Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Skkn một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học giải toán có lời văn ở lớp một

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (460.94 KB, 28 trang )

MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
DẠY - HỌC “GIẢI TOÁN CÓ LỜI VĂN” Ở LỚP MỘT
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Mỗi môn học ở tiểu học đều góp phần vào việc hình thành và phát
triển những cơ sở ban đầu, rất quan trọng của nhân cách con người Việt
Nam. Trong các môn học ở tiểu học, cùng với môn Tiếng Việt, môn Toán
có vị trí hết sức quan trọng bởi vì:Các kiến thức, kĩ năng của môn Toán ở
tiểu học có nhiều ứng dụng trong đời sống; chúng rất cần thiết cho người
lao động, rất cần thiết để học tốt các môn học khác ở tiểu học và chuẩn bị
việc học tốt môn Toán ở bậc trung học. Môn Toán giúp học sinh biết nhận
biết những mối quan hệ về số lượng và hình dạng không gian của thế giới
hiện thực. Nhờ đó mà học sinh có được phương pháp nhận thức một số mặt
của thế giới xung quanh và biết cách hoạt động có hiệu quả trong học tập và
trong đời sống. Môn Toán góp phần rất quan trọng trong việc rèn luyện
phương pháp suy nghĩ, phương pháp giải quyết vấn đề; góp phần phát triển
trí thông minh, cách suy nghĩ độc lập, linh hoạt; khả năng ứng xử và giải
quyết những tình huống nảy sinh trong học tập và trong cuộc sống; nhờ đó
mà hình thành và phát triển cho học sinh các phẩm chất cần thiết và quan
trọng của người lao động mới. Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng nói về vị
trí vai trò của bộ môn Toán: “ Trong các môn khoa học và kỹ thuật, toán
học giữ một vị trí nổi bật. Nó có tác dụng lớn đối với kỹ thuật, với sản xuất
và chiến đấu. Nó là một môn thể thao của trí tuệ, giúp chúng ta nhiều trong
việc rèn luyện phương pháp suy nghĩ, phương pháp suy luận, phương pháp
học tập, phương pháp giải quyết các vấn đề, giúp chúng ta rèn luyện trí
thông minh sáng tạo. Nó còn giúp chúng ta rèn luyện nhiều đức tính quý
báu khác như: Cần cù và nhẫn nại, tự lực cánh sinh, ý chí vượt khó, yêu
thích chính xác, ham chuộng chân lý”. Để đáp ứng những yêu cầu mà xã hội
đặt ra, Giáo dục và đào tạo phải có những cải tiến, điều chỉnh, phải thay đổi về
nội dung chương trình, đổi mới phương pháp giảng dạy cho phù hợp. Hội nghị
1



BCH trung ương khoá VIII lần thứ 2 đã chỉ rõ: " Đổi mới mạnh mẽ phương
pháp giáo dục và đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện tư duy
sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng phương pháp tiên tiến, phương
pháp hiện đại vào quá trình dạy học”. Trong luật Giáo dục, Khoản 2, điều 24
đã ghi: " Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác ,
chủ động sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn
học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào
thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học
sinh”. Đổi mới cách thực hiện phương pháp dạy học là vấn đề then chốt của
chính sách đổi mới giáo dục Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Đổi mới cách
thực hiện hiện phương pháp dạy học sẽ làm thay đổi tận gốc nếp nghĩ, nếp làm
của các thế hệ học trò - chủ nhân tương lai của đất nước. Như vậy, đổi mới hiện
phương pháp dạy học sẽ tác động vào mọi thành tố của quá trình giáo dục và
đào tạo. Nó tạo ra sự hiện đại hoá của quá trình này. Đổi mới phương pháp dạy
học thực chất không phải là sự thay thế các hiện phương pháp dạy học cũ bằng
một loạt các hiện phương pháp dạy học mới. Về mặt bản chất, đổi mới hiện
phương pháp dạy học là đổi mới cách tiến hành các phương pháp, đổi mới
phương tiện và hình thức triển khai phương pháp trên cơ sở khai thác triệt để ưu
điểm các phương pháp cũ và vận dụng linh hoạt một số phương pháp mới nhằm
phát huy tối đa tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học. Mục đích của
đổi mới phương pháp dạy học chính là làm thế nào để học sinh phải thực sự
tích cực, chủ động, tự giác, luôn trăn trở tìm tòi, suy nghĩ và sáng tạo trong quá
trình lĩnh hội tri thức và lĩnh hội cả cách thức để có được tri thức ấy nhằm phát
triển và hoàn thiện nhân cách của mình. Mặt khác môn toán thiết thực góp
phần thực hiện mục tiêu giáo dục tiểu học theo đặc trưng và khả năng của
môn Toán, cụ thể là chuẩn bị cho học sinh những tri thức, kỹ năng toán học
cơ bản cần thiết cho việc học tập hoặc bước vào cuộc sống lao động.
Đối với môn Toán lớp 1, môn học có vị trí nền tảng, là cái gốc, là
điểm xuất phát của cả một bộ môn khoa học. Môn Toán mở đường cho các

em đi vào thế giới kỳ diệu của toán học. Rồi mai đây, các em lớn lên, nhiều
2


em trở thành anh hùng, nhà giáo, nhà khoa học, nhà thơ... trở thành những
người lao động sáng tạo trên mọi lĩnh vực sản xuất và đời sống; trên tay có
máy tính xách tay, trong túi có máy tính bỏ túi... nhưng không bao giờ các
em quên được những ngày đầu tiên đến trường học đếm và tập viết 1, 2, 3 ...
học các phép tính cộng, trừ... Các em không quên được vì đó là kỷ niệm đẹp
đẽ nhất của đời người và hơn thế nữa, những con số, những phép tính ấy
cần thiết cho suốt cả cuộc đời.
Đối với mạch kiến thức: "Giải toán có lời văn”, là một trong những
mạch kiến thức cơ bản xuyên suốt chương trình Toán cấp tiểu học. Thông qua
giải toán có lời văn, các em được phát triển trí tuệ, được rèn luyện kỹ năng tổng
hợp: đọc, viết, diễn đạt, trình bày, tính toán. Toán có lời văn là mạch kiến thức
tổng hợp của các mạch kiến thức toán học, giải toán có lời văn các em sẽ được
giải các loại toán về số học, các yếu tố đại số, các yếu tố hình học và đo đại
lượng. Toán có lời văn là chiếc cầu nối giữa toán học và thực tế đời sống, giữa
toán học với các môn học khác. Đó cũng là danh dự và trách nhiệm của người
giáo viên nói chung và người giáo viên dạy lớp Một nói riêng.

3


B. NỘI DUNG
I. THỰC TRẠNG VỀ VIỆC DẠY PHẦN GIẢI TOÁN CÓ LỜI VĂN
Ở LỚP MỘT
1. Về giáo viên
Đa số giáo viên giảng dạy nhiệt tình, truyền thụ hết nội dung kiến
thức của bài học theo yêu cầu. Các bài tập ở sách giáo khoa được giáo viên

và học sinh giải quyết xong ngay tại lớp. Thế nhưng vẫn còn một số giáo
viên còn coi việc dạy cho học sinh “Giải toán có lời văn” cho học sinh lớp 1 là
đơn giản, dễ dàng nên chưa tìm tòi nghiên cứu để có phương pháp giảng dạy có
hiệu quả, chuyển đổi phương pháp giảng dạy còn lúng túng, chưa phát huy
được tích cực chủ động của học sinh, phương pháp dạy học truyền thống đã
ăn sâu vào tư duy vào lề lối dạy học hàng ngày nên khi giảng dạy cho học
sinh lớp 1 giáo viên đã diễn đạt như với các lớp trên làm học sinh lớp 1 khó
hiểu và không thể tiếp thu được kiến thức và không đạt kết quả Tốt trong việc
giải các bài toán có lời văn. Khả năng phối hợp, kết hợp với nhiều phương pháp
để dạy tuyến kiến thức: “Giải toán có lời văn” ở lớp 1 còn thiếu linh hoạt. Một
số giáo viên dạy theo cách thông báo kiến thức sẵn có, dạy theo phương
pháp thuyết trình có kết hợp với đàm thoại, thực chất vẫn là “thầy truyền
thụ, trò tiếp nhận ghi nhớ”. Một số giáo viên chưa biết cách dạy loại Toán
có lời văn, không muốn nói là làm cho bài toán trở nên phức tạp, khó hiểu
hơn. Một số giáo viên ngại sử dụng đồ dùng minh hoạ, kĩ năng sử dụng
công nghệ thông tin trong giảng dạy còn hạn chế, ngại tóm tắt bằng sơ đồ
hình vẽ hoặc đoạn thẳng, sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp trong
việc giúp học sinh tìm đường lối giải và giải toán còn khó hiểu. Giáo viên
còn lúng túng khi tạo các tình huống sư phạm để nêu vấn đề. Việc hiểu chưa
sâu ý đồ của từng bài toán dẫn đến việc khai thác, mở rộng thêm kiến thức
để bồi dưỡng học sinh có năng khiếu thì giáo viên chưa làm được. Từ đó
dẫn đến việc phát triển đề toán bồi dưỡng học sinh có năng khiếu hoặc cung
cấp thêm cho học sinh thuộc đối tượng học sinh học hai buổi trên ngày gặp
khó khăn.
4


Chưa khuyến khích động viên và giúp đỡ một cách hợp lý các nhóm cũng
như các đối tượng học sinh trong quá trình học.
2. Về học sinh

Trong các nội dung kiến thức toán ở chương trình toán Tiểu học thì
nội dung kiến thức “Giải toán có lời văn” là nội dung kiến thức khó khăn
nhất đối với học sinh, và càng khó khăn hơn đối với học sinh lớp Một. Bởi
vì đối với lớp Một: vốn từ, vốn hiểu biết, khả năng đọc hiểu, khả năng tư
duy lôgic của các em còn rất hạn chế, các em vừa mới bắt đầu làm quen với
dạng toán này lần đầu tư duy còn mang tính trực quan, kinh nghiệm thực tế
của học sinh lớp 1 chưa có. Một nét nổi bật hiện nay là nói chung học sinh
chưa biết cách tự học, chưa học tập một cách tích cực, tự giác. Những tiết
đầu tiên của giải toán có lời văn, số học sinh biết nêu lời giải, viết phép
tính, đáp số còn rất ít. Nhiều khi với một bài toán có lời văn các em có thể
đặt và tính đúng phép tính của bài nhưng không thể trả lời hoặc lý giải là tại
sao các em lại có được phép tính như vậy. Thực tế hiện nay cho thấy, các
em thực sự lúng túng khi giải bài toán có lời văn. Một số em chưa biết tóm
tắt bài toán, chưa biết phân tích đề toán để tìm ra đường lối giải, chưa biết
tổng hợp để trình bày bài giải, diễn đạt vụng về, thiếu lôgic. Ngôn ngữ toán
học còn rất hạn chế, kỹ năng tính toán, trình bày thiếu chính xác, thiếu khoa
học, chưa có biện pháp, phương pháp học toán, học toán và giải toán một
cách máy móc nặng về dập khuôn, bắt chước.
Khả năng kiên trì của học sinh lớp 1 trong quá trình học nói chung cũng
như học “Giải toán có lời văn” nói riêng còn chưa cao.
2.1. Kết quả khảo sát năm học 2014-2015
Đề bài: Lúc đầu tổ em có 6 bạn, sau đó có thêm 3 bạn nữa. Hỏi tổ em có
tất cả mấy bạn? (Bài 2 trang 118 – Toán lớp 1)

5


Nhận xét
Hoàn


Điểm

Số học sinh

9, 10

đạt/ Tổng số
10/40

7, 8

11/40

Lỗi của học sinh trong bài

Tỉ lệ

khảo sát.
Trình bày còn bẩn.

%
25

thành tốt
Hoàn
thành

Trình bày còn bẩn, câu lời

27,5


giải chưa chuẩn.
5, 6,

13/40

Chỉ làm đúng phép tính, và

32,5

đáp số đúng, sai tên đơn vị, sai
câu lời giải ...
Chưa

Dưới

hoàn

5

6/40

Không biết làm bài.

15

thành
2.2 Ưu điểm
- Phần lớn học sinh biết làm bài toán có lời văn. Kết quả của bài toán
đúng.

- Học sinh ham học, có hứng thú học tập môn Toán nói chung và “Giải
bài toán có lời văn” nói riêng.
- Học sinh bước đầu biết vận dụng bài toán có lời văn vào thực tế.
2.3. Hạn chế
- Trình bày bài làm còn chưa sạch đẹp.
- Một số học sinh chưa biết cách đặt câu lời giải phù hợp.
- Một số ít học sinh không hiểu nội dung bài toán có lời văn dẫn đến
không làm được bài.
3.Về đồ dùng dạy học :
Tư duy của học sinh lớp Một là tư duy cụ thể, để học sinh học tốt
“Giải toán có lời văn” trong quá trình giảng dạy rất cần đồ dùng thiết bị dạy
học để minh hoạ.
Trong những năm qua, các trường tiểu học đã được cung cấp khá nhiều
trang thiết bị và đồ dùng dạy học đồng bộ để dạy cho cả cấp học và những
bộ va-li để dạy theo lớp nhưng thống kê theo danh mục thì số lượng vẫn
chưa đáp ứng được đầy đủ yêu cầu dạy “Giải toán có lời văn”.
6


- Năm học 2012 - 2013 tôi được phân công dạy lớp 1 8. Trong suốt
năm học tôi tìm hiểu, ghi chép tập hợp những ưu điểm, thiếu sót của học
sinh trong lớp về " Giải toán có lời văn”. Tôi đã mạnh dạn trao đổi cùng
Ban giám hiệu, bạn bè đồng nghiệp trong và ngoài trường về những ưu
điểm và thiếu sót của học sinh lớp 1 nói chung trong việc " Giải toán có lời
văn", đồng thời trao đổi, bàn bạc và đề xuất một số ý kiến để phát huy ưu
điểm và khắc phục thiếu sót của học sinh và giáo viên.
- Năm học 2013- 2014 tôi tiếp tục dạy lớp 1. Tôi mạnh dạn áp dụng
một số kinh nghiệm, đồng thời tiếp tục tìm hiểu thêm những vướng mắc của
học sinh cũng như của giáo viên về "Giải toán có lời văn", bổ sung thêm
cách tháo gỡ, tích luỹ thêm kinh nghiệm và áp dụng vào thực tế.

- Năm học 2014- 20015 tôi tiếp tục áp dụng và tích lũy thêm những
kinh nghiệm đã có được trong hai năm qua.
Từ cơ sở lý luận, qua thực tế giảng dạy tôi xin mạnh dạn đề xuất một số
kinh nghiệm nhằm nâng cao chất lượng dạy - học “Giải toán có lời văn” ở lớp
Một.
II. CÁC NỘI DUNG VÀ BIỆN PHÁP THỰC HIỆN
1. Nội dung chương trình
Để dạy tốt môn Toán lớp 1 nói chung, "Giải bài toán có lời văn" nói
riêng, điều đầu tiên mỗi giáo viên phải nắm thật chắc nội dung chương
trình, sách giáo khoa. Nhiều người nghĩ rằng Toán tiểu học, và đặc biệt là
toán lớp 1 thì ai mà chả dạy được. Đôi khi chính giáo viên đang trực tiếp
dạy cũng rất chủ quan và cũng có những suy nghĩ tương tự như vậy. Qua dự
giờ một số đồng chí giáo viên tôi nhận thấy giáo viên dạy bài nào chỉ cốt
khai thác kiến thức của bài ấy, còn các kiến thức cũ có liên quan giáo viên
nắm không thật chắc. Người ta thường nói "Biết 10 dạy 1” chứ không thể "
Biết 1 dạy 1” vì kết quả thu được sẽ không còn là 1 nữa.
a. Trong chương trình toán lớp Một giai đoạn đầu học sinh còn đang
học chữ nên chưa thể đưa ngay "Bài toán có lời văn". Mặc dù đến hết tuần
21, học sinh mới được chính thức học cách giải "Bài toán có lời văn" song
7


chúng ta đã có ý ngầm chuẩn bị từ xa cho việc làm này ngay từ bài "Phép
cộng trong phạm vi 3 (Luyện tập)" ở tuần 7.
* Bắt đầu từ tuần 7 cho đến các tuần 16 trong hầu hết các tiết dạy về
phép cộng trừ trong phạm vi (không quá) 10 đều có các bài tập thuộc dạng
"Nhìn tranh nêu phép tính" ở đây học sinh được giáo viên hướng dẫn làm
quen với việc:
- Xem tranh vẽ.
- Nêu bài toán bằng lời.

- Nêu câu trả lời.
- Điền phép tính thích hợp (với tình huống trong tranh).
Ví dụ: Bài 5 trang 46:

Sau khi xem tranh vẽ, giáo viên gợi ý bằng các câu hỏi sau:
- Có mấy quả bóng trắng? (Có 1 quả bóng trắng)
- Thêm mấy quả bóng xanh? (Có 2 quả bóng xanh.)
- Tất cả có mấy quả bóng? (Có tất cả 3 quả bóng)
Từ đó học sinh có thể tập nêu bài toán bằng lời: "Có 1 quả bóng
trắng và 2 quả bóng xanh. Hỏi có tất cả mấy quả bóng?" rồi tập nêu miệng
câu trả lời : "Có tất cả 3 quả bóng", sau đó viết vào dãy năm ô trống để có
phép tính :
1 + 2 = 3
* Tiếp theo đó, kể từ tuần 17, học sinh được làm quen với việc đọc
tóm tắt rồi nêu đề toán bằng lời, sau đó nêu cách giải và tự điền số và phép
tính thích hợp vào dãy năm ô trống. ở đây không còn tranh vẽ nữa (xem bài
3b - trang 87, bài 5 - trang 89).
8


* Việc ngầm chuẩn bị cho học sinh các tiền đề để giải toán có lời văn
là chuẩn bị cho học sinh cả về viết câu lời giải và viết phép tính. Chính vì
vậy, ngay sau các bài tập "nhìn tranh điền phép tính thích hợp vào dãy 5 ô
trống" chúng ta chịu khó đặt thêm cho các em những câu hỏi để các em trả
lời miệng.
Ví dụ (Đối với học sinh lớp tôi trực tiếp giảng dạy): Từ bức tranh
"Trên cành có 3 con chim, 1 con chim bay tới" ở trang 47 - SGK, sau khi
học sinh điền phép tính vào dãy ô trống:
3 + 1 = 4
Tôi sẽ tiến hành hỏi tiếp: "Vậy có tất cả mấy con chim?" để học sinh

trả lời miệng: "Có tất cả 4 con chim"; hoặc "Số chim có tất cả là bao
nhiêu?” (Số chim có tất cả là 4) ...
Cứ làm như vậy nhiều lần, học sinh sẽ quen dần với cách nêu lời giải
bằng miệng. Do đó các em sẽ dễ dàng viết được các câu lời giải sau này.
* Trước khi chính thức học "Giải các bài toán có lời văn" học sinh
được học bài nói về cấu tạo của một bài toán có lời văn (gồm hai thành
phần chính là những dữ kiện đã cho (đã biết) và những cái phải tìm (chưa
biết). Vì khó có thể giải thích cho học sinh "Bài toáncó lời văn là gì?" nên
mục tiêu của tiết này là chỉ giới thiệu cho các em hai bộ phận của một bài
toán có lời văn:
+ Những cái đã cho (dữ kiện)
+ Và cái cần phải tìm (câu hỏi).
Để làm việc này trong bài “Giải toán có lời văn” trang 115, sách
Toán 1 đã vẽ bốn bức tranh, kèm theo là bốn đề toán: 2 đề còn thiếu dữ
kiện, 1 đề còn thiếu câu hỏi, 1 đề thiếu cả dữ kiện lẫn câu hỏi (biểu thị bằng
dấu ...) Học sinh quan sát tranh rồi nêu miệng đề toán, sau đó điền số vào
chỗ các dữ kiện rồi điền từ vào chỗ câu hỏi (còn để trống). Từ đó giáo viên
giới thiệu cho các em " Bài toán thường có hai phần”:
+ Những số đã cho.
+ Số phải tìm (câu hỏi).
9


Bài này giúp các em hiểu sâu hơn về cấu tạo của "Bài toán có lời
văn”.
b.Các loại toán có lời văn trong chương trình chủ yếu là hai loại toán
"Thêm - Bớt” thỉnh thoảng có biến tấu một chút:
- Bài toán "Thêm” thành bài toán gộp, chẳng hạn: “An có 4 quả bóng,
Bình có 3 quả bóng. Hỏi cả hai bạn có mấy quả bóng?", dạng này khá phổ
biến.

- Bài toán "Bớt" thành bài toán tìm số hạng, chẳng hạn: “Nhà An có 9
con gà, mẹ đem bán 3 con gà. Hỏi nhà An còn lại mấy con gà?” . Hoặc:
“Lớp 1A có 35 bạn, trong đó có 20 bạn nữ. Hỏi lớp 1A có bao nhiêu bạn
nam?”, dạng này ít gặp vì dạng này hơi khó (khi chưa thay sách dạy ở lớp
2)
* Về hình thức trình bày bài giải, học sinh phải trình bày bài giải đầy
đủ theo quy định thống nhất từ lớp 1 đến lớp 5:
- Bài giải
- Câu lời giải.
- Phép tính.
- Đáp số.
Ví dụ: Xét bài toán "Nhà An có 5 con gà, mẹ mua thêm 4 con gà. Hỏi
nhà An có tất cả mấy con gà?”
Học sinh lớp 1 khi chưa thay sách chỉ cần giải bài toán trên như sau:
Bài giải
5 + 4 = 9 ( con gà )
Học sinh lớp 1 hiện nay phải giải như sau:
Bài giải
Số con gà nhà An có tất cả là:
5 + 4 = 9 ( con gà )
Đáp số: 9 con gà
* Về số lượng bài toán trong một tiết học được rút bớt để dành thời
gian cho trẻ viết câu lời giải. Chẳng hạn trước đây trong 1 tiết " Bài toán
10


nhiều hơn” học sinh phải giải 8 bài toán (4 bài mẫu, 4 bài luyện tập), thì
bây giờ trong tiết " Giải toán có lời văn (thêm)” học sinh phải giải 4 bài (1
bài mẫu, 3 bài luyện tập) ...
* Để lường trước về vốn từ và khả năng đọc hiểu của học sinh khi

"Giải bài toán có lời văn" chương trình toán 1 đã có những giải pháp:
- Hạn chế dùng các vần khó và tiếng khó trong đề toán như: thuyền,
quyển, Quỳnh, ... tăng cường dùng các vần và tiếng dễ đọc, đã học, dễ viết
như: lá cờ, cam, gà, Lan, ... trong các đề toán.
- Lựa chọn câu hỏi trong đề toán sao cho học sinh chỉ cần chỉnh sửa
một chút xíu thôi là được ngay câu lời giải.
- Cài sẵn từ cơ bản của lời giải vào tóm tắt để học sinh có thể dựa
vào tóm tắt mà viết câu lời giải.
- Cho phép (thậm chí khuyến khích) học sinh tự nghĩ ra nhiều cách
đặt lời giải khác nhau. Chẳng hạn, với bài toán: "An có 4 quả bóng. Bình có
3 quả bóng. Hỏi cả hai bạn có mấy quả bóng?"; Học sinh có thể đặt câu lời
giải theo rất nhiều cách như:
+ Cả hai bạn có: ........
+ Hai bạn có: ..........
+ An và bình có: ..........
+ Tất cả có: ..........
+ Số quả bóng tất cả là: ...........
2. Sử dụng đồ dùng thiết bị dạy học.
Như chúng ta đã biết, con đường nhận thức của học sinh tiểu học là:
"Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, rồi từ tư duy trừu tượng trở
lại thực tiễn”. Đồ dùng thiết bị dạy học là phương tiện vật chất, phương tiện
hữu hình cực kỳ cần thiết khi dạy "Giải toán có lời văn” cho học sinh lớp
Một. Cũng trong cùng một bài toán có lời văn, nếu chỉ dùng lời để dẫn dắt,
dùng lời để hướng dẫn học sinh làm bài thì vừa vất vả tốn công, vừa không
hiệu quả và sẽ khó khăn hơn rất nhiều so với dùng đồ dùng thiết bị, tranh

11


ảnh, vật thực để minh hoạ. Chính vì vậy rất cần thiết phải sử dụng đồ dùng

thiế bị dạy học để dạy học sinh "Giải bài toán có lời văn”.
Hiện nay bộ đồ dùng trang bị đến từng lớp đã có khá nhiều các đồ
dùng mẫu vật cho việc sử dụng dạy "Giải toán có lời văn” song vẫn là thiếu
nếu giáo viên thực sự có trách nhiệm. Mỗi nhà trường cần có kế hoạch mua
bổ sung, từng tổ khối, cá nhân giáo viên cần sưu tầm, làm thêm các thiết bị
như: vật thực, tranh ảnh... làm đồ dùng, dùng chung và riêng cho từng lớp.
Một điều hết sức quan trọng là một số giáo viên còn ngại, hoặc lúng
túng sử dụng đồ dùng dạy học khi giảng dạy nói chung và khi dạy "Giải
toán có lời văn” nói riêng. Để khắc phục tình trạng này, giáo viên cần có ý
thức chuẩn bị sử dụng đồ dùng dạy học trước khi lên lớp. Cần cải tiến nội
dung sinh hoạt chuyên môn để đa việc thống nhất sử dụng đồ dùng dạy học
và phương pháp sử dụng đồ dùng dạy học.
3. Biện pháp thực hiện dạy – học "Giải bài toán có lời văn" ở lớp Một
3.1. Quy trình “ Giải bài toán có lời văn”
GV dạy cho học sinh giải bài toán có lời văn cần thực hiện tốt các bước
sau:
- Đọc và tìm hiểu đề toán: Tìm hiểu đề toán cho biết những gì? Đề toán
yêu cầu tìm gì?
- Tóm tắt đề bài: tóm tắt không nằm trong lời giải của bài toán, nhưng đó
là định hướng cho học sinh cách giải bài toán. Vì vậy cần được luyện kỹ để học
sinh nắm được các thông tin, dữ liệu của bài toán đầy đủ, chính xác.
- Tìm cách giải bài toán
- Cách trình bày bài giải ( Bài giải, câu lời giải, phép tính, đáp số)
- Kiểm tra lại kết quả bài của bài toán giải.
Nội dung của quy trình " Giải bài toán có lời văn " như sau:
a. Đọc và tìm hiểu đề toán
Muốn học sinh hiểu và có thể giải được bài toán thì điều quan trọng
đầu tiên là phải giúp các em đọc và hiểu được nội dung bài toán. Giáo viên
cần tổ chức cho các em đọc kỹ đề toán, hiểu rõ một số từ khoá quan trọng
12



như " thêm, và, tất cả, ... "hoặc" bớt, bay đi, ăn mất, còn lại, ..." (có thể kết
hợp quan sát tranh vẽ để hỗ trợ). Để học sinh dễ hiểu đề bài, giáo viên cần
gạch chân các từ ngữ chính trong đề bài. Một số giáo viên còn gạch chân
quá nhiều các từ ngữ, hoặc gạch chân các từ chưa sát với nội dung cần tóm
tắt. Khi gạch chân nên dùng phấn màu khác cho dễ nhìn.
Ví dụ:Trong vườn có 12 cây chuối . Bố trồng thêm 3 cây chuối . Hỏi
có tất cả bao nhiêu cây chuối?
Trong thời kỳ đầu, giáo viên nên giúp học sinh tóm tắt đề toán bằng
cách đàm thoại " Bài toán cho biết gì? Bài toán hỏi gì?" và dựa vào câu trả
lời của học sinh để viết tóm tắt, sau đó cho học sinh dựa vào tóm tắt để nêu
lại đề toán, thông qua việc tóm tắt đề toán học sinh sẽ nắm vững đề toán. Biết
tóm tắt đề toán là yêu cầu đầu tiên để giải bài toán có lời văn.
Nếu học sinh gặp khó khăn trong khi đọc đề toán thì giáo viên nên
cho các em nhìn tranh và trả lời câu hỏi. Ví dụ, với bài 3 trang 118, giáo
viên có thể hỏi:
- Em thấy dưới ao có mấy con vịt? (... có 5 con vịt)
- Trên bờ có mấy con vịt? ( ... có 4 con vịt)
- Em hãy nêu đề bài toán? (...)
Sau đó giáo viên cho học sinh đọc (hoặc nêu) đề toán ở sách giáo
khoa.
Trong trường hợp không có tranh ở sách giáo khoa thì giáo viên có
thể gắn mẫu vật (gà, vịt, ...) lên bảng (bảng cài, bảng nỉ, ...)sử dụng công
nghệ thông tin để thay cho tranh; hoặc dùng tóm tắt bằng lời hoặc sơ đồ
đoạn thẳng để hỗ trợ học sinh đọc đề toán.
* Thông thường có các cách tóm tắt đề toán:
- Tóm tắt bằng lời:
Ví dụ1:


Nga:

3 quyển

Hằng:

2 quyển

Cả hai bạn có: ... quyển?
Ví dụ 2:

Hạnh có:

(A)

35 que tính
13


? que tính
Vịnh có: 43 que tính
- Tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng:
4 bạn
Ví dụ 3:

Bạn trai
2 bạn

?bạn


Bạn gái
- Tóm tắt bằng sơ đồ mẫu vật:
Ví dụ 4:

Hàng trên:
? con gà
Hàng dưới:

Với các cách tóm tắt trên sẽ làm cho học sinh dễ hiểu và dễ sử dụng.
Hoặc cách viết thẳng theo cột như: 14 quyển



26 quả

12 quyển

33 quả

... quyển

... quả

Kiểu tóm tắt như thế này khá gần gũi với cách đặt tính dọc nên có tác
dụng gợi ý cho học sinh lựa chọn phép tính giải.
Có thể lồng từ cơ bản của lời giải vào trong tóm tắt, hoặc các câu lời
giải mẫu như trong sách giáo khoa và vở bài tập Toán, để dựa vào đó học
sinh dễ viết câu lời giải hơn. Giáo viên có thể cho học sinh một số mẫu câu
lời giải để các em vận dụng linh hoạt, sáng tạo, phù hợp với nội dung bài
toán Chẳng hạn, dựa vào dòng cuối của tóm tắt (A) học sinh có thể viết

ngay câu lời giải là: "Cả hai bạn có:” hoặc "Số vở cả hai bạn có:” hoặc:
"Cả hai bạn có số vở là:”. Cần lưu ý trước đây người ta thường đặt dấu? lên
trước các từ như quyển, quả, ... Song làm như vậy thì hơi thiếu chuẩn mực
về mặt Tiếng Việt vì tất cả học sinh đều biết là dấu ? phải đặt cuối câu hỏi.
Nếu tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng hoặc sơ đồ mẫu vật thì đặt dấu ? ở đằng
trước các từ như quyển, quả ,... cũng được vì các tóm tắt ấy không phải là
những câu. Tuy nhiên học sinh thường có thói quen cứ thấy dấu ... là điền
14


số (dấu) vào đó nên giáo viên cần lưu ý các em là: "Riêng trong trường hợp
này (trong tóm tắt ) thì dấu “...” thay cho từ "mấy" hoặc "bao nhiêu"; các
em sẽ phải tìm cho ra số đó để ghi vào Đáp số của Bài giải chứ không phải
để ghi vào chỗ “...” trong tóm tắt. Nếu không thể giải thích cho học sinh
hiểu được ý trên thì chúng ta cứ quay lại lối cũ, tức là đặt dấu hỏi (?) ra
đằng trước theo kiểu "Còn ? quả" cũng được, không nên quá cứng nhắc.
Giai đoạn đầu nói chung bài toán nào cũng nên tóm tắt rồi cho học
sinh dựa vào tóm tắt nêu đề toán. Cần lưu ý dạy giải toán là một quá trình.
Không nên vội vàng yêu cầu các em phải đọc thông thạo đề toán, viết được
các câu lời giải, phép tính và đáp số để có một bài chuẩn mực ngay từ tuần
23, 24. Chúng ta cần bình tĩnh rèn cho học sinh từng bước, miễn sao đến
cuối năm (tuần 33, 34, 35) thọc sinh đọc và giải được bài toán là đạt yêu
cầu.
b. Tìm cách giải bài toán
Sau khi giúp học sinh tìm hiểu đề toán để xác định rõ cái đã cho và
cái phải tìm, chẳng hạn, với bài toán (Tiết 82: Giải toán có lời văn): Nhà An
có 5 con gà, mẹ mua thêm 4 con gà. Hỏi nhà An có tất cả mấy con gà?
- Bài toán cho biết gì? (Nhà An có 5 con gà)
- Còn cho biết thêm gì nữa? (Mẹ mua thêm 4 con gà)
- Bài toán hỏi gì? (Nhà An có tất cả mấy con gà?)

-Muốn biết nhà An có tất cả mấy con gà em làm tính gì? (Muốn biết
nhà An có tất cả mấy con gà em làm tính cộng). Lấy mấy cộng mấy? (5 + 4)
; 5 + 4 bằng mấy? (5 + 4 = 9).
Hoặc: "Muốn biết nhà An có tất cả mấy con gà em tính thế nào? (5 +
4 = 9).
Hay: "Nhà An có tất cả mấy con gà ?” (9) Em tính thế nào để được
9 ? (5 + 4 = 9).
Tới đây giáo viên gợi ý để học sinh nêu tiếp "9 này là 9 con gà", nên
ta viết "con gà” vào trong dấu ngoặc đơn: 5 + 4 = 9 (con gà).

15


Tuy nhiên cũng có những học sinh nhìn tranh ở sách giáo khoa để
đếm ra kết quả mà không phải là do tính toán. Trong trường hợp này giáo
viên vẫn xác nhận kết quả là đúng, song cần hỏi thêm: "Em tính thế nào?"
(5 + 4 = 9). Sau đó nhấn mạnh: "Khi giải toán em phải nêu được phép tính
để tìm ra đáp số (ở đây là 9). Nếu chỉ nêu đáp số thì chưa phải là giải toán.
Sau khi học sinh đã xác định được phép tính, nhiều khi việc hướng
dẫn học sinh đặt câu lời giải còn khó hơn (thậm chí khó hơn nhiều) việc
chọn phép tính và tính ra đáp số. Với học sinh lớp 1, lần đầu tiên được làm
quen với cách giải loại toán này nên các em rất lúng túng. Thế nào là câu lời
giải, vì sao phải viết câu lời giải? Không thể giải thích cho học sinh lớp 1
hiểu một cách thấu đáo nên có thể giúp học sinh bước đầu hiểu và nắm được
cách làm. Hầu hết các bài toán có lời văn vận dụng kiến thức toán theo phân
phối chương trình. Tuy nhiên, việc phân tích đề - tóm tắt - giải bài toán phải
luôn luôn được củng cố duy trì và nâng dần mức độ. Song cơ bản vẫn là các
mẫu lời giải cho các bài toán “thêm” là:
- Có tất cả là:
- Số ( đơn vị tính ) + có tất cả là:

- Vị trí ( trong, ngoài, trên, dưới, ...)+ có tất cả là:
- ... đoạn thẳng....+ dài là:
Ví dụ: Xét bài toán "Nhà An có 5 con gà, mẹ mua thêm 4 con gà. Hỏi
nhà An có tất cả mấy con gà?”
* Có thể dùng một trong các cách sau:
Cách 1: Dựa vào câu hỏi của bài toán rồi bỏ bớt từ đầu sau dấu chấm
(Hỏi) và từ “mấy”(mấy con gà ?) hoặc “bao nhiêu” để có câu lời giải :
"Nhà An có tất cả:" hoặc thêm từ "là" để có câu lời giải : "Nhà An có tất cả
là: "
Cách 2: Đưa từ "con gà" ở cuối câu hỏi lên đầu thay thế cho từ "Hỏi" và
thêm từ Số (ở đầu câu), là ở cuối câu để có: "Số con gà nhà An có tất cả là:"
Cách 3: Dựa vào dòng cuối cùng của tóm tắt, coi đó là "từ khoá" của
câu lời giải rồi thêm thắt chút ít.
16


Ví dụ: Từ dòng cuối của tóm tắt: "Có tất cả: ... con gà ?". Học sinh
viết câu lời giải: "Nhà An có tất cả:"
Cách 4: Giáo viên nêu miệng câu hỏi: "Hỏi nhà An có tất cả mấy con
gà?" để học sinh trả lời miệng: "Nhà An có tất cả 9 con gà" rồi chèn phép
tính vào để có cả bước giải (gồm câu lời giải và phép tính):
Nhà An có tất cả:
5 + 4 = 9 (con gà)
Cách 5: Sau khi học sinh tính xong: 5 + 4 = 9 (con gà), giáo viên chỉ
vào 9 và hỏi: "9 con gà ở đây là số gà của nhà ai?" (là số gà nhà An có tất
cả). Từ câu trả lời của học sinh ta giúp các em chỉnh sửa thành câu lời giải:
"Số gà nhà An có tất cả là" v.v...
Ở đây giáo viên cần tạo điều kiện cho các em tự nêu nhiều câu lời giải
khác nhau, sau đó bàn bạc để chọn câu lời giải thích hợp nhất. Không nên
bắt buộc học sinh nhất nhất phải viết theo một kiểu. Cụ thể trong ví dụ nêu

trên nếu học sinh đưa ra câu lời giải “Có tất cả số con gà là” hoặc “Có tất cả
là” thì hai câu lời giải này không phù hợp với bài toán. Nếu học sinh đưa ra
câu lời giải “Nhà An có tất cả số con gà là” hoặc “ Số con gà nhà An có tất
cả là” thì đây là hai câu lời giải phù hợp nhất dựa trên cơ sở trả lời câu hỏi
đã được xây dưng thành nền nếp hoặc biến đổi. Cách biến đổi này nhằm
nhấn mạnh đơn vị của phép toán.
c. Trình bày bài giải
Có thể coi việc trình bày bài giải là trình bày một sản phẩm của tư
duy. Thực tế hiện nay các em học sinh lớp 1 trình bày bài giải còn rất hạn
chế, kể cả học sinh hoàn thành xuất sắc nội dung học tập của tất cả các môn
học. Cần rèn cho học sinh nề nếp và thói quen trình bày bài giải một cách
chính xác, khoa học, sạch đẹp dù trong giấy nháp, bảng lớp, bảng con hay
vở, giấy kiểm tra. Cần trình bày bài giải một bài toán có lời văn theo ví dụ
đã nêu trên như sau:
Bài giải
Số con gà nhà An có tất cả là:
17


5 + 4 = 9 ( con gà )
Đáp số : 9 con gà.
Cách ghi tên đơn vị trong phép tính và đáp số của bài toán: “Giải
toán có lời văn”:
Nếu lời giải ghi: "Số gà nhà An là:" thì phép tính có thể ghi: “5 + 4 =
9 (con)”. (Lời giải đã có sẵn danh từ "gà"). Tuy nhiên nếu học sinh viết quá
chậm mà lại gặp phải các từ khó như "thuyền, quyển, ..." thì có thể lược bớt
danh từ cho nhanh.
Giáo viên cần hiểu rõ lý do tại sao từ "con gà" lại được dặt trong dấu
ngoặc đơn? Đúng ra thì 5 + 4 chỉ bằng 9 thôi (5 + 4 = 9) chứ 5 + 4 không
thể bằng 9 con gà được. Đây là quá trình trừu tượng hóa mang tính khái

quát chung. Cụ thể:

+
1 bạn +
Khái quát:

1

+

=
2 bạn

=

3 bạn

2

=

3 (bạn)

Với ý nghĩa đây là số chỉ bạn nên đơn vị bạn viết trong dấu ngoặc đơn.
Còn đáp số là câu trả lời chính thức nên chữ “bạn” không ở trong ngoặc đơn.
Do đó, nếu viết: "5 + 4 = 9 con gà" là sai. Nói cách khác, nếu vẫn
muốn được kết quả là 9 con gà thì ta phải viết như sau mới đúng: "5 con gà
+ 4 con gà = 9 con gà". Song cách viết phép tính với các danh số đầy đủ
như vậy khá phiền phức và dài dòng, gây khó khăn và tốn nhiều thời gian
đối với học sinh lớp 1. Ngoài ra học sinh cũng hay viết thiếu và sai như sau:

5 con gà + 4 = 9 con gà
5 + 4 con gà = 9 con gà
5 con gà + 4 con gà = 9
Về mặt toán học thì ta phải dừng lại ở 9, nghĩa là chỉ được viết 5 + 4
= 9 thôi. Song vì các đơn vị cũng đóng vai trò rất quan trọng trong các phép
tính giải nên vẫn phải tìm cách để đưa chúng vào phép tính. Do đó, ta mới
18


ghi thêm đơn vị "con gà" ở trong dấu ngoặc đơn để chú thích cho số 9 đó.
Có thể hiểu rằng chữ "con gà” viết trong dấu ngoặc ở đây chỉ có một sự
ràng buộc về mặt ngữ nghĩa với số 9, chứ không có sự ràng buộc chặt chẽ
về toán học với số 9. Do đó, nên hiểu: 5 + 4 = 9 (con gà) là cách viết của
một câu văn hoàn chỉnh như sau: "5 + 4 = 9, ở đây 9 là 9 con gà". Như vậy
cách viết 5 + 4 = 9 (con gà) là một cách viết phù hợp. Trong đáp số của bài
giải toán thì không có phép tính nên ta cứ việc ghi: "Đáp số : 9 con gà" mà
không cần ngoặc đơn.
d. Kiểm tra lại bài giải
Học sinh Tiểu học đặc biệt là học sinh lớp Một thường có thói quen
khi làm bài xong không hay xem, kiểm tra lại bài đã làm. Giáo viên cần
giúp học sinh xây dựng thói quen học tập này. Cần kiểm tra về lời giải, về
phép tính, về đáp số hoặc tìm cách giải hoặc câu trả lời khác.
3.2. Biện pháp khắc sâu loại “Bài toán có lời văn"
Ngoài việc dạy cho học sinh hiểu và giải tốt "Bài toán có lời văn"
giáo viên cần giúp các em hiểu chắc, hiểu sâu loại toán này. Ở mỗi bài, mỗi
tiết về "Giải toán có lời văn" giáo viên cần phát huy tư duy, trí tuệ, phát huy
tính tích cực chủ động của học sinh bằng việc hướng cho học sinh tự tóm tắt
đề toán, tự đặt đề toán theo dữ kiện đã cho, tự đặt đề toán theo tóm tắt cho
trước, giải toán từ tóm tắt, nhìn tranh vẽ, sơ đồ viết tiếp nội dung đề toán
vào chỗ chấm (...), đặt câu hỏi cho bài toán.

Ví dụ 1: Nhìn tranh vẽ, viết tiếp vào chỗ chấm để có bài toán, rồi giải
bài toán đó:
Bài toán: Trên cành có ... con chim, có thêm ... con chim bay đến.
Hỏi ....................................................................?
Ví dụ 2: Giải bài toán theo tóm tắt sau:


:

7 hình tam giác

Tô màu

:

3 hình tam giác

Không tô màu

: ........ hình tam giác?

19


3.3. Một số phương pháp thường sử dụng trong dạy: "Giải bài toán có
lời văn" ở lớp Một
a. Phương pháp trực quan
Khi dạy “Giải bài toán có lời văn” cho học sinh lớp 1 thường sử dụng
phương pháp trực quan giúp học sinh tìm hiểu đề bài, tóm tắt đề toán thông
qua việc sử dụng tranh ảnh, vật mẫu, sơ đồ … giúp học sinh dễ hiểu đề bài

hơn từ đó tìm ra đường lối giải một cách thuận lợi. Đặc biệt trong sách giáo
khoa Toán 1 có hai loại tranh vẽ giúp học sinh “Giải toán có lời văn” đó là:
một loại gợi ra phép cộng, một loại gợi ra phép trừ. Như vậy chỉ cần nhìn
vào tranh vẽ học sinh đã định ra được cách giải bài toán. Trong những
trường hợp này bắt buộc giáo viên phải sử dụng tranh vẽ và phương pháp
trực quan.
b. Phương pháp hỏi đáp (đàm thoại)
Sử dụng khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu, phân tích đề bài, tìm đường
lối giải, chữa bài làm của học sinh ...
c. Phương pháp dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề.
Với mục đích giúp các em khắc sâu những kiến thức về “Giải toán có
lời văn” trong quá trình giảng dạy giáo viên nên áp dụng phương pháp dạy
học này.

20


Ở mỗi dạng toán “thêm, bớt” giáo viên có thể biến tấu để có những
bài toán có vấn đề. Chẳng hạn bài toán “bớt” trở thành bài toán tìm hiệu,
bài toán “thêm” trở thành bài toán tìm tổng.
Giáo viên có thể tạo tình huống có vấn đề bằng cách cho sẵn lời giải,
học sinh tự đặt phép tính hoặc cho sẵn phép tính học sinh đặt câu lời giải.
Cho hình vẽ học sinh đặt lời giải cho bài toán và giải.
Với những tình huống khó có thể phối hợp với các phương pháp khác
để giúp học sinh thuận lợi cho việc làm bài như: Phương pháp thảo luận
nhóm, phương pháp kiến tạo ...
III. KẾT QUẢ KIỂM CHỨNG
- Năm học 2012 - 2013: Dạy bình thường theo khả năng và thực tế,
đồng thời tìm hiểu, tập hợp số liệu, thực hiện 3 lần kiểm tra khảo sát.
- Năm học 2013 - 2014: Áp dụng kinh nghiệm vào thực tế giảng dạy

và tiếp tục tìm hiểu và bổ sung những kinh nghiệm thu được, thực hiện 3
lần kiểm tra khảo sát.
- Năm học 2014 - 2015: Tiếp tục áp dụng kinh nghiệm vào thực tế
giảng dạy, thực hiện 3 lần kiểm tra khảo sát.
Bảng kết quả kiểm chứng
(Qua ba năm thực nghiệm áp dụng kinh nghiệm)
Năm học

Sĩ số

Kết quả thu được qua 3 lần kiểm tra khảo sát cuối năm
Biết tóm tắt Đặt câu lời Làm phép
Ghi đáp số
đề bài phù

giải phù

tính và ghi

đúng, đủ

hợp
Số

hợp
Số

Tỉ

danh số

Số
Tỉ

Số

lượng lệ

lượng lệ

lượng

Tỉ

lượng lệ
2012 - 2013
2013-2014
2014-2015

42
40
40

16
19
25

%
35,4
47,5
62,5


16
19
25

%
35,4
47,5
62,5

Tỉ lệ %

32

%
70,

32

70,8

36
39

8
90,0
97,5

38
39


95,0
97,5

Phân tích kết quả:
21


Nhìn bảng kết quả có thể nhận thấy tỷ lệ học sinh biết đặt phép tính
và tính đúng, biết ghi đáp số đúng ngay từ khi chưa áp dụng kinh nghiệm
tương đối cao và đồng đều. Dễ thấy số học sinh chưa biết tóm tắt đề toán, số
học sinh chưa biết viết câu lời giải năm học 2012 – 2013 và năm học 20132014 thấp hơn nhiều so với năm học 2014-2015. Một số sai sót mà học sinh
thường mắc phải là:
- Không biết tóm tắt hoặc tóm tắt không đúng.
- Viết lời giải lung tung, không phù hợp với phép tính.
- Ghi tên đơn vị ở phép tính và đáp số còn sai hoặc thiếu.
- Trình bày bài giải chưa đẹp, chưa khoa học.
Qua tổng hợp kết quả 2 lần kiểm tra khảo sát ở cuối năm học 2014–
20015 (với đề bài tương tự như các năm học trước), số học sinh còn sai sót
ít.
Ví dụ khi dạy bài toán ( Tiết 83):

GIẢI TOÁN CÓ LỜI VĂN
A. MỤC TIÊU:

Giúp HS:

-Bước đầu nhận biết các việc thường làm khi giải toán có lời văn.
-Tìm hiểu bài toàn: Bài toán đã cho biết những gì? Bài toán hỏi gì? (tức là bài
toán đòi hỏi phải tìm gì)

-Giải bài toán: Thực hiện phép tính để tìm điều chưa biết nêu trong câu hỏi.
Trình bày bài toán (nêu câu lời giải, phép tính để giải bài toán, đáp số).
-Bước đầu tập cho HS tự giải bài toán.
B. ĐỒ DÙNG DẠY - HỌC

Sử dụng tranh vẽ trong SGK.
C. CÁC HOẠT ĐỘNG DẠY – HỌC CHỦ YẾU:

1.Giới thiệu cách giải bài toán và
cách trình bày bài giải.
-Giáo viên hướng dẫn học sinh tìm
hiểu bài toán.
+Học sinh quan sát tranh sách giáo +Học sinh quan sát tranh SGK.
22


khoa.

-Bài toán cho biết nhà An có 5 con gà,

Bài toán cho biết gì?

mẹ mua thêm 4 con gà nữa.
-Bài toán hỏi nhà An có tất cả mấy con

Bài toán hỏi gì?

gà.

-Giáo viên tóm tắt bài toán lên bảng:

Tóm tắt
-Có

: 5 con gà

-Thêm

: 4 con gà

-Có tất cả : ……… con gà

-Học sinh nêu lại tóm tắt của bài toán.

-Học sinh nêu lại tóm tắt của bài
toán.
-Muốn biết nhà An có tất cả mấy con Học sinh lắng nghe.
gà ta làm thế nào?
-Giáo viên hướng dẫn học sinh viết
bài giải của bài toán:
Ta biết bài giải như sau: Viết chữ
Bài giải lên bảng.
+Viết câu lời giải: Giáo viên hướng
dẫn dựa vào câu hỏi để nêu câu lời
giải: (Học sinh có thể nêu các câu lời
giải như: Nhà An có số con gà có tất -Học sinh tự chọn câu lời giải thích
cả, Nhà An có tất cả là: ……
Học sinh tự chọn câu lời giải thích
hợp nhất: nhà An có tất cả là: Giáo
viên ghi bảng.)


hợp nhất.
Số con gà nhà An có tất cả là:
5 + 4 = 9 (con gà)
Đáp số: 9 (con gà).

+Viết phép tính: 5 + 4 = 9 (con gà)
(Chín chỉ 9 con gà nên viết “con gà”
trong dấu ngoặc đơn: (con gà)).
+Viết đáp số: Giáo viên hướng dẫn
viết đáp số: đáp số: 9 (con gà).

-Học sinh đọc lại bài giải vài lần.
23


-Học sinh đọc lại bài giải vài lần
-Giáo viên nêu lại để nhấn mạnh: khi
giải bài toán ta viết bài giải như sau:
+Viết: “Bài giải”
+Viết: “Câu trả lời”
+Viết: “phép tính (Tên đơn vị đặt -Nhắc lại.
trong dấu ngoặc)
+ Viết: “Đáp số”
2. Thực hành:
+Bài 1: Học sinh tự nêu bài toán, viết
số thích hợp vào phần tóm tắt, dựa vào -Học sinh nêu bài toán, làm bài tập.
tóm tắt để nêu các câu trả lời cho các
câu hỏi: (Bài toán cho biết những gì? -Trả lời câu hỏi.
Bài toán hỏi gì) dựa vào bài giải cho
sẵn để viết tiếp các phần còn thiếu, sau

đó đọc lại toàn bộ bài giải.
Tóm tắt :

Học sinh đọc bài giải hoàn chỉnh:

An có: ... quả bóng

Bài giải:

Thêm: ... quả bóng

Số quả bóng cả hai bạn có là:

Cả hai bạn có : :.... quả bóng ?

4 + 3 = 7 (quả bóng)

*Chú ý: Nên giúp học sinh tự tìm

Đáp số: 7 quả bóng.

phép tính giải bài toán, khuyến khích
học sinh tìm câu lời giải khác …
Bài 2:Làm tương tự như bài 1.
-HS tự nêu phép tính giải bài toán, tự -HS nêu yêu cầu của bài. Làm bài vào
trình bày bài giải rồi lựa chọn câu lời bảng con.
giải phù hợp nhất của bài toán.
Tóm tắt
Có: 6 bạn
Thêm: 3 bạn


- 1 học sinh lên bảng giải :
Bài giải
Số bạn có tất cả là:
6 + 3 = 9 (bạn)
24


Có tất cả: …bạn?

Đáp số: 9 bạn.
-Lớp nhận xét

- Giáo viên chấm bài, nhận xét bài
làm của cả lớp.
III. Củng cố- dặn dò :
-Giáo viên cùng học sinh hệ thống lại bài.
-Về nhà làm lại bài.Chuẩn bị bài mới.
-Nhận xét: Tuyên dương tinh thần học tập

C. KẾT LUẬN VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
I. LẾT LUẬN:
25


×