Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Skkn phương pháp giáo dục học sinh THPT ở vùng đặc biệt khó khăn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (184.63 KB, 25 trang )

SKKN

Phương pháp giáo dục hoc sinh THPT ở vùng đặc biệt khó khăn

PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lí do chọn đề tài
Xã hội luôn vận động và phát triển, khoa học công nghệ, thông tin
bùng nổ như vũ bão, đòi hỏi con người phải năng động sáng tạo trong mọi
tình huống. Để có được những con người như vậy thì nền giáo dục giữ một
vai trò rất quan trọng. Vậy nhiệm vụ của nền giáo dục hiện nay là làm thế
nào để có thể cùng một lúc cung cấp cho người học một lượng thông tin
lớn, phong phú, nhưng đồng thời cũng phải xây dựng nên người học sinh
có bản lĩnh, có năng lực, chủ động, sáng tạo, dám nghĩ dám làm, thích ứng
với đời sống xã hội luôn phát triển.
Trường THPT Nguyễn Trường Tộ đóng chân trên địa bàn biên giới
huyện Đức Cơ, tỉnh Gia Lai. Biên giới là vanh đai là nơi trọng yếu của
nước. Nơi đây có địa hình hiểm trở, khí hậu khắc nghiệt, dân cư thưa, có
nhiều đồng bào dân tộc thiểu số, cơ sở hạ tầng kinh tế – kĩ thuật chậm phát
triển, tập tục lạc hậu, hoạt động buôn bán qua biên giới rất lộn xộn, nhiều tệ
nạn xã hội có nguy cơ phát triển. Chính vì vậy ở nơi này tỉ lệ học sinh nghỉ
học hàng năm để tham gia vào các hoạt động nương rẫy, buôn bán hàng
hóa qua biên giới rất cao; tỉ lệ học sinh cá biệt có những biểu hiện suy đồi
về đạo đức, tỉ lệ học sinh lười học đến trường chỉ mang tính chất trốn việc
nương rẫy...
Trong khi đó mục tiêu của giáo dục đào tạo là đào tạo con người Việt
Nam phát triển toàn diện về đạo đức, trí thức, sức khỏe, thẩm mĩ, nghề
nghiệp và hình thành nhân cách, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Do vậy, cần giáo dục cho
học sinh ở đây biết được tầm quan trọng của việc học; hiểu được vị trí vai
trò của mình trong việc phát triển kinh tế văn hóa và xây dựng bảo vệ Tổ
quốc, bảo vệ biên giới.



Hoàng Tám Thuận - Trường THPT Nguyễn Trường Tộ

1


SKKN

Phương pháp giáo dục hoc sinh THPT ở vùng đặc biệt khó khăn

Đó là lí do tôi chọn đề tài “Phương pháp giáo dục học sinh THPT
ở vùng đặc biệt khó khăn”.
2. Giới hạn đề tài
Giáo dục đạo đức, lối sống, kĩ năng sống, cách học tập, hạn chế tỉ lệ
nghỉ học cho học sinh 3 khối 10, 11, 12.
3. Thuận lợi
- Trường được trang bị một số trang thiết bị dạy học như tranh ảnh, tài liệu
tham khảo, máy chiếu, đèn chiếu....
- Bản thân là một cán bộ Đoàn trường nhiều năm kinh nghiệm.
- Luôn có sự sát sao của giáo viên chủ nhiệm, của Đoàn trường cùng với sự
tham gia phối hợp giáo dục của Hội cha mẹ học sinh.
- Ban giám hiệu nhà trường luôn tạo điều kiện, quan tâm đến học sinh.
4. Khó khăn
- Đầu vào của học sinh thấp, học lực không đồng đều.
- Nội dung kiến thức các tiết học quá nhiều so với học sinh vùng này.
- Nhiều học sinh xa nhà nên nhu cầu đi lại còn khó khăn.
- Học sinh tiếp cận được nhiều luồng thông tin, nhiều khoa học kĩ thuật
nhận từ vùng biên giới nên việc phân biệt thông tin đúng, sai rất khó khăn.
- Học sinh trường THPT Nguyễn Trường Tộ ở quá xa trung tâm nên việc
mua những sách tham khảo học tâp, sách giáo dục kỹ năng sống cần thiết

không thuận lợi.

Hoàng Tám Thuận - Trường THPT Nguyễn Trường Tộ

2


SKKN

Phương pháp giáo dục hoc sinh THPT ở vùng đặc biệt khó khăn

PHẦN II. NỘI DUNG
I. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CỦA HỌC SINH THPT Ở VÙNG ĐẶC BIỆT
KHÓ KHĂN
1. Tình trạng bỏ học giữa chừng và trốn học giữa buổi cao
Bỏ học là hiện tượng xảy ra trong phạm vi nhà trường. Đó là hiện
tượng học sinh rời khỏi ghế nhà trường khi đang ở giai đoạn được giáo dục
thuộc cấp học mà học sinh đó được tuyển sinh.
Bỏ học trước hết là ảnh hưởng đến bản thân học sinh sau đó ảnh
hưởng đến gia đình và xã hội.
Đối với bản thân học sinh sẽ làm cho học sinh không có đủ những
kiến thức cơ bản để đi vào cuộc sống lao động sản xuất hoặc tiếp tục học
lên trên. Hiện nay, trong lao động sản xuất đòi hỏi người lao động phải có
một trình độ nhất định về văn hoá phổ thông và trình độ về kĩ năng nghề
nghiệp. Bỏ học ở bậc trung học phổ thông còn là gánh nặng cho gia đình và
xã hội. Gia đình phải tốn kém hơn về kinh tế, phải bỏ ra một khoản tiền đầu
tư thêm cho con em mình học lại, xã hội phải tốn kém hơn về công sức và
tiền của trong việc đầu tư sức lực và kinh phí để giải quyết vấn đề nâng cao
dân trí.
Mặt khác, học sinh bỏ học sẽ ảnh hưởng đến quá trình thực hiện mục

tiêu giáo dục, sẽ không hoàn thành chỉ tiêu của ngành mà đảng và nhà nước
đã giao… Ngoài ra còn ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển của xã hội.
2. Tỉ lệ học sinh cá biệt cao
a. Khái niệm học sinh cá biệt
“Học sinh cá biệt” đó là những học sinh có cá tính khác biệt so với
số đông học sinh bình thường (không có nghĩa học sinh cá biệt là bất bình
thường).
b. Biểu hiện của học sinh cá biệt
Là những học sinh thường có sự bất thường về tính cách, không có
động cơ học tập, tâm lý không ổn định. Chẳng hạn khi ở lớp học đang yên
Hoàng Tám Thuận - Trường THPT Nguyễn Trường Tộ

3


SKKN

Phương pháp giáo dục hoc sinh THPT ở vùng đặc biệt khó khăn

lặng làm bài tập thì em đó bỗng la lớn lên khi làm bài được, thích học thì
học, không thích thì đùa giỡn, quậy phá các bạn kế bên, chọc cho bạn giỡn,
nói chuyện với mình, tâm trạng thì "mưa nắng thất thường" hoặc thầy cô
đang giảng về vấn đề này lại hỏi vấn đề khác.
c. Phân loại học sinh cá biệt
* Học sinh cá biệt về học tập (Gồm 3 loại):
- Loại 1: Là những em có trí tuệ và khả năng nhận thức bình thường nhưng
rất lười biếng, lêu lổng, học kiểu “tài tử” dẫn đến hổng kiến thức, hay quay
cóp trong học tập. Kết quả học tập thất thường, sút kém, luôn xếp “đội sổ”,
dẫn đến chán học.
- Loại 2: Là những em thiểu năng về trí tuệ: Là những trẻ trông hình thức

bề ngoài bình thường, hơi có vẻ như đần độn, trong học tập thì dạy mãi,
học mãi chẳng nhập tâm được cái gì (hay nói cách khác là thuộc diện
“chậm hiểu”).
- Loại 3: Là những em thuộc diện khuyết tật (nói ngọng hoặc không nói
được, mắt, tai, tay chân…) dẫn dến không đủ giác quan, phương tiện để
học tập bình thường như những bạn khác.
* Học sinh cá biệt về đạo đức, lối sống:
Thường có những biểu hiện như
- Hay trốn học đi chơi điện tử, lừa dối cha mẹ, thầy cô, giả tạo chữ kí của
bố mẹ trong sổ liên lạc hoặc giấy xin phép.
- Dọa nạt bạn bè thậm chí đánh nhau; lảng tránh các hoạt động tập thể.
- Tiêu sài các khoản phí của bố mẹ cho để đóng góp với nhà trường; Càn
quấy, ý thức tổ chức kỷ luật kém, thích “chơi trội” theo kiểu con nhà đại
gia giàu có cụm lại với nhau đối lập với tập thể lớp. Họ thích ăn chơi phá
phách hơn là học hành tử tế; Thậm chí còn có cả ăn cắp, ăn trộm tiền, quỹ
lớp hoặc đồ dùng học tập có giá trị của các bạn trong lớp trong trường.
- Khéo léo, nhanh trí trong việc giở những trò tinh nghịch với thầy cô, bạn
bè; Hay xem thường, trêu ngươi, khiêu khích trước thầy cô, bạn bè nhằm
Hoàng Tám Thuận - Trường THPT Nguyễn Trường Tộ

4


SKKN

Phương pháp giáo dục hoc sinh THPT ở vùng đặc biệt khó khăn

thỏa mãn những nhu cầu tinh nghịch được xắp sẵn trong đầu óc chúng. Có
cách nói năng, ăn mặc, đi đứng hành động khác thường để gây sự chú ý.
- Có biểu hiện thích yêu đương, phân tán tư tưởng, thích diện, hay cãi lí với

bố mẹ và thầy cô; Sẵn sàng bỏ học đi chơi cùng bạn…
3. Thiếu những kỹ năng sống cần thiết
a. Khái niệm kỹ năng sống
Kỹ năng sống là những trải nghiệm có hiệu quả nhất, giúp giải quyết
hoặc đáp ứng các nhu cầu cụ thể, trong suốt quá trình tồn tại và phát triển
của con người. Kỹ năng sống bao gồm cả hành vi vận động của cơ thể và tư
duy trong não bộ của con người. Kỹ năng sống có thể hình thành một cách
tự nhiên, thông qua giáo dục hoặc rèn luyện của con người.
Là những kỹ năng có thể cung cấp cho bạn một cái nhìn tốt hơn về
cuộc sống. Những kỹ năng có thể cho phép bạn duy trì một nhận thức cao
hơn của cả chính bạn và thế giới xung quanh bạn.
b. Những kỹ năng sống mà học sinh cần có
* Kỹ năng tự nhận thức bản thân
Với nhóm kỹ năng tự nhận thức bản thân thì học sinh cần có những
kỹ năng sống cơ bản sau : Lòng tự tôn về bản thân (tự nhận thức và đánh
giá về bản thân), kỹ năng học và tự học, kỹ năng quản lý thời gian hiệu
quả, kỹ năng điều chỉnh và quản lý cảm xúc, kỹ năng sử dụng và quản lý
tài chính và cuối cùng là kỹ năng xác lập mục tiêu cuộc đời.
Trong nhóm kỹ năng này học sinh cần có được 3 kỹ năng cơ bản
như: Kỹ năng thể hiện tự tin trước đám đông; Kỹ năng thuyết trình và diễn
giải ý tưởng, Kỹ năng giao tiếp và ứng xử (cách giao tiếp trong môi trường
học đường, với bố mẹ, người lớn tuổi…).
* Kỹ năng hợp tác và chia sẻ
Với nhóm kỹ năng này cũng rất cần thiết đối với học sinh, trong đó
học sinh cần có được các kỹ năng như: Kỹ năng làm việc theo nhóm (Kỹ
năng lập kế hoạch và tổ chức công việc); Kỹ năng lắng nghe và thấu hiểu;
Hoàng Tám Thuận - Trường THPT Nguyễn Trường Tộ

5



SKKN

Phương pháp giáo dục hoc sinh THPT ở vùng đặc biệt khó khăn

Kỹ năng phân biệt hành vi hợp lý và chưa hợp lý; Kỹ năng giải quyết các
xung đột trong nhóm; Kỹ năng đảm nhận trách nhiệm cùng với khả năng
thích ứng với thay đổi về tổ chức, công việc.
* Kỹ năng nhạy bén đối diện với những khó khăn
Đây cũng là một trong những kỹ năng cơ bản mà học sinh bắt buộc
cần phải có, bao gồm các kỹ năng như: khả năng ứng phó với những tệ nạn
xã hội – trong đó chú ý tới việc giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc; Kỹ năng
phòng, chống tai nạn giao thông; phòng, chống thiên tai; Kỹ năng tìm kiếm
và xử lý thông tin; Kỹ năng giải quyết vấn đề và ra quyết định, Kỹ năng
chăm sóc bảo vệ môi trường sống, bảo vệ sức khoẻ, Kỹ năng tìm kiếm sự
hỗ trợ.
II. NGUYÊN NHÂN TẠO NÊN MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CỦA HỌC
SINH THPT Ở VÙNG ĐẶC BIỆT KHÓ KHĂN
1. Nguyên nhân gây tình trạng bỏ học giữa chừng và trốn học giữa
buổi
Hiện tượng bỏ học mang tính chất xã hội và trốn học giữa buổi đi
chơi thường xảy ra trong mỗi trường học có nhiều nguyên nhân khác nhau.
- Do bản tính ham chơi nhất là các trò chơi điện tử, lười học nên xuyên trốn
học đi chơi….
- Học sinh thường có học lực yếu kém hoặc thiếu căn bản dẫn đến lưu ban,
bỏ học.
- Học sinh đi xa nhà, vào ngày mùa thu tiêu, thu cà phê, lượm điều... gia
đình các em thường cho con ở nhà tham gia vào lao động, dần dần làm cho
các em chán học và bỏ học.
- Học sinh hay gây rối trong trường học, không được bạn bè và thầy cô yêu

mến, nên cũng chán học dẫn đến bỏ học.
- Học sinh nảy sinh tình cảm nam nữ, dành nhiều thời gian cho lĩnh vực
yêu đương nên không có thời gian dành cho việc học, cũng dẫn đến bỏ học.

Hoàng Tám Thuận - Trường THPT Nguyễn Trường Tộ

6


SKKN

Phương pháp giáo dục hoc sinh THPT ở vùng đặc biệt khó khăn

- Trong xã hội còn tồn tại những phần tử không lành mạnh những phần tử
này lôi kéo rủ rê các em học sinh có hoàn cảnh khó khăn, học lực yếu, thích
sống đua đòi, có tư tưởng lưng chừng…đi vào con đương ăn chơi dẫn đến
bỏ học.
- Ở địa phương có một số gia đình nghèo có con em đang học tập tại
trường, vì điều kiện kinh tế của gia đình còn quá khó khăn, cha mẹ các em
phải ở luôn trong rẫy nên ít có điều kiện quan tâm đến việc học của con em.
Những đối tượng học sinh nay phần lớn sống với ông bà hoặc các anh chị
em tự sống cùng nhau, nên các em ít được chỉ bảo, động viên trong việc
học dẫn đến học yếu, chán nản và bỏ học. Bên cạnh đó có một số học sinh
do hoàn cảnh gia đình bị đổ vỡ, cha mẹ ly hôn, cảm giác các em như bị bỏ
rơi, chán nản không có ý thức phấn đấu trong học tập dần dần sa sút mắc
cỡ với bạn bè sinh ra bỏ học.
2. Nguyên nhân gây tỉ lệ học sinh cá biệt cao
a. Nguyên nhân khách quan
* Nguyên nhân về phía gia đình
Phải nói rằng thời gian mà các em sống với gia đình là khoảng thời

gian dài nhất, chính vì thế môi trường sống của gia đình có ảnh hưởng rất
lớn đối với các em, những thái độ, hành vi, cách cư xử trong gia đình sẽ
hình thành cho các em nền móng để các em tiếp xúc ngoài xã hội. Những
em thiếu may mắn sinh ra trong gia đình cha mẹ bất hoà, cách cư xử của
cha mẹ thô bạo, rượu chè bê bết... đã tạo cho các em một ấn tượng không
tốt điều đó có thể dẫn đến tình trạng học sinh trở nên lầm lì ít nói, có em
ảnh hưởng những thói quen không tốt đó cũng có những hành vi cử xử
không tốt với mọi người....Hình thành nên tính cách cá biệt trong học sinh.
* Nguyên nhân về phía nhà trường:
Đây là ngôi nhà thứ hai của các em, nơi để phụ huynh gởi gắm niềm
tin vào việc giáo dục con em của họ, từ đây các em được học tập, được hiểu
biết, được lớn lên về mọi mặt. Nhưng để đạt được đúng như điều vừa nêu
Hoàng Tám Thuận - Trường THPT Nguyễn Trường Tộ

7


SKKN

Phương pháp giáo dục hoc sinh THPT ở vùng đặc biệt khó khăn

cũng không phải là dễ, trong thực tế cũng có một vài trường chưa thực hiện
được chức năng là ngôi nhà thứ hai của các em, bởi vẫn còn đâu đó có
những thầy cô giáo chưa nhiệt tình, chưa thật sự yêu nghề, chưa có tâm
huyết với sự nghiệp giáo dục nên chưa nhiệt tình với các em, chưa thật sự
là nơi đáng tin cậy. Cũng có một vài thầy cô giáo do cách cư xử chưa phù
hợp nên đâu đó cũng xúc phạm học sinh, đối xử thiếu công bằng với các
em, ngại khó khi phải giáo dục những em cá biệt, cáu giận, sĩ nhục học
sinh... đã làm mất lòng tin ở các em, tạo ra một khoảng cách không đáng
có giữa thầy và trò và chính điều này đã dẫn đến biểu hiện chống đối lại từ

phía học sinh.
* Nguyên nhân về phía môi trường xã hội:
Ngoài môi trường gia đình và nhà trường ra, học sinh còn phụ thuộc
rất lớn vào môi trường xã hội. Hiện nay do sự phát triển kinh tế - xã hội, sự
phát triển của mạng lưới thông tin hiện đại, sự du nhập của nhiều loại hình
văn hoá khác nhau đã ảnh hưởng không ít đến tầng lớp thanh thiếu niên.
Các loại hình dịch vụ như Internet, bi da, karaôkê... đã lôi kéo không ít học
sinh vào đam mê những trò chơi vô bổ. Hiện tượng học sinh trốn học để
chơi điện tử, bi da, đánh bạc... là chuyện thường ngày, có cả em hết tiền
nảy sinh hành vi trộm cắp, cướp giật.
Xã IaDom, Đức Cơ nằm ở vị trí gần biên giới, các em vừa sống
trong một điều kiện gia đình khó khăn, lại tiếp xúc với cách sống của của
rất nhiều người đến từ nhiều nơi khác nhau, tiếp xúc với rất nhiều vấn đề
như đánh bạc, buôn lậu, chơi điện tử, karaôkê... nên nảy sinh ra hiện tượng
học đòi, chính vì thế một số bộ phận học sinh nhạy cảm với vấn đề xã hội
này các em dễ bị lôi cuốn bởi những thói hư, tật xấu của môi trường xã hội
xung quanh.
b. Nguyên nhân chủ quan về phía bản thân các em:
Do đặc điểm tâm sinh lý của học sinh, lứa tuổi mà nhiều người cho
rằng "Ăn chưa no, lo chưa đến", suy nghĩ còn non nớt, nhận thức chưa cao
Hoàng Tám Thuận - Trường THPT Nguyễn Trường Tộ

8


SKKN

Phương pháp giáo dục hoc sinh THPT ở vùng đặc biệt khó khăn

chính vì thế các em có những hành vi thiếu chuẩn xác là điều không thể

tránh khỏi.
Những học sinh cá biệt ta thường gặp phần lớn là những em có năng
lực học tập yếu kém, điều đó cũng hoàn toàn dễ hiểu bởi nhận thức của các
em kém thì làm sao có hành động tốt được. Việc hạn chế trong tiếp thu kiến
thức của các em cũng dẫn đến sự lười biếng, chán nản, muốn phá phách,
nhất là đối với học sinh nam. Xét ở một khía cạnh khác thì cũng có thể các
em vì tự ái về sự chê cười của thầy cô và bè bạn, các em muốn chứng minh
cho mọi người thấy rằng mình học không tốt nhưng mình có thể nổi trội
hơn về mặt khác, hoặc các em muốn thầy cô chú ý mình hơn chẳng hạn,
chính vì thế mà các em có những hành động vượt ra khỏi những quy định
chung.
3. Nguyên nhân gây thiếu những kỹ năng sống cần thiết
a. Nguyên nhân do giáo dục
- Chương trình giáo dục hiện nay còn nặng về kiến thức, ít quan tâm đến kỹ
năng sống.
- Bộ Giáo dục và Đào tạo chưa bắt buộc, chưa đưa giáo dục kỹ năng sống
thành một môn trong trường học mà chỉ yêu cầu các trường học lồng ghép
trong các giờ học chính khoá - không thể mang lại hiệu quả rõ rệt.
- Đối với các nhà trường chủ yếu tập trung dạy cho học sinh kỹ năng học
tập ; việc giáo dục kỹ năng sống chưa quan tâm nhiều.
b. Nguyên nhân từ phía giáo viên.
Một bộ phận không nhỏ giáo viên cũng chưa hiểu kỹ năng sống là
gì? Bản thân họ cũng còn thiếu kỹ năng sống; không ít giáo viên nghĩ rằng
kỹ năng sống chính là các bài dạy về đạo đức. Bên cạnh đó áp lực về công
tác chuyên môn là quá lớn, cho nên họ chủ yếu tập trung thời gian, công
sức để làm tốt công tác chuyên môn; ít có thời gian để nghiên cứu, tìm
hiểu, sưu tầm tài liệu về kỹ năng sống.

Hoàng Tám Thuận - Trường THPT Nguyễn Trường Tộ


9


SKKN

Phương pháp giáo dục hoc sinh THPT ở vùng đặc biệt khó khăn

c. Nguyên nhân từ phía gia đình
- Nhiều gia đình chưa đủ hiểu tâm lý của con em mình và đủ khả năng dạy
cho con những kỹ năng cần thiết trong cuộc sống.
- Nhiều gia đình chỉ quan tâm đến việc kiếm tiền, đáp ứng nhu cầu vật chất
cho con em mà lãng quên việc dạy bảo con em những kỹ năng cần thiết
trong cuộc sống như: kỹ năng ứng xử, giao tiếp; kỹ năng tự bảo vệ...
III. PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC HỌC SINH THPT Ở VÙNG ĐẶC
BIỆT KHÓ KHĂN
1. Giáo dục nhằm hạn chế tình trạng bỏ học giữa chừng và trốn học
giữa buổi
a. Đối với học sinh
- Việc học ở nhà: Học sinh tập trung học bài, soạn bài và làm bài tập đầy
đủ, chuẩn bị bài mới trước khi đến lớp, thực hiện giờ giấc học tập theo kế
hoạch, thời khóa biểu của riêng mình tham gia học nhóm, học tổ để giúp đỡ
nhau trong học tập.
- Việc học ở trường: Học sinh đến trường phải chấp hành đúng nội quy của
nhà trường đi học đúng giờ, đi học phải chuyên cần, khi nghỉ học phải xin
phép, đi học phải mang theo đầy đủ sách vở, dụng cụ học tập. Trong giờ
học phải tập trung chú ý tiếp thu bài giảng, tham gia phát biểu ý kiến xây
dựng bài. Đồng thời, phải tham gia thường xuyên đầy đủ các phong trào thi
đua của trường của lớp, tham gia các hoạt động ngoài giờ lên lớp, tham gia
các buổi sinh hoạt ngoại khóa. Mỗi học sinh cần phải có ý thức tự vươn lên
trong học tập bằng cách tự rèn luyện và nỗ lực của bản thân, khắc phục mọi

khó khăn để đạt kết quả cao trong học tập.
- Cần phát huy vai trò tự quản của các em, lưu ý phải có niềm tin đối với
học sinh, trước hết là các em trong ban cán sự lớp vì hầu hết các em là
những học sinh đều là học sinh học giỏi, hiền ngoan, có tinh thần trách
nhiệm với công việc. Trong quá trình sinh hoạt học tập và vui chơi các em
gần gũi với nhau nên dễ dàng nắm bắt được tình hình hoàn cảnh điều kiện
Hoàng Tám Thuận - Trường THPT Nguyễn Trường Tộ

10


SKKN

Phương pháp giáo dục hoc sinh THPT ở vùng đặc biệt khó khăn

cụ thể của mỗi em khi có biểu hiện dẫn đến tình trạng bỏ học. Vì vậy, cần
định hướng cho các em biết cách tự quản lớp học của mình, phản ảnh kịp
thời những học sinh bỏ giờ , tạo ra dư luận tập thể, giúp đỡ và tạo điều kiện
để các em khắc phục những tồn tại thiếu sót mà tiếp tục việc học.
b. Đối với giáo viên
- Giáo viên bộ môn:
Phải đến trường đến lớp đúng giờ, chấp hành đúng qui chế chuyên
môn. Thực hiện đúng phân phối chương trình, áp dụng việc đổi mới
phương pháp giảng dạy, nhiệt tình trong công tác, chuẩn bị đầy đủ các loại
hồ sơ theo qui định. Thường xuyên tham gia sinh hoạt chuyên môn, dự giờ
thăm lớp, trao đổi chuyên môn nghiệp vụ. Mỗi giáo viên phải là một tấm
gương sáng về tự học và sáng tạo để giảng dạy thật tốt, để lôi cuốn thu hút
tạo sự hứng thú học tập của học sinh đối với bộ môn mình phụ trách. Bên
cạnh sự nhiệt tình trong công tác giảng dạy mỗi giáo viên bộ môn cần phải
quan tâm đến đối tượng học sinh đặc biệt chú trọng học sinh có hoàn cảnh

khó khăn, học sinh có học lực yếu kém, lười học, hay bỏ giờ, bỏ tiết để tìm
hiểu giúp đỡ các em, đồng thời báo cáo kịp thời với giáo viên chủ nhiệm
lớp, đoàn trường và nhà trường để có biện pháp xử lý kịp thời.
Đối với bản thân tôi là một giáo viên bộ môn dạy môn Sinh học,
trong mỗi tiết học tôi đều lồng ghép các kiến thức thực tế, các câu chuyện
vui, hài hước có liên quan đến nội dung bài học, nên trong mỗi tiết dạy tôi
thấy học sinh phần lớn đều hứng thú học tập, tỉ lệ học sinh nghỉ học trong
tiết tôi dạy rất là ít.
- Giáo viên chủ nhiệm:
Ngay từ đầu năm học cần tìm hiểu đầy đủ các thông tin về đối tượng
học sinh của lớp mình phụ trách. Chú ý đối tượng học sinh có hoàn cảnh
đặc biệt khó khăn học sinh học lực yếu kém, học sinh cá biệt. Giáo viên
chủ nhiệm phải xây dựng kế hoạch hàng tuần, tháng, học kì và cả năm một
cách cụ thể, báo cáo định kỳ một cách cụ thể đối với các đối tượng học sinh
Hoàng Tám Thuận - Trường THPT Nguyễn Trường Tộ

11


SKKN

Phương pháp giáo dục hoc sinh THPT ở vùng đặc biệt khó khăn

lười học, bỏ giờ, bỏ tiết, nghỉ học để nhà trường có biện pháp xử lý một
cách kịp thời.
Thường xuyên, tổ chức tốt các buổi sinh hoạt lớp, các buổi hoạt động
ngoài giờ lên lớp tổ chức cho các em học tổ, học nhóm có kế hoách giúp đỡ
những em có hoàn cảnh khó khăn, phân công giúp đỡ lẫn nhau trong học
tập bằng hình thức “đôi bạn cùng tiến” học sinh có học lực khá, giỏi cùng
nhóm với học sinh có học lực yếu, kém. Tổ chức và phát động các phong

trào thi đua trong học tập, thi đua giữa các tổ trong lớp có hình thức khen
thưởng động viên kịp thời những em học sinh có tiến bộ.
Giáo viên chủ nhiệm thực sự là linh hồn của một tập thể lớp bằng
tình thương và trách nhiệm luôn luôn gần gũi với các em nắm bắt hoàn
cảnh từng em, hiểu được tâm tư nguyện vọng; nắm vững và kịp thời
nguyên nhân dẫn đến học sinh bỏ học mà đề xuất các biện pháp giáo dục
thích hợp để nhà trường có biện pháp xử lý, hạn chế học sinh bỏ học.
Giáo viên chủ nhiệm cần phải làm tròn trách nhiệm là cầu nối giữa
nhà trường với phụ huynh, thường xuyên thông báo kết quả rèn luyện và
học tập của học sinh ở trường đến với phụ huynh học sinh, đồng thời cũng
thăm hỏi nắm bắt việc học tập ở nhà của học sinh. Lưu ý giữa giáo viên chủ
nhiệm với phụ huynh học sinh phải liên hệ chặt chẽ kịp thời, thống nhất các
biện pháp để giáo dục các em.
Để làm tốt công tác chủ nhiệm đòi hỏi người giáo viên phải nắm bắt
am hiểu hoàn cảnh gia đình và bản thân từng học sinh với tinh thần trách
nhiệm và tình thương yêu đối với học sinh mà nhiệt tình năng nổ trong
công tác.
c. Đối với nhà trường
Ngay từ đầu năm học nhà trường chỉ đạo tổ chức khảo sát chất lượng
đầu năm của học sinh ở từng khối lớp.Từ đó phân lọai trình độ của học
sinh, chú trọng đến học sinh yếu kém để có kế hoach phù đạo, dạy kèm cho
các em.Tổ chức bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho giáo viên, thường
Hoàng Tám Thuận - Trường THPT Nguyễn Trường Tộ

12


SKKN

Phương pháp giáo dục hoc sinh THPT ở vùng đặc biệt khó khăn


xuyên theo dõi giờ lên lớp của giáo viên,tiến hành dự giờ thăm lớp, kiểm
tra hồ sơ giáo viên, phân công giáo viên có năng lực, nhiệt tình trong công
tác giảng dạy các lớp có học sinh yếu kém.
Chỉ đạo giáo viên chủ nhiệm phải theo dõi sát sao việc học tập của
học sĩ số học sinh, báo cáo quá trình học tập và rèn luyện của học sinh ở
lớp cho nhà trường hang tuần. Từ đó nắm được những đối tượng học sinh
yếu kém, học sinh có nguy cơ bỏ học. Nhà trường phối hợp với chính
quyền địa phương, các ngành,các cấp, các tổ chức xã hội, phụ huynh học
sinh trên địa bàn để giúp đỡ, giáo dục các em hỗ trợ các em có hoàn cảnh
khó khăn về tinh thần và vật chất. Nhà trường cũng đã tiến hành miễn giảm
các khoản thu, nộp đối với học sinh có hoàn cảnh khó khăn, xây dựng quỹ
tình thương vì học sinh nghèo, tham mưu với hội khuyến học, hội phụ
huynh để cùng phối hợp giáo dục các em. Từ đó tạo niềm tin tạo sự nhận
thức đúng đắn về giáo dục cho mỗi phụ huynh để họ hiểu rằng sự học là
cần thiết cho mỗi con người.
d. Đối với đoàn thể trong nhà trường
Các tổ chức đoàn thể trong nhà trường: Công đoàn, đoàn trường, hội
cha mẹ học sinh, hội chữ thập đỏ…thông qua hoạt động của các phong
trào, giúp đỡ các em học sinh có hoàn cảnh khó khăn, tổ chức các hoạt
động vui chơi mang tính chất câu lạc bộ, cố gắng vận động những em học
sinh yếu có mặc cảm trước đây cùng tham gia để tạo sự hoà nhập, cảm hoá
các em, tạo niềm tin cho các em. Tổ chức các cuộc thể dục thể thao, cắm
trại để lôi cuốn học sinh.
Các ngày lễ tết công đoàn, đoàn trường, hội cha mẹ học sinh, hội chữ
thập đỏ…cần có những món quà nhỏ dành cho những học sinh có hoàn
cảnh khó khăn để động viên khích lệ các em vươn lên trong cuộc sống.
e. Chính quyền địa phương
Nhà trường tiến hành kết hợp với các tổ chức đoàn thể ở địa phương
tuyên truyền,vận động mọi lực lượng tham gia vào công tác giáo dục, xem

Hoàng Tám Thuận - Trường THPT Nguyễn Trường Tộ

13


SKKN

Phương pháp giáo dục hoc sinh THPT ở vùng đặc biệt khó khăn

sự nghiệp giáo dục là sự nghiệp của mọi người, mọi tầng lớp, mọi đối
tượng cùng tham gia.
2. Giáo dục làm giảm tỉ lệ học sinh cá biệt
a. Dùng tình cảm để cảm hóa học sinh cá biệt
Quan hệ thầy trò vốn là mối quan hệ tách biệt từ ngàn xưa. Trong
nền giáo dục hiện tại, quan hệ đó đã được thay đổi, thầy trò ngày nay có
tình cảm thân mật gắn bó hơn, có như vậy thì chúng ta mới thực hiện tốt
được nhiệm vụ giáo dục toàn diện được. Bởi có quan hệ gần gũi thì mới
biết được những tâm tư nguyện vọng của các em chúng ta mới có những
biện pháp giáo dục thích hợp được.
Đối với học sinh cá biệt việc gần gũi với các em quả là một vần đề
không đơn giản, nếu GVCN thiếu tế nhị một xíu thì khó mà có thể gần gũi
với các em được, chẳng hạn thường xuyên phê bình, dùng nhiều lới xúc
phạm đến các em ... đều có thể làm tổn thương đến mối quan hệ này. Hơn
nữa vì các em thường xuyên vi phạm nên các em càng lẩn tránh tiếp xúc
với giáo viên nhất là giáo viên chủ nhiệm lớp.
Để thấy được hết cá tính của học sinh, GVCN cần tạo đựơc mối quan
hệ gần gũi với các em, thật sự là chỗ dựa đáng tin cậy nhất sau cha mẹ của
các em. Chú ý khi giao tiếp với các em ta phải luôn cởi mở, chân tình, vui
vẻ dễ cảm hóa được các em, khi có được mối quan hệ tốt các em sẽ thổ lộ
những tâm tư tình cảm với giáo viên chủ nhiệm mà không một chút ngần

ngại. Những lời khuyên răn dạy bảo của chúng ta sẽ có tác dụng lớn đối với
các em.
Tránh đối xử thô bạo, trách móc các em. Hãy tôn trọng nhân cách
của các em. Hãy đem đến cho các em hơi ấm của tình người, để các em biết
người tốt chung quanh ta, nhiều lắm! các em cần được đối xử tử tế, cần
được yêu thương và tôn trọng. Không ai được ngược đãi các em vì các em
học chậm. Các em có quyền được đặt câu hỏi và yêu cầu thầy cô giáo giải

Hoàng Tám Thuận - Trường THPT Nguyễn Trường Tộ

14


SKKN

Phương pháp giáo dục hoc sinh THPT ở vùng đặc biệt khó khăn

thích cho em hiểu. Chính vì vậy mới cần có trường học. Và đó là lý do tại
sao cần có thầy cô giáo...”
Để hiểu học sinh “cá biệt”, trước hết phải biết chấp nhận các em vô
điều kiện. Luôn đứng về phía các em, quan tâm điều các em nghĩ, bàn về
những đề tài các em thích. Thỉnh thoảng, sử dụng “thuật ngữ” của các em.
Đó là cách mang các em đến gần mình hơn. Khi mối quan hệ đủ thân thiện,
khi niềm tin đủ lớn, người thầy sẽ thuận lợi trong việc uốn nắn hành vi,
khai sáng tư duy, định hướng nhận thức...
Nên xử lý mềm mỏng, thậm chí dịu ngọt đối với học sinh cá biệt này,
nếu không sẽ không có hiệu quả, có khi gặp phản ứng không tốt ngược trở
lại về phía học sinh. Tuy nhiên cũng có đôi lúc ta cũng phải cứng rắn:
chẳng hạn trong vấn đề xử phạt "mềm nắn, rắn buông".
Nếu học sinh có thói hư tật xấu phạm lỗi trầm trọng cũng có thể tùy

trường hợp hay tùy đối tượng mà xử lí, tôi không xử lí một cách cứng nhắc.
Dù lỗi lầm lớn nhưng nếu em đó biết nhận lỗi và sửa lỗi thì tôi luôn tạo cho
học sinh đó cơ hội tự làm chủ bản thân, có niềm tin nghị lực để vươn lên.
Thế nhưng đối với những học sinh lỗi vi phạm không đáng kể nhưng lại vi
phạm thường xuyên thì tôi không thể bỏ qua mà xử lí một cách linh động
tùy theo từng đối tượng. Dù các em vi phạm ở mức độ lỗi lớn hay nhỏ tôi
cũng xử lí trên cơ sở giáo dục các em, cụ thể cho em đó biết chuộc lỗi, làm
một việc tốt, giao cho em đó thời gian thử thách.
b. Kiên trì tạo niềm tin.
Chúng ta hãy thử hòa mình vào phong cách sống của các em xem
sao? Để điều hành được học sinh “cá biệt”, người thầy phải sắm đủ các vai.
Khi thì nhà mô phạm nghiêm khắc, lúc lại là cái vai cho các em gục đầu
vào. Khi thì nhà tâm lý, lúc lại là bác sĩ trị liệu, khi thì ông trọng tài, lúc
khác lại là người cố vấn... Cứ như thế, kiên trì cho đến khi các em tự nhận
ra tại sao mình phải thay đổi.

Hoàng Tám Thuận - Trường THPT Nguyễn Trường Tộ

15


SKKN

Phương pháp giáo dục hoc sinh THPT ở vùng đặc biệt khó khăn

Từ cảm giác cô đã không chối bỏ mình, không chê mình, luôn khen
ngợi, động viên và tặng trái tim ghi điểm thưởng..., các em dần phát hiện ra
giá trị của bản thân, cảm thấy mình hữu ích và được việc... Thế là tinh thần
học tập được nhân lên, tạo ra sự tương tác và cộng hưởng.
Giáo viên nên thường xuyên trò chuyện, quan tâm, gần gũi, nhắc

nhở, động viên học sinh học tập, có thái độ thân thiện với học sinh. Tạo cho
học sinh nhìn mình là cảm thấy gần gũi, chứ không phải gặp mình là sợ la,
sợ bị mắng. Như vậy học sinh sẽ có tâm lý bất cần " Thầy cô kệ thầy cô, ta
là ta". Ta phải làm sao tạo cho học sinh có cảm giác là giáo viên như là một
người bạn thân, bạn tâm tình, sẵn sàng lắng nghe ý kiến của mình, khi mình
vui, buồn đều có thể chia sẻ với thầy cô, khích lệ mình khi mình khó khăn
trong gia đình, bế tắc trong học tập.
Giáo dục từng bước, chậm rãi từ những công việc nhỏ. Chẳng hạn
phải thức sớm một chút để không phải đi trễ, mình học yếu thì nên chịu
khó, siêng làm bài tập hơn các bạn, khi nào làm bài tập, học sinh mệt thì
nên giải lao để tinh thần thoải mái rồi làm tiếp, không nên cố gắng quá sức.
Giáo viên không nên giáo dục ào ạt chưa hỏi han lý do gì hết mà đã la
mắng học sinh cho dù học sinh đó vi phạm nhẹ, như vậy sẽ mất hiệu quả
giáo dục. Bởi vì đấy là những học sinh cá biệt, tính tình ương ngạnh, tâm lý
bất cần, học hay không đối với bản thân học sinh không quan trọng mà học
sinh vào lớp là chỉ được "lãnh lương" hàng ngày, không phải làm những
việc nặng nhọc bằng tay chân ở nhà.
c. Biết chấp nhận và yêu thương.
Ở tuổi các em, bạn bè có một vị trí rất lớn trong mối quan hệ xã hội
của các em, thường ở lứa tuổi này các em chưa ý thức được việc nào là cần
thiết hơn, chính vì thế đa phần trong quan hệ với thầy cô giáo các em
thường có biểu hiện bao che cho nhau, nhất là những khi đề cập tới các đối
tượng học sinh cá biệt, mặc dù biết việc làm của bạn là sai, tuy vậy khi hỏi
đến phần lớn các em đều trả lời một câu chung nhất( không biết) - đối với
Hoàng Tám Thuận - Trường THPT Nguyễn Trường Tộ

16


SKKN


Phương pháp giáo dục hoc sinh THPT ở vùng đặc biệt khó khăn

những em có quan hệ gần gũi với HS cá biệt, cũng có thể các em ngại
không dám nói ra sự thật vì sợ sự đe doạ của các bạn... Nhưng phải nói
rằng tất cả những suy nghĩ, những việc làm của các em cá biệt thì chính các
em học sinh cùng lớp, cùng khối là biết rõ nhất.
Về vấn đề này giáo viên chủ nhiệm cần khéo léo trong cách điều tra,
có thể là điều tra bằng cách giao nhiệm vụ theo dõi tìm hiểu cho ban cán sự
lớp hoặc một đối tượng học sinh đáng tin cậy nhất nào đó và sẽ trao đổi
với các em bằng cách bảo mật thông tin. Thường thì những em này sẽ cung
cấp cho chúng ta nguồn tin chính xác nhất.
Sau khi nắm được thông tin, phân tích tình hình, tôi hướng dẫn các
em gần gũi và giúp đỡ bạn, nên tạo được quan hệ tốt và nhất là tạo cho
những em cá biệt có niềm tin với mình. Phải nói rằng trong quan hệ bạn
bè các em sẽ bộc lộ rõ cá tính không e ngại. Tôi thường xuyên giữ mối
quan hệ với các em này tìm hiểu những khó khăn khi phải thuyết phục học
sinh cá biệt để tháo gỡ khó khăn cho các em, thường xuyên cung cấp biện
pháp xử lý kịp thời những biến động của các đối tượng và động viên các
em, tạo cho các em có niềm tin thuyết phục, giúp đỡ học sinh cá biệt tiến
bộ.
Tạo không khí lớp học thoải mái, đoàn kết, không cô lập học sinh cá
biệt đối với tập thể.
Khi học sinh cá biệt gây ra lỗi giáo viên không xúc phạm và làm tổn
thương danh dự của học sinh trước tập thể. Một lời nói cũng cần phải thận
trọng. Không quá khắc khe xử lý mạnh tay bằng những hình thức kỷ luật
nặng nề, đe dọa, thành kiến không dùng lời lẽ nặng nề dao to búa lớn, mà
bản thân mỗi giáo viên hãy nên biết lắng nghe và giải quyết bằng tình cảm.
d. Giáo viên phải biết làm mới tiết dạy của mình:
Giáo dục học sinh cá biệt còn một yêu cầu quan trọng, thầy, cô phải

giỏi nghề. Thầy, cô luôn cải tiến, đổi mới phương pháp giảng dạy. Tiết sau

Hoàng Tám Thuận - Trường THPT Nguyễn Trường Tộ

17


SKKN

Phương pháp giáo dục hoc sinh THPT ở vùng đặc biệt khó khăn

“mới” hơn tiết trước. Sau một tiết học, trò học được nhiều tri thức bổ ích
tạo nên sự đam mê học hỏi, khám phá tự tin, khẳng định mình.
Thầy, cô biết hỏi “gợi mở” mang tính “phát động”, nhất định sẽ nhận
được câu trả lời độc đáo.
Thầy, cô biết “cuốn” học sinh vào trò chơi học tập, sẽ “lấp” thời gian
“chết”, trò không “nhàn cư…” nghịch, đánh cờ ca rô, nhắn tin… ngay
trong tiết học.
Giáo viên cần hướng dẫn cụ thể những việc mà học sinh hỏi, tránh để
học sinh cảm thấy mình lạc lõng, cảm giác vì mình học dở nên không ai
quan tâm, ai cũng khi dễ mình, không ai thèm chơi, để ý đến mình.
Giáo dục học sinh cá biệt là một nghệ thuật, nghệ thuật dạy trẻ. Thầy,
cô đứng trên bục giảng phải đóng nhiều vai: Tác giả kịch bản, đạo diễn,
diễn viên, cả khán giả-tức học sinh ngồi nghe giảng trên lớp. Làm thầy,
nhưng phải hiểu trò đang nghĩ gì, làm gì trong giờ học. Bài giảng là một
“món ăn”, nếu nhàm chán, học trò sẽ bỏ ăn-bỏ học.
e. Phải biết động viên kịp thời, đúng lúc, đúng chỗ, đúng đối tượng
Giáo viên phải biết trân trọng những gì là tốt dù rất nhỏ của học sinh.
Một lời động viên khích lệ kịp thời khi các em chỉ có một việc làm tốt rất
nhỏ cung đủ làm cho các em thấy tự tin hơn, thấy mình thực sự có ích.

Hãy mạnh dạn giao việc cho chúng, hướng dẫn các em để chúng làm
theo định hướng của mình nhưng vẫn phải để “Đất” cho các em thể hiện
tính sáng tạo, tuyệt đối không được áp đặt.
Không bỏ mặc và phủ nhận những chuyển biến của học sinh cá biệt.
Những thay đổi theo chiều hướng tích cực của học sinh – dù nhỏ cũng đáng
trân trọng và phải ghi nhận. Có như vậy các em mới dần nhận thấy giá trị
của bản thân và ngày càng nỗ lực vươn lên trong cuộc sống và học tập.
f. Phối hợp chặt chẽ các lực lượng giáo dục trong nhà trường, xã hội
Chúng ta cần biết sử dụng và phát huy hợp lí giá trị, tác dụng của dư
luận xã hội.
Hoàng Tám Thuận - Trường THPT Nguyễn Trường Tộ

18


SKKN

Phương pháp giáo dục hoc sinh THPT ở vùng đặc biệt khó khăn

Phát huy vai trò của ban đại diện hội cha mẹ học sinh.
Có thể trao đổi qua các cuộc họp phụ huynh học sinh chung của lớp,
GVCN báo cáo kết quả rèn luyện của từng em và có thể mời phụ huynh các
đối tượng này ở lại để trao đổi riêng, tránh sự mặc cảm của phụ huynh.
Có thể trao đổi qua việc đến thăm gia đình học sinh. Thường học
sinh cá biệt thì lại có phụ huynh cá biệt ; một là không quan tâm đến việc
học của con em, hoặc không dám đối diện với sự thật về những sai phạm
của con mình...thường những phụ huynh này ít tham gia vào các cuộc họp
chung kể cả những lúc có giấy mời riêng cùng không đến. Đối với đối
tượng này GVCN cần nhiệt tình hơn, có thể đến thăm gia đình để tìm hiểu
điều kiện sinh hoạt của gia đình và nắm được tình hình của các em ở nhà,

thường những đối tượng này họ ngại nói những điều sai của con em họ vì
thế tôi tổng hợp những điểm tốt mà các em có được dù đó chỉ là một việc
không đáng kể để khen ngợi các em, sau đó tôi lồng một vài khuyết điểm
của các em; tránh nêu hoàn toàn hoặc một loạt khuyết điểm thì phụ huynh
sẽ có sự mặc cảm, hoặc nảy sinh sự tiêu cực, buông xuôi, ngại nói ra những
điều mà ta cần tìm hiểu, trao đổi.
Thường xuyên thăm gia đình HS để tìm hiểu hoàn cảnh, tạo sự gần
gũi giữa giáo viên, học sinh và phụ huynh học sinh. Không nên chỉ khi các
em có khuyết điểm mới đến thăm gia đình.
Một phần biểu hiện cá biệt của các em là do quan hệ giữa giáo viên
và học sinh chưa tốt, có em có những phản kháng đối với những hành động
quá đáng của một vài giáo viên. Để xác định chính xác cá biệt của học sinh
từ nguyên nhân này hay không, giáo viên chủ nhiệm nên thăm dò hỏi tất cả
giáo viên dạy bộ môn của lớp để có biện pháp giáo dục thích hợp và cũng
từ đó giáo viên chủ nhiệm có thể góp ý ngay với giáo viên bộ môn trong
việc cần phải tôn trọng và công bằng trong đối xử với hoc sinh.

Hoàng Tám Thuận - Trường THPT Nguyễn Trường Tộ

19


SKKN

Phương pháp giáo dục hoc sinh THPT ở vùng đặc biệt khó khăn

3. Giáo dục những kỹ năng sống cần thiết cho học sinh
a. Giáo viên bộ môn:
Là những người đã qua trường lớp sư phạm đào tạo để giảng dạy cho học
sinh các tri thức khoa học tự nhiên, xã hội được phân thành các bộ môn

như Toán học, Vật lý, Hóa học, Sinh học, Ngữ văn, Lịch sử, Địa lý ... Giáo
viên bộ môn có những nhiệm vụ sau đây:
- Dạy học và giáo dục theo chương trình, kế hoạch giáo dục; soạn bài; dạy
thực hành thí nghiệm, kiểm tra, đánh giá theo quy định; vào sổ điểm, ghi
học bạ đầy đủ, lên lớp đúng giờ, quản lý học sinh trong các hoạt động giáo
dục do nhà trường tổ chức, tham gia các hoạt động của tổ chuyên môn;
- Tham gia công tác phổ cập giáo dục ở địa phương;
- Rèn luyện đạo đức, học tập văn hoá, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ để
nâng cao chất lượng, hiệu quả giảng dạy và giáo dục.
- Trong giảng dạy môn học giáo viên nên lồng ghép kĩ năng sống vào từng
bài học để học sinh học tập tốt hơn.
- Đổi mới, thực hiện linh động nhiều phương pháp học tập để thông qua đó
các em tự hình thành kĩ năng cho riêng bản thân mình. Ví dụ: Giáo viên có
thể sử dụng các phương pháp sau:
+ Đặt tình huống có vấn đề: Giáo viên nêu câu hỏi hoặc một vấn đề
nào đó. Sau đó khích lệ học sinh phát biểu và đóng góp ý kiến càng nhiều
càng tốt. Sau đó cho các em phân loại các ý kiến và làm sáng tỏ những ý
kiến chưa rõ ràng. Như vậy các em nhút nhát có khả năng sẽ trở nên bạo
dạn hơn, các em học được cách trình bày ý kiến cả mình, biết lắng nghe,
biết phê phán ý kiến của bạn, từ đó giúp học sinh dễ hoạt động vào hoạt
động nhóm, tạo cho các em sự tự tin, hứng thú trong học tập.
+ Hoạt động nhóm nhỏ: Giáo viên nêu vấn đề, cho các em làm việc
theo nhóm nhỏ (5-6 học sinh). Với phương pháp này học sinh sẽ bàn bạc,
thảo luận trong nhóm nhỏ, sẽ giúp cho học sinh tham gia một cách chủ
động vào quá trình học tập, tạo cơ hội cho các em có thể chia sẻ kiến thức,
Hoàng Tám Thuận - Trường THPT Nguyễn Trường Tộ

20



SKKN

Phương pháp giáo dục hoc sinh THPT ở vùng đặc biệt khó khăn

kinh nghiêm, ý kiến để giải quyết một vấn đề liên quan đến bài học. Kết
quả thảo luận sẽ được học sinh tư duy trình bày dươcis nhiều hình thức: sơ
đồ, biểu tượng, bằng lời, viết trên giấy...
+ Phương pháp đóng vai: Với một số môn như Giáo dục công dân
hoặc hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, hoạt đông hướng nghiệp, giáo
viên có thể cho học sinh thực hành “làm thử” một số cách ứng xử nào đó
trong tình huống giả định. Đây là phương pháp giảng dạy nhằm giúp học
sinh suy nghĩ sâu sắc về một vấn đề bằng cách tập trung vào một sự kiện cụ
thể mà các em quan sát được. Thông qua đó học sinh rèn luyện được những
kỹ năng ứng xử, khích lệ được những học sinh nhút nhát bạo dạn hơn.
+ Phương pháp trò chơi: Giáo viên bộ môn có thể tổ chức những trò
chơi nhỏ liên quan đến bài học để cùng với học tập học sinh có thể giao lưu
với bạn bè. Qua trò chơi học sinh có cơ hội để thể hiện thái độ, hành vi,
ngoài ra còn giúp tăng cường khả năng giao tiếp giữa học sinh và giáo viên.
Ví dụ: Bản thân tôi ngoài dạy môn Sinh học tôi còn tham gia giảng
dạy môn Công nghệ lớp 10, phần Tạo lập doanh nghiệp của bộ môn Công
nghệ lớp 10, tôi đã giao cho mỗi lớp 2 nhóm tự nghĩ ra loại hình kinh
doanh, phân tích và đưa ra kế hoạch kinh doanh cụ thể, cho các em thực
hiện kế hoạch kinh doanh đó và so sánh hiệu quả giữa các nhóm của các
lớp. Có nhóm đã tự làm ra nón, có lớp thì dùng tăm, tre, ống út, vỏ lon...để
tạo ra những mô hình xe đạp, nhà cửa...và các em tự tìm ra biện pháp để
tiêu thụ những sản phẩm của nhóm mình. Qua đó tôi thấy các em có nhiều
kỹ năng tự tin trước đám đông, có kỹ năng thuyết trình, kỹ năng giao tiếp
và ứng xử, kỹ năng cùng hợp tác và chia sẻ để thực hiện kế hoạch của
nhóm mình, có kỹ năng đối diện với khó khăn khi mỗi sản phẩm làm ra
chưa thành công hoặc sản phẩm nhóm mình không được học sinh trong

trường chào đón....
b. Giáo viên chủ nhiệm lớp:

Hoàng Tám Thuận - Trường THPT Nguyễn Trường Tộ

21


SKKN

Phương pháp giáo dục hoc sinh THPT ở vùng đặc biệt khó khăn

Tìm hiểu và nắm vững học sinh trong một lớp được giao về mọi mặt
để có biện pháp tổ chức giáo dục sát đối tượng, nhằm thúc đẩy sự tiến bộ
của cả lớp.
Tiết sinh học lớp vào cuối mỗi tuần không nên quá cứng nhắc, thay
vào đó hãy tổ chức thể một số trò chơi về nghề nghiệp, ứng xử. Như vậy
các học sinh trong lớp sẽ thân thiện với nhau hơn và rèn được nhiều kỹ
năng sống, trong đó có kỹ năng hòa nhập cộng đồng, kỹ năng ứng xử.
Cộng tác chặt chẽ với gia đình học sinh, chủ động phối hợp với các
giáo viên bộ môn, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, các tổ chức xã
hội có liên quan trong hoạt động giảng dạy và giáo dục học sinh của lớp
mình làm chủ nhiệm.
Nhận xét, đánh giá và xếp loại học sinh cuối kỳ và cuối năm học, đề
nghị khen thưởng và kỷ luật học sinh, đề nghị danh sách học sinh được lên
lớp thẳng, phải kiểm tra lại, phải rèn luyện thêm về hạnh kiểm trong kỳ
nghỉ hè, phải ở lại lớp, hoàn chỉnh việc ghi vào sổ điểm và học bạ học sinh.
c. Đoàn trường và tổ bộ môn:
Thường xuyên tổ chức ngoại khóa, hoạt động câu lạc bộ dưới nhiều
hình thức. Thông qua vui chơi, học sinh có thể học tập và tự rèn rất nhiều

kĩ năng sống cho bản thân mình.
d. Các đoàn thể xã hội tại địa phương:
Có thể huy động học sinh tham gia vào nhiều phong trào tại địa
phương. Đặc biệt là các phong trào tình nguyện, giúp đỡ bà con ở các làng
khó khăn, hoặc tham gia làm cỏ dọn dẹp nghĩa trang liệt sĩ. Thông qua các
hoạt động cộng đồng này các em sẽ có cái nhìn đúng đắc hơn về cuộc sống
và tự rèn luyện nhiều kỹ năng khi tham gia các hoạt động này.

Hoàng Tám Thuận - Trường THPT Nguyễn Trường Tộ

22


SKKN

Phương pháp giáo dục hoc sinh THPT ở vùng đặc biệt khó khăn

PHẦN III. KẾT LUẬN
1. Kết luận
Qua thời gian thực hiện đề tài này tôi đã thu được một số kết quả như sau:
Giáo dục học sinh cá biệt, lôi kéo học sinh đến trường không cúp
tiết, bỏ học, giáo dục kỹ năng sống đúng đắn cho học sinh là một việc làm
khó khăn và phức tạp, đòi hỏi người giáo viên luôn có sự nhiệt tình, năng
động, sáng tạo. Tất cả sự cố gắng và nỗ lực của chúng ta sẽ là cái chìa khoá
cho các em bước sang một cuộc đời mới với sự nhìn nhận tích cực về thực
tế và có ý thực rèn luyện để đạt tiêu chuẩn của con người mới xã hội chủ
nghĩa.
Bản thân tôi là một giáo viên hay được học sinh chia sẻ những khó
khăn cảu bản thân, nên đã luôn lắng nghe và đưa ra cho học sinh nhiều lời
khuyên hữu ích. Và trong mỗi tiết dạy của mình, mỗi chương nội dung kiến

thức tôi luôn đầu tư để đổi mới phương pháp day nên những năm chủ
nhiệm tỉ lệ học sinh bỏ học của lớp tôi không nhiều. Bản thân làm Đoàn
trường, thường xuyên tiếp xúc với học sinh cá biệt, học sinh thiếu kỹ năng
sống. Nhưng bằng tình cảm và cách xử lí nhẹ nhàng của mình bản thân ôi
dã cảm hóa được nhiều học sinh. Hiện tại đã có rất nhiều học sinh đã từng
có ý định bỏ học khi đang ngồi trên ghế nhà trường, có rất nhiều học sinh
khi đi học được các bạn gọi là “quậy’, nhưng khi được tôi quan tâm,
khuyên bảo giúp đỡ đã tiếp tục ở lại trường và đạt được ước mơ nghề
nghiệp của mình.
Trên đây là một vài kinh nghiệm nho nhỏ của bản thân trong quá
trình nhiều năm làm công tác chủ nhiệm lớp, làm phó bí thư Đoàn trường.
Trong phần trình bày chắc hẳn không tránh khỏi sai sót, rất mong nhận
được sự góp ý của các bạn đồng nghiệp và ban giám khảo. Xin chân thành
cám ơn.

Hoàng Tám Thuận - Trường THPT Nguyễn Trường Tộ

23


SKKN

Phương pháp giáo dục hoc sinh THPT ở vùng đặc biệt khó khăn

2. Kiến nghị:
Để hạn chế tỉ lệ học sinh bỏ học, cúp tiết đi chơi giữa giờ, hạn chế
học sinh cá biệt, tăng cường các kỹ năng sống cho học sinh, tôi có kiến
nghị như sau:
- Giáo viên chủ nhiệm khi muốn hạn chế học sinh bỏ học hoặc muốn giáo
dục tốt học sinh cá biệt thì phải: Điều tra nắm rõ nguyên nhân của hiện

tượng bỏ học, hiện tượng cá biệt. Nắm rõ tâm lí của từng đối tượng để đề ra
biện pháp thích hợp. Không nên nêu ra tất cả khuyết điểm của các em cùng
một lúc. Luôn tạo mối quan hệ gần gũi, cảm hóa các em.
- Tăng cường các buổi ngoại khóa về giáo dục đạo đức, lối sống cho học
sinh.
- Nhà trường phải kết hợp với chính quyền địa phương trong giáo dục học
sinh cá biệt.
- Hội cha mẹ học sinh phải thực sự là cầu nối giữa hia đình với nhà trường.
- Đoàn trường cần có những hoạt động bổ ích lôi cuốn học sinh làm cho
học sinh luôn muốn đến trường; uốn nắn xử lí học sinh vi phạm nghiêm
túc, công bằng, linh hoạt và mang tính giáo dục.
- Chương trình giáo dục cần quan tâm hơn trong việc giáo dục đạo đức, lối
sống, kỹ năng sống cho học sinh.

Đức Cơ, ngày 20 tháng 03 năm 2015
Người thực hiện

Hoàng Tám Thuận
Hoàng Tám Thuận - Trường THPT Nguyễn Trường Tộ

24


SKKN

Phương pháp giáo dục hoc sinh THPT ở vùng đặc biệt khó khăn

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đỗ Thị Châu, 300 tình huống giao tiếp sư phạm, NXB GD, 2012

2. Nguyễn Côn Khanh (chủ biên), Tư vấn tâm li tuổi vị thành niên, NXB
Đại học sư phạm, 2012
3. Nguyễn Quang Lũy, Giáo trình giao tiếp sư phạm, NXB Đại học sư
phạm, 2014
4. Nguyễn Quang Uẩn (chủ biên), Giáo trình Tâm lí học đại cương, NXB
Đại học sư phạm, 2014

Hoàng Tám Thuận - Trường THPT Nguyễn Trường Tộ

25


×