Tải bản đầy đủ (.pdf) (148 trang)

Nghiên cứu ảnh hưởng bổ sung dinh dưỡng tới sinh trưởng mạ khay và mật độ cấy lúa bằng máy đến sinh trưởng, năng suất lúa xuân tại thường tín,hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.49 MB, 148 trang )

MỤC LỤC
Lời cam đoan

ii

Lời cảm ơn

iii

Mục lục

iv

Danh mục chữ viết tắt

vii

Danh mục bảng

viii

Danh mục hình

x

MỞ ĐẦU

1

1


Đặt vấn đề:

1

2

Mục đích và yêu cầu của đề tài

3

2.1 Mục đích

3

2.2 Yêu cầu

3

2.3 Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài

3

Chương 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU

4

1.1 Tình hình áp dụng máy cấy trong sản xuất lúa ở trong và ngoài nước

4


1.1.1 Tình hình áp dụng máy cấy trong sản xuất lúa ở Ngoài nước

4

1.1.2 Tình hình áp dụng máy cấy trong sản xuất lúa ở trong nước.

9

1.2 Kết quả nghiên cứu về sản xuất mạ khay trong và ngoài nước.

13

1.2.1 Các phương pháp gieo, cấy lúa ở Việt Nam

13

1.2.2 Kết quả nghiên cứu về sản xuất mạ khay trên thế giới.

15

1.2.3 Kết quả nghiên cứu về sản xuất mạ khay ở Việt Nam

18

1.3 Ảnh hưởng của mật độ cấy đến năng suất lúa.

20

1.3.1 Kết quả nghiên cứu về mật độ cấy lúa trên thế giới.


20

1.3.2 Kết quả nghiên cứu về mật độ cấy lúa ở Việt Nam.

23

Chương 2 NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

29

2.1 Vật liệu, thời gian, địa điểm nghiên cứu.

29

2.1.1 Vật liệu nghiên cứu

29

2.1.2 Thời gian và địa điểm nghiên cứu

29

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page iv


2.2 Nội dung nghiên cứu

30


2.3 Phương pháp nghiên cứu

30

2.3.1 Thu thập số liệu thứ cấp

30

2.3.2 Bố trí thí nghiệm.

30

2.3.3 Chăm sóc thí nghiệm

34

2.3.4 Chỉ tiêu và phương pháp theo dõi

35

2.3.5 Phương pháp xử lý số liệu.

37

Chương 3 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN

39

3.1 Đánh giá thực trạng áp dụng cơ giới hóa các khâu sản xuất lúa trong

những năm gần đây tại huyện Thường Tín

39

3.1.1 Điều kiện nông hóa thổ nhưỡng và thời tiết làm thí nghiệm

39

3.1.2 Điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của huyện Thường Tín có liên
quan đến sản xuất nông nghiệp nói chung và cây lúa nói riêng

41

3.1.3 Thực trạng áp dụng cơ giới hóa các khâu sản suất lúa huyện
Thường Tín trong những năm gần đây

43

3.2 Ảnh hưởng của việc bổ sung phân bón đến sinh trưởng của mạ khay

46

3.2.1 Ảnh hưởng của việc bổ sung đạm đến sinh trưởng của mạ khay

46

3.2.2 Ảnh hưởng của việc bổ sung lân đến sinh trưởng của mạ khay.

51


3.2.3 Ảnh hưởng của bổ sung đạm, lân kết hợp đến sinh trưởng của mạ khay.

55

3.2.4 Ảnh hưởng của việc bổ sung dinh dưỡng tro bếp, lân và kali vào
bùn mương đến sinh trưởng của mạ khay.

64

3.3 Ảnh hưởng số dảnh cấy/ khóm của phương thức cấy máy đến sinh
trưởng và năng suất lúa xuân

69

3.3.1 Ảnh hưởng số dảnh cấy/ khóm của phương thức cấy máy đến chỉ
tiêu sinh trưởng

69

3.3.2 Ảnh hưởng số dảnh cấy/ khóm của phương thức cấy máy đến chỉ
tiêu sinh lý

72

3.3.3 Ảnh hưởng số dảnh cấy/ khóm của phương thức cấy máy đến các
chỉ tiêu năng suất

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

78


Page v


KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

88

1

Kết luận

88

2

Kiến nghị

89

TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

90
0

Page vi



DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

CS

Cộng sự

CT

Công thức

KLTLCK

Khối lượng tích lũy chất khô

MC

Máy cấy

NN & PTNT

Nông nghiệp và phát triển nông thôn

NSLT

Năng suất lý thuyết

NSTT

Năng suất thực thu


SDC

Số dảnh cấy

TBNN

Trung bình nhiều năm

TGHT

Thời gian hoàn thành

TGST

Thời gian sinh trưởng

TLHC

Tỷ lệ hạt chắc

TNHH

Trách nhiệm hữu hạn

TSC

Tuần sau cấy

NSG


Ngày sau gieo

TT

Thứ tự

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page vii


DANH MỤC BẢNG
Số bảng

Tên bảng

Trang

1.1

Tốc độ sử dụng máy cấy lúa ở Nhật Bản

5

1.2

Mức độ cơ giới hóa khâu cấy lúa ở Nhật Bản

5


1.3

Sản lượng máy cấy qua các năm của Nhật Bản

6

1.4

Số lượng máy cấy và diện tích lúa cấy máy của Hàn Quốc

7

1.5

Số lượng máy cấy được sử dụng hàng năm của Đài Loan

8

1.6

Tốc độ phát triển các Trung tâm sản xuất mạ khay tại Đài Loan

17

3.1

Một số đặc điểm nông hóa thổ nhưỡng đất làm thí nghiệm

39


3.2

Điều kiện thời tiết khí hậu thí nghiệm

40

3.3

Diện tích một số loại cây trồng chính

42

3.4

Diện tích, năng suất, sản lượng lúa huyện Thường Tín

43

3.5

Hiện trạng áp dụng cơ giới hóa khâu sản xuất lúa huyện Thường Tín

44

3.6

Ảnh hưởng của các mức bón đạm đến chiều cao cây mạ

47


3.7

Ảnh hưởng của các mức bón đạm đến sinh trưởng của rễ

48

3.8

Ảnh hưởng của các mức bón đạm đến TGHT lá mạ

50

3.9

Ảnh hưởng của các mức bón lân đến chiều cao cây mạ

51

3.10 Ảnh hưởng của các mức bón lân đến sinh trưởng của rễ

53

3.11 Ảnh hưởng của các mức bón lân đến TGHT lá mạ

54

3.12a Ảnh hưởng riêng rẽ của đạm, lân đến chiều cao mạ khay

55


3.12b Ảnh hưởng tương tác của đạm và lân đến chiều cao mạ khay

57

3.13a Ảnh hưởng riêng rẽ của đạm, lân đến số lượng rễ mạ khay

58

3.13b Ảnh hưởng tương tác của đạm và lân đến số lượng rễ mạ

59

3.14a Ảnh hưởng riêng rẽ của đạm, lân đến chiều dài rễ mạ khay

60

3.14b Ảnh hưởng tương tác của đạm và lân đến chiều dài rễ

61

3.15a Ảnh hưởng riêng rẽ của đạm đến TGHT lá mạ khay

63

3.15b Ảnh hưởng tương tác của đạm và lân đến TGHT lá mạ khay

64

3.16 Ảnh hưởng của tro bếp, lân, kali đến chiều cao cây


65

3.17 Ảnh hưởng của tro bếp, lân, kali đến số lượng rễ mạ

66

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page viii


3.18 Ảnh hưởng của tro bếp, lân, kali đến chiều dài rễ mạ

68

3.19 Ảnh hưởng của tro bếp, lân, kali đến TGHT lá

69

3.20a Ảnh hưởng của nơi thí nghiệm đến khả năng đẻ nhánh

70

3.20b Ảnh hưởng của số dảnh cấy/ khóm đến khả năng đẻ nhánh

71

3.21a Ảnh hưởng của nơi làm thí nghiệm đến chỉ số diện tích lá


73

3.21b Ảnh hưởng của số dảnh cấy/ khóm đến chỉ số diện tích lá

73

3.22a Ảnh hưởng của nơi làm thí nghiệm đến khối lượng chất khô

75

3.22b Ảnh hưởng của số dảnh cấy/ khóm đến khối lượng chất khô

77

3.23a Ảnh hưởng của nơi làm thí nghiệm đến các yếu tố cấu thành năng
suất và năng suất

79

3.23b Ảnh hưởng của số dảnh cấy/ khóm đến các yếu tốcấu thành năng
suất và năng suất
3.24 Hoạch toán hiệu quả kinh tế

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

80
85

Page ix



DANH MỤC HÌNH
Số hình

Tên hình

Trang

1.1

Máy cấy Nhật Bản

6

1.2

Máy cấy Hàn Quốc

7

1.3

Máy cấy lúa Trung Quốc

9

1.4

Chủ tịch Hồ Chí Minh sử dụng máy cấy lúa (tháng 7/1960)


Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

10

Page x


MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề:
Cây lúa (Oryza sativa L.) là một trong những cây lương thực chính của nước
ta và nhiều nước trên thế giới đặc biệt là các nước Châu Á, nó có vai trò rất quan
trọng trong sản xuất nông nghiệp, khoảng 40% dân số trên thế giới sống bằng lúa
gạo, sử dụng lúa gạo làm nguồn lương thực chính, 25% sử dụng lúa gạo trên 1/2
khẩu phần thức ăn hàng ngày. Lúa gạo có ảnh hưởng tới ít nhất 65% dân số thế giới
tập trung tại các nước châu Á, châu Phi và châu Mỹ Latinh, do vậy chúng có vai trò
quan trọng trong việc đảm bảo an ninh lương thực và ổn định xã hội.
So với nghề trồng lúa ở các nước châu Á, nghề trồng lúa ở Việt Nam có lịch
sử lâu đời nhất. Theo các tài liệu khảo cổ ở Trung Quốc, Ấn Độ, Việt Nam... cây
lúa đã có mặt từ 3000 - 2000 năm trước công nguyên, cùng với sự phát triển của
khoa học kỹ thuật cũng như những chính sách đổi mới trong quản lý nông nghiệp,
nghề trồng lúa nước ở nước ta cũng có nhiều thay đổi. Từ một nước thiếu lương
thực trầm trọng trong những năm chiến tranh, đến nay nền nông nghiệp của nước ta
đã không chỉ sản xuất đủ lượng lớn lương thực đáp ứng nhu cầu trong nước mà còn
xuất khẩu sang nhiều thị trường lớn trên thế giới, đưa Việt Nam trở thành nước xuất
khẩu gạo lớn thứ hai trên thế giới sau Thái Lan.
Tuy nhiên, do dân số tăng nhanh, quá trình đô thị hoá phát triển mạnh, thêm
vào đó là sự biến đổi khí hậu, diện tích đất bị sa mạc hóa, đất nhiễm mặn tăng…
làm diện tích đất trồng lúa ngày càng thu hẹp nên vấn đề lương thực vẫn là yêu cầu
cấp bách phải quan tâm trong những năm trước mắt và lâu dài. Để đảm bảo nhu cầu
lương thực trong nước và xuất khẩu cần nghiên cứu các biện pháp kỹ thuật như:

giống, mật độ, bón phân, thuốc bảo vệ thực vật… nhằm tăng năng suất, hiệu quả
trồng lúa trên đơn vị diện tích.
“Tốt giống tốt má, tốt mạ tốt lúa” là câu nói được nhân dân ta truyền lại từ
đời này qua đời khác, nó không chỉ áp dụng trong trồng lúa mà còn được áp dụng
cho nhiều loại cây trồng nông nghiệp khác.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 1


Sản xuất lúa nước là một nghề đã có từ lâu đời ở Việt Nam, xong kỹ thuật
sản xuất vẫn mang nặng theo tập quán của vùng miền. Miền Bắc thì gieo mạ rồi nhổ
cấy, Miền Nam thì gieo thẳng. Cả hai phương pháp đều có những thuận lợi, khó
khăn nhất định; lúa cấy phải nhổ mạ, khi đó cây mạ bị đứt rễ, dập thân, chậm bén rễ
hồi xanh; gieo thẳng chịu ảnh hưởng nhiều của yếu tố thời tiết và chế độ nước, dẫn
đến tốn giống nhưng hiệu quả thấp.
Để dần khắc phục những ảnh hưởng hạn chế trên, công nghệ mạ khay máy cấy
ra đời và đang được nhân rộng trong ngành sản xuất lúa ở Việt Nam cũng như trên
Thế Giới. Bước đầu cho thấy, áp dụng sản xuất mạ khay có nhiều ưu điểm rõ rệt: mạ
phát triển đồng đều, dễ chăm sóc, ít chịu tác động của thời tiết bất thuận, giảm nước
tưới, giảm sâu bệnh, giảm công nhổ mạ, cây mạ khi cấy không bị đứt rễ, dập thân, lúa
nhanh bén rễ hồi xanh, có thể sản xuất tập trung và mang tính công nghiệp, giá thành
thấp hơn so với làm mạ dược. Mặt khác, trên thị trường có nhiều loại máy cấy sử
dụng mạ khay, ít loại máy sử dụng mạ dược, đồng thời mạ khay máy cấy giải phóng
được sức lao động, đẩy nhanh được tiến độ cấy lúa trong khung thời vụ tốt nhất, góp
phần đưa cơ giới hóa vào sản xuất nông nghiệp. Xong mạ khay cần được sản xuất đại
trà với quy mô lớn và trong điều kiện nhà có mái che, cây mạ sinh trưởng trong điều
kiện thiếu ánh sáng nên mạ mềm, yếu, dễ bị gẫy, nát khi có va chạm, không đảm bảo
khi gặp điều kiện bất thuận ngoài đồng ruộng. Không những thế mạ khay còn là khái
niệm mới với nhiều người nông dân, do vậy việc bổ sung dinh dưỡng là rất cần thiết

giúp mạ sinh trưởng tốt, góp phần hoàn thiện quy trình sản xuất mạ khay trong khâu
cơ giới hóa nghề trồng lúa. Bên cạnh đó việc xác định mật độ (số dảnh) cấy lúa
bằng máy hợp lý cũng là một biện pháp kỹ thuật quan trọng; mật độ cấy hợp lý sẽ
tạo nên cấu trúc quần thể tốt, góp phần nâng cao hiệu suất quang hợp, khai thác tối
ưu lượng bức xạ mặt trời và dinh dưỡng trong đất nhằm phát huy tối đa tiềm năng
sinh trưởng quần thể ruộng lúa, nâng cao năng suất trên đơn vị diện tích.
Trên cơ sở đó chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài: “Nghiên cứu ảnh hưởng
bổ sung dinh dưỡng tới sinh trưởng mạ khay và mật độ cấy lúa bằng máy đến
sinh trưởng, năng suất lúa xuân tại Thường Tín, Hà Nội” .
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 2


2. Mục đích và yêu cầu của đề tài
2.1. Mục đích
Xác định loại phân, lượng phân bón bổ sung phù hợp cho mạ khay và số dảnh/
khóm cấy bằng máy phù hợp cho sảnxuất lúa xuân tại huyện Thường Tín, góp phần
hoàn thiện qui trình áp dụng máy cấy trong sản xuất lúa.
2.2. Yêu cầu
- Đánh giá được thực trạng áp dụng cơ giới hóa trong sản xuất lúa tại huyện
Thường Tín.
- Đánh giá ảnh hưởng bổ sung phân bón đến sinh trưởng của mạ khay.
-Đánh giá ảnh hưởng số dảnh/ khóm của phương thức sử dụng mạ khay cấy
máy đến sinh trưởng, năng suất lúa xuân tại huyện Thường Tín.
2.3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
* Ý nghĩa khoa học: Kết quả nghiên cứu có thể sử dụng làm tài liệu tham
khảo cho việc nghiên cứu tiếp theo về công nghệ sản xuất mạ khay và mật độ cấy
lúa bằng máy ở nước ta.
* Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của đề tài là cơ sở để phổ biến quy

trình kỹ thuật sản xuất mạ khay công nghiệp, góp phần đưa cơ giới hóa vào sản suất
lúa nhằm giảm chi phí, tăng thu nhập trên đơn vị diện tích.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 3


Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1 Tình hình áp dụng máy cấy trong sản xuất lúa ở trong và ngoài nước
1.1.1 Tình hình áp dụng máy cấy trong sản xuất lúa ở Ngoài nước
Trên thế giới, một số nơi có nền sản xuất lúa nước phát triển như Nhật Bản,
Hàn Quốc, Trung Quốc và Đài Loan, quá trình sản xuất lúa được cơ giới hóa hoàn
toàn, từ khâu làm đất, cấy đến thu hoạch, mang tính đồng bộ cao. Để có thể ứng
dụng khâu thu hoạch bằng máy tuốt trên cây lúa, khâu cấy phải đảm bảo khoảng
cách hàng tiêu chuẩn, ruộng đất phải quy hoạch tốt, hệ thống thủy lợi đầu tư đầy đủ,
kế hoạch sản xuất phải được thiết lập đảm bảo cho việc ứng dụng máy móc một
cách đồng bộ và triệt để.
Nhật Bản là nước đầu tiên trên thế giới nghiên cứu và phát minh ra máy cấy.
Ngay từ những năm cuối của thế kỷ XVIII Nhật Bản đã nghiên cứu và chế tạo thành
công những chiếc máy cấy đầu tiên, đến năm 1960 số lượng máy cấy lên đến hơn 300
chiếc (Lê Sỹ Hùng, 2005).
Trước đây do phương thức canh tác lúa cổ truyền là mạ dược nên Nhật Bản
đã mất nhiều thời gian, công sức nghiên cứu, phát triển cơ giới hoá việc nhổ và cấy
mạ dược. Máy cấy mạ dược đầu tiên xuất hiện năm 1964, tiếp sau đó là máy nhổ mạ
và máy rửa sạch rễ mạ. Nhưng máy cấy mạ dược không nâng cao năng suất lao
động, đến năm 1970 Nhật Bản đã ngừng sản xuất loại máy này và chuyển sang ứng
dụng máy cấy kiểu mới.
Từ năm 1960 Nhật Bản đã có hướng nghiên cứu mới là sản xuất mạ thảm và
nghiên cứu thiết kế máy cấy mạ thảm. Năm 1968 máy cấy mạ thảm đầu tiên của

Nhật ra đời. Nguyên tắc của máy cấy mạ thảm là gắp xén thảm mạ ra từng miếng
nhỏ rồi rúi xuống bùn ruộng. Do mật độ gieo mống được đều trên khay, cây mạ
mọc thẳng đứng, cứng cây, đanh rảnh nên chất lượng cấy đều, mạ không bị tổn
thương và năng suất máy cao. Năm 1971 Nhật Bản sản xuất hàng loạt máy cấy cung
cấp cho thị trường (có 2 loại là máy cấy người lái lội ruộng và máy cấy người ngồi
lái). Năm 1972 đã có 11 loại máy cấy được thông qua Sở nghiên cứu máy nông
nghiệp giám định công nhận.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 4


Trong quá trình phát triển cơ giới hoá đồng bộ sản xuất lúa ở Nhật Bản.
khâu cấy lúa là khâu phát triển sau cùng nhưng lại là khâu có tốc độ phát triển
nhanh nhất.
Bảng 1.1: Tốc độ sử dụng máy cấy lúa ở Nhật Bản
Năm

Số lượng máy cấy sử
dụng (chiếc)

Năm

Số lượng máy cấy sử
dụng (chiếc)

1970

33.000


1976

1.046.000

1971

46.000

1977

1.478.000

1972

128.000

1978

1.730.000

1973

248.000

1979

2.001.000

1974


435.000

1980

1.983.000

1975

740.000

1981

1.865.000

(Theo: Lê Sỹ Hùng, Báo cáo tổng kết đề tài cấp nhà nước, 2005)
Máy cấy lúa mạ thảm có nhiều loại: 2 hàng, 4 hàng người lái lội ruộng; máy
4 hàng , 6 hàng, 8 hàng người ngồi lái. Xu hướng máy cấy 2 hàng ngày càng giảm
và máy cấy 6, 8 hàng ngày càng tăng; máy cấy mạ non và máy cấy mạ trung. Máy
cấy mạ thảm bắt đầu nghiên cứu từ năm 1960, sau 8 năm nghiên cứu đến năm 1968
chiếc máy đầu tiên ra đời, sau 18 năm chuyển giao ứng dụng đến năm 1986 đã được
nông dân chấp nhận rộng rãi, với hơn một triệu chiếc cơ giới hoá làm mạ và cấy
máy đạt 80% tổng diện tích lúa. Sau đó số lượng máy cấy tiếp tục tăng để hoàn
thành cơ giới hóa làm mạ non và cấy lúa vào năm 1990(Lê Sỹ Hùng, 2005)
Bảng 1.2: Mức độ cơ giới hóa khâu cấy lúa ở Nhật Bản
Năm
Tỷ lệ cấy lúa bằng máy (%)
Chi phí cấy lúa (giờ/ha)

1970


1980

1990

1995

3

91

86

99

118

64

44

38

(Theo: Lê Sỹ Hùng, Báo cáo tổng kết đề tài cấp nhà nước, 2005)

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 5


Hình 1.1 : Máy cấy Nhật Bản

Việc cơ giới hoá sản xuất mạ thảm và cấy lúa ở Nhật Bản luôn đi song song,
hiện nay ở Nhật Bản có khoảng 16 hãng chế tạo máy cấy, trong đó có những hãng
lớn như ISeiki, Kubuta, Yamara, Honda, Misubishi với gần 60 kiểu loại khác nhau.
Sản lượng máy cấy hàng năm hiện nay gần 100 nghìn chiếc, (Lê Sỹ Hùng, 2005).
Bảng 1.3: Sản lượng máy cấy qua các năm của Nhật Bản
Năm
Sản lượng
máy cấy

1990

1991

1992

1993

1994

91.000

87.000

81.000

85.000

86.000

(Theo: Lê Sỹ Hùng, Báo cáo tổng kết đề tài cấp nhà nước, 2005)

Tại Hàn Quốc, lúa nước chiếm tỉ lệ diện tích lớn trong các loại cây trồng.
Hàn Quốc có 1,16 triệu ha trồng lúa (chiếm 60% diện tích đất nông nghiệp) các
trang trại của Hàn Quốc thuộc loại trang trại nhỏ, các trạng trại có diện tích trên
dưới 1 ha chiếm 60 đến 70%. Lao động nông nghiệp là 2,2 triệu người (chiếm
10,5%) và 1,44 triệu hộ nông nghiệp, trong đó 89% lao động thuần tuý và 41% bán
nông nghiệp, (Lê Sỹ Hùng, 2005).
Học tập Nhật Bản, Hàn Quốc cũng hoàn thành cơ giới hoá sản xuất mạ và
cấy lúa vào những năm 80. Năm 1998 Hàn Quốc có 375 nghìn máy cấy lúa, cơ giới
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 6


hoá 98% diện tích. Đến nay, Hàn Quốc cũng đang áp dụng công nghệ cao trong sản
xuất mạ và cấy lúa nhằm tăng năng suất lao động, tăng năng suất lúa. Hiện nay có
5 Công ty chế tạo máy cấy, hàng năm chế tạo 40.000 máy cấy các loại, (Lê Sỹ
Hùng, 2005).
Bảng 1.4: Số lượng máy cấy và diện tích lúa cấy máy của Hàn Quốc
Năm

1977

1980

1985

1990

1996


Số lượng máy cấy

121

11.061

42.138

138.405

271.051

Diện tích cấy máy

218

66.334

270.000

1.041.000

922.000

Tỷ lệ DT cấy máy (%)

0,2

5,4


21,9

87

97

(Theo: Lê Sỹ Hùng, Báo cáo tổng kết đề tài cấp nhà nước, 2005)

Hình 1.2: Máy cấy Hàn Quốc
Tại Đài Loan, cũng như Hàn Quốc là hai nước đi đầu áp dụng công nghệ
máy cấy của Nhật Bản, là nước có tiềm năng sản suất lúa nước, nền công nghiệp rất
phát triển, lao động nông nghiệp ít và ngày càng giảm nhanh, tiềm năng lao động
nông nghiệp tăng nhanh nên cơ giới hoá sản xuất mạ khay, cấy lúa được nông dân
chấp nhận và phát triển với tốc độ nhanh.
Máy cấy mạ khay của Đài Loan chủ yếu là loại máy cấy 4 hàng lội ruộng và
6 hàng người ngồi lái. Máy cấy đã được phổ biến rộng rãi trong những năm 80.
Năm 1994 Đai Loan có 80.830 máy cấy và đã cơ giới hoá hầu hết 98% diện tích cấy
lúa. Đài Loan chủ yếu nhập máy cấy của Nhật Bản và một số sản xuất trong nước.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 7


Mức độ phát triển máy cấy tăng hàng năm từ 2 - 5 nghìn chiếc, (Lê Sỹ Hùng, 2005)
Bảng 1.5: Số lượng máy cấy được sử dụng hàng năm của Đài Loan
Năm

Lượng máy cấy tăng hàng năm

S lượng máy


Sản suất tại

cấy được sử

Nhập khẩu

Đài Loan

Tổng

dụng

1982

1472

4100

5572

45605

1983

25

847

4872


50477

1984

171

3746

3917

54394

1985

143

3446

3583

57977

1986

375

3058

3433


61410

1987

567

2233

2800

64210

1988

382

1894

2276

66486

1989

1040

1650

2290


69176

1990

1237

1803

3040

72216

1991

791

726

1523

73739

1992

2286

825

2678


79048

1993

1345

437

1782

80830

(Theo: Lê Sỹ Hùng, Báo cáo tổng kết đề tài cấp nhà nước, 2005)
Tại Trung Quốc, lúa được coi là cây lương thực chính. Năm 2004 tổng diện
tích trồng lúa của Trung Quốc là 29,4 triệu ha (đứng hàng thứ 2 thế giới) và sản
lượng lúa là hơn 200 triệu tấn (đứng đầu thế giới) được trồng hầu hết ở các tỉnh từ
phía Bắc xuống phía Nam. Đến nay Trung Quốc đã cơ giới hoá được hơn 1 triệu
ha, chiếm hơn 3% tổng diện tích trồng lúa và có trên 900.000 máy cấy lúa (Lê Sỹ
Hùng, 2005).
Các tỉnh phía bắc chỉ cấy một vụ lúa một năm do rét đậm về mùa đông, ở đây
ruộng rộng, người ít, bình quân 1,5- 4,5 ha/ hộ nên rất thuận tiện cho việc cơ giới hoá cấy
lúa. Tuy các tỉnh phía Bắc chỉ chiếm 10% tổng diện tích trồng lúa của Trung Quốc
nhưng tỉ lệ cơ giới hoá cấy lúa lại rất cao như tỉnh Cát Lâm tỉ lệ cấy máy là: 32,8% , tỉnh
Nội Mông tỉ lệ cấy máy là 34,8%. Các tỉnh ở phía Nam là vựa lúa chính của Trung Quốc
có thể trồng lúa được 2 vụ do mùa đông ít rét hơn nhưng ruộng đất ở đây ít và manh mún
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 8



hơn phía Bắc, bình quân 0,5- 1 ha/ 1 hộ, mật độ dân cư ở đây đông cơ giới hoá cấy lúa
còn thấp, bình quân diện tích như tỉnh Giang Tô tỉ lệ cấy máy là 0,65%, tỉnh Triết Giang
0,18%, tỉnh An Khánh 0,73%, tỉnh Hồ Nam 0,36 %, tỉnh Quảng Tây 0,1 %. Còn nhiều
tỉnh có diện tích lớn nhưng vẫn chưa áp dụng cơ giới hoá khâu cấy lúa như tỉnh Quảng
Đông, Tứ Xuyên, Hà Nam, Trùng Khánh, (Lê Sỹ Hùng, 2005).
Trung Quốc là nước nghiên cứu máy cấy rất sớm, từ những năm 50 nhưng
chỉ nghiên cứu chế tạo máy cấy mạ dược, điển hình là máy cấy mạ dược Đông Fong
10 hàng trong những năm 60, 70 nhưng chất lượng cấy chưa tốt, năng suất cấy thấp
và vẫn phải tốn công nhổ mạ. Sau đó Trung Quốc chuyển sang nghiên cứu và chế
tạo máy cấy mạ thảm theo công nghệ của Nhật Bản, đến năm 1982 Trung Quốc đã
chọn được mẫu máy cấy mạ thảm riêng cho mình . Máy cấy lúa 6 hàng 2TZ- 9356
và máy cấy lúa 8 hàng 2 ZT-7358 của Trung Quốc là loại máy cấy lúa đơn giản hơn
nhiều so với máy cấy của Nhật Bản. Hai kiểu máy này liên tục được cải tiến và
hoàn thiện cho đến nay. Hiện nay Trung Quốc cũng đã liên doanh với một số hãng
chế tạo máy cấy của Nhật Bản như hãng Kobota, Yamaha, để chế tạo máy cấy lúa 4
hàng, 6 hàng, 8 hàng theo công nghệ chế tạo Nhật Bản ở tỉnh Giang Tô và Triết
Giang, nhưng số lượng phát triển còn hạn chế.

Hình 1.3: Máy cấy lúa Trung Quốc
1.1.2 Tình hình áp dụng máy cấy trong sản xuất lúa ở trong nước.
Năm 1960, Chiếc máy cấy Nam Ninh (Trung Quốc) được Viện Công cụ cơ
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 9


giới nông nghiệp thử nghiệm,
nghi
năng suất cấy bằng 15 người. Bác Hồ đã chỉ thị Viện

Công cụ cơ giớii nông nghiệp
nghi biên soạn sách, phổ biến rộng
ng rãi cho thanh niên và
nông dân miền Bắc họcc tập,
t làm theo(Nguyễn Đức Bản, 2014).

Hình 1.4: Chủ tịch
ch Hồ
H Chí Minh sử dụng máy cấy lúa (tháng 7/1960)
Viện Cơ điệnn nông nghiệp
nghi và công nghệ sau thu hoạch
ch là cơ quan đầu tiên
nghiên cứu các loạii công cụ
c cấy và máy cấy mạ dược từ đầu những
ng nă
năm 1970. Máy
cấy có động cơ cấy mạ dược
dư Đông Fong- 2S của Trung Quốc, đượ
ợc thử nghiệm ở
nhiều nơi ở miền Bắcc nhưng
như cũng không phát triển được do năng suấất cấy thấp, chất
lượng cấy chưa đảm bảo,
o, m
mạ tổn thương và bỏ nhiều khóm cấy.
Tiếpp thu công nghệ
ngh mới của Nhật Bản về máy cấy, Việnn đã
đ khảo nghiệm
máy cấy mạ khay 4 hàng người
ng
lái lội ruộng YP- 40 củaa hãng YANMAR được

nhập về từ Nhật Bản.
Năm 1979 Việnn đã
đ thiết kế cải tiến một mẫu máy cấyy lúa 8 hàng MC
MC- 8 trên
cơ sở ghép phần di động
ng đơn
đơ giản của máy cấy mạ dược Đông Fong- 2S Trung Quốc
với bộ phận của máy cấyy mạ
m thảm, máy cấy 4 hàng YP- 40 của Nhậật Bản, máy này
có kết cấu đơn giản hơn
ơn máy Nhật
Nh Bản, chất lượng cấy tốt và tăng
ng đư
được mật độ cấy
lúa tới 40 khóm/m2, phù hợp
h với mật độ cấy của nước ta. Máy cấyy MC
MC- 8 đã được
thử nghiệm và cấy thử nhiều
nhi vụ, mỗi vụ vài ha ở Viện cây lương thựcc và th
thực phẩmtỉnh Hải Dương. Đây cũng
ũng là
l đề tài mang tính chất thăm dò ban đầuu để tạo ra mẫu
máy mới và xem xét khảả năng ứng dụng của phương pháp cấy mạ bbằng công nghệ
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 10


sản xuất mạ thảm.
Với mục tiêu nhằm phổ biến cơ giới hoá đồng bộ các khâu sản xuất lúa nước

của Nhật Bản ở Việt Nam. Phối hợp với Bộ nông nghiệp & PTNT, Viện Cơ điện
nông nghiệp và công nghệ sau thu hoạch, ba Công ty sản xuất máy nông nghiệp của
Nhật Bản KUBOTA, MEIWA, MTTSHUBIHI, xây dựng mô hình trình diễn cơ giới
hoá sản xuất lúa từ năm 1991 - 1993 tại Mỹ Văn- Hải Dương. áp dụng cơ giới hoá
100% các khâu từ làm đất, thu hoạch đến làm sạch trên cánh đồng với quy mô 04 ha,
trong đó có một hệ thống thiết bị đồng bộ sản xuất mạ khay và chống rét cho mạ
khay, máy cấy lúa. Hầu hết các máy móc thiết bị vật tư, kỹ thuật phục vụ cho mô
hình này như phân bón, giống, thuốc bảo vệ thực vật được đưa từ Nhật Bản sang. Kết
quả 3 năm thí nghiệm trình diễn cho thấy: Hệ thống máy móc và thiết bị phát huy
được hiệu quả, chất lượng làm việc tốt, năng suất máy cao, năng suất lúa các vụ đều
tăng so với các khu ruộng của dân xung quanh từ 30- 40%. Nhưng sau đó hệ thống
thiết bị này không phát triển được do giá thành thiết bị máy của Nhật Bản quá đắt so
với thu nhập của người nông dân, quy trình còn tương đối phức tạp so với trình độ và
quy hoạch đồng ruộng ở nông thôn nước ta, (Lê Sỹ Hùng, 2005).
Năm 1998 Viện Cơ điện nông nghiệp và Công nghệ sau thu hoạch đã tiến
hành nghiên cứu hệ thống thiết bị, quy trình công nghệ sản xuất mạ thảm và cơ giới
hoá cấy lúa thích hợp với điều kiện nước ta.
Trên cơ sở máy cấy mạ thảm 6 hàng PL- 620 của Nhật Bản, Viện đã phục
hồi và cải tiến để thu hẹp khoảng cách hàng cấy từ 30 cm xuống 25 cm và tăng mật
độ cấy lên 40 khóm/m2, mô hình được tiến hành thử nghiệm tại xã Đồng Nguyên,
huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Kết quả cho thấy: năng suất lúa cấy máy đều tăng
hơn cấy mạ dược từ 10- 18% (Lê Sỹ Hùng, 2005).
Ở Việt Nam máy cấy mới được áp dụng nhiều trong những năm gần đây. Mô
hình mạ khay, máy cấy mới được đưa về ứng dụng trên địa bàn nước ta một thời
gian ngắn đã cho hiệu quả rõ rệt so với phương pháp cấy tay truyền thống. Hiện
nay, tại các tỉnh miền Bắc và Bắc Trung Bộ, công nghệ sản xuất mạ khay, sử dụng
máy cấy đã áp dụng như: Bắc Ninh, Bắc Giang, Hà Nội, Nam Định, Thái Bình, Hải
Phòng, Thanh Hóa.Theo số liệu của tổng cục thống kê, năm 2013 tổng diện tích cấy
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp


Page 11


lúa của cả nước là 7.899,4 nghìn ha, tuy nhiên việc áp dụng máy cấy trong sản xuất
lúa còn hạn chế như Tuyên Quang gieo cấy được 2.346 ha, đạt 3,28% diện tích đất
gieo trồng diện tích gieo trồng của tỉnh (Tuấn Hưng, 2015)..
Cấy lúa bằng máy đã xuất hiện ở An Giang, Long An và một số tỉnh thành
khác. Khi áp dụng cấy lúa bằng máy sẽ rút ngắn thời gian sinh trưởng của cây lúa ngoài
đồng khoảng 15 ngày (thời gian gieo mạ trong khay), giảm sâu bệnh và không bị lúa
lẫn. Do đó, việc cấy lúa bằng máy rất phù hợp cho các khu vực ven biển khi phải phụ
thuộc vào nguồn nước mưa (Tuấn Hưng, 2015).
Theo ông Pham Huy Thông- Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Quốc gia
cho biết: Đồng bằng sông Hồng là 1 trong 2 vùng trọng điểm sản xuất lúa, cũng là
cái nôi của nền văn minh lúa nước, đã được hình thành từ hàng nghìn năm. Tính
đến hết năm 2011, toàn bộ khu vực có 607.900 ha đất lúa với khoảng 1,8 triệu hộ
làm nông nghiệp, chiếm 45,4%. Tuy nhiên, do điều kiện địa hình đồng ruộng không
bằng phẳng, cơ sở hạ tầng về thủy lợi chưa hoàn toàn chủ động nên quá trình sản
xuất cũng gặp nhiều khó khăn, chưa thể áp dụng cơ giới hóa đồng bộ. Thực hiện
chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, xây
dựng nông thôn mới với trọng tâm là nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp,
Trung tâm Khuyến nông Quốc gia đã được Bộ NN&PTNT phê duyệt hỗ trợ xây
dựng mô hình cơ giới hóa trong sản xuất lúa bao gồm các mô hình cơ giới hóa từ
khâu làm đấtm gieo cấy, thu hoạch và chế biến bảo quản. Vụ xuân 2011 một số mẫu
máy cấy đã được đưa vào thử nghiệm ở khu vực Đồng bằng sông Hồng và miền
Trung, áp dụng kỹ thuật này cho hiệu quả rõ rệt, năng suất lúa tăng, giảm chi phí sản
xuất và sức lao động của nông dân. Đồng thời góp phần thúc đẩy chuyên nghiệp hóa
khâu làm mạ, xuất hiện tổ chức dịch vụ chuyên nghiệp làm mạ cung cấp cho nông
dân.Ông Phan Huy Thông, Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Quốc gia cho biết, giai
đoạn 2014 - 2016, Trung tâm sẽ đề xuất với Bộ NN&PTNT cho triển khai các mô
hình máy cấy lúa trên diện rộng. Bên cạnh đó, Trung tâm kiến nghị thành phố Hà Nội

tiếp tục có chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện để nông dân có thể tiếp cận vay vốn. Đề
nghị Sở NN&PTNT, Trung tâm Khuyến nông Hà Nội hỗ trợ chương trình gieo mạ
khay, cấy lúa bằng máy, đưa cơ giới hóa vào sản xuất nông nghiệp trong những năm
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 12


tiếp theo.Năm 2012, Trung tâm Khuyến nông Hà Nội đã xây dựng mô hình trình diễn
mạ khay, máy cấy với diện tích 20 ha tại 4 HTX ở 4 huyện của Hà Nội với loại máy
Kubota 1,5 mã lực, cấy 4 hàng. Năng suất cấy lúa đạt 0,8 - 1 ha/máy/ngày, tương
đương với 25 - 30 lao động. Ngoài ra, phương pháp này giúp tăng năng suất 10% so
với phương pháp truyền thống. Từ kết quả của mùa vụ năm 2011, năm 2012. Vụ
xuân 2013 Trung tâm Khuyến nông Hà Nội tiếp tục hỗ trợ mở rộng thêm 70 ha tại xã
Tân Ước (huyện Thanh Oai), xã Hồng Phong (huyện Chương Mỹ), nâng diện tích lúa
được cấy bằng máy tăng lên 1.500 ha (Hải Hà và Việt Hà, 2013)
Tại thủ đô Hà Nội, cơ giới hoá nông nghiệp đang diễn ra khá sôi động trên
tất cả các lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, thuỷ sản. Theo số liệu của Sở Nông nghiệp
Thành phố Hà Nội, năm 2013, thành phố đã đầu tư 460 máy làm đất 15 mã lực và
195 máy làm đất 24 mã lực, nâng tỷ lệ cơ giới hóa trong khâu làm đất từ 69,22% lên
85,1%; 78 máy gặt đập liên hợp, đưa tỷ lệ cơ giới hóa trong khâu thu hoạch lúa từ
7,8% lên 10,1%; 167 máy cấy, nâng tỷ lệ cơ giới hóa trong khâu cấy lúa từ 0,04%
lên 1,64%… Thành phố phấn đấu đến năm 2016, mục tiêu đưa tỷ lệ cơ giới hóa
trong khâu làm đất của Hà Nội đạt 90%, gieo cấy đạt 20%, gặt đập 30%, phun thuốc
trừ sâu đạt 40%,... với nguồn kinh phí hơn 1.100 tỷ đồng (Tuấn Hưng, 2015).
Thực hiện chủ trương công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn,
ngành nông nghiệp đặt ra mục tiêu: Đến năm 2020, mức độ cơ giới hóa khâu làm
đất bình quân cả nước đạt trên 90%, riêng ở đồng bằng sông Hồng và ĐBSCL đạt
100%; khâu gieo cấy 70%; chăm sóc 70% - 80%; thu hoạch lúa bằng máy đạt 70%,
riêng ĐBSCL 90%. Khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư phát triển các loại

máy sấy, phù hợp với quy mô, trình độ sản xuất, đảm bảo từ năm 2015 trở đi năng
lực sấy lúa cả nước đạt trên 12 triệu tấn/năm; chuyển giao các mẫu hình kho bảo
quản lúa, bắp quy mô thích hợp. Cơ giới hóa các khâu đạt 80%, với 20% được tự
động hóa, nâng cao năng suất lao động và kiểm soát các thông số kỹ thuật trong quá
trình bảo quản (Tuấn Hưng, 2015).
1.2 Kết quả nghiên cứu về sản xuất mạ khay trong và ngoài nước.
1.2.1 Các phương pháp gieo, cấy lúa ở Việt Nam
- Gieo vãi (gieo sạ): Gieo sạ là hạt giống được sạ trên mặt ruộng bùn nhuyễn.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 13


Hạt chìm vào trong đất bùn nhờ vào trọng lượng của hạt rơi tự do xuống mặt bùn.
Do trọng lượng hạt giống nhỏ nên khả năng được vùi lấp là rất khó, hơn nữa hạt
giống lúa nước đã được ngâm để nẩy mầm, đã có rễ, do đó lại càng khó chìm sâu
trong bùn. Sạ không hàng lối rất khó kiểm soát khoảng cách giữa các hạt, hoàn toàn
chỉ áng chừng khi người đi sạ ném các hạt giống xuống mặt ruộng, do đó chất lượng
sạ kém, mật độ phân bố hạt không đều, chỗ quá dày, chỗ quá thưa, làm lúa phát
triển không đồng đều, năng suất không cao. Hơn nữa lúa mọc không thành hàng nên
không thể diệt cỏ bằng nông cụ mà phải dùng hoá chất gây ô nhiễm môi trường.
Hiện nay ở đồng bằng sông Cửu Long phổ biến là theo hình thức gieo vãi bằng tay
(sạ lan), công việc rất nặng nhọc, năng suất thấp, Chất lượng sạ kém, phụ thuộc
nhiều vao độ thuần thục của mỗi người.
- Lúa gieo thẳng: Ưu điểm nổi bật của việc gieo thẳng là bỏ qua giai đoạn
làm mạ, đầu tư cho máy thấp, chỉ cần một máy gieo, dễ dàng cơ giới hoá và có thể
dùng thuốc để diệt cỏ dại; nhược điểm của gieo thẳng là: Thời gian cây lúa sống
trên đất lâu ảnh hưởng đến cây trồng vụ sau, nhất là vùng thâm canh tăng vụ, khi
gieo phụ thuộc nhiều vào thời tiết; vụ xuân nếu gặp rét, mầm hạt khó phát triển,
thậm chí bị chết; vụ mùa gặp mưa, hạt lúa trôi dạt, gặp nắng những chỗ đọng nước

hạt bị chết.
- Gieo hàng: Là cách đặt hạt giống thành hàng dọc (hàng sông) với khoảng
cách nhất định, nên kiểm soát được lượng giống gieo. Thí nghiệm của Viện lúa
Đồng bằng sông Cửu Long so sánh giữa lúa gieo hàng và lúa sạ lan đã khẳng định
sự ưu việt hơn hẳn của lúa gieo hàng, mật độ hạt gieo phân bố đều, không khí
thông thoáng, tiếp thu ánh sáng tốt làm cho cây lúa sinh trưởng tốt nên năng suất
lúa tăng (15-20%) tiết kiệm giống (40%), diệt cỏ dễ hơn, do đó hình thức này đang
được ứng dụng rộng rãi ở các tỉnh đồng bằng Sông Cửu Long và các tỉnh miền
Trung, (Lê Sỹ Hùng, 2005).
- Gieo hốc: Là hình thức gieo mà cây lúa mọc thành khóm như lúa cấy, mật
độ hạt phân bốđều, không khí thông thoáng, tiếp thu ánh sáng tốt,tạo điều kiện cho
cây lúa đẻ nhánh. Cây lúa là cây ưa ánh sáng, cường độ ánhsáng lớn sẽ làm tăng
năng suất lúa, nhất là vào giai đoạn từ 30 - 45 ngày cuối của thời kỳsinh trưởng sinh
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 14


thực. Nhiều tài liệu nghiên cứu cho thấy trong tháng cuối trước lúc thu hoạch
nếuđược 200 giờ chiếu sáng, trung bình 7 giờ trong ngày thì lúa sẽ cho năng suất
cao. Khigieo hốc khoảng cách hốc và khoảng cách hàng vừa là chỗ để di chuyển,
vừa là nơi đặt công cụ làm cỏ, sục bùn có hiệu quả cho cây lúa phát triển. Hơn nữa
ở những vùng kết hợp nuôi cá, tôm tạo điều kiện cho cá, tôm bơi qua các hàng lúa
tìm thức ăn dễ dàng, đồng thời tác động tốt cho cây lúa sinh trưởng, phát triển, đảm
bảo hiệu quả kinh tế. Hiện nay hình thức này đang được sử dụng ở một số nơi thuộc
khu vực đồng bằng Sông Cửu long.
- Cấy bằng mạ dược: Là phương pháp cấy lúa truyền thống, chi phí sản suất
cao vì phải tốn công nhổ mạ và khó cơ giới hoá.
- Cấy bằng mạ ném: Mạ được gieo vào trong các khay nhựa có các hốc bầu,
khi mạ được 3- 4 lá thì ném ra ruộng cấy. Ưu điểm chính của mạ ném là: Bầu mạ

khi ném không bị tổn thương rễ và không chìm sâu nên đẻ nhánh tốt, nhưng có
nhược điểm: Bầu mạ sau khi ném không đồng đều, không có hàng lối, chỗ dày chỗ
thưa nên không phát huy được hiệu ứng ánh sáng, tỉ lệ hạt lép nhiều dễ nhiễm sâu
bệnh; Khi ném (bằng máy hoặc bằng tay) phụ thuộc rất nhiều vào thời thiết và phải
tốn công cấy dặm nên năng suất lao động không cao, hệ thống máy để cơ giới hoá
mạ ném rất cồng kềnh và phức tạp.
- Cấy lúa từ mạ khay: Là hướng phát triển chính hiện nay, nó thích hợp với
nhiều vùng ở Việt Nam vì có nhiều ưu điểm, tránh được khuyết điểm của lúa gieo
thẳng và mạ ném như: Rễ không bị tổn thương khi cấy, diện tích mạ ít, dễ thâm
canh, chủ động thời tiết, năng suất lúa cao, ổn định và đặc biệt là dễ dàng cơ giới
hoá cho khâu làm mạ và khâu cấy máy.
1.2.2 Kết quả nghiên cứu về sản xuất mạ khay trên thế giới.
Nhật Bản là nước đầu tiên trên thế giới nghiên cứu một phương pháp làm mạ
thảm khác hẳn phương pháp làm mạ dược truyền thống, rất phù hợp cho máy cấy,
năng suất cao, chất lượng cấy tốt, có thể áp dụng cơ giới hoá toàn bộ cho quá trình
sản xuất từ làm mạ đến máy cấy và đã thành công.
Quá trình sản xuất mạ thảm của Nhật Bản: Dùng đất bột khô trộn với nước
phân dải lên khay nhựa sau đó gieo thóc giống đã nứt nanh với mật độ dày, tưới
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 15


nước rồi phủ một lớp đất mỏng. Xếp các khay trồng lên nhau trong nhà ẩm từ 2-3
ngày. Khi mạ mọc như mũi chông, mang khay ra khu ruộng nuôi mạ. Hàng ngày
tưới nước, phòng trừ sâu bệnh. Khi mạ đạt những yêu cầu nông học thì mang ra
ruộng để cấy. Có thể sản xuất mạ non 2,5- 2,7 lá, mạ trung (từ 3- 4 lá) thích hợp
với từng vùng khác nhau bằng cách thay đổi mật độ gieo và thời gian nuôi mạ. Mạ
khay gieo dày nên tiết kiệm được diện tích, giống và công chăm sóc, mạ non khi
cấy có bầu đất nên không mất thời gian phục hồi, cây sinh trưởng nhanh, khoẻ, đẻ

nhánh nhiều.
Nhật Bản rất chú trọng đến nghiên cứu quy trình công nghệ để sản xuất mạ
tốt. Vì mạ là nguyên nhân chính quyết định chất lượng cấy. Họ đi sâu nghiên cứu
các chỉ tiêu sinh trưởng, sinh lý của cây mạ trong khay; các yếu tố ảnh hưởng đến
quá trình sinh trưởng của mạ, tìm ra các giá trị tối ưu của từng yếu tố như tính chất
cơ học, độ pH, độ mùn của đất, giống lúa, khả năng kháng mầm bệnh, và các biện
pháp phòng trừ mầm bệnh, nhiệt độ, độ ẩm không khí, tuổi mạ, mật độ gieo… ở
từng thời kỳ. Từ đó nghiên cứu sản xuất các hệ thống thiết bị sản xuất mạ đáp ứng
được các yêu cầu thích hợp của chúng. Một dây chuyền máy đồng bộ cơ giới hoá
sản xuất mạ tự động từ xử lý hạt giống, nghiền đất, rải đất, gieo mộng, tưới nước, hệ
thống nhà ẩm, khu ruộng nuôi mạ nhanh chóng được các nhà nghiên cứu cho ra đời;
dây chuyền sản xuất mạ 8R 550 do hãng Kubuta sản xuất với 6- 7 công nhân phục
vụ, một giờ có thể sản xuất được 1000 khay mạ, đủ cấy cho 4- 5 ha ruộng . Cũng từ
đây Nhật Bản đã xây dựng các trung tâm sản xuất mạ mang tính chất công nghiệp
chất lượng cao, (Lê Sỹ Hùng, 2005).
Trong điều kiện nông học của Hàn Quốc, sau khi khảo nghiệm và đánh giá
mức độ phù hợp cơ giới hoá làm mạ khay và cấy lúa của Nhật Bản ở đầu những
năm 1970. Các Công ty máy cấy Hàn Quốc nhanh chóng chế tạo dây chuyền tự
động hoá sản xuất mạ và máy cấy phù hợp với điều kiện của của mình và phổ biến
nhanh trong sản xuất. Đến nay, Hàn Quốc cũng đã áp dụng công nghệ cao trong sản
xuất mạ khay máy cấy nhằm giảm chi phí, tăng năng suất lao động, tăng năng suất,
hiệu quả trồng lúa.
Đài Loan và Hàn Quốc là hai nước đi đầu áp dụng công nghệ mạ khay của
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 16


Nhật Bản. Việc sản xuất mạ khay ở Đài Loan chủ yếu từ các Trung tâm sản xuất mạ
khay, trong đó hầu hết các công việc được làm bằng máy và đồng bộ từ khâu ủ mạ,

gieo mạ đến vận chuyển mạ ra khu ruộng nuôi. Mạ được cung cấp theo hợp đồng
đặt trước cho nông dân mang về có thể dùng máy riêng hoặc thuê máy của trung
tâm để cấy. Trung tâm sản xuất mạ do tư nhân (thường là do vốn của một số gia
đình) đứng ra thành lập để sản xuất kinh doanh mạ. Đây là công nghệ có hiệu quả
về kinh tế và xã hội nên chính phủ đưa ra nhiều chính sách để khuyến khích phát
triển. Ví dụ: Tổng chi phí cho việc thành lập một trung tâm sản xuất mạ khay (cung
cấp cho khoảng 150- 200 ha lúa cấy) khoảng 700.000 nhân dân tệ (NT$). Trong giai
đoạn đầu tư năm 1973 mỗi trung tâm được nhà nước trợ cấp hoàn toàn 120.000
NT$ và được vay ngân hàng 350.000 NT$ với lãi suất ưu đãi 6,5%/năm trong thời
hạn 7 năm. Số lượng các Trung tâm sản xuất mạ phát triển rất nhanh, khởi đầu năm
1973 thì sau 13 năm (1986) toàn quốc đã có 1.145 Trung tâm cung cấp khoảng 70%
sản lượng mạ cho nông dân, (Lê Sỹ Hùng, 2005).
Bảng 1.6:Tốc độ phát triển các Trung tâm sản xuất mạ khay tại Đài Loan
Số TT sản

Số hộ nông dân

Diện tích lúa

được cung cấp mạ

cấy được (ha)

1973

xuất mạ
7

1974


23

3.486

4.233

0,4

1975

45

8.237

9.885

2,0

1976

83

17.162

20.115

4,0

1977


227

46.498

50.609

11,0

1978

352

67.880

76.597

17,0

1979

447

72.190

81.311

18,0

1980


549

12.430

113.406

25,0

1981

673

149.000

169.546

37,0

1982

842

234.600

215.500

47,0

1983


972

297.500

282.250

62,0

1984

1.082

307.191

295.392

64,0

1985

2.225

322.265

299.839

65,0

Năm


Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Tỷ lệ (%)

Page 17


1986

1.145

315.432

311.524

68,0

Nhờ có các Trung tâm sản xuất mạ, các chủ trang trại cỡ lớn không còn bận
tâm đến khâu sản xuất mạ, lo lắng về thời tiết giá rét. Còn với các hộ nông dân cỡ
nhỏ thì có thêm thời gian để làm các công việc phi nông nghiệp, tăng thêm thu
nhập. Một số nông dân có máy cấy thì mua mạ của các Trung tâm để làm dịch vụ
cung cấp mạ và cấy cho các hộ khác nhờ đó nâng cao được hiệu quả sử dụng của
máy cấy. Ở miền Nam Đài Loan, khí hậu ấm áp thời vụ cấy sớm hơn miền Bắc từ
20- 30 ngày, tiền công lao động rẻ, đồng thời giữa hai miền Nam, Bắc lại có đường
cao tốc hiện đại nên các Trung tâm sản xuất mạ khay cỡ lớn ở miền Nam sau khi
hoàn thành việc sản xuất mạ cho địa phương, có thể làm tiếp đợt mạ nữa để cung
cấp cho miền Bắc, họ chở cả máy cấy và mạ để cấy thuê cho các trang trại miền
Bắc. Do sản xuất mạ kiểu công nghiệp với quy mô lớn có lợi nhuận khá cao nên
giữa các Trung tâm sản xuất mạ có sự canh tranh quyết liệt. Các máy móc thiết bị
và quy trình công nghệ sản xuất mạ luôn được cải tiến và hoàn thiện để tự động hoá,

mở rộng quy mô nhằm nâng cao năng suất chất lượng mạ, hạ giá thành sản phẩm,
ngoài ra các Trung tâm còn sử dụng thời gian còn lại để sản xuất các loại cây giống
khác như giống rau, hoa … để khai thác có hiệu quả máy móc thiết bị và nhân công.
Trung Quốc coi sản xuất mạ khay là một công nghệ tiên tiến để làm mạ thâm
canh cây lúa. Họ chế tạo các thiết bị đồng bộ để có dây chuyền sản xuất mạ khay,
dùng nhà kính che phủ để khống chế nhiệt độ trong nhà nuôi mạ tự động. Năm 2000
số dây chuyền thiết bị sản xuất mạ khay là 58.805 bộ, sản suất được 42.980 ha mạ.
Trong đó riêng tỉnh Cát Lâm và Hắc Long Giang (phía bắc Trung Quốc) chiếm tới
52,3% diện tích cấy, các tỉnh khác ở phía nam Trung Quốc như Giang Tô, Trùng
Khánh, An Huy, Triết Giang, Hồ Nam cũng đang phát triển mạnh về sản xuất mạ
khay, (Lê Sỹ Hùng, 2005).
1.2.3 Kết quả nghiên cứu về sản xuất mạ khay ở Việt Nam
Trên thế giới, công nghệ sản xuất mạ khay không mới, nhiều quốc gia như
Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc đã áp dụng trên diện rộng từ lâu, nhưng ở Việt
Nam thì mới được áp dụng. Trong những năm gần đây,mô hình mạ khay, máy cấy
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 18


×