Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

đánh giá thực trạng và định hướng sử dụng đất nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá trên địa bàn huyện duy tiên, tỉnh hà nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (12.5 MB, 116 trang )

MỤC LỤC

Lời cam đoan

i

Lời cảm ơn

ii

Mục lục

iii

Danh mục các chữ viết tắt và ký hiệu

vi

Danh mục các bảng

vii

Danh mục các hình

viii

MỞ ĐẦU

1

1.1 Tính cấp thiết của đề tài



1

1.2 Mục đích nghiên cứu

2

1.3 Yêu cầu

3

Chương 1 TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

4

1.1 Một số vấn đề lý luận về sử dụng đất

4

1.1.1 Đất nông nghiệp và tình hình sử dụng đất nông nghiệp

4

1.1.2 Nông nghiệp vùng khí hậu nhiệt đới

5

1.2 Những vấn đề về hiệu quả sử dụng đất và đánh giá hiệu quả sử dụng đất
nông nghiệp


6

1.2.1 Khái quát về hiệu quả và hiệu quả sử dụng đất

6

1.2.2 Đặc điểm, phương pháp đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp

8

1.3 Sử dụng đất nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá

11

1.3.1 Những xu hướng phát triển nông nghiệp trên thế giới

11

1.3.2 Phương hướng phát triển nông nghiệp Việt Nam trong những năm tới

13

1.3.3 Xây dựng nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá

15

1.4 Các nghiên cứu liên quan đến nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông
nghiệp và phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hoá

26


1.4.1 Các nghiên cứu trên thế giới

26

1.4.2 Những nghiên cứu ở Việt Nam

28

iii


Chương 2. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG
PHÁP NGHIÊN CỨU

32

2.1 Đối tượng và địa điểm nghiên cứu

32

2.2 Nội dung nghiên cứu

32

2.2.1 Điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội có liên quan đến sử dụng đất đai

32

2.2.2 Thực trạng sử dụng đất nông nghiệp


32

2.2.3 Thực trạng sản xuất nông nghiệp hàng hóa trên địa bàn nghiên cứu:

33

2.2.4 Định hướng sử dụng đất nông nghiệp huyện Duy Tiên theo hướng
sản xuất hàng hóa

33

2.3 Phương pháp nghiên cứu

33

2.3.1 Phương pháp chọn điểm nghiên cứu

33

2.3.2 Phương pháp thu thập số thứ cấp

34

2.3.3 Phương pháp xác định hệ thống chỉ tiêu để đánh giá hiệu quả sử
dụng đất nông nghiệp.

35

2.3.4 Phương pháp so sánh xử lý số liệu


38

Chương 3 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN

39

3.1 Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế- xã hội huyện Duy Tiên.

39

3.1.1 Điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên và cảnh quan môi trường

39

3.1.2 Điều kiện kinh tế - xã hội

44

3.1.3 Hiện trạng sử dụng đất năm 2014 của huyện Duy Tiên

51

3.1.4 Đánh giá chung

52

3.2 Thực trạng sử dụng đất nông nghiệp huyện Duy Tiên

53


3.2.1 Hiện trạng và biến động trong sử dụng đất nông nghiệp

53

3.2.2 Thực trạng các loại hình sử dụng đất nông nghiệp

54

3.2.3 Hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp huyện Duy Tiên

57

3.3 Thực trạng sản xuất nông nghiệp hàng hoá

72

3.3.1 Thực trạng tiêu thụ sản phẩm

72

3.3.2 Thị trường và nhu cầu sản phẩm nông nghiệp

73

3.3.3 Vùng sản xuất nông nghiệp hàng hoá

74

iv



3.4 Định hướng sử dụng đất nông nghiệp huyện Duy Tiên theo hướng sản
75

xuất hàng hóa
3.4.1 Quan điểm sử dụng đất

75

3.4.2 Các căn cứ lựa chọn các loại hình sử dụng đất

77

3.4.3 Định hướng sử dụng đất nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá

78

3.4.4 Một số giải pháp nhằm định hướng sử dụng đất nông nghiệp theo
hướng sản xuất hàng hóa huyện Duy Tiên

80

KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ

84

Kết luận

84


Kiến nghị

85

TÀI LIỆU THAM KHẢO

86

PHỤ LỤC

89

v


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT VÀ KÝ HIỆU
TT

Chữ viết tắt

Chữ viết đầy đủ

1

BVTV

Bảo vệ thực vật

2


CAQ

Cây ăn quả

3

CNH - HĐH

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá

4

CPTG

Chi phí trung gian

5

ĐBSH

Đồng bằng sông Hồng

6

GTGT

Giá trị gia tăng

7


GTSX

Giá trị sản xuất

8

HQĐV

Hiệu quả đồng vốn đầu tư

9



Lao động

10

LX - LM

Lúa xuân – lúa mùa

11

LUT

Loại hình sử dụng đất

12


NN & PTNT

Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

13

NTTS

Nuôi trồng thuỷ sản

14

RM

Rau màu

vi


DANH MỤC CÁC BẢNG
TT

Tên bảng

Trang

2.1

Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế


37

2.2

Tiểu chuẩn đánh giá hiệu quả xã hội của các LUT

37

3.1

Cơ cấu kinh tế huyện Duy Tiên giai đoạn 2006-2014

44

3.2

Dân số huyện Duy Tiên giai đoạn 2010 – 2014

48

3.3

Hiện trạng sử dụng đất huyện Duy Tiên năm 2014

51

3.4

Hiện trạng và biến động sử dụng đất nông nghiệp


53

3.5

Thực trạng các cây trồng chính huyện Duy Tiên

54

3.6

Hiện trạng các loại hình sử dụng đất huyện Duy Tiên

56

3.7

Hiệu quả sử dụng đất các loại hình sử dụng đất tiểu vùng 1

58

3.8

Hiệu quả sử dụng đất các loại hình sử dụng đất tiểu vùng 2

60

3.9

Tổng hợp mức đầu tư lao động và thu nhập/ngày công tiểu vùng 1


62

3.10

Tổng hợp mức đầu tư lao động và thu nhập/ngày công và mức độ sản
xuất hàng hóa tiểu vùng 2

3.11

64

Tổng hợp mức đầu tư lao động và thu nhập bình quân trên ngày công
lao động của các LUT trên các tiểu vùng

65

3.12

Lượng phân bón cho một số cây trồng ở Duy Tiên

67

3.13

So sánh lượng thuốc BVTV thực tế và khuyến cáo trên cây trồng

68

3.14


Hiệu quả môi trường các LUT tại các tiểu vùng

69

3.15

Xác định các LUT có khả năng lựa chọn

71

3.16

Tỷ lệ hàng hóa và phương thức tiêu thụ các nông sản chính huyện
Duy Tiên

73

3.17

Định hướng các LUT phát triển theo hướng hàng hóa

74

3.18

Định hướng một số loại hình sử dụng đất đến năm 2020

79


vii


DANH MỤC CÁC HÌNH
TT

Tên hình

Trang

3.1

Sơ đồ hành chính huyện Duy Tiên

39

3.2

Biểu đồ Cơ cấu sử dụng đất năm 2014 huyện Duy Tiên

52

viii


MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai có vai trò quan trọng đối với mỗi quốc gia vì nó là nền tảng, là
môi trường sống của con người. Với sản xuất nông nghiệp, đất đai là tư liệu sản
xuất không thể thay thế được, không có đất thì không có sản xuất nông nghiệp.

Chính vì vậy, sử dụng đất là một phần hợp thành của chiến lược nông nghiệp
sinh thái và phát triển bền vững (Đặng Kim Sơn, Trần Công Thắng, 2005).
Nông nghiệp là hoạt động sản xuất cổ nhất và cơ bản nhất của loài người
(Nguyễn Văn Bộ, 2005). Hầu hết các nước trên thế giới đều phải xây dựng một nền
kinh tế xuất phát từ phát triển nông nghiệp, dựa vào khai thác các tiềm năng của đất,
lấy đó làm cơ sở phát triển các ngành khác. Vì vậy, việc tổ chức sử dụng nguồn tài
nguyên đất đai hợp lý, có hiệu quả theo quan điểm sinh thái và phát triển bền vững
đang trở thành vấn đề toàn cầu. Điều mà các nhà khoa học trên thế giới quan tâm là
làm thế nào để sản xuất ra nhiều lương thực, thực phẩm đáp ứng cho nhu cầu trong
khuôn khổ xã hội và kinh tế có thể thực hiện được. Nói cách khác, mục tiêu hiện
nay của loài người là phấn đấu xây dựng một nền nông nghiệp toàn diện về kinh tế xã hội, môi trường một cách bền vững.
Trong điều kiện các nguồn tài nguyên để sản xuất có hạn, diện tích đất nông
nghiệp ngày càng bị thu hẹp do sức ép của quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa và
sự gia tăng dân số thì mục tiêu nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp là hết
sức cần thiết, tạo ra giá trị lớn về kinh tế đồng thời tạo đà cho phát triển nông
nghiệp bền vững. Chính vì vậy, nông nghiệp hàng hóa là một nội dung trong Nghị
quyết Đại hội X của Đảng: “Xây dựng nền nông nghiệp hàng hóa mạnh, đa dạng và
bền vững dựa trên cơ sở phát huy các lợi thế so sánh, áp dụng khoa học công nghệ,
làm ra sản phẩm chất lượng cao đáp ứng nhu cầu đa dạng trong nước và tăng khả
năng cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường Quốc tế; nâng cao hiệu quả sử dụng đất, lao
động, vốn; tăng thu nhập và đời sống nhân dân” (Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ
10, 2006). Cuộc khủng hoảng lương thực toàn cầu diễn ra gần đây đã gây sức ép rất

1


lớn đến vấn đề sản xuất lương thực hiện nay. Nhiều nước trong đó có Việt Nam
đang phải nhìn lại vấn đề sử dụng đất để đáp ứng mục tiêu phát triển cân đối giữa
công nghiệp và nông nghiệp. Ngày 18/04/2008, chính phủ đã ban hành Quyết định
391/QĐ-TTg về rà soát, kiểm tra thực trạng việc quản lý quy hoạch, kế hoạch sử

dụng đất 5 năm từ 2005 – 2010 trên địa bàn cả nước, trong đó tập trung vào đất
nông nghiệp nói chung và đất chuyên trồng lúa nước nói riêng(Nguyễn Tấn Dũng,
2008). Tại khoản 1 điều 3, Quyết định nêu rõ: “Hạn chế tối đa việc chuyển đất
trồng lúa nước sử dụng vào mục đích phi nông nghiệp. Không xét quy hoạch chuyển
đất trồng lúa nước sang sử dụng vào mục đích sản xuất dịch vụ phi nông nghiệp ở
những địa phương có điều kiện sử dụng các loại đất này” (Nguyễn Tấn Dũng,
2008). Điều đó 1 lần nữa khẳng định xu hướng phát triển nông nghiệp hàng hoá bền
vững là hướng đi tất yếu đảm bảo phát triển đất nước lâu dài, ổn định.
Duy Tiên nằm trong vùng đồng bằng Sông Hồng. Mặc dù định hướng phát triển
của huyện tới năm 2020 sẽ phát triển thành đô thị loại 3 nhưng hiện nay sản xuất nông
nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng cao (chiếm 19,3% tổng thu nhập GDP của huyện), là nguồn
thu chủ yếu của nhân dân trong huyện. Hiện nay, áp lực về vấn đề lương thực đã giảm
xuống, tình trạng độc canh cây lúa ngày càng thu hẹp. Chuyển dịch cơ cấu giống cây
trồng diễn ra hầu hết ở các xã trong huyện, điển hình là các xã Trác Văn, xã Chuyên
Ngoại, xã Mộc Nam và xã Mộc Bắc. Từ đó tạo ra nhiều sản phẩm hàng hoá góp phần
hình thành một nền kinh tế mới - kinh tế hàng hoá. Từ những vấn đề khoa học và thực
tiễn sản xuất đang diễn ra ở huyện Duy Tiên như đã trình bày ở trên, để góp phần thực
hiện thành công các mục tiêu phát triển nông nghiệp của huyện đến năm 2020 và mục
tiêu lâu dài nhằm khai thác tốt nhất phát triển nền nông nghiệp hàng hoá. Chúng tôi đã
tiến hành nghiên cứu đề tài: “Đánh giá thực trạng và định hướng sử dụng đất nông
nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá trên địa bàn huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam”.
1.2. Mục đích nghiên cứu
- Đánh giá thực trạng sử dụng đất nông nghiệp huyện Duy Tiên.
- Đề xuất định hướng sử dụng đất nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá.

2


1.3. Yêu cầu
- Đánh giá hiệu quả kinh tế sử dụng đất nông nghiệp cho từng vùng được chọn

với những chỉ tiêu phù hợp với điều kiện cụ thể của huyện Duy Tiên.
- Các giải pháp đề xuất phải có cơ sở khoa học, phải phù hợp với đặc thù địa
phương, tập quán sản xuất và phải có tính khả thi.

3


Chương 1. TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Một số vấn đề lý luận về sử dụng đất
1.1.1. Đất nông nghiệp và tình hình sử dụng đất nông nghiệp
Lịch sử của thế giới đã chứng minh bất kỳ nước nào dù là nước phát triển
hay đang phát triển thì sản xuất nông nghiệp đều có vị trí quan trọng trong nền kinh
tế quốc dân, tạo ra sự ổn định xã hội và mức an toàn lương thực quốc gia. Đối với
các nước đang phát triển, sản phẩm từ nông nghiệp còn là nguồn tạo ra thu nhập
ngoại tệ, tạo nguồn thu lớn cho nền kinh tế. Tuỳ theo đặc điểm thời tiết, khí hậu, lợi
thế về vị trí địa lý của mình mà mỗi nước có thể lựa chọn những sản phẩm nông sản
phù hợp để xuất khẩu thu ngoại tệ hay trao đổi lấy sản phẩm công nghiệp để đầu tư
lại cho nông nghiệp và các ngành khác trong nền kinh tế quốc dân.
Theo Luật đất đai năm 2013, đất nông nghiệp được chia ra làm các nhóm đất
chính sau: đất sản xuất nông nghiệp, đất lâm nghiệp, đất nuôi trồng thuỷ sản, đất
làm muối và đất nông nghiệp khác (Luật đất đai 2013). Sự phân chia cụ thể này sẽ
giúp cho việc khai thác tiềm năng và nâng cao hiệu quả sử dụng của từng loại đất.
Cùng với việc phát triển mạnh mẽ kinh tế - xã hội, công nghệ, khoa học và
kỹ thuật, công năng của đất được khai thác triệt để và có vai trò quan trọng trong
cuộc sống của con người. Nhân loại đã có những bước tiến kỳ diệu làm thay đổi
diện mạo cuộc sống và chất lượng sống từng ngày. Nhưng vì chạy theo lợi nhuận
tối đa, sự phát triển nóng cục bộ, không có một chiến lược ổn định, bền vững nên
đã gây ra những mặt tiêu cực của sự phát triển, hậu quả tiêu cực như: ô nhiễm
môi trường, thoái hoá đất… Hàng năm gần 12 triệu ha rừng nhiệt đới bị tán phá
ở Châu Mỹ La Tinh và Châu Á. Cân bằng sinh thái bị phá vỡ, hàng triệu ha đất

đai bị hoang mạc hoá (Trần An Phong và cs, 2006). Sự thoái hoá đất đai tập
trung chủ yếu ở các nước đang phát triển.Theo kết quả điều tra của Liên Hợp
Quốc (UNDP ) và trung tâm thông tin nghiên cứu đất quốc tế (ISRIC), thế giới
có khoảng 13,4 tỷ ha đất thì đã có khoảng 2 tỷ ha đất bị hoang hoá ở các mức độ
khác nhau trong đó Châu Á và Châu Phi là 1,2 tỷ ha chiếm 62% tổng diện tích bị

4


thoái hoá (Đỗ Nguyên Hải, 2007).
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê năm 2014, Việt Nam có tổng diện
tích tự nhiên là 33.115 nghìn ha, dân số là 90.606,5 nghìn người, mật độ dân số
265 người/km2. Bình quân diện tích đất tự nhiên là 3.889 m2/người đứng thứ 9
trong khu vực. Trong đó đất nông nghiệp chỉ có 24.997,2 nghìn ha, bình quân
diện tích đất nông nghiệp là 2.899,55 m2/người, giá trị sản xuất nông nghiệp đạt
156.681,9 tỷ đồng, trong đó trồng trọt là 122,37 tỷ đồng, chăn nuôi đạt 30.938,6
tỷ đồng và nuôi trồng thủy sản là 3.367,6 tỷ đồng. Trong trồng trọt, cây lương
thực đạt giá trị sản xuất là 70.059,8 tỷ đồng; cây rau đậu đạt 10.560,4 tỷ đồng;
cây công nghiệp là 31.015,4 tỷ đồng và cây ăn quả đạt 9.083,7 tỷ đồng. Trong
năm 2013, diện tích cây lương thực có hạt là 8.542 nghìn ha, cây công nghiệp
hàng năm là 805,8 nghìn ha, cây công nghiệp lâu năm là 1.886,1 nghìn ha và cây
ăn quả là 775,3 nghìn ha (Tổng cục Thống kê, 2014).
1.1.2. Nông nghiệp vùng khí hậu nhiệt đới
Nông nghiệp nhiệt đới được tiến hành ở các vùng trong vành đai nhiệt đới.
Vùng nhiệt đới chiếm khoảng 1/3 diện tích lục địa với khoảng 1,4 tỷ ha đất có khả
năng sản xuất nông nghiệp. Điều kiện khí hậu, đất đai đặc biệt với hoàn cảnh kinh tế
xã hội tạo cho nông nghiệp nhiệt đới có những nét riêng biểu hiện trên các hệ thống
cây trồng, vật nuôi. Theo bách khoa toàn thư Việt Nam, khí hậu là yếu tố hạn chế
quyết định đến sự phát triển của hệ thống cây trồng. Vùng nhiệt đới ẩm, mưa nhiều,
tập trung gây dòng chảy và xói mòn nghiêm trọng. Đất đai phần lớn là màu mỡ

nhưng so với vùng ôn đới thì không tốt bằng vì ít chất mùn, các xác vi sinh vật mau
bị khoáng hoá. Khí hậu và đất nhiệt đới phần lớn thích hợp cho việc trồng cây lâu
năm, cà phê, chè, ca cao và các loại cây ăn quả nhiệt đới. Đối với những vùng đất
trũng, đất phù sa, đất giàu chất hữu cơ… rất thích hợp cho việc gieo trồng các giống
cây ngắn ngày, cây lương thực. Hiện nay, ở các vùng nhiệt đới, việc canh tác sử dụng
đất nông nghiệp theo hướng thâm canh cao, tăng năng suất, tăng vụ, áp dụng mạnh
mẽ các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Đây là những nguyên nhân gây tình
trạng thoái hoá đất, đất bị mất khả năng sản xuất. Điều đó đặt ra vấn đề là phát triển

5


sản xuất nông nghiệp đi đôi với bảo vệ cải tạo đất, xây dựng nền nông nghiệp hiệu
quả và bền vững (Bách khoa toàn thư Việt Nam).
1.2. Những vấn đề về hiệu quả sử dụng đất và đánh giá hiệu quả sử dụng đất
nông nghiệp
1.2.1. Khái quát về hiệu quả và hiệu quả sử dụng đất
1.2.1.1.Khái quát về hiệu quả
Có nhiều quan điểm khác nhau về hiệu quả. Trước đây, người ta thường quan
niệm kết quả chính là hiệu quả. Sau này, người ta nhận thấy rõ sự khác nhau giữa hiệu
quả và kết quả. Nói một cách chung nhất thì hiệu quả chính là kết quả như yêu cầu của
công việc mang lại (Từ điển tiếng việt, 1992).
Hiệu quả là kết quả mong muốn, cái sinh ra kết quả mà con người chờ đợi
hướng tới, nó có những nội dung khác nhau. Trong sản xuất, hiệu quả có nghĩa là
hiệu suất, là năng suất. Trong kinh doanh, hiệu quả là lãi suất, lợi nhuận. Trong lao
động nói chung, hiệu quả là năng suất lao động được đánh giá bằng số lượng thời
gian hao phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm, hoặc bằng số lượng sản phẩm
được sản xuất ra trong một đơn vị thời gian (Bách khoa toàn thư Việt Nam.
Kết quả là một đại lượng vật chất tạo ra do mục đích của con người, được
biểu hiện bằng những chỉ tiêu cụ thể, xác định. Do tính chất mâu thuẫn giữa nguồn

tài nguyên hữu hạn với nhu cầu tăng lên của con người mà ta phải xem xét kết quả
đó được tạo ra như thế nào? chi phí bỏ ra bao nhiêu? có đưa lại kết quả hữu ích hay
không? chính vì vậy khi đánh giá kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh không chỉ
dừng lại ở việc đánh giá kết quả mà phải đánh giá chất lượng hoạt động tạo ra sản
phẩm đó. Đánh giá chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh là nội dung của đánh
giá hiệu quả (Đỗ Thị Tám, 2001).
1.2.1.2. Hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp
Từ những khái niệm chung về hiệu quả, ta xem xét trong lĩnh vực sử dụng
đất thì hiệu quả là chỉ tiêu chất lượng đánh giá kết quả sử dụng đất trong hoạt
động kinh tế, thể hiện qua lượng sản phẩm, lượng giá trị thu được bằng tiền.
Đồng thời về mặt hiệu quả xã hội là thể hiện mức thu hút lao động trong quá

6


trình hoạt động kinh tế để khai thác sử dụng đất. Riêng đối với ngành nông
nghiệp, cùng với hiệu quả kinh tế về giá trị và hiệu quả về mặt sử dụng lao động
trong nhiều trường hợp phải coi trọng hiệu quả về mặt hiện vật là sản lượng nông
sản thu hoạch được, nhất là các loại nông sản cơ bản có ý nghĩa chiến lược
(lương thực, sản phẩm xuất khẩu…) để đảm bảo sự ổn định về kinh tế - xã hội
của đất nước (Bách khoa toàn thư Việt Nam).
Hiện nay, các nhà khoa học đều cho rằng, vấn đề đánh giá hiệu quả sử dụng
đất không chỉ xem xét đơn thuần ở một mặt hay một khía cạnh nào đó mà phải xem
xét trên tổng thể các mặt bao gồm: hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội và hiệu quả
môi trường.
* Hiệu quả kinh tế
Theo Các Mác thì quy luật kinh tế đầu tiên trên cơ sở sản xuất tổng thể là
quy luật tiết kiệm thời gian và phân phối có kế hoạch thời gian lao động theo các
ngành sản xuất khác nhau. Theo nhà kinh tế Samuel – Nordhuas thì “Hiệu quả là
không lãng phí”. Theo các nhà khoa học Đức (Stienier, Hanau, Rusteruyer,

Simmerman) hiệu quả kinh tế là chỉ tiêu so sánh mức độ tiết kiệm chi phí trong một
đơn vị kết quả hữu ích và mức tăng kết quả hữu ích của hoạt động sản xuất vật chất
trong một thời kỳ, góp phần làm tăng thêm lợi ích cho xã hội (Đỗ Thị Tám, 2001).
Hiệu quả kinh tế là phạm trù chung nhất, nó liên quan trực tiếp tới nền sản
xuất hàng hoá với tất cả các phạm trù và các quy luật kinh tế khác nhau. Vì thế, hiệu
quả kinh tế phải đáp ứng được 3 vấn đề:
- Một là mọi hoạt động của con người đều phải quan tâm và tuân theo quy
luật “tiết kiệm thời gian”;
- Hai là hiệu quả kinh tế phải được xem xét trên quan điểm của lý thuyết hệ thống;
- Ba là hiệu quả kinh tế là một phạm trù phản ánh mặt chất lượng của các
hoạt động kinh tế bằng quá trình tăng cường các nguồn lực sẵn có phục vụ các lợi
ích của con người.
Hiệu quả kinh tế được hiểu là mối tương quan so sánh giữa lượng kết quả đạt
được và lượng chi phí bỏ ra trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Kết quả đạt được

7


là phần giá trị thu được của sản phẩm đầu ra, lượng chi phí bỏ ra là phần giá trị của
nguồn lực đầu vào. Mối tương quan đó cần xem xét cả về phần so sánh tuyệt đối và
tương đối cũng như xem xét mối quan hệ chặt chẽ giữa hai đại lượng đó.
* Hiệu quả xã hội
Hiệu quả xã hội là mối tương quan so sánh giữa kết quả xét về mặt xã hội và
tổng chi phí bỏ ra. Hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội có mối quan hệ mật thiết với
nhau và là một phạm trù thống nhất. Theo Nguyễn Duy Tính, hiệu quả về mặt xã
hội của sử dụng đất nông nghiệp chủ yếu được xác định bằng khả năng tạo việc làm
trên một đơn vị diện tích đất nông nghiệp.
Hiệu quả xã hội được thể hiện thông qua mức thu hút lao động, thu nhập của
nhân dân... Hiệu quả xã hội cao góp phần thúc đẩy xã hội phát triển, phát huy được
nguồn lực của địa phương, nâng cao mức sống của nhân dân. Sử dụng đất phải phù

hợp với tập quán, nền văn hoá của địa phương thì việc sử dụng đất bền vững hơn.
* Hiệu quả môi trường
Hiệu quả môi trường được thể hiện ở chỗ: loại hình sử dụng đất phải bảo vệ
được độ màu mỡ của đất đai, ngăn chặn được sự thoái hoá đất bảo vệ môi trường
sinh thái. Độ che phủ tối thiểu phải đạt ngưỡng an toàn sinh thái (>35%) đa dạng
sinh học biểu hiện qua thành phần loài (Bùi Huy Hiền, Nguyễn Văn Bộ, 2001).
Hiệu quả môi trường được phân ra theo nguyên nhân gây nên, gồm: hiệu quả
hoá học, hiệu quả vật lý và hiệu quả sinh học môi trường (Đỗ Nguyên Hải, 1999).
1.2.2. Đặc điểm, phương pháp đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp
1.2.2.1. Đặc điểm
Nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp là rất cần thiết, có thể xem xét ở
các mặt (Đỗ Thị Tám, 2001):
+ Quá trình sản xuất trên đất nông nghiệp phải sử dụng nhiều yếu tố đầu vào
kinh tế. Vì thế, khi đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp trước tiên phải được
xác định bằng kết quả thu được trên một đơn vị diện tích cụ thể (thường là 1 ha),
tính trên 1 đồng chi phí, trên 1 công lao động.
+ Trên đất nông nghiệp có thể bố trí các cây trồng, các hệ thống luân canh,

8


do đó cần phải đánh giá hiệu quả từng loại cây trồng, từng công thức luân canh.
+ Thâm canh là biện pháp sử dụng đất nông nghiệp theo chiều sâu, tác động
đến hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp trước mắt và lâu dài. Vì thế, cần phải nghiên
cứu hậu quả của việc sử dụng phân bón và thuốc trừ sâu, nghiên cứu ảnh hưởng của
việc tăng đầu tư thâm canh đến quá trình sử dụng đất.
+ Phát triển nông nghiệp chỉ có thể thích hợp được khi con người biết làm
cho môi trường cùng phát triển. Do đó, khi đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông
nghiệp cần quan tâm đến những ảnh hưởng của sản xuất nông nghiệp đến môi
trường xung quanh.

+ Hoạt động sản xuất nông nghiệp mang tính xã hội rất sâu sắc. Vì vậy, khi
đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp cần quan tâm đến những tác động của
sản xuất nông nghiệp đến các vấn đề xã hội khác như: giải quyết việc làm, tăng thu
nhập, nâng cao trình độ dân trí nông thôn…
1.2.2.2. Nguyên tắc lựa chọn chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp
Việc lựa chọn các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp cần
phải dựa trên những nguyên tắc cụ thể:
+ Hệ thống các chỉ tiêu phải có tính thống nhất, toàn diện và tính hệ thống.
Các chỉ tiêu phải có mối quan hệ hữu cơ với nhau, phải đảm bảo tính so sánh có
thang bậc (Nguyễn Đình Hợi, 1993).
+ Để đánh giá chính xác, toàn diện cần phải xác định các chỉ tiêu cơ bản
biểu hiện hiệu quả một cách khách quan, chân thật và đúng đắn theo quan điểm
và tiêu chuẩn đã chọn, các chỉ tiêu bổ sung để hiệu chỉnh chỉ tiêu cơ bản làm cho
nội dung kinh tế biểu hiện đầy đủ hơn, cụ thể hơn (Vũ Khắc Hòa, 1996).
+ Các chỉ tiêu phải phù hợp với đặc điểm và trình độ phát triển nông nghiệp
ở nước ta, đồng thời có khả năng so sánh quốc tế trong quan hệ đối ngoại, nhất là
những sản phẩm có khả năng hướng tới xuất khẩu.
+ Hệ thống các chỉ tiêu phải đảm bảo tính thực tiễn, tính khoa học và phải có
tác dụng kích thích sản xuất phát triển.

9


1.2.2.3. Hệ thống các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp
Bản chất của hiệu quả là mối quan hệ giữa kết quả và chi phí. Mối quan hệ
này là mối quan hệ hiệu số hoặc là quan hệ thương số. Dạng tổng quát của hệ thống
chỉ tiêu hiệu quả sẽ là:
H=K-C
H = K/C
H = (K - C)/C

H = (K1 - K0)/(C1 - C0)
Trong đó:
+ H: Hiệu quả
+ K: Kết quả
+ C: Chi phí
+ 1, 0 là chỉ số thời gian (năm)
* Hiệu quả kinh tế
+ Hiệu quả kinh tế tính trên 1 ha đất nông nghiệp
- Giá trị sản xuất (GTSX): là toàn bộ giá trị sản phẩm vật chất và dịch vụ
được tạo ra trong 1 kỳ nhất định (thường là một năm).
- Chi phí trung gian (CPTG): là toàn bộ các khoản chi phí vật chất thường
xuyên bằng tiền mà chủ thể bỏ ra để thuê và mua các yếu tố đầu vào và dịch vụ sử
dụng trong quá trình sản xuất.
- Giá trị gia tăng (GTGT): là hiệu số giữa giá trị sản xuất và chi phí trung
gian, là giá trị sản phẩm xã hội tạo ra thêm trong thời kỳ sản xuất đó.
GTGT = GTSX - CPTG
+ Hiệu quả kinh tế tính trên 1 đồng chi phí trung gian (GTSX/CPTG,
GTGT/CPTG): đây là chỉ tiêu tương đối của hiệu quả, nó chỉ ra hiệu quả sử dụng
các chi phí biến đổi và thu dịch vụ.
+ Hiệu quả kinh tế trên ngày công lao động quy đổi, gồm có (GTSX/LĐ,
GTGT/LĐ). Thực chất là đánh giá kết quả đầu tư lao động sống cho từng kiểu
sử dụng đất và từng cây trồng làm cơ sở để so sánh với chi phí cơ hội của

10


người lao động.
* Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả xã hội
Hiệu quả xã hội được phân tích bởi các chỉ tiêu sau(Nguyễn Đình Hợi, 1993):
+ Đảm bảo an toàn lương thực, gia tăng lợi ích của người nông dân;

+ Đáp ứng mục tiêu chiến lược phát triển của vùng;
+ Thu hút nhiều lao động, giải quyết công ăn việc làm cho nông dân;
+ Góp phần định canh định cư, chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật.
* Các chỉ tiêu về hiệu quả môi trường
Theo Đỗ Nguyên Hải (Đỗ Nguyên Hải, 1999), chỉ tiêu đánh giá chất lượng
môi trường trong quản lý sử dụng đất bền vững ở vùng nông nghiệp được tưới là:
+ Quản lý đối với đất đai rừng đầu nguồn;
+ Đánh giá các tài nguyên nước bền vững;
+ Đánh giá quản lý đất đai;
+ Đánh giá hệ thống cây trồng;
+ Đánh giá về tính bền vững đối với việc duy trì độ phì nhiêu của đất và bảo
vệ cây trồng;
+ Đánh giá về quản lý và bảo vệ tự nhiên;
+ Sự thích hợp của môi trường đất khi thay đổi kiểu sử dụng đất.
Việc xác định hiệu quả về mặt môi trường của quá trình sử dụng đất nông
nghiệp là rất phức tạp, rất khó định lượng, nó đòi hỏi phải được nghiên cứu, phân
tích trong thời gian dài. Vì vậy, đề tài nghiên cứu của chúng tôi chỉ dừng lại ở việc
đánh giá hiệu quả môi trường thông qua kết quả điều tra về việc đầu tư phân bón,
thuốc bảo vệ thực vật và nhận xét của nông dân đối với các loại hình sử dụng đất
hiện tại.
1.3. Sử dụng đất nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá
1.3.1. Những xu hướng phát triển nông nghiệp trên thế giới
Theo Đường Hồng Dật, trên con đường phát triển nông nghiệp mỗi nước đều
chịu ảnh hưởng của các điều kiện khác nhau, nhưng phải giải quyết vấn đề chung sau:
+ Không ngừng nâng cao chất lượng nông sản, năng suất lao động trong
nông nghiệp, nâng cao hiệu quả đầu tư;

11



+ Mức độ và phương thức đầu tư vốn, lao động, khoa học và quá trình phát
triển nông nghiệp. Chiều hướng chung nhất là phấn đấu giảm lao động chân tay,
đầu tư nhiều lao động trí óc, tăng cường hiệu quả của lao động quản lý và tổ chức;
+ Mối quan hệ giữa phát triển nông nghiệp và môi trường.
Từ những vấn đề chung trên, mỗi nước lại có chiến lược phát triển nông
nghiệp khác nhau và có thể chia làm hai xu hướng:
* Nông nghiệp sinh thái: khái niệm nông nghiệp sinh thái được đưa ra nhằm
khắc phục những nhược điểm của nông nghiệp công nghiệp hoá. Nông nghiệp sinh
thái nhấn mạnh việc đảm bảo tuân thủ những nguyên tắc về sinh học trong nông
nghiệp. Mục tiêu của nông nghiệp sinh thái là:
- Tránh những tác hại do sử dụng hoá chất và phương pháp công nghiệp gây ra;
- Cải thiện chất lượng dinh dưỡng thức ăn;
- Nâng cao độ phì nhiêu của đất bằng phân bón hữu cơ, tăng hàm lượng mùn
trong đất…
- Giảm thiểu ô nhiễm môi trường đất, nước, không khí (Bách khoa toàn thư
Việt Nam.
Gần đây nhiều nhà khoa học đã nghiên cứu nền nông nghiệp bền vững, đó là
một dạng của nông nghiệp sinh thái với mục tiêu sản xuất nông nghiệp đi đôi với
giữ gìn bảo vệ môi trường sinh thái đảm bảo cho nông nghiệp phát triển bền vững,
lâu dài. Trong thực tế phát triển theo những dạng tổng hợp, đan xen các xu hướng
vào nhau ở nhiều mức độ khác nhau.
Từ những bài học của lịch sử phát triển nông nghiệp, những thành tựu đạt
được của khoa học công nghệ, ở giai đoạn hiện nay muốn đưa nông nghiệp đi lên
phải xây dựng và thực hiện một nền nông nghiệp trí tuệ. Bởi vì, tính phong phú đa
dạng và đầy biến động của nông nghiệp đòi hỏi những hiểu biết và những xử lý đầy
trí tuệ và rất biện chứng. Nông nghiệp trí tuệ thể hiện ở việc phát hiện, nắm bắt và
vận dụng các quy luật tự nhiên và xã hội trong mọi mặt hoạt động của hệ thống
nông nghiệp phong phú, biểu hiện ở việc áp dụng các giải pháp phù hợp, khoa học.
Nông nghiệp trí tuệ là bước phát triển ở mức cao, là sự kết hợp ở đỉnh cao của các


12


thành tựu sinh học, công nghiệp, kinh tế, quản lý được vận dụng phù hợp với điều
kiện của mỗi nước, mỗi vùng (Nguyễn Văn Bộ, 2000).
* Nông nghiệp công nghiệp hoá: sử dụng nhiều thành tựu và kết quả của
công nghiệp, sử dụng nhiều vật tư kỹ thuật, dùng trang thiết bị máy móc sản xuất
theo quy trình kỹ thuật chặt chẽ gần như công nghiệp, đạt năng suất cây trồng vật
nuôi và năng suất lao động cao. Khoảng 10% lao động xã hội trực tiếp làm nông
nghiệp nhưng vẫn đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu. Tuy nhiên, nông
nghiệp công nghiệp hoá gây nên nhiều hậu quả sinh thái nghiêm trọng, gây ô nhiễm
môi trường làm giảm tính đa dạng sinh học, làm hao hụt nguồn gen thiên nhiên
(Bách khoa toàn thư Việt Nam).
Theo cách hiểu gần đây nhất được đưa ra: nông nghiệp công nghiệp hoá là
một nền nông nghiệp được công nghiệp hoá khi áp dụng đầy đủ các thành tựu của
một xã hội công nghiệp vào nông nghiệp. Các thành tựu đó thể hiện trên nhiều mặt:
thông tin, điện tử, sinh học, hoá học, cơ khí… Thực tế cho thấy ở nhiều nước công
nghiệp phát triển, nền nông nghiệp công nghiệp hoá thể hiện theo cách này đã đạt
được nhiều thành tựu đáng kể. Tuy nhiên, nhược điểm của nền nông nghiệp này là
không chú ý đầy đủ đến các tác động của hoạt động sản xuất nông nghiệp lên môi
trường tự nhiên (Nguyễn Văn Bộ, 2000).
1.3.2. Phương hướng phát triển nông nghiệp Việt Nam trong những năm tới
Những năm gần đây, nền nông nghiệp nước ta bước đầu đã gắn phương thức
truyền thống với phương thức công nghiệp hoá và đang từng bước giảm bớt tính tự
cấp, tự túc, chuyển dần sang sản xuất hàng hoá và hướng tới xuất khẩu.
Trên cơ sở thành tựu kỹ thuật nông nghiệp của hơn 20 năm đổi mới, dựa trên
những dự báo về khoa học kỹ thuật, căn cứ vào điều kiện cụ thể, phương hướng chủ
yếu phát triển nông nghiệp Việt Nam trong 10 năm tới do Bộ Nông nghiệp và phát
triển nông thôn đề ra (Bộ NN & PTNT, 2009):
* Mục tiêu phát triển nông nghiệp giai đoạn 2011-2015: phục hồi tăng

trưởng, tăng hiệu quả sản xuất nông nghiệp; phát huy dân chủ cơ sở, huy động sức
mạnh cộng đồng để phát triển nông thôn; tăng thu nhập và giảm đáng kể tỷ lệ

13


nghèo, bảo vệ môi trường
- Tốc độ tăng trưởng nông nghiệp ổn định 3,3-3,8%. Tạo chuyển biến rõ rệt
về mở rộng quy mô sản xuất bình quân của hộ và ứng dụng khoa học công nghệ.
- Tạo bước đột phá trong đào tạo nhân lực. Nâng cao cả kiến thức, kỹ
năng sản xuất kinh doanh nông lâm ngư nghiệp và phi nông nghiệp cho lao
động nông thôn.
- Tạo chuyển biến rõ rệt phát triển kinh tế hợp tác, hiệp hội, phát triển liên
kết dọc theo ngành hàng, kết nối giữa sản xuất - chế biến - kinh doanh. Phát triển
doanh nghiệp nông thôn.
- Hình thành kết cấu hạ tầng căn bản phục vụ hiệu quả sản xuất nông nghiệp,
phát triển kinh tế nông thôn. Cải thiện căn bản môi trường và sinh thái nông thôn
tập trung vào đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, phòng chống dịch bệnh cho cây
trồng và vật nuôi, phòng chống thiên tai.
* Mục tiêu phát triển nông nghiệp giai đoạn 2016-2020: phát triển nông
nghiệp theo hướng toàn diện, hiện đại, sản xuất hàng hóa lớn, vững bền; phát triển
nông thôn gắn với quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa đất nước, tăng thu nhập và
cải thiện căn bản điều kiện sống của cư dân nông thôn, bảo vệ môi trường
- Đảm bảo duy trì tốc độ tăng trưởng nông nghiệp ở mức bình quân 3,54%/năm. Hình thành một số ngành sản xuất kinh doanh mũi nhọn của Việt Nam
trên thị trường quốc tế.
- Cơ cấu sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn chuyển đổi theo nhu cầu
thị trường. Phát triển chăn nuôi, thủy sản và lâm nghiệp. Công nghiệp, dịch vụ và
kinh tế đô thị phối hợp hiệu quả với sản xuất và kinh doanh nông nghiệp và phát
triển kinh tế nông thôn.
- Chuyển phần lớn lao động nông thôn ra khỏi nông nghiệp, lao động nông

nghiệp còn khoảng 30% lao động xã hội. Hình thành đội ngũ nông dân chuyên
nghiệp, có kỹ năng sản xuất và quản lý, gắn kết trong các loại hình kinh tế hợp tác
và kết nối với thị trường.
- Phong trào xây dựng nông thôn mới phát triển mạnh với ít nhất 50% số

14


xã đạt tiêu chuẩn. Nâng cao thu nhập của cư dân nông thôn lên 2,5 lần so với
hiện nay. Quy hoạch dân cư, quy hoạch lãnh thổ nông thôn gắn với phát triển đô
thị, công nghiệp.
- Phát triển lâm nghiệp tăng độ che phủ của rừng lên 43- 45%, bảo vệ đa
dạng sinh học, đảm bảo đánh bắt thủy sản nội địa và gần bờ trong khả năng tái tạo
và phát triển, khắc phục tình trạng ô nhiễm trong sản xuất nông nghiệp, khắc phục
và giảm thiểu thiệt hại thiên tai, dịch bệnh và các tác động xấu của biến đổi khí hậu
(Bộ NN & PTNT, 2009).
1.3.3. Xây dựng nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá
1.3.3.1. Sự cần thiết xây dựng nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá
Nông nghiệp là một hoạt động sản xuất mang tính chất cơ bản của mỗi
quốc gia (Nguyễn Đình Hợi, 1993). Nhiều nước trên thế giới có nền kinh tế phát
triển, tỉ trọng của sản xuất công nghiệp và dịch vụ trong thu nhập quốc dân
chiếm phần lớn, nông nghiệp chỉ chiếm một phần nhỏ. Nhưng những khó khăn,
trở ngại trong nông nghiệp đã gây ra không ít những xáo động đến đời sống xã
hội và ảnh hưởng sâu sắc đến tốc độ tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế nói
chung (Lê Ngọc Dương, Trần Công Tá, 1999). Để nông nghiệp có thể thực hiện
vai trò quan trọng của mình đối với nền kinh tế quốc dân đòi hỏi nông nghiệp
phát triển toàn diện, mạnh mẽ và vững chắc.
Hai mươi năm qua, hàng nông sản Việt Nam đã được xuất khẩu đi nhiều
nước, nhiều mặt hàng nằm trong tốp đứng đầu thế giới. Theo thống kê năm 2010, một
số mặt hàng nông sản xuất khẩu với khối lượng lớn như: hạt tiêu đạt 83 nghìn tấn,

chè đạt 114 nghìn tấn, cao su là 715 nghìn tấn, gạo đạt 4.568 nghìn tấn, cà phê đạt
1.229 nghìn tấn, hạt điều là 153 nghìn tấn... Gia nhập WTO, Việt Nam có một thị
trường khổng lồ cho nông nghiệp hàng hoá phát triển. Do đó phải tuân thủ ‘‘luật
chơi’’. Vào WTO, trong vòng 5 - 7 năm, thuế nhập khẩu bình quân giảm từ 17,4%
xuống còn 13,4% ; riêng hàng nông sản trong 5 năm tới thuế nhập khẩu giảm từ
23,5% hiện xuống còn 20,9% . Hiện nay, chúng ta trồng cây gì, nuôi con gì cũng nhỏ
lẻ thiếu tập trung. Vậy cần phải nhanh chóng đổi mới nền nông nghiệp để đáp ứng

15


được nhu cầu của thị trường, đảm bảo chất lượng. Con đường tất yếu phát triển nông
nghiệp nước ta là phải chuyển từ sản xuất nhỏ tự cung tự cấp sang sản xuất hàng hoá.
Kim ngạch xuất khẩu nông lâm sản năm 2005 của Việt Nam là 5,7 tỉ USD,
năm 2010 đã đạt 19,15 tỉ USD. So với Thái Lan, Malaixia, Philipin các nước có
tiềm năng tương tự Việt Nam, họ đã đạt và vượt mức này từ lâu. Mailaixia đạt kim
ngạch xuất khẩu 14 tỉ USD từ

năm 1986, Thái Lan đạt 10 tỉ USD năm 1987,

Philipin năm 1992. Hiện nay kim ngạch xuất khẩu của Thái Lan, Malaixia, Philipin
đều lớn hơn Việt Nam (Vũ Thị Thanh Tâm, 2007).
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, diện tích trồng rau trên đất nông nghiệp
cả năm 2014 của Việt Nam là 644,0 nghìn ha, tăng 29,5% so với năm 2000. Năng
suất cao nhất từ trước tới nay (149,9 tạ/ha). Tổng sản lượng rau cả nước đạt 9,65 triệu
tấn, đạt 144 nghìn tỷ đồng, chiếm 9% GDP của ngành nông nghiệp, trong khi diện
tích chỉ chiếm 6% (Tổng cục Thống kê, 2014).
Tuy có những đóng góp tương đối lớn trong kim ngạch xuất khẩu nhưng
năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh của nông sản hàng hoá Việt Nam còn thấp
so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Điều đó làm cho nông sản hàng hoá

khó tiêu thụ, ảnh hưởng bất lợi đến thu nhập của người sản xuất. Mặc dù đạt kết quả
khả quan song bước tăng trưởng chưa bền vững. Sâu bệnh hại lúa và mạ như rầy nâu,
bệnh vàng lùn, lùn xoắn lá lúa, bệnh đạo ôn vẫn có xu hướng tăng nhanh. Dịch cúm gia
cầm vẫn có nguy cơ tái phát trở lại, việc nâng cao chất lượng nông sản phẩm, vệ sinh
an toàn thực phẩm chưa được đặc biệt chú trọng. Diện tích đất canh tác vẫn còn manh
mún, nhỏ lẻ, đặc biệt công tác dồn điền đổi thửa gặp phải nhiều khó khăn đã hạn chế
phát triển nông nghiệp hàng hoá. Việc ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất gieo
trồng chưa được phổ biến rộng rãi. Đặc biệt, khả năng đầu tư số vốn lớn để phát triển
các mô hình có quy mô lớn còn hạn chế... Một trong những nguyên nhân của việc xuất
khẩu hàng hoá sụt giảm là “vì chúng ta chưa có tập quán sản xuất nông nghiệp chất
lượng cao để cạnh tranh với thị trường thế giới’’. Mặt khác, số đông nông dân còn
thiếu những hiểu biết về thị trường, thiếu năng lực, bản lĩnh và trình độ tổ chức sản
xuất kinh doanh nông nghiệp hàng hoá. Do đó, sản xuất hàng hoá phần nhiều mang

16


tính tự phát, thiếu ổn định và thiếu định hướng thị trường (Vũ Thị Thanh Tâm, 2007).
Vì vậy, yêu cầu đặt ra đối với phát triển nông nghiệp hiện nay là phát triển nông
nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá có định hướng và thị trường ổn định. Muốn vậy
chúng ta cần phải có hệ thống sản xuất đồng bộ, đạt tiêu chuẩn.
Sản xuất hàng hoá phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố kinh tế xã hội, tự
nhiên, môi trường, do đó khả năng rủi ro trong sản xuất là không thể tránh
khỏi. Mặt khác, chúng ta chưa hình thành một nền nông nghiệp hàng hoá theo đúng
nghĩa cũng như chưa có công nghệ để giải quyết vấn đề này. Chuyển sang nền nông
nghiệp sản xuất hàng hoá là sự phát triển hợp quy luật, đó là quá trình chuyển nông
nghiệp truyền thống, manh mún, lạc hậu thành nền nông nghiệp hiện đại. Sản xuất
hàng hoá là quy luật khách quan của mọi hình thái kinh tế xã hội, nó phản ánh trình
độ phát triển sản xuất của xã hội đó (Từ điển tiếng việt, 1992). Theo V.I Lênin thì
nguồn gốc của sản xuất hàng hoá là sự phân công lao động xã hội. Vì thế phân công

lao động xã hội càng sâu sắc thì sản xuất hàng hoá càng phát triển (Vũ Thị Phương
Thụy, 2000).
Nền sản xuất hàng hoá có đặc trưng là dựa trên cơ sở vật chất kỹ thuật hiện
đại, trình độ khoa học kỹ thuật, trình độ văn hoá của người lao động cao. Đó là nền
sản xuất nông nghiệp có cơ cấu sản xuất hợp lý, được hình thành trên cơ sở khai
thác tối đa thế mạnh sản xuất nông nghiệp từng vùng. Vì thế nó là nền nông nghiệp
có hiệu quả kinh tế cao, khối lượng hàng hoá nhiều với nhiều chủng loại phong phú
và có chất lượng cao.
Phát triển nông nghiệp hàng hoá là quá trình lâu dài và đầy khó khăn phức
tạp, cần phải gắn liền với việc hình thành các vùng sản xuất tập trung chuyên canh
và thâm canh ngày càng cao và phải gắn nông nghiệp với lâm nghiệp, ngư nghiệp,
công nghiệp chế biến và được thực hiện thông qua việc phân công lại lao động, xã
hội hoá sản xuất, ứng dụng các công nghệ tiến bộ mới vào sản xuất.
Vậy sản xuất hàng hoá là gì?
+ Đối với hộ nông dân, những sản phẩm được đưa bán ra ngoài thì gọi là sản
phẩm hàng hoá (Vũ Thị Thanh Tâm, 2007).

17


+ Đối với hệ thống trồng trọt, nếu mức hàng hoá sản xuất được bán ra thị
trường dưới 50% gọi là hệ thống trồng trọt thương mại hoá một phần, nếu trên 50%
gọi là hệ thống trồng trọt thương mại hoá (sản xuất theo hướng hàng hoá)( Hà Thị
Thanh Bình, 2000).
+ Hàng hoá là sản phẩm của lao động dùng để trao đổi. Sản xuất hàng hoá là
sản xuất ra sản phẩm đem bán để thu về giá trị của nó trong đó có phần giá trị thặng
dư để tái sản xuất và mở rộng quy mô (Vũ Thị Ngọc Trân, 1996).
Hàng hoá là sản phẩm do lao động tạo ra, dùng để trao đổi, sản xuất hàng
hoá ra đời và phát triển dựa trên cơ sở phát triển các phương thức sản xuất và sự
phân công lao động xã hội. Sự phân công ấy ngày càng cao, càng sâu sắc, trình độ

chuyên môn hoá cao thì sản xuất hàng hoá càng phát triển, đời sống người dân ngày
một tăng lên. Điều đó làm cho quá trình trao đổi diễn ra mạnh hơn, sản xuất hàng
hoá ngày càng phát triển đa dạng hơn (Đỗ Thị Tám, 2001).
Nền kinh tế thị trường ra đời làm nảy sinh mối quan hệ cung cầu trên thị
trường. Đối với sản xuất nông nghiệp thì khả năng “cung” cho thị trường là các loại
nông sản phẩm…, “cầu” cho nông nghiệp là các yếu tố đầu vào như phân bón,
thuốc trừ sâu... Hiện nay, nếu chủ hộ không chuyên môn hoá cao trong việc sản
xuất kinh doanh, không thay đổi cơ cấu giống và thâm canh tăng vụ thì kết quả sản
xuất cũng chỉ để thoả mãn nhu cầu của mình mà không có sản phẩm đem ra bán ở thị
trường hoặc sản phẩm không đáp ứng được nhu cầu của thị trường và sẽ không có tích
luỹ để đề phòng rủi ro. Trong sản xuất hàng hoá rủi ro về thị trường luôn là mối lo ngại
nhất của người sản xuất.
Hiện nay, thị trường và hoạt động tiêu thụ nông sản phẩm ở nước ta nổi lên
một số vấn đề sau (Đỗ Thị Tám, 2001):
+ Hầu hết các sản phẩm nông nghiệp thường bị tồn đọng, nhất là vào thời vụ
thu hoạch.
+ Trong tất cả các kênh phân phối liên quan đến sản xuất nông nghiệp đều có
sự tham gia rất phổ biến của tư thương. Phân phối qua nhiều khâu trung gian đã làm
chậm quá trình lưu thông sản phẩm, thậm chí gây ách tắc dẫn đến tồn đọng giả tạo.

18


+ Hệ thống kinh doanh thương mại Nhà nước đang lâm vào thế lúng túng.
Thị trường đầu ra không ổn định gây khó khăn thường xuyên cho nông nghiệp trong
việc bao tiêu sản phẩm và bao cung vật tư sản xuất.
- Đối với nông dân, trong sản xuất nông nghiệp vẫn phổ biến là “bán cái mình
có chứ không phải bán cái thị trường cần”, hoạt động sản xuất kinh doanh chủ yếu sử
dụng cái sẵn có chứ không chủ động khai thác các yếu tố của nền kinh tế thị trường.
Từ những vấn đề trên cho thấy: xây dựng nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá là

hướng đi đúng, là sự vận động phát triển phù hợp quy luật. Vì vậy, tìm kiếm thị trường
và những giải pháp sản xuất và đầu tư hợp lý để sản xuất nông nghiệp theo hướng hàng
hoá có hiệu quả cao, ổn định là rất cần thiết.
1.3.3.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp và phát triển
nông nghiệp sản xuất hàng hoá
* Nhóm yếu tố về điều kiện tự nhiên
Điều kiện tự nhiên (đất, nước, khí hậu, thời tiết....) có ảnh hưởng trực tiếp đến
sản xuất nông nghiệp. Bởi vì, các yếu tố của điều kiện tự nhiên là tài nguyên để sinh
vật tạo nên sinh khối. Do vậy, cần đánh giá đúng điều kiện tự nhiên để trên cơ sở đó
xác định cây trồng, vật nuôi chủ lực phù hợp và định hướng đầu tư thâm canh đúng.
Theo Mác, điều kiện tự nhiên là cơ sở hình thành địa tô chênh lệch I. Theo
N.Borlang - người được giải Noben về giải quyết lương thực cho các nước phát
triển cho rằng: Yếu tố duy nhất quan trọng hạn chế năng suất cây trồng ở tầm cỡ
thế giới của các nước đang phát triển, đặc biệt đối với nông dân thiếu vốn là độ
phì của đất. Và sản xuất nông nghiệp được coi là ngành kinh doanh năng lượng
ánh sáng mặt trời dựa trên các điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội khác(Vũ Thị
Thanh Tâm, 2007).
Điều kiện về đất đai, khí hậu thời tiết có ý nghĩa quan trọng đối với sản
xuất nông nghiệp. Nếu điều kiện tự nhiên thuận lợi, các hộ nông dân có thể lợi
dụng những yếu tố đầu vào không kinh tế thuận lợi để tạo ra nông sản hàng hoá
với giá rẻ.
* Nhóm các yếu tố kinh tế tổ chức
+ Công tác quy hoạch và bố trí sản xuất

19


×