Tải bản đầy đủ (.pdf) (65 trang)

Khảo sát tình hình nhiễm giun đũa chó tại thường tín, hà nội, định loại bằng sinh học phân tử và biện pháp phòng trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.32 MB, 65 trang )

MỤC LỤC
Trang
Lời cam đoan........................................................................................................i
Lời cảm ơn ......................................................................................................... ii
Mục lục ............................................................................................................. iii
Danh mục bảng ................................................................................................... v
Danh mục hình và ảnh ........................................................................................ vi
Danh mục chữ viết tắt ........................................................................................vii
MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1
1.

Tính cấp thiết của đề tài ............................................................................ 1

2.

Mục tiêu nghiên cứu ................................................................................. 2

3.

Ý nghĩa khoa học của đề tài ...................................................................... 3

4.

Ý nghĩa thực tiễn của đề tài....................................................................... 3

CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU .............................................................. 4
1.1.

Khái quát chung về vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, kinh tế huyện
Thường Tín ............................................................................................... 4


1.2.

Khái quát chung về đặc điểm và vòng đời phát triển của giun đũa chó.......... 5

1.2.1. Lịch sử phát hiện ...................................................................................... 5
1.2.2. Đặc điểm sinh học .................................................................................... 5
1.2.3. Vòng đời phát triển của giun đũa chó ........................................................ 7
1.2.4. Dịch tễ học và phân bố ........................................................................... 11
1.2.5. Tác hại .................................................................................................... 12
1.3.

Tình hình nghiên cứu về giun đũa chó .................................................... 13

1.3.1. Những nghiên cứu trong nước ................................................................ 13
1.3.2. Những nghiên cứu ở nước ngoài ............................................................. 16
1.4.

Biện pháp phòng trị ................................................................................ 19

1.4.1. Điều trị bệnh ........................................................................................... 19
1.4.2. Phòng bệnh ............................................................................................. 22
CHƯƠNG 2. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU...................... 23
2.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................... 23
iii


2.2.

Nội dung nghiên cứu............................................................................... 23


2.3.

Phương pháp nghiên cứu ........................................................................ 23

2.3.1. Phương pháp thu mẫu phân ..................................................................... 23
2.3.4. Phương pháp mổ khám toàn diện Skjabin ............................................... 25
2.3.6. Phương pháp phỏng vấn điều tra ............................................................. 25
2.3.7. Phương pháp định loại giun đũa chó bằng sinh học phân tử .................... 25
2.3.8. Phương pháp xác định độ an toàn của thuốc ........................................... 27
2.3.9. Phương pháp xử lý số liệu....................................................................... 27
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN...................................................... 29
3.1.

Tình hình nhiễm giun đũa chó tại huyện Thường Tín, Hà Nội ................ 29

3.1.1. Thành phần các loại giun tròn ký sinh ở đường tiêu hóa chó ................... 29
3.1.2. Tỷ lệ, cường độ nhiễm giun đũa chó tại huyện Thường Tín, Hà Nội
qua phương pháp mổ khám và xét nghiệm phân ..................................... 32
3.1.3. Tỷ lệ nhiễm giun đũa ở chó qua xét nghiệm phân theo lứa tuổi ............... 34
3.1.4. Tỷ lệ nhiễm giun đũa ở chó theo tính biệt ............................................... 35
3.1.5. Tỷ lệ nhiễm giun đũa ở chó theo mùa vụ................................................. 36
3.2.

Định loại bằng sinh học phân tử .............................................................. 37

3.2.1. Định loại sơ bộ bằng hình thái để định loại bằng sinh học phân tử .......... 37
3.2.2. Kết quả thực hiện PCR thu nhận gen atp6 của Toxocara spp................... 37
3.2.3. Kết quả giải trình tự gen atp6 .................................................................. 38
3.2.4. Biện pháp điều trị ................................................................................... 46
3.2.5. Biện pháp phòng ..................................................................................... 48

KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ ............................................................................... 50
1. Kết luận ......................................................................................................... 50
2. Đề nghị .......................................................................................................... 51
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................. 52
PHỤ LỤC.......................................................................................................... 59

iv


DANH MỤC BẢNG

STT

Tên bảng

Trang

Bảng 2.1.

Thành phần PCR và chu trình nhiệt ................................................ 26

Bảng 3.1.

Thành phần loại giun tròn ở đường tiêu hóa chó............................. 30

Bảng 3.2.

Tỷ lệ nhiễm, cường độ nhiễm giun đũa chó tại huyện Thường
Tín ................................................................................................. 32


Bảng 3.3.

Tỷ lệ nhiễm giun đũa ở chó qua xét nghiệm phân theo lứa tuổi ...... 34

Bảng 3.4.

Tỷ lệ nhiễm giun đũa chó theo tính biệt.......................................... 36

Bảng 3.5.

Tỷ lệ nhiễm giun đũa chó theo mùa vụ .......................................... 36

Bảng 3.6.

Danh sách chuỗi gen atp6 của các chủng thuộc họ
Toxocaridae của Việt Nam và thế giới sử dụng trong nghiên
cứu này .......................................................................................... 39

Bảng 3.7.

Hiệu lực của một số loại thuốc tẩy giun tròn cho chó ..................... 46

Bảng 3.8.

Một số chỉ tiêu sinh lý của chó trước và sau khi dùng thuốc ........... 47

Bảng 3.9.

Tỷ lệ chó có phản ứng sau khi dùng thuốc...................................... 48


v


DANH MỤC HÌNH VÀ ẢNH
STT

Tên hình

Trang

Hình 1.1.

Vòng phát triển của T. canis ........................................................... 10

Hình 1.2.

Vòng phát triển của T.leonina ........................................................ 11

Hình 3.1.

Mổ khám mẫu ruột chó .................................................................. 29

Hình 3.2.

Các loại giun tròn ký sinh ở đường tiêu hóa chó tại huyện
Thường Tín .................................................................................... 30

Hình 3.3.

Trứng các loại giun tròn ký sinh ở đường tiêu hóa chó tại

huyện Thường Tín.......................................................................... 31

Hình 3.4.

Kết quả điện di kiểm tra sản phẩm gen atp6 của Toxocara spp
trên gel agarose 1%. Ghi chú: M: Marker Lamda cắt bằng
enzyme HindIII; ............................................................................. 38

Hình 3.5.

So sánh đối chiếu trình tự nucleotide gen atp6 các mẫu
Toxocara spp trong nghiên cứu với các chuỗi đăng ký trong
Ngân hàng gen. .............................................................................. 44

Hình 3.6.

Xây dựng cây phả hệ dựa trên trình tự nucleotide của gen atp6
bằng chương trình MEGA6.06 (phương pháp kết nối liền kề
NJ – Neighbour Joining, với hệ số kiểm định tin cậy đã thử
1000 bootstrap). Các mẫu được đánh dấu (♦) là chỉ dẫn các
mẫu được phân tích trong nghiên cứu này. ..................................... 45

vi


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Từ viết tắt

Nghĩa tiếng Việt


Cs

Cộng sự

DNA

Deoxyribonucleic axit

NXB

Nhà xuất bản

PCR

Polymerase Chain Reaction (phản ứng chuỗi Polymerase)

T. leonina

Toxocara leonina

T. canis

Toxocara canis

Tr

Trang

Spp.


Species plural

vii


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay, việc nuôi chó trong các hộ gia đình ngày càng trở nên phổ biến.
Cùng với sự phát triển của xã hội, chúng cũng được quan tâm chăm sóc nhiều
hơn bởi lúc này chúng không chỉ là vật nuôi nữa mà chiếm vị trí là một người
bạn, một thành viên trong gia đình hay còn là người đồng nghiệp khi được huấn
luyện để đảm nhiệm những công việc như dẫn đường cho người mù, cứu hộ cứu
nạn, tìm kiếm điều tra tội phạm.v.v...
Tuy nhiên, chó là loài động vật rất mẫn cảm với các tác nhân gây bệnh.
Bệnh truyền nhiễm do vi khuẩn, vi rút và bệnh do ký sinh trùng đã và đang làm
ảnh hưởng đến vẻ đẹp, sức khỏe, thậm chí gây chết đối với nhiều chó, mèo. Hơn
nữa, nước ta là một nước nằm trong khu vực khí hậu nhiệt đới gió mùa (Phạm
Ngọc Toàn và Phan Tất Đắc,1993), nóng ẩm, mưa nhiều, cùng với các thói quen
ăn uống, sinh hoạt không đảm bảo vệ sinh an toàn đã tạo điều kiện thuận lợi cho
giun sán phát triển quanh năm, người và động vật luôn tự nhiễm với số lượng
chủng loại ký sinh trùng nhiều và cường độ nhiễm cao (Trịnh Văn Thịnh, 1967).
Theo Vũ Triệu An và Jean Claude Homberg (1977), những bệnh ký sinh trùng
rất phổ biến, đã và đang gây ra nhiều tử vong hơn bất cứ dạng nhiễm trùng nào
khác, đặc biệt ở các vùng nhiệt đới và các nước đang phát triển. Và cho đến nay,
cả trong nước và trên thế giới đều có nhiều nghiên cứu đã phát hiện được rất
nhiều loài ký sinh trùng ký sinh và gây bệnh cho chó với nhiều đặc điểm như
bệnh âm ỉ, kéo dài, làm chó suy dinh dưỡng, giảm sức đề kháng và suy giảm
miễn dịch khiến cho chúng dễ mắc các bệnh kế phát, trong đó đáng kể nhất là
những ký sinh trùng ký sinh ở đường tiêu hóa như giun đũa, giun móc và sán

dây. Các nghiên cứu trong nước về ký sinh trùng và bệnh ký sinh trùng ở chó đã
được một số tác giả như Trịnh Văn Thịnh (1963), Đỗ Hài (1972,1975), Phạm Sỹ
Lăng và cs. (1993), Phạm Văn Khuê và cs. (1993), Lê Hữu Khương và cs.
(1999), Ngô Huyền Thúy (1998) và gần đây là Võ Thị Hải Lê và Nguyễn Văn
Thọ (2009, 2011) tiến hành điều tra ở một số tỉnh như Hà Nội, Hải Phòng, Huế,
Thành phố Hồ Chí Minh, Thanh Hóa, Nghệ An.
1


Đặc biệt, theo Nguyễn Văn Đề và Phạm Văn Khuê (2009) cho biết, một
số ký sinh trùng như giun đũa (Toxocara canis), giun móc (Ancylostoma
caninum) ở chó còn có khả năng truyền lây và gây bệnh cho người. Năm 2012,
theo Nguyễn Quốc Doanh và cs., tình hình nhiễm giun đũa ở chó khá cao, đây là
nguồn dự trữ và phát tán mầm bệnh ra ngoài môi trường xung quanh dẫn đến
nguy cơ nhiễm ấu trùng giun đũa chó sang người là khá cao. Và cho đến nay,
người ta cũng mới xác định được trên người nhiễm Toxocara canis (có thể từ
chó, mèo) và Toxocara cati (từ mèo) mà chưa thấy có loại giun đũa chó khác có
khả năng lây truyền sang người.
Tuy nhiên việc chẩn đoán giám định và phân loại giun đũa chó cho đến
nay chủ yếu vẫn dựa vào đặc điểm hình thái học và nuôi cấy. Mặc dù dựa vào
hình thái trong phân loại là rất thông dụng và đã có những thành tựu hết sức to
lớn, nhưng rất khó để định danh chính xác các loài. Do tiêu tốn thời gian và khó
tìm kiếm đúng môi trường nuôi thích hợp hay vật chủ cho ký sinh trùng, bệnh
phẩm đòi hỏi phải hoàn chỉnh hoặc phải ở trạng thái sống, nên các phương pháp
chẩn đoán dựa trên nuôi cấy và hình thái học có rất nhiều hạn chế (Mori and
Notomi, 2009). Các phương pháp chẩn đoán truyền thống áp dụng trong lâm
sàng và dịch tễ học như xét nghiệm tìm trứng/ấu trùng hay các sản phẩm của ký
sinh trùng đều có những sai số nhất định, ở nước ta lại chưa có nhiều nghiên cứu
về định loại giun đũa chó bằng sinh học phân tử để có thể khẳng định loại chắc
chắn mà mới chỉ chủ yếu dừng lại ở định loại bằng hình thái.

Xuất phát từ tình hình thực tế trên, chúng tôi tiến hành đề tài:
“Khảo sát tình hình nhiễm giun đũa chó tại Thường Tín, Hà Nội, định loại
bằng sinh học phân tử và biện pháp phòng trị”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Xác định tình hình nhiễm giun đũa ký sinh ở đường tiêu hoá của chó
nuôi ở Hà Nội.
- Định loại được giun đũa chó bằng phương pháp sinh học phân tử.
- Xác định hiệu lực thuốc tẩy trừ giun đũa cho chó.
- Đề xuất biện pháp phòng trị bệnh giun đũa cho chó có hiệu quả.
2


3. Ý nghĩa khoa học của đề tài
Kết quả của đề tài là những thông tin khoa học bổ sung và hoàn thiện
thêm các nghiên cứu về đặc điểm dịch tễ của bệnh giun đũa ký sinh ở đường tiêu
hoá của chó trong điều kiện chăn nuôi hiện nay ở nước ta.
4. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Kết quả nghiên cứu của đề tài là những minh chứng về tác hại của
giun đũa ký sinh ở đường tiêu hoá của chó, đồng thời là những khuyến cáo có ý
nghĩa cho những hộ gia đình nuôi chó ở Hà Nội và các địa phương khác.
Kết quả nghiên cứu có thể ứng dụng để chẩn đoán và phòng trừ bệnh
giun tròn đường tiêu hóa, góp phần khống chế bệnh trong thực tiễn.

3


CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Khái quát chung về vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, kinh tế huyện
Thường Tín
Huyện Thường Tín có diện tích 127,59 km2, phía đông giáp tỉnh Hưng

Yên với ngăn cách tự nhiên là sông Hồng, phía nam giáp huyện Phú Xuyên, phía
tây giáp huyện Thanh Oai, ngăn cách bởi sông Nhuệ, phía bắc giáp huyện Thanh
Trì. Huyện Thường Tín có 01 thị trấn huyện lị và 28 xã, dân số là 230.000 người.
Về đất đai đa: phần diện tích đất đai là đồng bằng được bồi đắp bởi hai 2 dòng
sông chính là sông Hồng và sông Nhuệ. Về giao thông, Thường Tín có hệ thống
đường giao thông thuận lợi với hai tuyến đường bộ chạy dọc huyện là quốc lộ 1A
dài 17,2 km và đường cao tốc Pháp Vân - Cầu Giẽ dài 17 km đến cầu Vạn Điểm
đoạn giao cắt với đường 429 (73 cũ).
Về cơ cấu kinh tế: Công nghiệp - xây dựng chiếm tỷ trọng lớn nhất là
53,4%; Thương mại dịch vụ: 32,5%; Nông nghiệp: 14,1%. Thường Tín là huyện
có nhiều làng nghề lâu đời với những sản phẩm nổi tiếng như: Đan lưới ở trần
phú, xã minh cường, Tiện gỗ ở Nhị Khê, Sơn mài ở Duyên Thái, Thêu ở Quất
Động, Thêu ở xã Dũng Tiến, Làm bánh dày ở Quán Gánh, Mây tre đan ở Bằng
Sở, Ninh Sở, Sản xuất vàng mã ở Văn Bình, Điêu khắc gỗ đá ở Nhân Hiền - Hiền
Giang,... Một số nghề mới phát triển mấy chục năm trở lại đây như: Xương sừng
Thuỵ Ứng - xã Hoà Bình, Bông len ở Trát Cầu - Tiền Phong, Mộc cao cấp ở Vạn
Điểm, Nghề trông cây cảnh ở Hông Vân, Vân Tảo, Tự Nhiên, Thư Phú...
Huyện Thường Tín cũng như nhiều địa phương khác thuộc đồng bằng Bắc
Bộ, chịu ảnh hưởng trực tiếp của khí hậu nhiệt đới, gió mùa. Thuận lợi cho sản
xuất nông nghiệp. Nhiệt độ trung bình năm 23,80C, nhiệt độ trung bình cao nhất
350C - 370C (tháng 6 - tháng 8), thường kèm theo mưa to. Nhiệt độ trung bình
thấp nhất có năm xuống dưới 100C (tháng 12 đến tháng 1), có khi kèm theo
sương muối. Hướng gió chủ đạo: gió Đông Nam về mùa hè, gió Đông Bắc về
mùa đông. Vận tốc gió trung bình 2m/s. Huyện ít chịu ảnh hưởng trực tiếp của
bão, chủ yếu ảnh hưởng gây mưa lớn, hàng năm thường có 5-7 cơn bão gây mưa
4


lớn. Lượng mưa trung bình hàng năm thường từ 1600- 1800 mm. Độ ẩm không
khí trung bình năm là 83%, thấp nhất trung bình là 80% ( tháng 1), cao nhất trung

bình là 88% (tháng 3). Tổng số giờ nắng trong năm khoảng 1600 - 1800 giờ/năm.
Nhìn chung, huyện Thường Tin, Hà Nội cũng mang đặc điểm chung của
vùng nhiệt đới gió mùa nên là môi trường cho các bệnh về ký sinh trùng phát
triển.
1.2. Khái quát chung về đặc điểm và vòng đời phát triển của giun đũa chó
1.2.1. Lịch sử phát hiện
Werner (1782) lần đầu tiên phát hiện giun tròn Toxocara canis (T. canis)
và Toxascaris leonina (T. leonina) ký sinh ở ruột non của chó và chó sói.
Linstow (1902) phát hiện và mô tả loài T. leonina. Năm 1941, Petrov đã nghiên
cứu thành công vòng đời và phương thức nhiễm vào ký chủ của loài T. canis (Đỗ
Dương Thái và cs., 1978). Năm 1942, Watkins đã phát hiện T. canis ở chó và cáo
đỏ. Năm 1977, Petrov đã nghiên cứu tiếp về con đường xâm nhập của T. leonina
vào cơ thể vật chủ và bổ sung hoàn chỉnh cho vòng phát triển của chúng.
1.2.2. Đặc điểm sinh học
+ Vị trí của giun đũa chó:
Vị trí của giun đũa chó trong hệ thống phân loại theo Phan Thế Việt và cs.
(1977) như sau:
Lớp giun tròn Nemấu trùng oda
Phân lớp Secernentea Linstow, 1905
Bộ Spirurida Chitwood, 1933
Phân bộ Ascaridấu trùng a Skrjabin et Henry, 1915
Họ Ascarididae Baird, 1853
Giống Toxascaris Leiper, 1907
Loài Toxascaris leonina Linstow, 1902
Tên đồng vật: Ascaris canis (Clause, 1909)
Giống Toxxocara Stiles, 1905
Loài là Toxocara canis Werner, 1782
+ Đặc điểm hình thể:
5



Những nghiên cứu của Trần Minh Châu và cs. (1988), Phạm Văn Khuê,
Phan Lục (1996), Phan Địch Lân và cs. (2005), Phạm Sỹ Lăng, Phan Địch Lân
(2001), Nguyễn Thị Lê và cs. (1996), Nguyễn Thị Lê (1996), Trịnh Văn Thịnh
(1963), Bowman (1996) đều cho biết: T. canis có kích thước lớn, màu vàng nhạt,
đầu hơi cong về phía bụng, có cánh đầu rộng. Đầu có 3 môi, trên mỗi môi đều có
các răng nhỏ, không có môi trung gian. Thực quản hình trụ, đặc biệt giữa thực
quản và ruột có đoạn phình to như dạ dày. Giun đực dài 50 - 100mm, đầu có
cánh dài, hẹp, hơi giống mũi giáo. Có hai gai giao cấu bằng nhau, dài 0,75 0,95mm. Cánh đuôi hẹp hoặc không có, có nhiều nhú trước và sau hậu môn.
Cuối đuôi giun đực hình thành dạng mũi khoan. Giun cái dài 90 - 180mm, đuôi
thẳng, lỗ sinh dục ở nửa trước cơ thể, âm môn ở vào khoảng giữa 1/4 phía thân
trước, có 2 tử cung.
Phạm Sỹ Lăng và cs. (2009), Phạm Sỹ Lăng, Phan Địch Lân (2001) cũng
cho biết: T. leonina là giun tròn, nhỏ, dài, có màu vàng nhạt, đầu có 3 lá môi,
thực quản đơn giản, hình trụ, không có đoạn phình to như ở T. canis. Giun đực
dài 4 - 8cm, đuôi thon đều, không có phần phụ hình chóp. đầu có cánh hẹp như
mũi giáo. Giun cái dài 65 - 100mm, lỗ sinh dục ở nửa trước cơ thể. Mỏm đầu của
T. leonina cũng giống như mỏm đầu của T. canis, có 3 lá môi. Mỏm cuối đuôi
của giun đực thon nhỏ, không có cánh đuôi. Gai giao hợp dài gần bằng nhau, dài
0,9 - 1,5mm, không có màng cánh và bánh lái giao hợp. Âm môn của giun cái ở
vào khoảng 1/3 phía trước thân. Trứng có vỏ dày, tròn nhẵn.
+ Trứng và ấu trùng
Trứng giun đũa T. canis gần tròn, đường kính 0,068 - 0,075mm, vỏ ngoài
dày, gồm 4 lớp khác nhau, có nhiều chỗ lồi lõm như tổ ong giúp trứng chống lại
tác động của nhiệt độ cao, hóa chất và ánh sáng trực tiếp. Chính vì vậy, trứng
giun đũa có sức đề kháng cao với các điều kiện bất lợi của môi trường. Trứng của
T. leonina có vỏ ngoài nhẵn, phôi xếp không kín vỏ, đường kính 0,075 0,085mm, dễ phân biệt được trứng của T. canis và T. leonina. để có khả năng gây
nhiễm thì trứng giun đũa phải trải qua giai đoạn phát triển thành ấu trùng cảm
6



nhiễm ở ngoài môi trường. Theo Sally Gardiner (2007) thì ấu trùng của T. canis
ở giai đoạn hai dài 0,335 - 0,444mm, ký sinh trong các mô cơ thể của chó. Ấu
trùng lột xác lần thứ hai ở phổi, tim hoặc ở dạ dày. Ấu trùng giai đoạn 3 dài
0,66 - 1,19mm, lột xác ở phổi và dạ dày thành ấu trùng giai đoạn 4, có chiều dài
1,2 - 7,4mm.
1.2.3. Vòng đời phát triển của giun đũa chó
+ Ký chủ, nơi ký sinh
Ở nước ta, các tài liệu điều tra của một số tác giả như Phạm Sỹ Lăng và
cs. (1989), Phạm Văn Khuê, Phan Lục (1996), Houdemer (1938), Trịnh Văn
Thịnh (1966), Phan Thế Việt và cs. (1977), Bowman (1999) đều xác định: T.
canis, T. leonina ký sinh ở dạ dày hoặc ruột non của chó nhà, hổ, báo, sư tử, mèo
rừng, chó fox, cáo, chó Nhật, chó Berger.
+ Vòng phát triển
Khi chó mẹ nuốt phải trứng có phôi của giun đũa chó, trứng nở trong dạ
dày và ruột non, trứng giải phóng ấu trùng giai đoạn 2 xâm nhập vào thành ruột
rồi theo đường máu di chuyển khắp nơi trong cơ thể. Khoảng một tuần sau, tất cả
ấu trùng giai đoạn 2 đã có mặt trong nhu mô gan, phổi, thận, não. Vì vậy, không
có giun trưởng thành ở ruột chó cái (tuy nhiên một số tác giả đã chứng minh rằng
chó cái có giun trưởng thành ở ruột, song cơ địa của chó con mới thực sự thích
hợp cho sự sống, tăng trưởng và trưởng thành của giun đũa chó). Ấu trùng có thể
tồn tại trong các mô của chó mẹ trên hàng tháng hay hàng năm mà không phát
triển thêm nữa. Nếu chó cái có thai, ấu trùng di chuyển qua bánh rau, tới mô gan
và phổi của thai. Sự xâm nhập vào thai không xảy ra trước ngày thứ 42 của thai
kỳ và cũng không thể xảy ra khi chó mẹ mới bị nhiễm khoảng nửa tháng. Ấu
trùng xâm nhập vào thai thường do chó mẹ bị nhiễm từ các năm trước. Lúc sinh
ra, ấu trùng giai đoạn 3 được tìm thấy chủ yếu trong mô phổi của chó con. Từ đó,
ấu trùngdi chuyển đến khí quản, lọt vào thực quản đến dạ dày, phát triển thành ấu
trùng giai đoạn 4 vào khoảng 3 ngày tuổi. Khoảng từ ngày tuổi thứ 11 đến ngày
thứ 21, số giun trưởng thành tăng trong ruột non và sau 3 tuần, trứng bắt đầu xuất


7


hiện trong phân chó con. Lúc này, chó mẹ có thể nuốt phân chó con, nếu trứng
chưa có phôi thì chính chó mẹ lại thải cơ học một lượng lớn trứng trong phân.
Khi tiếp xúc với không khí, với môi trường ngoài, trứng phát triển đến ấu trùng
giai đoạn 1, kế đó là ấu trùng giai đoạn 2 nằm trong vỏ trứng. Thời gian này mất
khoảng 12 ngày hoặc hơn tùy điều kiện môi sinh. Song ở giai đoạn phát triển đủ
độ, thời gian trứng có khả năng gây nhiễm kéo dài hàng năm. Chó con có thể
nuốt trứng có phôi suốt 3 tuần sau sinh, sẽ cho ra giun trưởng thành sau này trong
ruột. Tuy nhiên, chỉ có một số ít ấu trùng phát triển thành giun trưởng thành
trong ruột, còn số còn lại vẫn ở dạng ấu trùng lưu hành trong máu. Ấu trùng giai
đoạn 2 có thể tìm thấy trong mô của chó con và chó ở mọi lứa tuổi, cũng có trong
mô của chuột và những loài khác được coi là ký chủ tương đồng. Mối quan hệ
giữa trứng giun và chó đực được báo cáo trong các nghiên cứu. Sự nuốt trứng có
phôi của chó cái trưởng thành nếu không gây nên sự trưởng thành của giun ở
ruột, sẽ tồn tại mãi dưới dạng ấu trùng, chờ đợi gây nhiễm cho phôi thai kể cả lúc
chó mẹ có thai nhiều lần kế tiếp.
Tuy nhiên, chu kỳ sinh học của ấu trùng phụ thuộc vào lứa tuổi của chó.
Trên những con chó con (< 3 tháng tuổi) trứng sẽ nở ra ấu trùng trong tá tràng và
xuống ruột non. Tại ruột non, ấu trùngchui qua thành ruột xâm nhập vào hệ bạch
huyết và hệ mao-tĩnh mạch rồi theo đường máu đến gan, tim, phổi. Ở đây, ấu
trùng sẽ phát triển và thoát vỏ. Tiếp đó, ấu trùng sẽ xuyên qua khí quản vào thực
quản và đến ruột non. Những trứng đầu tiên xuất hiện trong phân là vào thời
điểm 4-5 tuần sau khi nhiễm. Trên những con chó lớn tuổi hơn, ấu trùnghiếm khi
xuyên qua phổi đến khí quan. Hầu hết chúng vào trong máu rồi phân tán trong cơ
thể chó, đặc biệt chúng vẫn giữ nguyên dạng ấu trùng không phát triển thành
giun trưởng thành, cho đến khi chúng đến mô.
Ở chó, chu trình phát triển của giun đũa chó tương tự như giun đũa ở

người, trứng được thải ra trong phân của chó, các trứng này phát triển thành
trứng có phôi và tồn tại rất lâu ở môi trường bên ngoài và có thể lây nhiễm cho
ký chủ khác trong nhiều tháng, người bị nhiễm do nuốt một cách ngẫu nhiên
8


trứng có phôi của giun đũa chó trong đất, nước hay thức ăn bẩn do sự thải trứng
giun đũa có phôi từ các chó, nhất là chó con. Ấu trùng được phóng thích trong
ruột non, đi theo đường máu di chuyển đến các nội tạng khác nhau, nơi đây
chúng có thể sống sót nhiều năm, tự do hay hóa kén, nhưng không bao giờ phát
triển thành con trưởng thành, chúng kích thích tạo ra phản ứng hóa hạt ở mô ký
chủ nhất là những trường hợp nhiễm tái đi tái lại.
Các loài giun đũa thuộc bộ phụ Ascarid ấu trùng có vòng phát triển trực
tiếp, không qua vật chủ trung gian, tuy nhiên có sự khác nhau ở các loài giun
đũa, đặc biệt là ở cách chúng xâm nhập vào cơ thể vật chủ cuối cùng. Theo Phạm
Sỹ Lăng và cs. (2009) thì T. canis trưởng thành ký sinh ở dạ dày hoặc ruột non,
đẻ trứng, trứng theo phân ra ngoài, gặp điều kiện nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng thích
hợp sẽ phát triển thành ấu trùng cảm nhiễm. Trường hợp lây nhiễm qua đường
tiêu hoá, ấu trùng được giải phóng khỏi trứng, bắt đầu quá trình di hành trong cơ
thể ký chủ. Ấu trùng xuyên qua niêm mạc ruột, vào máu, theo hệ thống tuần hoàn
đến gan, về tim, lên phổi vào khí quản, lên miệng rồi trở lại ruột non, phát triển
tới dạng giun trưởng thành. Ở những con chó con thì ấu trùng di chuyển qua phổi
và phế quản và thực quản. Con trưởng thành sẽ phát triển và thải trứng ở ruột
non. Ở những con chó già thì ấu trùng ký sinh chủ yếu ở các mô hơn. Một số ấu
trùng sau khi vào phổi tiếp tục theo hệ thống tuần hoàn về các tổ chức cư trú làm
thành kén và có khả năng lây nhiễm tiếp cho động vật cảm nhiễm khác, nếu
chúng ăn phải các kén này. Các ký chủ không chuyên biệt như chuột đồng, chuột
nhà nuốt phải trứng T. canis chứa ấu trùng cảm nhiễm thì ấu trùng nở ra, chui
qua thành ruột và theo máu đến các cơ quan vào mô và đóng kén tại đó. Ấu trùng
đã đóng kén không phát triển nhưng cấu tạo giải phẫu thay đổi. Chó ăn phải các

ký chủ chứa kén này thì ấu trùng sẽ giải phóng khỏi kén, tới ruột và phát triển tới
dạng trưởng thành. Một số ấu trùng xâm nhập qua hệ tuần hoàn của chó mẹ vào
bào thai. Do đó chó con sau khi sinh đã mang sẵn mầm bệnh, đến 21 ngày tuổi,
giun đã có thể gây bệnh nặng cho chó. Phạm Sỹ Lăng và cs. (2009) cho biết, thời

9


gian hoàn thành vòng đời của T. canis hết 26 - 28 ngày. Quá trình phát triển của
T. canis được trình bày qua sơ đồ ở hình 1.1.

KÝ CHỦ CUỐI CÙNG
Giun trưởng thành

Trứng

Kén trong tổ chức

Trứng gây nhiễm

Bào thai

Hình 1.1. Vòng phát triển của T. canis
Hiện nay, bệnh giun đũa chó được xếp vào loại bệnh truyền lây từ động
vật sang người (Theo Okulewicz và cs.,2012). Tuy nhiên, cũng theo Okulewicz
và cs.(2012) cho biết mới chỉ khẳng định được giun đũa chó do Toxocara canis
là có khả năng lây truyền sang người, còn các loài khác thì chưa có nghiên cứu
nào khẳng định. Con người là những vật chủ tình cờ bị nhiễm do ăn phải thức ăn
trồng nơi đất bị ô nhiễm có chứa trứng (hoặc ấu trùng) giun đũa chó hoặc ăn phải
chính các vật chủ của giun đũa chó. Sau khi ăn xong, ấu trùng di hành qua thành

ruột và đến các mô (tim, phổi, gan, não, cơ bắp và mắt). Tại đây thì chúng không
phát triển hơn nữa mà gây ra những tổn thương nghiêm trọng ở vùng đó, biều
hiện lớn nhất là di hành nội tạng và di hành đến mắt.
Phan Địch Lân và cs. (2005), Nguyễn Thị Kim Lan và cs. (2008), Phạm
Sỹ Lăng và cs. (2009), Bowman (1996) xác nhận giun trưởng thành T. leonina ký
sinh ở ruột non hoặc dạ dày của ký chủ cuối cùng. Giun cái đẻ trứng, trứng theo
phân ra ngoài, gặp điều kiện thuận lợi, sau 3 ngày phát triển thành trứng có ấu

10


trùng gây nhiễm. Trứng lẫn trong thức ăn, nước uống rồi đi vào đường tiêu hóa,
ấu trùng được giải phóng, chui qua niêm mạc ruột và dừng lại ở đó, sau một thời
gian biến thái rồi trở về xoang ruột phát triển thành dạng trưởng thành. Như vậy
quá trình phát triển và hoàn thành vòng đời của T. leonina đơn giản hơn so với
vòng phát triển của T. canis. đặc biệt ấu trùng di hành của T. canis không qua
tuần hoàn máu về bào thai, nên mầm bệnh không truyền từ chó mẹ sang chó con.
Thời gian hoàn thành vòng đời khoảng 21 - 28 ngày.
Quá trình phát triển của T.leonina được trình bày qua sơ đồ ở hình 1.2.
KÝ CHỦ CUỐI CÙNG
Giun trưởng thành

Trứng

Trứng gây nhiễm

Hình 1.2. Vòng phát triển của T.leonina
1.2.4. Dịch tễ học và phân bố
Theo Nguyễn Phước Tương (2000), Soulsby (1974), Sieczko và Patrzalek
(1992), Fok et al. (1988), Agudelo et al. (1990), Beaver et al. (1952), Giraldo et

al. (2005), Dubná S et al. (2007); Aguilar et al. (2005), De Castro et al. (2005),
Woodruff A.W (1970) thì T. canis, T. leonina được phát hiện ký sinh ở chó thuộc
nhiều nước trên thế giới, phổ biến ở các nước thuộc vùng nhiệt đới nóng ẩm hoặc
ôn đới như: Anh, đức, Colombia, Hungari, Mỹ, Tây Ban Nha, Mexico, Brazil,
Thổ Nhĩ Kỳ, Australia, Negeria... Ở Việt Nam, các nghiên cứu của Trần Minh
Châu và cs. (1988), Đào Huyền Giang (1995) , Đỗ Hài (1972, 1975) ; Phan Địch
Lân và cs. (2005) , Lê Hữu Nghị và cs. (2000), Đỗ Dương Thái và cs. (1978) ,
Trịnh Văn Thịnh (1963) cũng cho biết, T. canis và T. leonina phân bố rất rộng ở
hầu hết các vùng sinh thái khác nhau trong cả nước, đặc biệt là các tỉnh vùng

11


đồng bằng sông Hồng và một số tỉnh miền núi phía Bắc. Trong đó T. canis là một
loài giun tròn phổ biến ở động vật ăn thịt và phân bố

nhiều nơi trên thế giới.

Bệnh do giun đũa có ở chó, chó săn, chó nghiệp vụ ở mọi lứa tuổi, nhưng chó
con dưới 6 tháng tuổi có tỷ lệ nhiễm cao hơn chó trưởng thành.
1.2.5. Tác hại
Trần Minh Châu và cs. (1988), Phạm Sỹ Lăng (1989), Đỗ Dương Thái và
cs. (1978) thì bệnh giun đũa chủ yếu ở súc vật non. Giun lấy thức ăn của ký chủ
và giải phóng những sản phẩm trao đổi chất và độc tố, gây bần huyết, gầy mòn,
sản phẩm độc tác động vào hệ thần kinh trung ương của ký chủ gây bại liệt, co
giật. Giun tác động cơ giới cùng những chất độc kích thích gây viêm cấu trùng a
ruột. Ấu trùng giun đũa chó di hành khắp cơ thể, sau 1 lần biến thái thứ 3 chúng
đi vào dạ dày, từ đó vào xoang ruột. Trong khi di hành chúng vào tử cung, vào hệ
tuần hoàn của bào thai khiến cho sự nhiễm giun trong tử cung là phổ biến đối với
T. canis.

Theo Phạm Sỹ Lăng, Phan Địch Lân, (2001), Phạm Sỹ Lăng và cs. (2009)
thì bệnh giun đũa chủ yếu phát ra và gây tác hại cho chó con từ 20 ngày đến 3
tháng tuổi. Chó con nhiễm bệnh sớm thì 15 đến 21 ngày tuổi qua xét nghiệm
phân đã thấy có trứng giun đũa T. canis. Những nghiên cứu của Phạm Sỹ Lăng
(1989), Phạm Sỹ Lăng và cs. (1989, 2009) , Trịnh Văn Thịnh (1967) cho thấy,
chó nhiễm giun đũa thường gầy còm, suy dinh dưỡng do giun chiếm đoạt chất
dinh dưỡng, đồng thời trong quá trình ký sinh chúng còn gây tác động cơ học:
chướng bụng, tắc ruột, nôn mửa, ỉa lỏng, phân tanh. Đặc biệt chó 1 - 4 tháng tuổi
thường rên rỉ, lăn lộn và thải giun một cách tự nhiên khi chưa dùng thuốc. Theo
Đào Huyền Giang (1995), Đỗ Dương Thái và cs. (1978), Trịnh Văn Thịnh (1971)
khi mắc bệnh giun đũa, chó thường gầy còm, lông xù, bụng to, ăn uống bất
thường, đi tả hoặc đi táo, có khi có triệu chứng như động kinh, nôn mửa. Khi bội
nhiễm giun đũa, chó có triệu chứng thần kinh như run rẩy, thỉnh thoảng lên cơn
co giật, giẫy dụa, chảy nước dãi. Chó 3 tháng tuổi nhiễm giun đũa có biểu hiện
viêm phúc mạc, xoang bụng tích nước. Thời kỳ ấu trùng giun đũa di hành qua
phổi gây viêm phổi, tắc ống dẫn mật. điều quan trọng là trứng giun đũa cảm
12


nhiễm T. canis có thể gây nhiễm cho người. Trịnh Văn Thịnh (1967), Phạm Văn
Khuê, Phan Lục (1996) xác nhận: chó nhiễm T. canis do ăn phải trứng chứa ấu
trùng gây nhiễm, ăn phải thịt ký chủ dự trữ có chứa ấu trùng , hoặc bị nhiễm qua
bào thai. Chó trưởng thành nhiễm ít hơn chó non, T. canis gây bệnh nặng cho chó
con dưới 2 tháng tuổi.
Giun đũa T. canis còn là nguyên nhân gây bệnh ở người. Khi nghiên cứu
về bệnh do T. canis truyền lây sang người, tác giả Trần Thị Hồng, Trần Vinh
Hiển (1997) , Bouchard et al. (1994), Roig et al. (1992) cho biết, ấu trùng được
phóng thích trong ruột non, đi theo đường máu di chuyển đến các nội tạng khác
nhau, ở đó chúng có thể sống sót nhiều năm, tự do hay hóa kén, nhưng không
bao giờ phát triển thành trưởng thành. Dạng ấu trùng này kích thích tạo ra phản

ứng hóa hạt ở mô ký chủ, nhất là những trường hợp bội nhiễm. Các triệu chứng
lâm sàng dù rất điển hình cũng dễ nhầm lẫn với bệnh khác. Người nhiễm bệnh do
nuốt một cách ngẫu nhiên trứng gây nhiễm của T. canis trong đất, nước hay thức
ăn bẩn có chứa ấu trùng cảm nhiễm, khi chẩn đoán ELISA với kháng nguyên có
thể phát hiện được T. canis. Trần Xuân Mai (1992) thông báo, đã gặp 2 trường
hợp bệnh do Toxocara ở nội tạng và một trường hợp bệnh ở mắt người. Ở Ba
Lan, Sieczko và Patrzalek (1992) ghi nhận một trường hợp bé trai 10 tuổi mắc
bệnh do giun đũa rất nặng và ấu trùng xâm lấn nhiều cơ quan. Villano et al.
(1992) phát hiện một trường hợp T. canis ở màng nhện thuộc vùng cổ của người
thuộc Italia. Ở Mỹ, Bouchard et al. (1994); Roig (1992) phát hiện thấy một người
bị viêm phổi, trong dịch nước phế nang có 64% bạch cầu toan tính, huyết thanh
chẩn đoán ELISA với kháng nguyên T. canis dương tính. Nghiên cứu của
Kutdang et al. (2010) cũng chỉ ra rằng, T. canis là loài phổ biến ở chó, trứng
thường xuyên được thải ra ngoài theo phân và có thể tồn tại nhiều năm trong đất
và là nguồn lây nhiễm tiềm tàng.
1.3. Tình hình nghiên cứu về giun đũa chó
1.3.1. Những nghiên cứu trong nước
Bệnh giun sán là bệnh nội ký sinh trùng phổ biến và gây nhiều tác hại ở
nhiều loài động vật và cả ở người. Đây là một trong những vấn đề quan ngại của
13


các nhà chức trách vì có nhiều loại giun sán có khả năng truyền lây trực tiếp sang
cho con người thông qua các sự tiếp xúc gần gũi của con người và các loại thú
cảnh, đặc biệt là chó. Một số loài giun sán có khả năng truyền lây trực tiếp sang
cho con người như: Ancylostoma caninum, Ancylostoma ceylanicum,
Ancylostoma braziliense, Toxocara canis,…Vì vậy, trên thế giới nói chung và
nước ta nói riêng đã có nhiều công trình nghiên cứu về bệnh do ký sinh trùng gây
nên ở vật nuôi, trong đó có các công trình nghiên cứu về bệnh giun sán chó. Ở
nước ta, vào những năm đầu thế kỷ 20, nghiên cứu về ký sinh trùng ở chó còn rất

ít, chủ yếu là nghiên cứu của một số tác giả người Pháp như Houdemer, Noc,
Bauche...
Kết quả nghiên cứu bước đầu xác nhận; chó ở Việt Nam nhiễm 26 loài
giun sán, trong đó chó nhiễm Ancylostoma caninum với tỷ lệ cao nhất
(75,87%) (dẫn theo Đỗ Dương Thái, Trịnh Văn Thịnh 1978). Houdemer
(1938) đã phát hiện ra loài Ancylostoma braziliense ký sinh ở ruột non chó,
Ancylostoma caninum ký sinh trên chó ở Sài Gòn, Huế và Bắc Bộ. Tại thành phố
Hồ Chí Minh, theo một nghiên cứu của Lê Hữu KhuFoFng và cs. (1998) thì chó
nhiễm 3 loài giun tròn là A. caninum, A. braziliense và U. stenocephala. Trong
đó nhiễm A. caninum với tỷ lẹF cao nhất 79, 84%. Tại Huế tỷ lệ nhiễm giun móc
khi kiểm tra 130 chó là khá cao với 40,67% (Lê Hữu Nghị và cs., 2000). Tại Việt
Nam một số trường hợp nhiễm ấu trùng Ancylostoma caninum đã được ghi nhận,
có hội chứng ấu trùng di chuyển ngoài da ở nhiều vị trí trên cơ thể như bàn tay,
bàn chân, lưng, bụng, mặt ( Lê Thị Cẩm Ly và Trần Phù Mạnh Siêu, 2012).
Công tác điều tra cơ bản về giun sán ở chó đã được các tác giả nghiên
cứu hệ thống và liên tục với những phương pháp và kỹ thuật kinh điển sử
dụng cho ký sinh trùng học. Đó là các tác giả: Trịnh Văn Thịnh (1963), Đặng
Văn Ngữ (1963-1974), Bùi Lập (1965), Phạm Sĩ Lăng (1985), Phan Địch Lân,
Đoàn Văn Phúc, (1989), Phạm Văn Khuê (1993), Ngô Huyền Thuý (1996).
Đỗ Hài 1970 - 1972 đã kiểm tra 174 mẫu phân chó săn. Tác giả cho
biết: chó dưới 1 tháng tuổi đã thấy nhiễm trứng giun đũa, cho đến khi hơn 1
tháng tuổi hầu như tất cả chó đều nhiễm giun đũa và sau khi cai sữa toàn bộ
14


chó đều nhiễm giun đũa và giun móc. Từ 3-5 tháng tuổi trở lên, tỷ lệ nhiễm
giun đũa có giảm, nhưng chó lớn tỷ lệ nhiễm giun móc là 100% và tồn tại cho
đến khi chó già và chết. Tác giả cho biết, chó mẹ nuôi con nhiễm giun tóc
93.7%, giun đũa 73,7%, giun móc 100%. Trịnh Văn Thịnh (1978) cho biết: chó
nhiễm 11 loài giun tròn gồm: Toxocara canis, Toxascaris leonina, Ancylostoma

caninum, Strongyloides sp, Trichocephalus sp, Uncinaria stenocephala,
Ancylostoma braziliense, Dirofilaria immitis, Dirofilaria repens, Dipetallonema
dracunculoides, Spirocerca lupi.
Phan Thế Việt, Nguyễn Thị Kỳ, Nguyễn Thị Lê (1977) cho biết: chó
nhiễm 16 loài giun tròn. Phạm Sĩ Lăng (1985) xét nghiệm 1718 mẫu phân chó và
cho biết, tỷ lệ nhiễm giun móc Ancylostoma caninum là 74,8%. Phạm Sĩ Lăng
(1993) mổ khám 23 chó chết và xét nghiệm phân của 574 chó cảnh ở vườn thú
Thủ Lệ, đã phát hiện 5 loài giun tròn ký sinh ở chó với tỷ lệ nhiễm: Ancylostoma
caninum

72%,

Toxocara

canis

20,4%,

Toxascaris

leonina

29,4

%,

Trichocephalus vulpis 17,1%, Strongyloides canis 14,2%.
Phạm Văn Khuê và cs. (1993) xét nghiệm 187 mẫu phân chó và mổ khám
một số chó nuôi tại 4 quận nội thành Hà Nội và huyện Gia lâm đã tìm thấy 5 loài
giun tròn ký sinh ở đường tiêu hoá của chó với tỷ lệ nhiễm là: Ancylostoma

caninum 59,7 % ,Toxocara canis 20,2 %, Toxascaris leonina 29,4 %
Trichocephalus vulpis 17,1% Spirocerca lupi 14,2% .
Ngô Huyền Thuý và cs. (1994) xét nghiệm phân chó ở Hải Phòng và
Hà Nội thấy nhiễm 5 loài giun tròn, tỷ lệ lần lượt là: Toxocara canis 27,8% và
27% Toxascaris leonina; 17,8% và 21,9% Ancylostoma caninum; 67,7% và
62,3% Uncinaria stenocephala; 66,1% và 64,9% Trichocephalus vupis; 3,4% và
12,4%. Đào Huyền Giang (1995) xét nghiệm phân chó Nhật, chó Fok, chó lai và
chó nội, cho biết cả 4 giống chó đều nhiễm 2 loài giun Toxocara canis từ 15,39%
- 20% và Toxascaris leonina từ 30,7% - 37,5 % (dẫn theo Ngô Huyền Thuý,
1996). Ngô Huyền Thuý (1996) xét nghiệm mẫu phân chó nuôi tại Hà Nội thấy
nhiễm 12 loài thuộc 12 giống giun sán, mổ khám 516 chó thấy tỷ lệ
nhiễm giun tròn, sán dây, sán lá, lần lượt là 98,5%, 36,8% và 10,4%, trong đó
15


tỷ lệ nhiễm giun móc Ancylostoma caninum là cao nhất 70,5% - 81,65%, tỷ lệ
nhiễm giun thực quản Spirocerca lupi là 6,9%.
Lê Hữu Khương, Lương Văn Huấn (1998) mổ khám ruột non của 253
chó và xét nghiệm 753 mẫu phân chó nuôi tại thành phố Hồ Chí Minh. Tác
giả cho biết, tỷ lệ nhiễm giun móc lần lượt là 90,51% và 61,62%, Tác giả phát
hiện được 3 loài giun móc là: Ancylostoma caninum, Uncinaria stenocephala,
Ancylostoma brazillense.
Lê Hữu Nghị và cs. (2000) kiểm tra 130 chó ở thành phố Huế, cho
biết tỷ lệ nhiễm Toxocara canis là 58,46%.
Võ Thị Hải Lê và Nguyễn Văn Thọ (2011) mổ khám 177 chó nuôi tại một
số địa điểm thuộc tỉnh Thanh Hóa, tác giả đã phát hiện thấy 6 loài giun tròn ký
sinh ở đường tiêu hóa của chó là Ancylostoma caninum, Ancylostoma braziliense,
Uncinaria stenocephala, Toxocara canis, Toxascaris leonina, Trichuris vulpis.
Tỷ lệ nhiễm A.caninum ở cả 3 vùng: núi, đồng bằng khá cao, dao động từ 43,85 –
53,33%. T.canis có tỷ lệ nhiễm 10-25%. T.leonina 3,33 – 20,0%, T.vulpis 5%.

Từ thống kê trên cho thấy, chó ở nước ta nhiễm nhiều loài giun tròn, trong
đó số lượng loài ký sinh ở đường tiêu hoá là phổ biến. Những loài giun tròn
gây tác hại nhiều cho chó và khả năng lây sang người là Toxocara canis,
Toxascaris leonina, Trichocephalus vulpis và đặc biệt là loài giun móc
Ancylostoma caninum.
1.3.2. Những nghiên cứu ở nước ngoài
Werner (1782) lần đầu tiên phát hiện ra giun Toxocara canis kí sinh ở ruột
non chó và chó sói. Petrov A.M (1941) và Sprent (1959) nghiên cứu và phát hiện
ra vòng đời, phương thức nhiễm vào vật chủ của loài Toxocara canis.
Skrjabin K.I và Petrov A.M (1963) cho biết: chó nhiễm Toxocara
canis do nuốt phải trứng chứa ấu trùng gây nhiễm và bệnh nặng ở chó con
dưới 2 tháng tuổi. Đặc biệt Toxocara canis có khả năng nhiễm qua bào thai.
Vì vậy chó con mới sinh ra kiểm tra phân đã thấy trứng giun đũa.
Linstow (1902) đã mô tả loài giun đũa Toxascaris leonina mà tác giả

16


phát hiện ra. Tiếp đó Petrov A.M (1941) đã nghiên cứu và bổ sung về vòng
đời phát triển của Toxascaris leonina.
Wấu trùng kins và Havey (1942) đã tìm thấy ở ruột non chó, cáo vùng tây
nam nước Anh và vùng Shorophier loài Toxocara canis (dẫn theo Ngô Huyền
Thuý, 1996).
Nghiên cứu về thành phần các loài giun, sán ký sinh ở chó nuôi tại miền
Tây Pomerania, tác giả Agniezka Tylkowska et al., (2010) cho biết, có 5 loài
giun tròn đường tiêu hóa được phát hiện, đó là U. stenocephala, T.canis, T.
leonina, T. vupis và Acylostoma spp, trong đó T. canis thường gặp nhất và
T.vulpis ít gặp nhất.Frohlich (1798) phát hiện trong manh tràng của chó có loài
giun Trichocephalus vulpis, sau đó được Skrjabin và Orlov (1957) nghiên cứu
sâu hơn về đặc điểm và vòng đời phát triển của loài giun này. Năm 1884, Railliet

phân loại và tìm thấy loài giun Uncinaria stenocephala gây ra bệnh
Ancylostomấu trùng osis và được Petrov A.M chỉ ra vòng đời và đường xâm
nhập của ấu trùng vào cơ thể vật chủ.
P. Aguilar, A. Reyes, J. J. Maya, 2005 đã mổ khám ruột non của 120 chó ở
Thành phố Mexicocyti thuộc Mexico, các tác giả đã thấy A. caninum chiếm tỷ lệ
62,5%. Tỷ lệ nhiễm A. caninum tăng dần theo tuổi của chó.
Tỷ lệ nhiễm Ancylostoma ceylanicum ở chó, mèo tại khu vực Tây Bắc Ấn
Độ theo số liệu điều tra là 62% (Traub et al., 2007), 53–92% tại Thái Lan
(Setasuban et al., 1976; Traub et al., 2008), 38–88% tại Malaysia (Yoshida et al.,
1973; Amin-Babjee, 1978; Ngui et al., 2012), 69% tại Lào (Scholz et al., 2003),
24–37% tại Indonesia (Margono et al., 1979) và 24% in Sri Lanka (Dis- sanaike,
1961).
Houdemer (1938) đã thấy ở Việt Nam loài giun móc Ancylostoma
braziliense ở ruột non chó, loài Ancylostoma caninum của chó ở Sài gòn, ở
Huế và ở Bắc bộ (dẫn theo Đỗ Dương Thái, Trịnh Văn Thịnh, 1978).
Kolevấu trùng ova A.l (1957) đã chứng minh bằng thực nghiệm quá trình xâm
nhập của ấu trùng , những tác động bệnh lý của hai loài Ancylostoma caninum,
Uncinaria stenocephala (dẫn theo Skrjabin K.I, 1963).

17


Rud (1809) phát hiện ra giun Spirocerca lupi, sau đó Skrjabin K.L,
R.Schulz (1937) nghiên cứu phương thức lây nhiễm và vòng đời hoàn chỉnh.
Theo Soulsby E.JL (1965), bệnh này đã tìm thấy nhiều ở vùng nam Châu
Âu, nhưng không được coi là bệnh ký sinh trùng chính và loài tương tự được
tìm thấy nhiều ở Liên xô cũ.
Ngoài những loài giun tròn ký sinh chủ yếu ở chó, các tác giả đã tìm
thấy rất nhiều loài giun tròn khác ở trong bộ máy tiêu hoá, tuần hoàn của các
loại chó như: Owen (1835) phát hiện ra giun bao Trichinella ở chó. Leiz năm

(1856) tìm thấy giun chỉ Dirofilaria immitis ký sinh ở tim chó (theo Đỗ Dương
Thái, Trịnh Văn Thịnh, 1978).
Những năm gần đây, nhiều tác giả ở các nước Châu Âu, Châu Mỹ và
trên thế giới đã công bố những kết quả về tỷ lệ nhiễm giun tròn ở chó.
Coebenberg (1977) kiểm tra 387 chó ở Mỹ cho biết tỷ lệ nhiễm
Toxocara canis là 18,9%, Toxascaris leonina 18,9%. Miloyet (1978) kiểm tra
474 chó, tỷ lệ nhiễm Toxocara canis 26,6%, Toxascaris leonina 2,3%.
Mile và Hansbory (1982) kiểm tra 1720 chó tại Leipzia (Đức) cho biết tỷ lệ
nhiễm Toxocara canis 5,4%, Toxascaris leonina 38%.
Uknown (1987) kiểm tra 2086 chó cho biết tỷ lệ nhiễm Toxocara canis
8,05%, Toxascaris leonina 0,48% (dẫn theo Ngô Huyền Thuý 1996). Eva Fok,
Takas Schilla (1988) kiểm tra 1674 mẫu phân chó và 200 mẫu lấy của chó ở
công viên Budapet cho biết: tỷ lệ nhiễm Toxocara canis 30%, Toxascaris
leonina 35%, chó nhiễm Toxocara canis giảm dần theo tuổi; chó 1-3 tháng tuổi
nhiễm 35%, 4-6 tháng tuổi nhiễm 28,6%, 7-12 tháng tuổi nhiễm 6,5%, trên 12
tháng tuổi tỷ lệ nhiễm thấp (4%); tỷ lệ nhiễm giun móc Ancylostoma caninum là
50,1%. Aguilar et al. (2005) đã mổ khám ruột non của 120 chó ở thành phố
Mexico, các tác giả phát hiện 102 chó bị nhiễm giun sán, trong đó 75 chó nhiễm
Ancylostoma caninum, chiếm tỷ lệ 62,5%. Giun đũa Toxocara canis nhiễm phổ
biến ở chó non và chủ yếu nhiễm vào mùa khô.

18


Tại Braxin, DeCastro et al. (2005) kiểm tra phân chó ở những luống hoa,
cỏ hướng ra phía bờ biển của Praia Grande, Sao paulo cho biết: tỷ lệ nhiễm
Toxocara canis là 1,2%.
1.4. Biện pháp phòng trị
1.4.1. Điều trị bệnh
Ngày nay, có rất nhiều loại hoá dược đã được nghiên cứu ở trong và

ngoài nước được sử dụng để điều trị và phòng bệnh giun sán cho gia súc và
gia cầm. Trong số đó có những loại thuốc dễ sử dụng có hiệu lực cao, an toàn,
đã và đang được áp dụng để điều trị cho động vật.
Piperazin
Sloan (1954) dùng cho chó với liều 200mg/kg TT và mèo với liều
100mg/kg đều có hiệu lực tẩy giun đũa. Sprent và English (1958) nói rằng:
Piperazin adipấu trùng e liều 200mg/kg tẩy được giun đũa trưởng thành. Chó con
1 -2 tuần tuổi, khi điều trị có thể ngăn ngừa sự sinh sản của giun, từ đó phòng sự
phát tán trứng ra môi trường. Tuy nhiên, thuốc này không ngăn được chó con bị
nhiễm trước khi sinh. Theo (Hayes và Medaniel, 1959), hợp chất Piperazin được
dung nạp tốt (dẫn theo Soulsby E.J.L, 1965).
Mebendazol
Biệt dược của Mebendazol là vermox, là một loại hoá dược an toàn, có
thể tẩy được nhiều loại giun tròn ở chó, mèo với liều 60-100mg/kg TT, hiệu
lực đạt 93% (Phan Địch Lân, Phạm Sĩ Lăng, Đoàn văn Phúc, 1989).
Levamisol
Ở liều 10mg/kgTT dùng 2 lần trong 14 ngày có hiệu quả tẩy trừ giun
tròn chó (Arundel, H.J, 2000).
Phạm Sĩ Lăng (1985), sử dụng Levamisol để tẩy các loài giun đũa,
giun lươn ở động vật ăn thịt với liều 7-10mg/kg cho kết quả tốt, hiệu lực đạt
90-100% đối với giun đũa và giun tóc.

19


Thymol
Dùng để tẩy giun tóc Trichuris vulpis cho thú ăn thịt với liều 0,2g/kgTT
pha với nước ấm 420c, cho uống hoặc thụt trực tràng cho hiệu lực tốt.
Mebenvet
Là chế phẩm chứa 10% hoạt chất Mebendazol, liều dùng 0,6-1gam/

kgTT, chia thuốc làm 2 liều tẩy vào 2 buổi sáng, có tác dụng tẩy giun móc,
giun đũa, giun lươn (Trần Minh Châu và cs., 1988). Những loại thuốc trên dùng
để điều trị giun tròn cho chó, tẩy định kỳ 3-6 tháng một lần.
Fenbendazol
Nghiên cứu ở Mỹ, Burke et al. (1982) nhận xét: thuốc Fenbendazol có
khả năng chống lại giun tròn, liều 50mg/kgTT, dùng liên tục trong 3 ngày(dẫn
theo Arundel, H.J 2000).
Disophenol
Nghiên cứu ở Australia, Arundel (2000) cho biết: thuốc Disophenol
liều 10mg/kgTT có hiệu quả tẩy trừ cao đối với loài Ancylostoma caninum và
Uncinaria stenocephala.
Ivermectin
Là thuốc trị ký sinh trùng do công ty cổ phần dược và vật tư Thú y
(Hanvet) sản xuất. Thuốc có nguồn gốc từ nấm, thuộc nhóm các Imidazol thiazol,
dẫn xuất của Imidazole.
Tính chất: thuốc có dạng bột kết tinh màu trắng, ngà vàng, không hoà tan
trong nước. Là sản phẩm lên men của nấm mốc Streptomyces avermitilis.
Thuốc dung nạp khá tốt, được bào chế dưới dạng dung dịch tiêm.
Thuốc tác động bằng cách phong bế sự dẫn truyền xung động thần kinh
của ký sinh trùng do tăng hiệu quả phóng thích axit gamma aminobutyric.
Chất trung gian hóa học này can thiệp chủ yếu vào các loại giun tròn. Phổ
hoạt lực rộng đối với các loại giun tròn. Jackson R.F et al. (1981) đã thử nghiệm tẩy
giun đường tiêu hoá chó với liều 0,2mg/kgTT, cho biết thuốc có hiệu lực với giun
tóc Trichocephalus vulpis, Toxascaris leonina (dẫn theo Arundel, H.J, 2000).
Levamisol injectable
20


×