiệu
một số tranh ảnh minh họa cho học sinh quan sát.
- Hướng dẫn học sinh lập dàn ý từ những điều đã quan sát được.
* Sắp xếp ý, đoạn.
- Căn cứ vào nội dung đã lựa chọn để sắp xếp từng ý (theo một thứ tự nào đó:
từ ngồi vào trong, từ trước ra sau, từ xa đến gần, từ trên xuống dưới,…)
- Sắp xếp các ý theo đoạn với thứ tự đã lựa chọn cho phù hợp.
Để viết được bài văn, học sinh cần tập viết đoạn. Trong chương trình Tập làm
văn lớp 4, bài tập viết đoạn chiếm số lượng nhiều. Đoạn văn được phân loại theo
chức năng: đoạn mở bài, đoạn thân bài, đoạn kết bài. Cách phân loại này chi phối
cách xây dựng các kiểu bài viết đoạn mở bài, viết đoạn thân bài và đoạn kết bài. Mỗi
đoạn văn theo chức năng này lại được phân loại nhỏ hơn: mở bài trực tiếp, mở bài
gián tiếp, kết bài mở rộng, kết bài tự nhiên (không mở rộng).
Một số dàn bài trong văn miêu tả lớp 4:
1. Tả đồ vật:
a) Mở bài: Giới thiệu đồ vật cần miêu tả.
b) Thân bài: - Tả bao quát.
- Tả chi tiết (tả từng bộ phận).
- Tả cơng dụng.
c) Kết bài: Tình cảm của em đối với đồ vật.
2. Tả cây cối:
a) Mở bài: Giới thiệu cây mình định tả (Đó là cây gì? Trồng ở đâu? Do ai
trồng? Trồng từ bao giờ?...)
b) Thân bài: - Tả bao quát về hình dáng của cây.
- Tả chi tiết từng bộ phận của cây: rễ, thân, lá, cành, hoa, quả.. (hoặc có thể tả
chi tiết về thời kì phát triển của cây: khi cây còn non đến khi cây trưởng thành, ra hoa
và kết quả)
c) Kết bài: Nêu tác dụng của của cây và tình cảm của em với cây đó.
14
3. Tả con vật:
a) Mở bài: Giới thiệu con vật mình định tả.
b) Thân bài: - Tả hình dáng con vật: từ bao quát đến chi tiết.
- Tả hoạt động của con vật và thói quen sinh hoạt của nó (có thể
tả phối hợp ngoại hình và hoạt động của con vật)
c) Tình cảm của em đối với con vật đó.
Biện pháp 4: Hướng dẫn xây dựng đoạn văn mở bài, thân bài, kết bài và
xây dựng bố cục bài văn.
Bài tập luyện viết văn miêu tả là những bài tập viết thành đoạn, bài.
Khi học sinh thực hiện viết bài văn miêu tả cần có thời gian suy nghĩ tìm cách
diễn đạt (dùng từ, đặt câu, sử dụng các biện pháp tu từ so sánh, nhân hố,…). Vì vậy,
u cầu đặt ra là lời văn cần rõ ý, miêu tả sinh động, bộc lộ được cảm xúc, bố cục bài
văn chặt chẽ, hợp lí trong từng đoạn, trong tồn bài để tạo ra một “chỉnh thể”.
Các bài tập được xây dựng trên cơ sở quy trình sản sinh ngơn bản và chứa
đựng trong nó nhiều bài tập hình thành những kĩ năng bộ phận (xác định yêu cầu nói,
viết và tìm ý, sắp xếp ý thành bài đến viết đoạn văn, liên kết đoạn văn thành bài,…).
Kĩ năng viết của học sinh được rèn luyện chủ yếu qua các bài tập viết đoạn văn trước
khi viết một bài văn hồn chỉnh. Do đó, trong q trình thực hiện các bài tập rèn
luyện kĩ năng viết, giáo viên cần giúp học sinh thực hiện tốt những yêu cầu trong các
nhóm bài tập sau:
- Nhóm bài tập tiền sản sinh ngơn bản: gồm các bài tập phân tích đề bài, xác
định nội dung viết, tìm ý, sắp xếp ý để chuẩn bị thực hiện yêu câu viết( miêu tả). Việc
phân tích tìm hiểu đề giúp học sinh xác định được yêu cầu, nội dung, giới hạn của đề
bài. Với mỗi đề bài cụ thể, khi phân tích tìm hiểu đề, các em phải trả lời được câu
hỏi: Viết để làm gì? Viết về cái gì? Viết cho ai? Thái độ cần được bộc lộ trong bài
viết như thế nào? Tình cảm của người viết phải thể hiện được qua cách miêu tả.
* Hướng dẫn học sinh viết các đoạn văn:
- Đoạn văn mở bài: Có hai cách mở bài mà học sinh được học đó là mở bài
trực tiếp và mở bài gián tiếp. Khơng nhất thiết phải gị bó học sinh làm mở bài theo
15
cách nào để cho các em tự chọn cho mình cách mở bài hợp lý nhất và phù hợp với
khả năng của từng em. Mở bài gián tiếp có thể xuất phát từ một vấn đề mình cần nói
tới, có thể bắt đầu bằng những câu thơ, những câu hát,…nhưng phải bám sát vào yêu
cầu của đề, không lan man, xa đề, khơng rườm ra. Giáo viên có thể cho học sinh làm
việc nhóm đơi hoặc cá nhân tự nêu cách vào bài của mình, sau đó cho các bạn nhận
xét. Chẳng hạn với bài tả con mèo, một học sinh mở bài:''Hè vừa rồi, mẹ em đi chợ
mua được một con mèo tam thể. Chú ta là thành viên thứ năm của gia đình em, nay
đã được bốn tháng."
- Giáo viên nêu câu hỏi: Đây là cách vào bài nào? (trực tiếp)
- Giáo viên nêu yêu cầu để học sinh nêu cách mở bài khác sinh động hơn:
"Nhà em đã từ lâu khơng có một chú chuột nào dám bén mảng tới vì có một
chú lính gác cừ khơi, đó chính là chú Mướp. Mướp ta đã được một năm tuổi, nó thật
hiền dịu nhưng cũng thật tinh nhanh, nó như người bạn thân của em."
Hay với đề bài miêu tả cây phượng, học sinh mở bài như sau:
"Đứng bên cổng trường em là cây phượng già. Một buổi trưa tháng năm, em
ngồi dưới gốc phượng, ngắm nhìn những đóa hoa thắm tươi như báo hiệu một mùa
hè nữa lại bắt đầu.”
Từ các cách mở bài khác nhau các em nhận xét và tìm ra ý đúng, ý hay để mở
bài một cách hợp lý nhất.
- Đoạn thân bài: Có thể gồm một số đoạn văn, là tồn bộ nội dung miêu tả
được viết theo từng phần, từng ý đã được sắp xếp khi quan sát, chuẩn bị viết bài.
Trong đó, thể hiện được hình ảnh về đối tượng miêu tả với ngôn từ và các biện pháp
nghệ thuật mà người viết vận dụng để miêu tả.
Ví dụ: với đề bài miêu tả cây phượng, học sinh viết phần thân bài như sau:
“Cây phượng đã già lắm rồi, nghe bác bảo vệ kể lại, ngày xây dựng ngôi
trường này, thầy hiệu trưởng đã trồng cây phượng làm kỷ niệm. Hai mươi năm trôi
qua, cây phượng đã hai mươi tuổi. Cây đứng giang rộng cánh tay che chở cho chúng
em dưới bóng mát của mình. Dưới gốc phượng, một cái rễ lớn, ngoằn ngoèo uốn
16
lượn trông như con rắn đang trườn. Lớp da phong sương bạc phếch như màu đất ải.
Quanh gốc cây giờ đã được xây một cái vịng trịn có đường kính năm mét. Bờ gạch
xây giữ đất gốc được láng xi măng cho chúng em ngồi chơi. Buổi trưa ngồi trên bờ
gạch, chúng em thích thú ngắm cây phượng tỏa bóng mát cho sân chơi. Cái thân nó
đã đẫy vịng tay của em, sần sùi, cằn cỗi. Phần dưới gốc tròn vo làm ta ngỡ nó sẽ cao
vút lên nhưng khơng, chỉ khoảng hơn hai mét là nó phân ra làm hai, rồi từ hai phần
thân ấy các cành đua nhau mọc ra xiên chéo lên, đâm xịe về các phía. Tán phượng
xịe rộng ra như một cái ơ che mát cả một góc sân, chim đậu làm tổ trên đó, suốt
ngày đua nhau hót líu lo. Từ những cành nhánh, lá phượng xòe ra với một bộ xương
lá đều đặn đối xứng nhau. Trên các xương lá đó các phiến lá lại xịe ra đối xứng.
Giữa vùng trời mênh mơng, giữa đám lá xanh um, những đóa phượng nổi bật lên, rực
lửa kiêu sa dưới ánh nắng hạ; tươi mát dịu dàng vào những buổi chiều tắt nắng; xinh
xắn dễ thương vào những buổi sáng trong mát. Bây giờ đang mùa hè, các cành nở
bung chùm hoa như lửa đỏ chói chang. Mỗi cánh hoa như cánh bướm bay. Một chùm
hoa trong gió như bướm kết chùm lại. Hè cịn về là phượng còn nở, là còn một khung
trời trong sáng dành cho tuổi thơ, là còn những trang lưu bút với những dòng chữ
xinh xắn, với lời lẽ ngây thơ nhưng chứa chan biết bao cảm xúc. Bỗng nhiên khơng
khí chợt xơn xao hẳn lên khi trên tán cây con ve sầu cất tiếng. Tiếng ve inh ỏi. Một
con ve kêu, hai con ve kêu... cả một dàn nhạc ve sầu lên tiếng. Tán phượng say nồng
những cành mềm rung rinh màu lá xanh hoa đỏ. Sau mùa thi cử, những cánh bướm
làm bằng hoa phượng lại hay lượn trong các quyển lưu bút học trò.”
- Đoạn văn kết bài: Kết bài tuy chỉ là một phần nhỏ trong bài văn nhưng lại rất
quan trọng bởi đoạn kết bài thể hiện được nhiều nhất tình cảm của người viết với đối
tượng miêu tả. Thực tế cho thấy học sinh thường hay liệt kê cảm xúc của mình làm
phần kết luận khơ cứng, gị bó, thiếu tính chân thực. Chủ yếu các em thường làm kết
bài không mở rộng, kết bài như vậy không sai nhưng chưa hay, chưa hấp dẫn người
đọc. Vì vậy địi hỏi người giáo viên phải gợi ý để học sinh biết cách làm phần kết bài
17
có mở rộng bằng cảm xúc của mình một cách tự nhiên thơng qua những câu hỏi mở,
sau đó cho các em nhận xét, sửa sai và chắt lọc để có được những kết bài hay.
Ví dụ: với đề bài miêu tả cây phượng, học sinh viết phần kết bài như sau:
“Bóng tán lá xanh sáng hơm nay bỗng hừng hực sắc đỏ nơn nao. Sắc đỏ nhập
nhịa trong tâm trí em dịng mực đỏ lời phê, điểm số của thầy giáo, cô giáo, sắc đỏ
của hoa phượng bên màu đỏ mái ngói ngơi trường như thì thầm nói: Mùa nghỉ hè
nữa lại về.”
Văn chương không phải là sợ đúng, sai với làm văn đúng thôi chưa đủ phải
thấm đượm cảm xúc của người viết. Song tình cảm khơng phải thứ gị ép bắt buộc,
tình cảm ấy phải chân thực, hồn nhiên, xuất phát từ chính tâm hồn các em. Bài văn
không thể hay nếu thiếu cảm xúc của người viết, cảm xúc không chỉ bộc lộ ở phần kết
bài mà còn thể hiện ở từng câu, từng đoạn của bài. Vì vậy giáo viên cần chú ý rèn cho
học sinh cách bộc lộ cảm xúc trong bài văn một cách thường xuyên liên tục, từ tiết
đầu tiên của mỗi loại bài đến những tiết luyện tập xây dựng đoạn văn, tiết viết bài và
ngay trong tiết trả bài nữa.
Biện pháp 5: Bộc lộ cảm xúc trong đoạn văn, bài văn.
Ngoài việc giúp học sinh sử dụng các biện pháp nghệ thuật trong các câu văn,
giáo viên cần giúp học sinh biết bộc lộ cảm xúc trong đoạn văn. Bởi một đoạn văn,
bài văn hay không thể thiếu được cảm xúc của người viết. Cảm xúc không chỉ bộc lộ
ở phần kết bài mà còn cần thể hiện trong từng câu, từng đoạn của bài văn. Điều này
chúng ta cần gợi ý cho các em một cách cụ thể trong từng bài.
Ví dụ: Một học sinh tả chiếc bàn học:
Mỗi lúc học bài mệt em thường gối má lên mặt bàn để cảm nhận hương thơm
dìu dịu của một người bạn thân đã cần mẫn, miệt mài cùng em giải những bài tốn
khó.
Miêu tả như vậy vừa sinh động, tinh tế vừa rất tình cảm và sẽ cuốn hút người
đọc, người nghe.
18
Tương tự như vậy, tôi yêu cầu học sinh đưa ra những suy nghĩ, cảm xúc nhận
xét trước một sự vật hay hiện tượng bất kỳ. Bài văn của học sinh tránh được nhược
điểm khô khan, liệt kê sự việc mà thấm đượm cảm xúc của người viết.
Giúp học sinh kĩ năng viết những câu văn sinh động, gợi tả, gợi cảm, giàu hình
ảnh và nhạc điệu
Từ cách dẫn dắt, gợi mở của giáo viên và từ một ý cho trước hay từ một câu
đơn, giáo viên hướng dẫn học sinh tập mở rộng câu bằng cách thêm các thành phần
phụ cho câu như: trạng ngữ, bổ ngữ, động từ, tính từ, từ láy, từ tượng hình, từ tượng
thanh,…Sử dụng các hình ảnh, chi tiết sinh động biểu cảm; các biện pháp nghệ thuật
như: nhân hoá, so sánh, điệp từ, điệp ngữ, hốn dụ, phóng đại,…làm cho cách diễn
đạt câu văn, đoạn văn, thêm cụ thể, sống động giúp người đọc như cùng cảm nhận với
mình.
Yêu cầu rèn luyện kĩ năng này có thể thực hiện ở các tiết học luyện từ và câu
hoặc tiết trả bài tập làm văn. Bài tài tập luyện viết câu sẽ gúp học sinh có ý thức viết
văn ngày càng chặt chẽ về ý tứ, sinh động, giàu xúc cảm,…từ đó giúp các em thêm
hứng thú học tập mơn tiếng Việt nói chung và phân mơn tập làm văn nói riêng.
Ví dụ:
* Từ những câu văn đã cho, viết lại cho sinh động, gợi cảm xúc bằng cách thêm
biện pháp nghệ thuật:
- Bông hoa hồng xinh đẹp.
+ Bông hoa hồng xinh đẹp đang tươi cười và thì thầm toả hương thơm. (Biện
pháp nhân hố).
* Điền thêm từ thích hợp vào chỗ dấu chấm chấm để tạo thành những câu văn
gợi tả, gợi cảm:
- Cổng trường ……………………………… chúng em vào lớp.
+ Cổng trường đang dang rộng vịng tay đón chúng em vào lớp. (Biện pháp
nhân hoá).
19
* Diễn đạt lại những câu văn sau đây bằng cách thêm các từ ngữ, các biện pháp
nghệ thuật cho sinh động, gợi cảm.
Những chùm hoa phượng như những tán lớn xoè ra.
Những chùm hoa phượng như những tán lớn x ra như mn ngàn con bướm
thắm đậu khít nhau. (so sánh)
Bên cạnh những yếu tố trên, giáo viên cần rèn cho học sinh kĩ năng viết bài văn
có bố cục chặt chẽ, có lời văn phù hợp với yêu cầu nội dung, thể loại và kiểu bài.
Để bài làm của các em có bố cục chặt chẽ, cần kết hợp với phân môn Luyện từ
và câu, hướng dẫn học sinh biết cách liên kết các đoạn văn bằng những từ ngữ như:
chẳng bao lâu, từ lâu, tuy vậy, trong khi đó,…Nhắc nhở học sinh xuống dịng khi kết
thúc đoạn văn, mở đầu đoạn tiếp theo bằng câu nối vào ý khác, làm cho bài văn trong
sáng, mạch lạc, khúc chiết. Chữ viết phải rõ ràng và cố gắng rèn viết chữ đẹp. Bài làm
cần sáng sủa, sạch sẽ, lưu ý nhắc nhở các em nắm vững các đặc điểm về thể loại, kiểu
bài để lựa chọn những từ ngữ cho phù hợp dùng những tính từ gợi hình ảnh, gợi cảm
xúc; những từ tượng thanh, tượng hình thích hợp; dùng các hình ảnh so sánh, ví von
sinh động…để vừa gợi tả cho cụ thể, vừa thể hiện tình cảm, thái độ của mình với
người được miêu tả.
Tóm lại, vẻ đẹp của một đoạn văn, bài văn hay không chỉ ở ý nghĩa nội dung,
bộc lộ cảm xúc mà nội dung và cảm xúc đó phải được thể hiện thơng qua vẻ đẹp của
tiếng Việt. Trong giảng dạy, cần hướng dẫn học sinh đi từ những cái cụ thể, chắt lọc
những điều quan trọng về kiến thức, kĩ năng để truyền thụ cho các em. Khơi dậy tính
kiên trì học hỏi, kiên trì rèn luyện ở các em. Gắn kiến thức với vốn sống, vốn hiểu biết
của học sinh, đánh thức ở các em những gì các em đang có và “phát triển ” dần lên.
3. Kết quả đạt được:
Qua quá trình áp dụng giảng dạy theo phương pháp trên, tơi nhận thấy các em
có nhiều tiến bộ hơn. Các em đã mạnh dạn, tự tin và có hứng thú hơn trong giờ học
Tập làm văn. Các em đã tự mình viết được một bài văn, một đoạn văn theo yêu cầu
của đề bài. Tuy những bài văn, đoạn văn đó có thể chưa hay, chưa sinh động nhưng
20
các em đã tự viết bằng chính tư duy của mình. Tơi xin đưa ra đây một ví dụ về bài
viết của một học sinh có được kĩ năng viết văn tương đối tốt ở lớp tôi:
* Đề bài: Tả một con vật nuôi trong nhà (Tiếng Việt 4 tập 2 trang 149).
Bài làm:
Trong nhà em nuổi rất nhiều loài vật nhưng thơng minh và gắn bó với em nhất
là chú chó Lu Lu.
Lu Lu có một bộ lơng vàng óng, em cũng chẳng biết nó thuộc giống chó gì.
Năm nay 2 tuổi Lu Lu nhìn trơng to lớn vơ cùng, chẳng bù cho lúc trước bé xíu lũn
cũn. Lu Lu nặng tầm khoảng 15 kg, đối với người trong nhà rất hiền lành nhưng đối
với khách lạ thì rất dữ tợn. Hàm răng chú trắng bóng, sắc lẻm, cái lưỡi hồng hồng
suốt ngày thè ra thở . Đôi tai thính cứ có tiếng động lạ là lại vểnh lên. Chiếc đi
cong cong ngốy tít lên mỗi khi em xoa đầu hoặc chơi đùa với nó. Lu Lu rất thơng
minh, chuyện gì cũng dạy một lát là hiểu. Lu Lu thích nhất là chơi trị đuổi bắt. Cứ
mỗi lần em chạy là nó lại đuổi theo với vẻ mặt vơ cùng hào hứng. Đêm đến, khi cả
gia đình ngủ say thì Lu Lu lại âm thầm thức canh cho giấc ngủ của mọi người.
Cả nhà em ai cũng yêu quý Lu Lu. Lu Lu cũng rất gắn bó với mọi người. Đã từ
lâu Lu Lu như là một thành viên khơng thể thiếu của gia đình.
Qua một thời gian áp dụng giảng dạy môn tập làm văn theo các biện pháp trên,
đến nay tôi thống kê kết quả cuối năm học 2014 – 2015 đạt được như sau:
- HS hoàn thành bài viết: 36 em
- HS chưa hoàn thành bài viết: 2 em
94,7 %
5,3 %
Số học sinh hoàn thành bài viết được đánh giá kĩ năng làm văn theo 2
mức:
a. Kĩ năng phân tích đề bài, kĩ năng tìm ý và lựa chọn ý, kĩ năng xây
dựng dàn ý. Kĩ năng dùng từ, đặt câu, viết đoạn, liên kết đoạn văn thành
bài văn.
b. Kĩ năng thể hiện cảm xúc, cảm nhận sâu sắc của mình về bài viết.
24 em
12 em
21
Kết quả đạt được như trên tuy chưa cao, nhưng đã phần nào đánh dấu bước
thành công là làm cho học sinh có kĩ năng làm văn miêu tả tốt hơn, giúp các em tự tin
hơn trong môn Tiếng Việt cũng như các môn học khác. Do vậy, từ nay đến cuối năm
học 2015 – 2016 và những năm học tiếp theo tơi ln cố gắng phát huy, tìm tịi và vận
dụng phương pháp tốt nhất để học sinh lớp tôi đạt chất lượng tốt hơn.
4. Bài học kinh nghiệm:
Qua q trình giảng dạy về phân mơn tập làm văn cho học sinh, đặc biệt là văn
miêu tả, bản thân tôi rút ra bài học kinh nghiệm như sau:
- Giáo viên cần nắm vững nội dung chương trình và mục tiêu của môn học để
xác định các kĩ năng cần rèn cho học sinh trong việc viết văn miêu tả.
- Cần kết hợp với các môn học khác, nhất là phân môn Luyện từ và câu nhằm
cung cấp vốn từ ngữ cho học sinh, giúp các em dễ dàng hơn trong việc viết văn, đồng
thời giúp các em “thoát li” khỏi bài văn mẫu, biết cách sử dụng từ ngữ chân thực, mộc
mạc, giàu cảm xúc.
- Giáo viên cần kiên trì, nhiệt tình, có phương pháp sư phạm kết hợp sử dụng
hệ thống câu hỏi hợp lý để giúp học sinh dễ dàng tiếp thu kiến thức.
- Tránh áp đặt khiên cưỡng, nên biểu dương, động viên, khuyến khích học sinh
tìm tịi, sáng tạo trong văn chương, khơi gợi hứng thú học tập và tránh tâm lý mặc
cảm, tự ti học văn kém trong học sinh.
- Động viên các em thường xuyên đọc sách – báo thiếu nhi, sách những bài văn
chọn lọc dành cho học sinh tiểu học, hướng cho các em sử dụng sổ tay “Vốn từ” - để
tích lũy và sử dụng khi cần thiết.
22
PHẦN III: KẾT LUẬN
Trên đây chỉ là một số biện pháp của bản thân khi tôi dạy tập làm văn cho học
sinh lớp 4. Chính nhờ những biện pháp này tôi đã giúp các em viết được một số bài
văn đạt kết quả cao. Học sinh lớp tơi có kĩ năng làm văn tương đối tốt. Tuy nhiên, khi
áp dụng trong một lớp học có trình độ khơng đồng đều (còn nhiều học sinh thụ động,
lười suy nghĩ, lười sáng tạo thì vẫn cịn nhiều bất cập. Vì vậy, trong thực tế giảng dạy
người giáo viên cần phải tạo hứng thú học tập cho học sinh trong các tiết học, mà sự
hứng thú đó phải tạo ra từ đâu? Chính từ các giờ học được giáo viên tổ chức linh hoạt,
tạo sức hấp dẫn, bí quyết làm nảy sinh hứng thú và niềm say mê học tập của các em.
Là phải làm cho học sinh đạt được những thành công trong học tập. Cách tổ chức giờ
học là một yếu tố vơ cùng quan trọng. Cịn cách giải quyết vấn đề chính là nâng cao
trình độ đánh giá của giáo viên bằng cách nâng cao trình độ Tiếng Việt và văn học
của giáo viên làm cho giáo viên chủ động, tự tin khi giảng dạy. Không những thế
người giáo viên cịn phải cơng bằng, khách quan khi đánh giá, nhận xét kết quả học
tập của học sinh. Tôn trọng sản phẩm tinh thần của các em, động viên khuyến khích
các em một cách kịp thời, kích thích hứng thú học tập của học sinh. Mang lại cho các
em thỏa mãn niềm hạnh phúc, niềm vui. Nhưng để thực hiên được các bước đã nêu và
đạt được kết quả như ý muốn đòi hỏi người thực hiện (cả thầy và trò) phải có sự đầu
tư rất cơng phu và phải có thời gian, sự kiên trì nhẫn nại từng bước một. Học sinh cần
phải nắm vững phương pháp của từng thể loại văn. Học sinh tự tin trong học tập,
khơng cịn cảm giác “sợ” đối với phân môn tập làm văn nữa. Trái lại học sinh ham
thích học bộ mơn, phát huy được năng khiếu, sở trường. Tiết học từ đó trở nên sinh
động, diễn ra một cách thoải mái, tự nhiên hơn.
Để làm tốt được việc rèn luyện cho học sinh sản sinh được nhiều bài văn hay
đòi hỏi ngưòi giáo viên phải có đựoc một số u cầu sau:
Ln tự học, tự bồi dưỡng làm giàu vốn kiến thức kĩ năng của bản thân bằng
nhiều hình thức như: Học hỏi những đồng nghiệp có kinh nghiệm trong cơng tác
giảng dạy, cập nhật các thông tin, tài liệu phục vụ tôt cho công tác giảng dạy, nhất là
23
các phương pháp dạy tập làm văn. Nắm vững quy trình dạy của từng tiết học, nắm
vững kiến thức của từng đề văn trong chương trình, ln ln đổi mới các phương
pháp giảng dạy nhằm đáp ứng với nhu cầu mới của xã hội.
Trên đây là một số biện pháp giúp học sinh lớp 4 viết bài văn miêu tả đạt kết
quả tốt mà tôi đã áp dụng vào thực tế từ năm học 2014 - 2015 cho đến nay. Tơi mong
muốn nhận được sự góp ý của đồng nghiệp để góp phần nâng cao chất lượng dạy
phân mơn Tập làm văn nói riêng, mơn Tiếng Việt nói chung cũng như tất cả các môn
học khác.
24