Tải bản đầy đủ (.doc) (6 trang)

Kinh nghiệm loại A cấp tỉnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (64.01 KB, 6 trang )

đặt vấn đề
Là giáo viên, nhất là giáo viên dạy ngoại ngữ ai cũng muốn giờ
dạy của mình đạt hiệu quả cao nhất, tức là học sinh có nhu cầu tiếp
thu kiến thức kĩ năng, vận dụng kĩ năng để giao tiếp hứng thú làm
việc với các tài liệu học tập qua đó học sinh biết bộc lộ nhận thức và
sự hiểu biết của mình ra bên ngoài bằng lời nói, bài viết thông qua
ngoại ngữ và từ đó học sinh tự hình thành và phát triển ở mình
những kiến thức, kĩ năng cơ bản về tiếng anh và những phẩm chất trí
tuệ cần thiết để tiếp tục học lên hay đi vào cuộc sống lao động .
Nh vậy, ta phải thừa nhận chức năng, vai trò của ngoại ngữ là vô
cùng to lớn và dạy ngoại ngữ là một công việc không dễ dàng gì bởi
tính trừu tợng của bộ môn này. Chẳng vậy mà nhiều năm nay ngành
giáo dục và đào tạo liên tục có những cải tiến về phơng pháp giảng
dạy bộ môn ngoại ngữ sao cho có hiệu quả cao nhất theo đúng chức
năng của nó.
Với tôi, xuất phát từ thực tế giảng dạy của đồng nghiệp, quá trình
giảng dạy của bản thân và đặc biệt xuất phát từ thực tế từng bớc đổi
mới dạy học môn ngoại ngữ, tôi đặt cho mình mục tiêu phải làm gì
để thực hiện yêu cầu của đổi mới, làm gì để khắc phục những thiếu
xót để dạy đúng đặc trng của bộ môn này.
Với những lý do trên, tôi đã tìm tòi, áp dụng rút ra kinh nghiệm,
làm đợc một số việc trong quá trình dạy học ngoại ngoại cho học
sinh đạt kết quả cao. Đó là việc tạo tâm thế tự tin trong giờ học
ngoại ngữ mà bài viết này tôi chỉ đề cập đến một vài kinh nghiệm
nhỏ trong việc Tạo tâm thế tự tin trong quá trình giao tiếp của giờ
học ngoại ngữ.
Nội dung
Trong thực tế khi lên lớp, ngời thầy giữ vai trò chủ đạo hớng dẫn
học sinh chiếm lĩnh kiến thức. Qua dự giờ của đồng nghiệp và thực
tế của bản thân tôi thấy: Tâm thế của giáo viên có ảnh hởng đến giờ
học của học sinh rất lớn.


( I) Tâm thế của ngời thầy
Mỗi khi đến trờng, đến lớp, tôi luôn tạo cho mình một tâm thế
thanh thản, bình tĩnh, tự tin. Muốn vậy tôi đã từng phải quên đi
những lo toan nhọc nhằn trong cuộc sống. Bởi lẽ: Bớc lên bục giảng
với các em ngời thầy phải luôn có cảm giác bớc vào thế giới hoàn
toàn mới tràn đầy hng phấn thiết tha với sứ mệnh thiêng liêng cao
cả, là ngời đa đờng dẫn các em vào vơng quốc cái đẹp, để các em đ-
ợc cời, đợc nói, đợc suy nghĩ với những vấn đề hấp dẫn của mỗi
chủ đề.
Nh thế, suốt giờ học ngời thầy phải biết quên mình để sống hết
mình với giờ học, với học trò. Rõ ràng ngời thầy không chỉ là nhà
khoa học, nhà s phạm mà còn là một nghệ sĩ trên bục giảng.
Nếu ta không tâm niệm và tạo đợc thói quen nh thế thì giờ dạy
của chúng ta sẽ hạn chế rất nhiều hiệu quả của nó. Từ đó tôi rút ra
một điều là: Tâm thế ngời thầy khi đứng trên bục giảng là vô cùng
quan trọng, nó góp phần không nhỏ vào kết quả trong giờ học. Ngời
thầy giữ vai trò chủ đạo là vai trò trung tâm, thầy hớng dẫn giúp trò
chiếm lĩnh kiến thức thì ngoài tâm thế của ngời thầy, thầy còn là ng-
ời tạo đợc tâm thế cho trò nữa. Thầy- trò có tạo đợc tâm thế phù hợp
thì mới có thể lĩnh hội đợc kiến thức một cách hiệu quả nhất.
(II) một số biện pháp tạo tâm thế tự tin trong
giao tiếp.
Tôi quan nịêm tâm thế tự tin của học sinh phần lớn là do chính
giáo viên tạo ra. Muốn làm đợc điều này ta phải thực hiện một cách
nhuần nhuyện, thật nghệ thuật mọi bớc, thao tác, với kĩ năng bộ môn
nh khâu tổ chức, khâu kiểm tra bài, khâu giới thiệu, khâu yêu cầu
chúng ta đều biết theo phơng pháp đổi mới dạy môn ngoại ngữ đòi
hỏi nhận thức và giải quyết hợp lý mối quan hệ giữa kiến thức và kĩ
năng- 2 thành tố chủ yếu trong nội dung dạy học. Kĩ năng là trung
tâm, là mục đích cuối cùng trong quá trình dạy học. Kiến thức là

điều kiện, là phơng tiện, là nền tảng. Chỉ có kiến thức mà không có
kĩ năng thì không có khả năng giao tiếp ngợc lại chỉ có kĩ năng mà
không có kiến thức thì khả năng giao tiếp bị hạn chế và không phát
triển đợc. Trên cơ sở ấy tôi đi theo hớng: Tạo tâm thế tự tin cho học
sinh bằng cách hỏi cụ thể:
1-Vấn đáp tìm tòi: câu hỏi có nội dung gay cấn, kích thích trí tò
mò, ham hiểu biết của các em. Câu hỏi đợc giáo viên sử dụng với
những mục đích khác nhau, ở những khâu khác nhau của quá trình
dạy học nhng quan trọng nhất và cũng khó sử dụng nhất là ở khâu
nghiên cứu tài liệu mới. Trong vấn đáp tìm tòi, hệ thống câu hỏi của
giáo viên giữ vai trò chủ đạo, quyết định chất lợng lĩnh hội kiến thức
của lớp học. Trật tự logic của các câu hỏi hớng dẫn học sinh từng b-
ớc phát hiện ra kiến thức mới, kích thích tính tích cực tìm tòi, sự
ham muốn hiểu biết.
* Ví dụ khi dạy chủ đề: ô nhiễm nớc
- GV tạo tình huống , nêu vấn đề:
Cho học sinh xem một bức tranh: Cái chết của một dòng sông
+ Trạng thái ban đầu: Dòng sông êm đềm, ng dân đánh cá nhộn
nhịp, dân chúng hai bên bờ gánh nớc, tắm gội đông vui.
+ Sau một thời gian bị ô nhiễm: thuyền chài tha thớt, bến tắm
vắng tanh. Cảnh đập vào mắt là cá chết nổi lềnh bềnh không ai thèm
vớt.
- Xem xong tranh tôi đặt câu hỏi:
+Em hãy nhận xét sự biến đổi của dòng sông? Vì sao cá chết
hàng loạt?
+ Học sinh đa ra các nguyên nhân: Do đánh mìn để bắt cá, do
rác thải hai bên bờ đổ xuống sông, nớc trên đồng chảy xuống sông
có lẫn phân bón
+ Tôi đa ra gợi ý tiếp:(qua tranh): ở phía thợng lu có một nhà
máy lớn hàng ngày xả xuống sông một khối lợng lớn nớc thải công

nghiệp cha qua xử lý
+ Học sinh kết luận: Vậy đây là nguyên nhân chính đã làm cá
chết nhiều và nhân dân không dám dùng nớc sông nữa.
+ Giáo viên bổ xung: Cần xử lý nớc thải công nghiệp trớc khi xả
xuống sông hoặc dẫn nớc thải đến nơi an toàn, phải tôn trọng quy
định về bảo vệ môi trờng.
Nói tóm lại vấn đáp tìm tòi là phơng pháp đang cần đợc phát
triển rộng rãi. Qua đó học sinh vừa nắm đợc tri thức mới, vừa nắm đ-
ợc phơng pháp đi tới tri thức đó, lại vừa phát triển t duy tích cực sáng
tạo và có tiềm năng vận dụng tri thức vào những tình huống mới ,
chuẩn bị năng lực thích ứng với đời sống xã hội- phát triển kịp thời
và giải quyết hợp lý các vấn đề nảy sinh.
2- Tạo tâm thế tự tin cho học sinh khi trực tiếp phát ngôn câu hỏi.
Những câu hỏi tạo gợi tình huống, t duy đã có, hình thức câu hỏi
đã mới lạ xong nếu nó đợc phát ra một cách hững hờ, khô khốc nh
lời hỏi cung thì chẳng bao giờ mong đợc một câu trả lời đầy đủ và
đúng ngữ pháp. Chính vì vậy bao giờ tôi cũng nhìn thẳng vào mắt
các em với sự giao cảm thân thiết, hỏi bằng ánh mắt, bằng nét mặt,
gợi mở dần dần, lay động niềm tin để từ đó các âm bật ra đợc chính
xác hơn, tự nhiên hơn.
3-Tạo tâm thế bằng cách tăng cờng nêu vấn đề chứa đựng những
tình huống, giúp học sinh đa ra đợc ý kiến của cá nhân mình: Đây là
hình thức tổ chức giúp trí não học sinh hoạt động tích cực, vấn đề đ-
ợc nhai đi nặn lại, đợc nhìn từ nhiều phía khác nhau cũng là một đòi
hỏi của phơng pháp đổi mới.
Ví dụ khi luyện nói về chủ đề phòng chống thiên tai:
Giáo viên đặt câu hỏi:
+ What does your family usually prepare when its going to have
a typhoon?
Khi học sinh còn lúng túng. Giáo viên gợi ý tiếp:

+ Tell something your family will buy/ will do when it is going
to have a typhoon.
Học sinh trả lời:
+ buying noodles soup, milk, food
+ buying raincoat, torch
+ buying candles
+ tyding big trees
+ tyding the garden
Giáo viên gợi ý tiếp:
+ Why do we need to buy food?
+ Will we need bottled water?
+ Why do we need to fill buckets with water?
+ Why do we need to fix the leak in the roof?
+ Do we need anything else for a typhoon?
+ Why dont we buy matches for there may be a power
cut?
+ How about checking all the win dow and door latches?
There must be strong wind blowing.
Qua đó học sinh nêu đợc ý kiến của cá nhân mình tuỳ theo khả
năng diễn đạt của mỗi em, từ đó giúp học sinh có ý thức hơn trong
việc chuẩn bị phòng chống thiên tai.
Nh vậy, dạy học ngoại ngữ thực chất là hoạt động rèn luyện
năng lực giao tiếp. Muốn rèn luyện đợc năng lực giao tiếp cần có
môi trờng với những tình huống đa dạng của cuộc sống. Môi trờng
này chủ yếu do giáo viên tạo ra dới dạng những tình huống giao tiếp
và học sinh phải tìm cách ứng xử bằng ngoại ngữ cho phù hợp với
từng tình huống giao tiếp cụ thể. Học ngoại ngữ học sinh đồng thời
tiếp cận với đất nớc, nền văn hoá xa lạ. Mức độ tiếp cận thông tin
càng cao thì việc dạy học càng thuận lợi. Mục đích của việc dạy học
ngoại ngữ không nhằm hớng học sinh vào việc nghiên cứu hệ thống

ngôn ngữ, mà nhằm giúp các em sử dụng hệ thống ngôn ngữ đó nh
một công dụng giao tiếp, nghĩa là nhằm rèn luyện cho học sinh năng
lực giao tiếp. Năng lực giao tiếp này đợc biểu hiện bằng khả năng sử
dụng sáng tạo những quy tắc ngôn ngữ để thực hiện giao tiếp theo
tình huống và biết sử dụng các hệ thống đó để đạt đợc mục đích giao
tiếp.
Kết quả của quá trình thực hiện kinh nghiệm:
Nói tóm lại, vấn đề tạo tâm thể tự tin cho học sinh trong khi
giao tiếp trong giờ học ngoại ngữ là một phơng pháp hay, giáo viên
phải biết đặt học sinh vào các tình huống dạy học, tổ chức và điều
khiển học sinh tự chiếm lĩnh tri thức bằng chính hoạt động của các
em. Để đạt đợc điều đó giáo viên cần phải đợc tập huấn, đào tạo một
cách cụ thể, bài bản, có khả năng chuyển kiến thức trong sách giáo
khoa sang dạy tình huống. Các tình huống phải phong phú, phải hiệu
quả, phải phát huy đợc t duy của học sinh, sát với thực tế.
Có thể nói năng lực s phạm của ngời thầy trong vấn đề tạo tâm
thế tự tin cho học sinh trong giao tiếp chính là năng lực thiết kế và
kiến tạo tình huống dạy học. Ngoài kĩ năng s phạm chung dạy học
theo phơng pháp này ngời thầy cần phải có kĩ năng hớng dẫn học
sinh tự học, tự xác định mục đích lựa chọn phơng pháp, phân tích
tình huống, biết tóm tắt vấn đề, hệ thống hoá, khái quát hoá kiến
thức, ngời thầy biết cách khuyến khích học sinh, biết cách giải quyết
vấn đề khi học sinh bế tắc.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×