Tải bản đầy đủ (.docx) (56 trang)

giải pháp nâng cao sức cạnh tranh của hàng nông sản khi gia nhập TPP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (509.46 KB, 56 trang )

MỤC LỤC

1


MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài

Ngày nay, trong xu hướng toàn cầu hóa, các quốc gia luôn phải cạnh tranh với
nhau để tự khẳng định mình cũng như để có đủ khả năng tồn tại và phát triển trong
điều kiện kinh tế khốc liệt và khó khăn như hiện nay.
Việt Nam là một nước nông nghiệp có những điều kiện tự nhiên thuận lợi cho
phát triển ngành nông nghiệp nói chung cũng như sản xuất ra nhiều loại nông sản có
giá trị lớn. Xuất khẩu nông sản từ lâu đã đóng vai trò quan trọng đối với nền kinh tế
nước ta, là một trong những nguồn thu quan trọng của ngân sách nhà nước, tạo ra nhiều
công ăn việc làm và thu nhập cho người dân. Hơn nữa, xuất khẩu nông sản còn thúc
đẩy sự phát triển của ngành công nghiệp chế biến, tạo động lực quan trọng cho việc
phát triển các mối quan hệ kinh tế đối ngoại khác phát triển, đẩy mạnh thực hiện công
nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất nước. Vì vậy đẩy mạnh xuất khẩu nông sản là
một trong những mũi nhọn nhằm phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.
Sau 30 năm đổi mới, Việt Nam tăng cường hội nhập, kí kết nhiều hiệp định trên
nhiều lĩnh vực đặc biệt là trên lĩnh vực kinh tế. Gần đây nhất, Viêt Nam tham gia kí kết
Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (Trans - Pacific Partnership – TPP). Theo hiệp
định này hàng rào thuế quan giữa 12 nước (Singapore, Chile, New Zealand, Brunei,
Australia, Peru, Việt Nam, Malaysia, Mexico, Mỹ, Canada, Nhật Bản) tham gia TPP sẽ
được cắt giảm hoặc xóa bỏ.
Các chuyên gia kinh tế nhận định, một trong những lĩnh vực chịu tác động lớn nhất
từ làn sóng TPP đó chính là nông nghiệp, bởi vì bên cạnh những thuận lợi thì việc cát
giảm hoặc xóa bỏ hàng rào thuế quan chắc chắn sẽ dẫn đến sự gia tăng nhanh chóng


lượng hàng nhập khẩu của các nước TPP vào Việt Nam với giá cả cạnh tranh, cùng với đó
là sự cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu của nước ta trong thị trường 11 nước còn lại.
Nguy cơ này đặc biệt nguy hiểm đối với những ngành hàng mà năng lực cạnh tranh yếu,
điển hình là nhóm hàng nông sản với nền sản xuất manh mún, nhỏ lẻ, thiếu ứng dụng
khoa học công nghệ (KHCN), liên kết chuỗi lỏng lẻo và gắn liền với đối tượng đẽ bị tổn
thương trong quá trình hội nhập là nông dân. Cơ hội song hành cùng thách thức từ TPP
đang tạo ra một “đấu trường” mới buộc ngành nông sản Việt Nam phải tăng khả năng
cạnh tranh của mình.
Xuất phát từ thực trạng của vấn đề, nhóm tác giả đã lựa chọn đề tài: “Giải pháp
nâng cao sức cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam khi gia nhập TPP” làm đề tài

2


nghiên cứu khoa học nhắm góp phần giải quyết những vấn đề lí luận và thực tiễn đang đặt
ra đối với hàng nông sản Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa nói chung và hàng nông sản
Việt Nam nói riêng trong bối cảnh hội nhập quốc tế gần đây đã được nhiều tác giả, các
nhà hoạch định chính sách nghiên cứu, đáng chú ý là một số công trình sau đây:
“Lịch trình giảm thuế quan Việt Nam để thực hiện khu vực mậu dịch tự do ASEAN
(AFTA) ” (tạp chí tài chính năm 1998). Bài viết đã phân tích những nội dung chủ yếu của
khu vực mậu dịch tự do ASEAN, lịch trình cắt giảm thuế quan của Việt Nam và chỉ rõ
những cơ hội và thách thức của Việt Nam khi tham gia AFTA.
“Thương mại Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế” (Nhà xuất bản
thương mại 2003). Công trình nghiên cứu đã làm sáng tỏ tình hình thực tế với những cơ
hội và thách thức của thương mại Việt Nam trong tiến trình hội hập kinh tế quốc tế. Từ đó
đề xuất một số phương hướng cơ bản để tận dụng những cơ hội và khắc phục các thách
thức.
Tác giả Lê Xuân Bá với đề tài cấp Nhà nước: “Cơ sở khoa học cho việc định hướng

chính sách và nâng cao năng lực cạnh tranh cho nền kinh tế Việt Nam trong bối cảnh hội
nhập kinh tế quốc tế” ( năm 2006). Trong công trình nghiên cứu này tác giả đã phân tích
và làm sáng tỏ cơ sở khoa học của việc hoạch định chính sách và nâng cao khả năng cạnh
tranh của nền kinh tế Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa từ đó tác giả đã đưa ra một số
giải pháp nhằm nâng cao sức cạnh tranh cho nền kinh tế nước ta.
Tác giả Đỗ Xuân Cương với đề tài: “Nâng cao sức cạnh tranh của hàng nông sản
Việt Nam khi ra nhập thị trường Mỹ” (tạp trí khoa học số 4, năm 2007). Trong công trình
này tác giả đã nghiên cứu và vạch ra thực trạng sức cạnh tranh của hàng nông sản Việt
Nam trên thị trường Mỹ - thị trường xuất khẩu hàng nông sản lớn của Việt Nam, từ đó
đưa ra một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao sức cạnh tranh của hàng nông sản
nước ta trên thị trường Mỹ.
“Cơ hội và thách thức cho nông sản Việt Nam khi gia nhập TPP” (báo Nông
nghiệp Việt Nam số 77, năm 2014). Bài viết đã đưa ra những cơ hội và thách thức đối với
một số mặt hàng nông sản chủ lực của Việt Nam là: Điều, gạo, tiêu, cà phê và đề xuất một
số giải pháp nâng cao sức cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam, những giải pháp này
tập trung chủ yếu vào nâng cao chất lượng hàng nông sản xuất khẩu để chinh phục các thị
trường khó tính như Mỹ, Nhật Bản...
“Thương mại Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế” ( Nhà xuất bản
thương mại 2003). Công trình nghiên cứu đã làm sáng tỏ tình hình thực tế với những cơ
hội và thách thức của thương mại Việt Nam trong tiến trình hội hập kinh tế quốc tế. Từ đó

3


đề xuất một số phương hướng cơ bản để tận dụng những cơ hội và khắc phục các thách
thức.
Mặc dù số lượng công trình nghiên cứu về sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam
đối với thị trường trong khu vực và trên thế giới có khá nhiều nhưng đề tài đi sâu về sức
cạnh tranh của hàng nông sản dưới tác động của các hiệp định kinh tế ít được chú ý và
chưa có công trình nào nghiên cứu đề tài này. Đặc biệt là trong bối cảnh Việt Nam gia

nhập TPP, vấn đề nghiên cứu những giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của
hàng nông sản Việt Nam có ý nghĩa cả về mặt lí luận và thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1.Mục đích nghiên cứu
Phân tích cơ sở lí luận về cạnh tranh và sức cạnh tranh, trên cơ sở đó làm rõ tính
cấp thiết của việc nâng cao sức cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam. Đánh giá khả
năng cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam, từ đó đề xuất những biện pháp cần thiết để
nâng cao sức cạnh tranh của hàng nông sản sau khi gia nhập hiệp định TPP.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài tập trung giải quyết những nhiệm vụ cơ bản sau đây:
Một là, làm rõ cơ sở lý luận của cạnh tranh, phân tích các khái niệm liên quan đến
cạnh tranh; sự cần thiết phải nâng cao sức cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam sau khi
gia nhập TPP.
Hai là, tìm hiểu thực trạng sức cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam hiện nay và
đánh giá khả năng cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam khi gia nhập TPP.
Ba là, chỉ ra các cơ hội và thách thức cho hàng nông sản Việt Nam khi gia nhập
TPP. Từ đó đề xuất một số giải pháp thực tiễn nhằm nâng cao sức cạnh tranh cuả hàng
nông sản Việt Nam khi gia nhập TPP.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung chủ yếu vào phân tích năng lực, khả năng cạnh tranh của hàng
nông sản Việt Nam khi gia nhập TPP.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu thực trạng năng lực cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam trên thị
trường thế giới giai đoạn 2011 –2015 để đưa ra các giải pháp cho khả năng cạnh tranh của
hàng nông sản Việt Nam sau khi gia nhập TPP; trong đó tập trung đánh giá năng lực cạnh
tranh của một số sản phẩm chủ yếu là gạo, chè, cà phê, điều, hồ tiêu, cao su.
5. Phương pháp nghiên cứu
-


Đề tài sử dụng phương pháp phân tích tổng hợp, nhằm đưa ra cái nhìn khách

4


quan về ngành nông nghiệp Việt Nam, cụ thể ở đây là nông sản.
- Phương pháp thống kê, so sánh và phân tích để thu thập những thông tin, phân
tích những yếu tố tác động đến khả năng cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam.
- Phân tích kết hợp với lý luận và thực tiễn để đưa ra các giải pháp nhằm đẩy mạnh
khả năng cạnh tranh của nông sản Việt Nam khi gia nhập TPP.
6. Ý nghĩa của đề tài
Về mặt lý luận: đề tài góp phần khẳng định việc nâng cao sức cạnh tranh của hàng
hóa nói chung và hàng nông sản nói riêng là điều kiện để chủ động hội nhập kinh tế quốc
tế, có hội nhập kinh tế quốc tế mới tạo cơ hội thuận lợi cho việc nâng cao năng lực cạnh
tranh của hàng hóa, nâng cao hiệu quả sản xuất và kinh doanh
Về mặt thực tiễn: Đề tài có thể sử dụng để làm tài liệu tham khảo cho các cá nhân,
doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh mặt hàng nông sản. Đề tài cũng có thể sử dụng làm
tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và giảng dạy môn Giáo dục công dân lớp 11(phần
Công dân với kimh tế).
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của đề tài gồm
3 chương, 8 tiết:
Chương 1: Lý luận chung về cạnh tranh và sự cần thiết phải nâng cao sức cạnh
tranh của hàng nông sản Việt Nam khi gia nhập TPP.
Chương 2: Thực trạng sức cạnh tranh hàng nông sản Việt Nam trong giai đoạn
2011-2015
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao sức cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam
khi gia nhập TPP

NỘI DUNG


5


CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VIỆC NÂNG CAO SỨC CẠNH TRANH
CỦA HÀNG NÔNG SẢN VIỆT NAM KHI GIA NHẬP TPP
1.1. Lý luận chung về cạnh tranh hàng hóa trên thị trường
1.1.1. Khái niệm cạnh tranh
Khái niệm cạnh tranh được nhiều tác giả trình bày dưới nhiều góc độ khác nhau
trong các giai đoạn phát triển khác nhau của nền kinh tế. Ngày nay, hầu hất các nước trên
thế giới đều thừa nhận cạnh tranh và coi cạnh tranh không những là môi trường là động
lực của sự phát triển mà còn là một yếu tố quan trọng lành mạnh hóa quan hệ xã hội, tạo
động lực cho sự phát triển.
Cạnh tranh kinh tế là một quy luật kinh tế của sản xuất hàng hoá vì nó xuất phát từ
quy luật giá trị của sản xuất hàng hoá. Trong sản xuất hàng hoá, sự tách biệt tương đối
giữa những người sản xuất, sự phân công lao động xã hội tất yếu dẫn đến sự cạnh tranh
để giành được những điều kiện thuận lợi hơn như gần nguồn nguyên liệu, nhân công rẻ,
gần thị trường tiêu thụ, giao thông vận tải tốt, khoa học kỹ thuật phát triển... nhằm giảm
mức hao phí lao động cá biệt thấp hơn mức hao phí lao động xã hội cần thiết để thu được
nhiều lãi. Khi còn sản xuất hàng hoá, còn phân công lao động thì còn có cạnh tranh.
Theo C.Mác: “Cạnh tranh là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa các nhà sản
xuất nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hóa để
thu được lợi nhuận cao nhất” [5, tr.164]
Có quan niệm khác lại cho rằng cạnh tranh là sự phấn đấu về chất lượng sản phẩm,
dịch vụ của doanh nghiệp mình sao cho tốt hơn các doanh nghiệp khác. Cạnh tranh có thể
xảy ra giữa những nhà sản xuất, phân phối với nhau hoặc có thể xảy ra giữa người sản
xuất với người tiêu dùng khi người sản xuất muốn bán hàng hóa, dịch vụ với giá cao,
người tiêu dùng lại muốn mua được với giá thấp. Cạnh tranh của một doanh nghiệp là
chiến lược của một doanh nghiệp với các đối thủ trong cùng một ngành…

Theo kinh tế chính trị học, cạnh tranh là sự thôn tính lẫn nhau giữa các đối thủ
nhằm giành giật thị trường khách hàng cho mình. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm
chính là yếu tố đảm bảo sự tồn tại của sản phẩm trên thị trường, đặt biệt là sự phát triển
của một quốc gia trên thị trường thế giới. Cạnh tranh đối với một quốc gia là mức độ mà
ở đó dưới các điều kiện thị trường tự do và công bằng có thể sản xuất các hàng hóa và
dịch vụ đáp ứng được các đòi hỏi của các thị trường quốc tế, đồng thời duy trì và mở rộng
thu nhập thực tế của nhân dân nước đó.
Như vậy dù có rất nhiều khái niệm về cạnh tranh nhưng tựu chung lại đều thống
nhất ở các điểm:

6


- Mục tiêu cạnh tranh: Tìm kiếm lợi nhuận và nâng cao vị thế của doanh nghiệp
trên thương trường đồng thời làm lành mạnh hoá các quan hệ xã hội.
- Phương pháp thực hiện: Tạo và vận dụng những lợi thế so sánh trong việc cung
cấp sản phẩm, dịch vụ khi so sánh với các đối thủ cạnh tranh khác.
- Thời gian: Trong bất kỳ tuyến thị trường hay sản phẩm nào, vũ khí cạnh tranh
thích hợp hay đổi theo thời gian. Chính vì thế cạnh tranh được hiểu là sự liên tục trong cả
quá trình.
Do đó quan điểm đầy đủ về cạnh tranh như sau: Cạnh tranh là cuộc đấu tranh gay
gắt, quyết liệt giữa các nhà sản xuất, kinh doanh với nhau dựa trên những chế độ sở hữu
khác nhau về tư liệu sản xuất nhằm đạt được những điều kiện sản xuất và tiêu thụ có lợi
nhất, đồng thời tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất phát triển.
1.1.2. Phân loại cạnh tranh
Dựa vào các tiêu chí khác nhau người ta chia cạnh tranh thành các loại hình khác
nhau sau:
1.1.2.1.
Dựa vào chủ thể thị trường.
Cạnh tranh được chia làm ba loại:

Một là, cạnh tranh giũa người bán và người mua: Là cuộc cạnh tranh diễn ra theo
quy luật mua rẻ - bán đắt. Trong thị trường người bán luôn luôn muốn bán sản phẩm của
mình với giá cao nhất, nhưng người mua hàng hóa với giá thấp. Sự cạnh tranh được thực
hiện trong quá trình “ mặc cả” với giá chấp nhận là giá thống nhất giữa người bán và
người mua.
Hai là, cạnh tranh giữa người mua với nhau: Là sự cạnh tranh trên cơ sở quy luật
cung cầu. Khi cung của một loại hàng hóa, dịch vụ nào đó mà nhỏ hơn mức cầu thì cuộc
cạnh tranh trở nên gay gắt hơn và giá cả của hang hóa, dịch vụ sẽ tăng lên. Do hàng hóa
trên thị trường khan hiếm nên người mua sẵn sang chấp nhận giá cao để mua được những
hàng hóa mà họ cần và người bán tiếp tục nâng giá hàng hóa lên. Kết quả cuối cùng là
người bán thu được lợi nhuận cao còn người mua phải mất them một số tiền. Đây là cuộc
cạnh tranh mà những người mua tự làm hại chính họ.
Ba là, cạnh tranh giữa những người bán với nhau: Là cuộc cạnh tranh gay go
quyết liệt. Các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau, thôn tính với nhau để giành khách
hàng và thị trường. Đây là cuộc cạnh tranh quyết định tới sự sống còn của doanh nghiệp.
Tất cả các doanh nghiệp đều mong muốn giành giật lợi thế cạnh tranh,chiếm lĩnh thị phần
của đối thử. Kết quả để đánh giá doanh nghiệp trong cuộc cạnh tranh là tăng số tiền tiêu
thụ và tăng tỷ lệ thị phần. Cùng với nó là tăng lợi nhuận, tăng đầu tư chiều sau, mở rộng
sản xuất. Để có thể đứng vững và phát triển, các doan nghiệp phải sử dụng mọi biện pháp
khác nhau tạo thế mạnh cho mình vượt lên trên đối thủ.
7


Dựa vào mức độ cạnh tranh trên thị trường( trạng thái thị trường)
Cạnh tranh được chia làm 3 loại:
Một là, cạnh tranh hoàn hảo: Là trạng thái cạnh tranh khi có nhiều đối thủ đưa ra
bán những hàng hóa tương tự nhau, trong đó không có một người bán hay người mua nào
có vai trò to lớn trong toàn bộ thị trường. Khi đó trên thị trường có rất nhiều người mua
và người bán với những hiểu biết đầy đủ về thị trường. Mỗi người mua hay người bán đều
đều có mối liên hệ rất nhỏ với toàn bộ thị trường, hành động của họ không có khả năng

tác động đến giá cả cũng như cung cầu trên thị trường. Hay nói cách khác, cả người mua
và người bán đều là những người chấp nhận giá, giá cả tự do thay đổi theo điều kiện thay
đổi theo điều kiện thay đổi cung và cầu, không bị hạn chế bởi các biện pháp hành chính
Nhà nước. Vì vậy trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo, giá cả của thị trường sẽ tiến dần
đến mức chi phí sản xuất.
Hai là, cạnh tranh không hoàn hảo: Là trạng thái cạnh tranh trên thị trường mà
phần lớn sản phẩm không đồng nhất với nhau. Mỗi một nhãn hiệu đều mang hình ảnh hay
uy tín khác nhau mặc dù sự khác biệt giữa các sản phẩm là không đáng kể.Trong môi
trường cạnh tranh không hoàn hảo mức độ cạnh tranh rất khốc liệt và các hình thức cạnh
tranh cũng rất đa dạng. Người bán tranh giành khách hàng với nhau bằng những uy tín,
quảng cáo, khuyến mãi, dịch vụ sau bán hàng, phương thức bán hàng…và cuối cùng
thường dẫn đến cuộc chiến về giá cả. Đây là hình thức cạnh tranh phổ biến trong giai
đoạn hiện nay.
Ba là, cạnh tranh độc quyền : Là cạnh tranh trên thị trường chỉ có một hay một số
ít người bán một loại sản phẩm đồng nhất hoặc một hay một số ít người mua một loại sản
phẩm. Họ có thể kiểm soát hầu như toàn bộ số lượng sản phẩm bán ra hay mua vào. Thị
trường này có sự pha trộn giữa độc quyền và cạnh tranh nên được gọi là cạnh tranh độc
quyền.Tại đây, chỉ xảy ra sự cạnh tranh giữa các nhà độc quyền. Thị trường này không có
sự cạnh tranh về giá cả mà các nhà độc quyền quyết định toàn bộ giá cả.Họ có thể cao
hơn hoặc thấp hơn tùy thuộc vào đặc điểm tiêu dùng của sản phẩm nhằm đạt được lợi
nhuận cao nhất. Những doanh nghiệp tham gia thị trường này phải chấp nhận bán hang
theo giá cả của nhà độc quyền.
Ngoài ra cạnh tranh còn được sự phân chia thành nhiều loại khác nhau với các
ngành tiêu thức khác nhau như cạnh tranh trong ngành: cạnh tranh trong nội bộ ngành;
dựa vào sức cạnh tranh của doanh nghiệp mà chia thành mạnh, trung bình hay yếu trong
mối quan hệ so sánh với các doanh nghiệp khác; dựa vào mức độ cạnh tranh trên thị
trường mà chia thành mức độ cao, trung bình, thấp…
1.1.3. Vai trò của cạnh tranh
1.1.2.2.


8


Cạnh tranh có vai trò quan trọng trong nền sản xuất hàng hóa nói riêng, và trong
lĩnh vực kinh tế nói chung, là động lực thúc đẩy sản xuất phát triển, góp phần vào việc
phát triển kinh tế.
1.1.3.1. Vai trò của cạnh tranh đối với nền kinh tế quốc dân
Cạnh tranh là động lực phát triển kinh tế nâng cao năng xuất lao động xã hội. Một
nền kinh tế mạnh là nền kinh tế mà các tế bào của nó là các doanh nghiệp phát triển có
khả năng cạnh tranh cao. Tuy nhiên ở đây cạnh tranh phải là cạnh tranh hoàn hảo, cạnh
tranh lành mạnh, các doanh nghiệp cạnh tranh nhau để cùng phát triển, cùng đi lên thì mới
làm cho nền kinh tế phát triển bền vững. Còn cạnh tranh độc quyền sẽ ảnh hưởng không
tốt đến nền kinh tế, nó tạo ra môi trường kinh doanh không bình đẳng dẫn đến mâu thuẫn
về quyền lợi và lợi ích kinh tế trong xã hội, làm cho nền kinh tế không ổn định.
1.1.3.2. Vai trò của cạnh tranh đối với người tiêu dùng
Trên thị trường cạnh tranh giữa các doanh nghiệp càng diễn ra gay gắt thì người
được lợi nhất là khách hàng. Khi có cạnh tranh thì người tiêu dùng không phải chịu một
sức ép nào mà còn được hưởng những thành quả do cạnh tranh mang lại như: Chất lượng
sản phẩm tốt hơn, giá bán thấp hơn, chất lượng phục vụ cao hơn… Đồng thời khách hàng
cũng tác động trở lại đối với cạnh tranh bằng những yêu cầu về chất lượng hàng hóa, về
giá cả, về chất lượng phục vụ… Khi đòi hỏi của người tiêu dùng càng cao làm cho cạnh
tranh giữa các doanh nghiệp ngày càng gay gắt hơn để giành được nhiều khách hàng hơn.
1.1.3.3.Vai trò của cạnh tranh đối với các doanh nghiệp
Sự cạnh tranh buộc người sản xuất phải năng động, nhạy bén, nắm bắt tốt hơn nhu
cầu của người tiêu dùng, tích cực nâng cao tay nghề, thường xuyên cải tiến kĩ thuật, áp
dụng những tiến bộ, các nghiên cứu thành công mới nhất vào trong sản xuất, hoàn thiện
cách thức tổ chức trong sản xuất, quản lý sản xuất để nâng cao năng suất, chất lượng và
hiệu quả kinh tế. Ở đâu thiếu cạnh tranh hoặc có biểu hiện độc quyền thì thường trì trệ,
kém phát triển.
Canh tranh là điều bất khả kháng đối với mỗi doanh nghiệp trong nền kinh tế thị

trường. Canh tranh có thể được coi là cuộc chạy đua khốc liệt mà các doanh nghiệp không
thể tránh khỏi mà phải tìm mọi cách vươn lên để chiếm ưu thế và chiến thắng. Cạnh tranh
buộc các doanh nghiệp luôn tìm cách nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ, thay đổi
kiểu dáng mẫu mã, đáp ứng nhu cầu khách hàng. Cạnh tranh khuyến khích các doanh
nghiệp áp dụng công nghệ mới, hiện đại, tạo sức ép buộc các doanh nghiệp phải sử dụng
có hiệu quả các nguồn lực của mình để giảm giá thành, nâng cao chất lượng, cải tiến mẫu
mã, tạo ra các sản phẩm mới khác biệt có sức cạnh tranh cao.
Cạnh tranh khốc liệt sẽ làm cho doanh nghiệp thể hiện được khả năng “bản lĩnh”

9


của mình trong quấ trình kinh doanh. Nó sẽ làm cho doanh nghiệp càng vững mạnh và
phát triển hơn nếu nó chịu được áp lực cạnh tranh trên thị trường.
Chính sự tồn tại khách quan và sự ảnh hưởng của cạnh tranh đối với nền kinh tế
nói chung và đến từng doanh nhiệp nói riêng nên việc nâng cao khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp là một đòi hỏi tất yếu khách quan trong nền kinh tế thị trường.
Ngoài mặt tích cực, cạnh tranh cũng đem lại những hậu quả không mong muốn về
mặt xã hội. Nó làm thay đổi cấu trúc xã hội trên phương diện sở hữu của cải, phân hóa
mạnh mẽ giàu nghèo, có những tác động tiêu cực khi cạnh tranh không lành mạnh, dung
các thủ đoạn vi phạm pháp luật hay bất chấp pháp luật. Vì lý do trên cạnh tranh kinh tế
bao giờ cũng phải được điều chỉnh bởi các định chế xã hội, sự can thiệp của nhà nước.
Cạnh tranh cũng có những tác động tiêu cực thể hiện ở cạnh tranh không lành
mạnh như những hành động vi phạm pháp luật (buôn lậu, trốn thuế, tung tin phá hoại…)
hoặc những hành vi cạnh tranh làm phân hóa giàu nghèo, tổn hại môi trường sinh thái...
Trong xã hội, mỗi con người, xét về tổng thể, vừa là người sản xuất đồng thời cũng
là người tiêu dùng, do vậy cạnh tranh thường mang lại nhiều lợi ích hơn cho mọi người và
cho cộng đồng, xã hội.
1.2. Năng lực cạnh tranh
1.2.1. Khái niệm năng lực cạnh tranh

Nhìn chung khi xác định sức cạnh tranh của một quốc gia hay một doanh nghiệp
phải xem xét đến năng lực và tiềm năng sản xuất, kinh doanh. Một quốc gia hay doanh
nghiệp được coi là có sức cạnh tranh khi các sản phẩm thay thế hoặc các sản phẩm tương
tự được đưa ra với mức giá thấp hơn sản phẩm cùng loại; hoặc cung cấp các sản phẩm
tương tự với các đặc tính về chất lượng và dịch vụ ngang bằng hoặc cao hơn. Theo diễn
đàn cao cấp về cạnh tranh công nghiệp của tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD)
cho rằng: “Năng lực cạnh tranh là khả năng của các doanh nghiệp, ngành, quốc gia, khu
vực trong việc tạo ra việc làm và thu nhập cao hơn trong điều kiện cạnh tranh quốc
tế”. Khái niệm này được coi là phù hợp nhất vì nó được sử dụng kết hợp cho cả doanh
nghiệp, ngành, quốc gia, phản ánh được mối liên hệ giữa cạnh tranh quốc gia với cạnh
tranh của các doanh nghiệp, tạo việc làm, tăng thu nhập và mức sống nhân dân.
Năng lực cạnh tranh, khả năng dành được thị phần lớn trước các đối thủ cạnh tranh
trên thị trường, kể cả khả năng dành lại một phần hay toàn bộ thị phần của đồng nghiệp
(theo từ điển thuật ngữ kinh tế học, 2001, NXB từ điển Bách khoa Hà Nội, trang 349).
Năng lực cạnh tranh có thể được phân biệt thành ba cấp độ: (1) Năng lực cạnh
tranh cấp độ quốc gia, (2) Năng lực cạnh tranh cấp độ ngành/sản phẩm, (3) Năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp. Ba cấp độ này có mối liên quan mật thiết với nhau, phụ thuộc lẫn

10


nhau. Do đó, khi xem xét, đánh giá và đề ra giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp nói chung, của doanh nghiệp nhỏ và vừa nói riêng cần thiết phải đặt vấn
đề này trong mối tương quan chung giữa các cấp độ năng lực cạnh tranh nêu trên.
Một mặt, tổng hợp năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp của một nước tạo thành
năng lực cạnh tranh của nền kinh tế quốc gia đó. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp bị
hạn chế khi năng lực cạnh tranh cấp quốc gia và của sản phẩm doanh nghiệp đó đều thấp.
Mặt khác, năng lực cạnh tranh quốc gia thể hiện qua môi trường kinh doanh, cạnh tranh
quốc tế và trong nước (đặc biệt trong điều kiện hội nhập quốc tế). Trong đó, các cam kết
quốc tế, các chính sách kinh tế vĩ mô và hệ thống luật pháp có ảnh hưởng rất lớn đến năng

lực cạnh tranh của doanh nghiệp và của ngành/sản phẩm hàng hóa trong quốc gia đó.
Trong một báo cáo về tính cạnh tranh tổng thể của Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF)
năm 1997 đã nêu ra: “Năng cạnh tranh của một quốc gia là năng lực cạnh tranh của nền
kinh tế quốc dân nhằm đạt được và duy trì mức tăng trưởng cao trên cơ sở các chính sách,
thể chế bền vững tương đối và các đặc trưng kinh tế khác”.
Như vậy, năng lực cạnh tranh cấp quốc gia có thể hiểu là việc xây dựng một môi
trường cạnh tranh kinh tế chung, đảm bảo phân bố có hiệu quả các nguồn lực, để đạt và
duy trì mức tăng trưởng cao, bền vững.
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được định nghĩa là khả năng bù đắp chi phí,
duy trì lợi nhuận và được đo bằng thị phần của sản phẩm và dịch vụ trên thị trường.
Một sản phẩm hàng hoá được coi là có năng lực cạnh tranh khi nó đáp ứng được
nhu cầu của khách hàng về chất lượng, giá cả, tính năng, kiểu dáng, tính độc đáo hay sự
khác biệt, thương hiệu, bao bì… hơn hẳn so với những sản phẩm hàng hoá cùng loại.
Nhưng năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá lại được định đoạt bởi năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp. Sẽ không có năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá cao khi
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh sản phẩm đó thấp.
Ở đây cũng cần phân biệt năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá và năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp. đó là hai phạm trù khác nhau nhưng có quan hệ hữu cơ với
nhau. Năng lực cạnh tranh của hàng hoá có được do năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp tạo ra; nhưng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp không chỉ do năng lực cạnh
tranh của hàng hoá quyết định mà còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nữa. Tuy nhiên,
năng lực cạnh tranh của hàng hoá có ảnh hưởng rất lớn và thể hiện năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp.
1.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh của hàng hóa
Sản lượng doanh thu: Có rất nhiều phương pháp khác nhau để đánh giá sức cạnh
tranh của hàng hóa, trong đó sản lượng và doanh thu của sản phẩm là là một chỉ tiêu quan

11



trọng nhằm đánh giá sức cạnh tranh của hàng hóa trên thị trường. Nếu sản phẩm tiêu thụ
hàng hóa tăng cao qua các năm tức là hàng hóa duy trì và giữ vững được thị phần. Cũng
như doanh thu hàng năm cao với tốc độ tăng qua các năm tốt chứng tỏ giá cả của hàng
hóa được duy trì và ổn định, hàng hóa đó đứng vững trong cạnh tranh có sức cạnh tranh
cao và đạt được thị trường chấp nhận. Còn nếu khối lượng tiêu thụ lớn mà doanh thu
không cao chứng tỏ giá cả của hàng hóa có sức giảm sút và sức cạnh tranh của hàng hóa
phần nào bị giảm đi.
Thị phần: Thị phần cũng là một trong những chỉ tiêu hay được dùng để đánh giá
sức cạnh tranh của hàng hóa trên thị trường. Thị phần của doanh nghiệp trong một thời kỳ
(thường tính trong một năm) là tỷ lệ phầm trăm trên thị trường mà doanh nghiệp chiếm
được trong thời kỳ đó và nó được tính theo công thức sau:
Doanh thu của doanh nghiệp
Thị phần của doanh nghiệp = -------------------------------------------- X 100%
trong một thời kỳ
Tổng doanh thu trên thị trường
(Cùng trong thời kỳ đó)
Hay
Lượng bán của doanh nghiệp
Thị phần của doanh nghiệp = ------------------------------------------ X 100%
Trong một thời kỳ
Lượng tiêu thụ trên thị trường
( Cùng thời kỳ đó )
Trên thị trường, nói chung thường có rất nhiều các doanh nghiệp cùng sản xuất và
kinh doanh một mặt hàng. Những hãng lớn thường có thị phần lớn và ngược lại.
Độ lớn của chỉ tiêu này nói lên vai trò, vị trí của doanh nghiệp trên thị trường.
Cũng như cho ta biết khả năng chấp nhận thị trường đối với mặt hàng doanh nghiệp đang
sản xuất kinh doanh như thế nào. Thông qua sự biến động của các chỉ tiêu này ta có thể
đánh giá mức độ hoạt động có hiệu quả hay không của doanh nghiệp, sản phẩm cảa doanh
nghiệp có được mở rộng ra trên thị trường hay không. Thị phần của doanh nghiệp so với
toàn bộ thị trường mà lớn hơn chứng tỏ sản phẩm của doanh nghiệp có sức cạnh tranh

lớn, có khả năng đánh bại đối thủ cạnh tranh và phục vụ tốt các nhu cầu khác hàng. Bên
cạnh đó cũng cho thấy tốc độ tăng qua các năm của hàng hóa cho thấy khả năng cạnh
tranh sản phẩm của hàng hóa ngày càng tăng.
Nhãn hiệu thương mại: Ngày nay, uy tín của thương hiệu sản xuất ngày càng trở
nên quan trọng. Cùng một mức chất lượng giá cả và mẫu mã như nhau, nhưng sản phẩm
có thương hiệu uy tín được nhiều người biết đến có thể bán vơi giá cao hơn hàng chục
lần. Không những thế nhãn hiệu thương mại của công ty càng có uy tín sẽ tạo ra cho mọi

12


người lòng tin, độ tin cậy đối với hàng hóa. Khi tiêu dùng sản phẩm của công ty, người
tiêu dùng sẽ không còn phải băn khoăn nhiều nhưng mất rất nhiều thời gian hơn về sản
phẩm mình muốn mua. Như vậy nhãn hiệu thương mại có thể coi như là một tài sản vô
hình mà công ty đã tạo được trong một thời gian nhất đinh.
Hình ảnh của hàng hóa và quốc gia: Yếu tố hình ảnh của một quốc gia tạo nên sự
tin tưởng của người tiêu dùng đối với hàng hóa mà họ mua. Quốc gia nào tạo cho mình
một hình ảnh tốt đẹp, tạo được vị trí cao trên thị trường quốc tế (trong khu vực và trên thế
giới ) thì quốc gia đó sẽ có lợi thế hơn rất nhiều, hàng hóa của quốc gia đó bán ra không
những được thị trường hấp nhận mà còn bán đắt hơn với mức giá cao hơn. Đối vơi Việt
Nam, đây là một hạn chế rất lớn do Việt Nam chưa tạo dựng được một “hình ảnh” cao
trong khu vực và cả trên thế giới. Do đó, một số mặt hàng của Việt Nam đem bán ở thị
trường nước ngoài nào đó phải qua bước trung gian, tức là phải nhờ đến “hình ảnh quốc
gia” của một nước thứ ba (mà nước này có vị thế cao hơn Việt Nam trên trường quốc tế) .
Điều này làm cho lợi nhuận bán hàng bị chia sẻ rất nhiều dẫn đến thua thiệt cho phía Việt
Nam.
1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của hàng hóa trên thị
trường
Trên thị trường, sự cạnh tranh của hàng hóa bị ảnh hưởng bởi rất nhiều yếu tố,
trong đó bao gồm cả các nhân tố bên trong và các nhân tố bên ngoài doanh nghiệp.

1.2.3.1. Các nhân tố bên ngoài doanh nghiệp
Theo mô hình 5 khả năng của M.E.Porter có 5 nhân tố tác động chính đến sức cạnh
tranh của hàng hóa trong cùng một ngành, bao gồm:
Một là, sức ép của các đối thủ cạnh tranh hiện tại trong ngành: Cuộc cạnh tranh
giữa các đối thủ hiện có trong ngành là một trong những yếu tố phản ánh bản chất của
môi trường này. Cuộc cạnh tranh giữa các đối thủ hiện tại diễn ra do một hoặc nhiều đối
thủ cảm thấy bị chèn ép hoặc cảm thấy có cơ hội để cải thiện vị trí. Trong cuộc cạnh tranh
đó, các đối thủ sử dụng các chiến thuật như cạnh tranh về giá, các cuộc chiến về quảng
cáo, giới thiệu sản phẩm và tăng cường phục vụ khách hàng hoặc bảo hành...
Hai là, sự đe dọa của các đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn ra nhập thị trường: Những
người mới bước vào kinh doanh ở một lĩnh vực, một ngành hoặc một thị trường sẽ mang
theo năng lực sản xuất mới với mong muốn chiếm lĩnh một phần thị trường, sự xuất hiện
của họ làm cho giá bán bị kéo xuống và kết quả là làm giảm mức lợi nhuận. Từ đó mà nó
cũng ảnh hưởng trực tiếp đến vị thế cạnh tranh của các doanh nghiệp hiện đang kinh
doanh trên thị trường. Hơn nữa những người mới sẽ có cách tiếp cận mới có hiệu quả hơn
đối với khách hàng. Tuy nhiên để bước vào kinh doanh ở thị trường mới, các công ty phải

13


đủ khả năng vượt qua những cản trở nhất định. Theo quan điểm của M. Porter, các rào
chắn ngăn cản sự xâm nhập của một công ty bao gồm:
1. Hiệu quả kinh tế do quy mô
2. Sự khác biệt hay ấn tượng về sản phẩm
3. Yêu cầu về vốn
4. Chi phí chuyển đổi
5. Kênh phân phối
6. Chính sách của Chính phủ
7. Sự phản ứng của các nhà cạnh tranh...
Ba là, sự xuất hiện của sản phẩm thay thế: Xét theo nghĩa rộng thì các hãng trong

một ngành phải cạnh tranh với các ngành sản xuất các sản phẩm thay thế, nó bao gồm cả
ở hiện tại và tương lai. Các sản phẩm thay thế hạn chế mức lợi nhuận tiềm năng của một
ngành bằng cách đặt ngưỡng tối đa cho mức giá mà các hãng trong nghnh có thể kinh
doanh có lãi. Khi hai sản phẩm có công dụng gần tương tự nhau thì đương nhiên người
tiêu dùng sẽ lựa chọn sản phẩm nào có mức giá thấp hơn, tức là khi giá cả của sản phẩm
tăng quá cao khách hàng sẽ chuyển sang sử dụng sản phẩm thay thế, khả năng lựa chọn về
giá cả của các sản phẩm thay thế càng hấp dẫn thì ngưỡng chặn trên đối với lợi nhuận của
ngành càng vững chắc hơn. Sự sẵn có của sản phẩm thay thế trên thị trường là một mối đe
dọa trực tiếp đến khả năng phát triển, khả năng cạnh tranh và mức độ lợi nhuận của các
doanh nghiệp
Bốn là, sức ép của khách hàng: Sức mạnh của khách hàng thể hiện ở chỗ họ có thể
buộc các nhà sản xuất phải giảm giá bán sản phẩm thông qua việc tiêu dùng ít sản phẩm
hoặc đòi hỏi chất lượng sản phẩm cao hơn, được dịch vụ nhiều hơn và làm các đối thủ
cạnh tranh chống lại nhau – tất cả đều làm tổn hao mức lợi nhuận của ngành. Quyền lực
của mỗi một nhóm khách hàng quan trọng của ngành phụ thuộc vào một loạt các đặc
điểm về tình hình thị trường của nhóm và vào tầm quan trọng của các hàng hóa mua của
ngành xét trong mỗi tương quan của toàn bộ hoạt động kinh doanh chung của nhóm.
Năm là, sức ép của người cung ứng: Những người cung ứng có sức mạnh thỏa
thuận rất lớn. Họ có thể khẳng định quyền lực của mình bằng cách đe dọa tăng hoặc giảm
giá, chất lượng hàng hóa hay dịch vụ đã mua. Những người cung cấp có thế lực bằng cách
đó chèn ép lợi nhuận của một ngành khi ngành đó không có khả năng bù đắp chi phí tăng
lên trong mức giá của ngành. Các nhà cung cấp có thể gây ra những khó khăn làm giảm
khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong những trường hợp sau:
- Nguồn cung cấp của doanh nghiệp chỉ cần có một hoặc vài công ty độc quyền
cung cấp.
- Nếu nhà cung ứng có khả năng về các nguồn lực để khép kín sản xuất, có mạng

14



lưới phân phối hoặc mạng lưới bán lẻ thì họ sẽ có thế lực đáng kể đối với doanh nghiệp là
khách hàng.
1.2.3.2. Nhân tố bên trong doanh nghiệp
Một là, nguồn nhân lực: Đây là yếu tố quyết định của sản xuất kinh doanh bao
gồm:
- Ban giám đốc doanh nghiệp.
- Cán bộ quản trị ở cấp doanh nghiệp.
- Cán bộ quản trị ở mức trung gian, đốc công và công nhân.
Hai là, nguồn lực vật chất và tài chính: Yếu tố này bao gồm
- Máy móc thiết bị và công nghệ: có ảnh hưởng một cách sâu sắc tới khả năng
cạnh tranh của doanh nghiệp. Nó là một yếu tố vật chất quan trọng bậc nhất thể hiện năng
lực sản xuất của một doanh nghiệp và tác động trực tiếp tới chất lượng sản phẩm. Ngoài
ra công nghệ sản xuất máy móc thiết bị cũng ảnh hưởng đến giá thành và giá bán sản
phẩm. Một doanh nghiệp có trang bị may móc hiện đại thì sản phẩm của họ nhất định có
chất lượng cao. Ngược lại không có một doanh nghiệp nào có thể nói là có khả năng cạnh
tranh cao khi mà trong tay họ là cả hệ thống máy móc cũ kỹ với công nghệ sản xuất lạc
hậu.
- Tiềm lực tài chính của doanh nghiệp: Bất cứ một hoạt động đầu tư, ma sắm hay
phân phối nào cũng đều phải xem xét, tính toán trên tiềm lực tài chính của doanh nghiệp.
Một doanh nghiệp có tiềm năng lớn về tài chính sẽ có nhiều thuận lợi trong việc đổi mới
công nghệ, đầu tư mua sắm trang thiết bị, đảm bảo nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá
thành đẻ nâng cao sức cạnh tranh, cung cấp tín dụng thương mại, khuyến khích việc tiêu
thụ sản phẩm, tăng doanh thu, lợi nhuận và củng cố vị trí của mình trên thương trường.
Nói tóm lại, khi xem xét khả năng cạnh tranh của một doanh nghiệp và thậm chí
kể cả khả năng cạnh tranh của đối thủ, doanh nghiệp đều phải xem xét đầy đủ các yếu tố
tác động , từ đó tìm ra các biện pháp hữu hiệu nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp.
1.3. Sự cần thiết phải nâng cao sức cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam khi gia
nhập TPP
1.3.1. Giới thiệu tổng quan về sản xuất nông sản tại Việt Nam

1.3.1.1. Sự hình thành và phát triển ngành nông nghiệp Việt Nam
Trải qua 70 năm xây dựng và phát triển, ngành Nông nghiệp Việt Nam có nhiều
biến động về tổ chức theo diễn biến dòng chảy lịch sử để đáp ứng yêu cầu phát triển của
đất nước.
Nhưng dù trong bất kỳ hoàn cảnh khó khăn nào, ngành Nông nghiệp Việt Nam vẫn

15


luôn giành được nhiều thành tựu to lớn, làm tròn vai trò nền tảng, trụ đỡ cho kinh tế nước
nhà. Những dấu mốc lịch sử Chỉ sau 2 tháng thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa,
tại phiên họp ngày 14/11/1945, Hội đồng Chính phủ đã ra Quyết nghị thành lập Bộ Canh
nông với nhiệm vụ giải quyết nạn đói và soạn thảo một chương trình phát triển nông
nghiệp toàn diện phục vụ công cuộc kháng chiến kiến quốc, giành độc lập dân tộc và
thống nhất đất nước. Thực hiện Quyết nghị của Hội đồng Chính phủ, ngày 1/12/1945,
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 69 với nội dung: “Tất cả các cơ quan Canh nông,
Thú y, Mục súc, Ngư nghiệp, Lâm chính và Nông nghiệp tín dụng (Hợp tác xã và Nông
khố ngân hàng) trong toàn cõi Việt Nam từ nay thuộc Bộ Canh nông”. Chính vì vậy, ngày
14/11/1945 có thể được xem là ngày hoạt động chính thức đầu tiên của ngành Nông
nghiệp và PTNT dưới chính thể mới - chính thể dân chủ cộng hòa và ngày nay là Cộng
hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Trải qua lịch sử
70 năm hình thành và phát triển đến nay, Bộ Nông nghiệp và PTNT đã có nhiều thay đổi
về chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức; từ Bộ Canh nông (1945) đến Bộ Nông lâm và
Bộ Thuỷ lợi (1955); Bộ Nông nghiệp; Bộ Nông trường; Tổng cục Thủy sản; Tổng cục
Lâm nghiệp (1960); Ủy ban Nông nghiệp trung ương (1971); Bộ Hải sản và Bộ Lâm
nghiệp (1976); Bộ Công nghiệp thực phẩm và Bộ Lương thực (1981); Bộ Nông nghiệp
(1987). Năm 1995, để nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước trong các lĩnh vực Nông
nghiệp, Lâm nghiệp, Thuỷ lợi và Phát triển nông thôn, từ ngày 3/10 - 28/10/1995, tại kỳ
họp thứ 8 của Quốc hội khoá IX đã thông qua Nghị quyết về việc thành lập Bộ Nông
nghiệp và PTNT trên cơ sở hợp nhất 3 Bộ: Bộ Lâm nghiệp, Bộ Nông nghiệp - Công

nghiệp thực phẩm và Bộ Thuỷ lợi. Tại kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khoá XII (tháng 8/2007)
đã quyết định hợp nhất Bộ Thuỷ sản vào Bộ Nông nghiệp và PTNT. Tại Nghị định số
199/2013/NĐ-CP ngày 26/11/2013 của Chính phủ quy định: “Bộ Nông nghiệp và PTNT
là cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý Nhà nước các ngành, các lĩnh vực:
Nông nghiệp, lâm nghiệp, diêm nghiệp, thủy lợi; thủy sản và phát triển nông thôn trong
phạm vi cả nước; quản lý Nhà nước các dịch vụ công trong các ngành, các lĩnh vực thuộc
phạm vi quản lý của Bộ”.
Những dấu bước phát triển của ngành Nông nghiệp Việt Nam Trải qua lịch sử 70
năm hình thành và phát triển, nông nghiệp, nông dân, nông thôn luôn là vấn đề được
Đảng, Nhà nước và Chính phủ quan tâm và coi trọng; sự phát triển của nông nghiệp, nông
dân, nông thôn luôn gắn liền với lịch sử hình thành và phát triển đất nước - từ thời kháng
chiến kiến quốc đến giai đoạn thống nhất đất nước và đổi mới hiện nay. Trong 10 năm
(1945 - 1954), nông nghiệp Việt Nam đã hoàn thành sứ mệnh là nền tảng của kinh tế
kháng chiến với những đóng góp to lớn giải quyết nạn đói 1945 - 1946, đẩy mạnh tăng

16


gia sản xuất, cung cấp sức người sức của cho kháng chiến, hình thành những nền tảng để
phát triển nông nghiệp trong những giai đoạn tiếp sau. Từ một nền kinh tế canh nông đã
bị tê liệt trước năm 1945, nông nghiệp kháng chiến không những không bị suy thoái tiếp,
mà đã được duy trì và phát triển, với sản lượng lương thực, thực phẩm và hàng hóa ngày
càng dồi dào hơn, đáp ứng kịp thời các nhu cầu của cuộc kháng chiến và đời sống nhân
dân.
Chặng đường 20 năm (1955-1975) là thời kỳ đặc biệt của quá trình xây dựng và
phát triển ngành Nông nghiệp nước ta, khi đất nước bị chia cắt làm hai miền, tiến hành
hai chiến lược cách mạng khác nhau, chịu nhiều thách thức to lớn trong và ngoài nước,
dưới chịu ảnh hưởng nặng nề của chiến tranh. Trong khi nông nghiệp miền Nam phát
triển không ổn định, không đáp ứng được đầy đủ nhu cầu lương thực, thực phẩm của xã
hội, thì nông nghiệp miền Bắc đã hoàn thành vai trò mặt trận hàng đầu trong xây dựng

hậu phương lớn, chi viện đắc lực cho cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam. Chiến thắng
vĩ đại mùa Xuân năm 1975, đất nước được độc lập, tự do, mở ra cơ hội và điều kiện thuận
lợi để khai thác tiềm năng, thế mạnh về sản xuất nông nghiệp của cả hai miền. Mặc dù đã
có nhiều cố gắng nhằm phát triển sản xuất nhưng giai đoạn này sản xuất nông nghiệp ở
miền Bắc vẫn mang nặng tính bình quân, bao cấp; còn ở miền Nam, phong trào hợp tác
hóa phát triển nhanh nhưng không bền vững;…
Trước tình hình đó, từ những thí điểm hình thức khoán trong sản xuất nông nghiệp
ở Hải Phòng, Vĩnh Phú, Nghệ Tĩnh năm 1980, Đảng, Nhà nước đã có chủ trương mở rộng
hình thức khoán theo Chỉ thị 100-CT/TW - chuyển sang cơ chế quản lý mới trong sản
xuất nông nghiệp trong cả nước, tạo đà cho phát triển và đem lại hiệu quả rõ rệt, góp phần
cải thiện đời sống nhân dâ. Đặc biệt, từ năm 1986 (Đại hội Đảng VI), Đảng và Nhà nước
ta đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách, cơ chế, biện pháp mới nhằm giải phóng sức sản
xuất, phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nhờ
vậy, nông nghiệp, nông dân và nông thôn nước ta đã có những chuyển biến mạnh mẽ.
Nhìn lại, 30 năm đổi mới vừa qua đã đánh dấu bước phát triển thần kỳ của nông
nghiệp Việt Nam. Thành công trong lĩnh vực nông nghiệp là một trong những thành tựu
rõ rệt nhất của quá trình đổi mới kinh tế- xã hội Việt Nam thời gian qua. Từ chỗ đất nước
đang khủng hoảng lương thực nghiêm trọng, hàng năm phải nhập hàng triệu tấn lương
thực của nước ngoài, nhưng đến nay chúng ta đã vươn lên trở thành quốc gia xuất khẩu
các mặt hàng nông sản nhiệt đới đứng hàng đầu thế giới. Năm 2014, tốc độ tăng trưởng
của ngành nông nghiệp đạt 3,49%, vượt mục tiêu Chính phủ đề ra và cao hơn nhiều so với
năm 2013. Tổng kim ngạch xuất khẩu toàn ngành đạt gần 31 tỷ USD, tăng 11,2% so với
năm 2013, tiếp tục là lĩnh vực tạo ra giá trị thặng dư cao với 9,5 tỷ USD. Trong đó, có 10

17


mặt hàng nông sản có kim ngạch xuất khẩu hơn 1 tỷ USD. Bước vào giai đoạn phát triển
mới, nhiều thách thức và cơ hội đang mở ra, đòi hỏi phải có bước phát triển hoàn toàn
mới trong tư duy phát triển và chiến lược chính sách. Toàn bộ nền kinh tế đã chuyển vào

giai đoạn đẩy nhanh tốc độ đô thị hóa, tài nguyên đang rút ra mạnh khỏi nông nghiệp,
nông thôn; quá trình biến đổi khí hậu diễn ra ngày càng phức tạp; hội nhập kinh tế đi vào
giai đoạn sâu rộng triệt để cùng nhiều thách thức và cơ hội mới, cạnh tranh thị trường trở
nên quyết liệt; khoa học- công nghệ phát triển mạnh, các biến động chính trị kinh tế trên
thế giới trở nên khó lường. Chính vì vậy, mô hình tăng trưởng theo chiều rộng dựa vào
khai thác tài nguyên và hướng vào thị trường dễ tính giá rẻ đã không còn phù hợp. Toàn
nền kinh tế và lĩnh vực nông nghiệp chỉ có thể tiếp tục tăng trưởng ổn định nếu chuyển
nhanh sang định hướng phát triển theo chiều sâu, tập trung vào hiệu quả, chất lượng, giá
trị và vững bền. Đây là lúc tập trung thực hiện chương trình “Tái cơ cấu nông nghiệp, xây
dựng nông thôn mới” với các nội dung chính về phát triển khoa học công nghệ, đổi mới
thể chế, phát triển thị trường, nâng cao đời sống, thu nhập của người nông dân… Để làm
tốt được việc này cần có sự tham gia của mọi ngành, mọi cấp và toàn xã hội vào chương
trình tái cơ cấu nông nghiệp; mà trước hết, cần có sự thay đổi tư duy để hình thành quyết
tâm chính trị của các cấp lãnh đạo và toàn dân.
1.3.1.2.Vai trò của xuất khẩu hàng nông sản đối với Việt Nam
Trước đây, trong thời kỳ kế hoạch hóa tập trung, nền kinh tế mang tính chất tự cấp
tự túc, sản xuất bị kìm hãm , nông nghiệp được quan tâm phát triển xong vẫn còn yếu
kém. Khả năng tiềm tàng chưa được khai thác, nhiều lợi thế chưa được phát huy, trình độ
khoa học kỹ thuật, công nghệ lạc hậu.
Qua 30 năm đổi mới, từ khi thực hiện chính sách mở cửa cả trong lẫn ngoài nước
ta đạt nhịp độ tăng trưởng ổn định và bền vững. Tuy nhiên, trong kinh tế hội nhập kinh tế
quốc tế diễn ra mạnh mẽ như hiện nay. Việt nam đang đứng trước một thực trạng so với
các nước và trong khu vực ,nền kinh tế của nước ta còn kém phát triển. Vì vậy, không thể
có bước nhảy vọt về chất nếu không nhanh chóng thực hiện chiến lược hướng về xuất
khẩu, mà một trong những nhân tố góp phần thực hiệ n thành công chiến lược này là đẩy
mạnh xuất khẩu nông sản, điều này cũng đồng nghĩa phải nâng cao sức cạnh tranh của
hàng nông sản Việt Nam, xuất khẩu nông sản vẫn là xương sống của sự nghiệp phát triển
kinh tế nói riêng và phát triển kinh tế - xã hội nói chung.
Là một nước có 80% dân số và trên 70% lao động xã hội đang hoạt động và sinh
sống dựa vào sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp. Việt Nam đã biết cách tận dụng và phát huy

lợi thế và tiềm năng về đất đai, lao động và điều kiện sinh thái cho phép xuất khẩu nhiều
loại nông sản có giá trị kinh tế lớn như: Lúa gạo đồng bằng song Cửu Long, Cà phê vùng

18


Tây Nguyên, Cao su vùn duyên hải miền Trung, và một số loại cây ăn quả đặc sắc
khác...Điều đó đã góp phần đưa đất nước đi lên bước phát riển mới. Có thể nói lựa chọn
xuất khẩu hàng nông sản để thực hiện chất lượng xuất khẩu ở Việt Nam là một hướng đi
đúng đắn và có hiệu quả, phù hợp với chủ trương của Đảng và Nhà nước ta. Do vậy, việc
nâng cao sức cạnh tranh của hàng nông sản là rất cần thiết.
Thực tế cho thấy trong giai đoạn đầu phát triển kinh tế, xuất khẩu nông sản có vai
trò rất quan trọng, cụ thể là:
Một là, xuất khẩu nông sản tạo nguồn vốn tích lũy ban đầu cho quốc gia: Cho đến
nay, kim ngạch xuất khẩu nông sản nước ta chếm khoảng 40% tổng xuất khẩu kim ngạch
của cả nước và là một trong những ngồn thu ngoại tệ của nước ta. Là một nước nghèo,
thiếu ngoại tệ và một khi đồng tiền chưa có khả năng chuyển đổi như đồng tiền Việt Nam,
thì xuất khẩu nông sản có ý nghĩa quan trọng “hàng đầu” tạo ra nguồn thu ngoại tệ để
nhập khẩu mấy móc thiết bị công nghệ và vật tư cần thiết co sự phát tiển kinh tế đất nước.
Hai là, tăng thu nhập và cải thiện đời sống nhân dân: Xuất khẩu nông sản tăng đã
góp phần thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển. Đồng tời, thúc đẩy quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn theo hướng CNH, HĐH, tạo ra bước
chuyển biến mạnh mẽ từ nền kinh tế thuần nông, tự cấp tự túc sang nền kinh tế hàng hóa
với tỷ suất hàng hóa ngày càng cao. Bên cạnh đó xuất khẩu nông sản còn tạo điều kiện
cho kinh tế phát triển theo chiều rộng. Như khi các hị trường nông sản xuất khẩu phát
triển thì đó là phương thức giải quyết công việc làm cho người lao động và tăng đội ngũ
công nhân lành nghề , đẫn đến tăng quy mô sản xuất của nền kinh tế. Như vây, có thể nói
sự gia tăng của xuất khẩu nông sản đã tạo nên tăng trưởng GDP cao, góp phần cải thiện
cán cân thanh toán thương mại đồng thời thu nhập và đời sống của nhân dân được nâng
cao rõ rệt.

Ba là, thúc đẩy các mối liên kết kinh tế: Do nông sản chiếm tỉ trọng lớn trong tổng
sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam hiện nay nên nó đã thúc đẩy sự phát triển công nghiệp
chế biến tạo ra các sản phẩm sơ chế như gạo, cà phê, cao su... Sự phát triển của công
nghiệp chế biến tạo cơ hội cho việc gia tăng xuất khẩu nông sản, nó có tắc động ngược lại
với ngành cung ứng nghyên liệu, tạo ra “mối liên hệ ngược”, mà tác động của nó đặc biệt
có hiệu quả nhờ vào quy mô sản xuất lớn làm giảm chi phí sản xuất và tăng cạnh tranh
trên trường quốc tế. Sự phát triển của các ngành có liên quan được thực hiện qua “mối
lien hệ gián tiếp” thông qua nhu cầu của hàng tiêu dung của phần lớn lực lượng lao động
có mức nhập ngày càng ca. Ngoài ra, thực hiện chất lượng xuất khẩu nông sản còn là cơ
sở gắn thị trường trong nước và thị trường quốc tế. Nền kinh tế quốc gia với tư cách là
một nền kinh tế độc lập, tự chủ tham gia vào từng bước hòa nhập với nền kinh tế thế giới,

19


thúc đẩy liên kết và mở rộng giao lưu kinh tế - thương mại giữa các nước trong khu vực
và trên thế giới, tạo điều kiện thuận lợi cùng phát triển.
Như vậy, thực tế cho thấy xuất khẩu phần nào đáp ứng được mục tiêu phát huy lợi
thế so sánh nông nghiệp của nước ta trên thị trường quốc tế. Xuất khẩu nông sản chẳng
những góp phần đáng kể vào việc tích lũy vốn cho công nghiệp hóa mà còn có ý nghĩa
quan trọng trong việc tiêu thụ sản phẩm hàng hóa cho nhân dân, tăng thu nhập cho bà
con, từ đó tăng sức mua của dân cư trong thị trường nông thôn rộng lớn, giảm bớt nhập
siêu, giảm bớt căng thẳng trong cán cân thanh toán cũng như ngoại tệ...
1.3.3. Sự hình thành và vai trò của Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương
1.3.3.1. Sự hình thành Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương
Hiệp định đối tác Xuyên Thái Dương (TPP) có nguồn gốc từ Hiệp định hợp tác
Kinh tế chiến lược Xuyên Thái Bình Dương (Trans-Pacific Strategic Economic
Partnership Agreement ) – một Hiệp định thương mại tự do nhiều bên được ký kết với
mục tiêu thiết lập một mặt bằng thương mại tự do chung cho các nước khu vực châu Á
Thái Bình Dương. Hiệp định này được ký kết ngày 3/6/2005, có hiệu lực từ 28/5/2006

giữa 4 nước Singapore, Chile, New Zealand, Brunei (vì vậy Hiệp định này còn gọi là P4)
Tháng 9/2008, Mỹ tỏ ý định muốn đàm phán để tham gia TPP. Sau đó (tháng
11/2008), các nước khác là Australia, Peru, Việt Nam cũng thể hiện ý định tương tự.
Tháng 10/2010, Malaysia chính thức thông báo ý định tham gia đàm phán TPP.
Ngày 13/11/2010, Việt Nam tuyên bố tham gia vào TPP với tư cách thành viên đầy
đủ. Đến nay, TPP có sự tham gia của 12 nước gồm Australia, Brunei, Canada, Chile,
Malaysia, Mexico, New Zealand, Peru, Mỹ, Singapore, Nhật Bản và Việt Nam. Ngoài ra,
Colombia, Philippines, Thái Lan, Đài Loan (Trung Quốc) và Hàn Quốc đã bày tỏ sự quan
tâm đến TPP.
Mục tiêu của TPP là thắt chặt hơn mối quan hệ kinh tế giữa các quốc gia này,
thông qua các biện pháp giảm (thậm chí là loại bỏ hoàn toàn trong một số trường hợp) các
hàng rào thuế quan giữa các nước, giúp tăng cường trao đổi hàng hóa và dịch vụ. Cùng
với tăng cường dòng chảy vốn, TPP cũng được kỳ vọng sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
của 12 nước thành viên.
Các chuyên gia đánh giá TPP là một hiệp định của thế kỷ 21, không chỉ vì nó là
Hiệp định lớn mà còn ở tầm vóc và ảnh hưởng của nó. Về phạm vi, so với các Hiệp định
BTA, AFTA, và trong WTO, TPP mở rộng hơn, cả về thương mại hàng hóa, thương mại
dịch vụ, đàu tư và sở hữu trí tuệ. Ngoài ra còn có các vấn đề phi thương mại như mua sắm
chính phủ, môi trường, lao động, công đoàn, hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ...
Với tầm vóc như vậy, các cam kết này sâu rộng hơn, toàn diện hơn, thì bấy giờ,

20


ảnh hưởng sẽ rất lớn. Đó là điểm khác biệt cơ bản. Nhìn ở góc độ Việt Nam, ta là nước
đang phát triển, các nước thành viên còn lại đều là các nước phát triển hơn. Tính chất TPP
mở ra cho các nước có mức độ phát triển khác nhau nhưng cố gắng có một mẫu số chung
để cùng phát triển.
Mục tiêu là thế, nhưng không tạo ra các cam kết đặc biệt, các cam kết thực hiện sẽ
phải bình đẳng. Các nước đang phát triển mà tham gia TPP sẽ phải cố gắng để rút ngắn

thời gian thực hiện cam kết đó.
1.3.3.2. Vai trò của Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương
Với tư duy mở cửa chưa từng có, TPP vừa được 12 nước thống nhất sẽ mở ra cơ
hội tiếp cận thị trường, hỗ trợ phát triển sản xuất trong toàn khu vực và xác lập tiêu chuẩn
mới cho thương mại toàn cầu. Bộ trưởng Thương mại của 12 nước tham gia đàm phán
TPP đã thống nhất đạt một hiệp định với tiêu chuẩn cao, tham vọng, toàn diện và cân
bằng, qua đó giúp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, hỗ trợ việc làm, thúc đẩy sáng tạo, hiệu
quả và tính cạnh tranh của các nền kinh tế. Các nước cũng kỳ vọng thỏa thuận này sẽ giúp
nâng cao mức sống của người dân, giảm nghèo, khuyến khích sự minh bạch, hiệu quả
điều hành cũng như cải thiện việc bảo vệ người lao động, môi trường.

12 nước tham gia TPP
Những vấn đề chính thể hiện rõ vai trò cũng như kỳ vọng TPP được coi là hiệp
định của thế kỷ 21 thể hiện đó là:
- Những điểm mấu chốt

21


5 thành tố sau đây giúp TPP được coi là một thỏa thuận của thế kỷ 21, tạo ra một
tiêu chuẩn mới cho thương mại toàn cầu để giải quyết những vấn đề của thời đại mới:
+ Tiếp cận thị trường toàn diện: TPP đưa ra chính sách miễn – giảm các hàng rào
thuế quan và phi thuế quan với hầu hết các loại hàng hóa, dịch vụ và đầu tư, tạo ra cơ hội
và những lợi ích mới cho kinh doanh, người lao động cũng như người tiêu dùng.
+ Đưa ra cam kết mang tính khu vực: TPP tạo điều kiện cho sự phát triển sản xuất,
chuỗi cung ứng, nâng cao hiệu quả và hỗ trợ mục tiêu của việc tạo ra và hỗ trợ việc làm,
nâng cao đời sống. Hiệp định cũng tăng cường năng lực giám sát, tạo điều kiện hội nhập
qua biên giới cũng như mở cửa thị trường trong nước.
+ Giải quyết những thách thức mới: TPP khuyến khích đổi mới, hiệu quả và cạnh
tranh bằng cách giải quyết những vấn đề mới, bao gồm phát triển kinh tế điện tử, vai trò

của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế toàn cầu.
+ Thương mại toàn diện: TPP bao gồm các yếu tố mới nhằm đảm bảo các nền kinh
tế ở tất cả các cấp độ phát triển và các doanh nghiệp thuộc mọi quy mô có thể được hưởng
lợi từ thương mại. Nó bao gồm các cam kết để giúp doanh nghiệp nhỏ và vừa hiểu Hiệp
định, tận dụng cơ hội của nó, và mang lại những thách thức riêng của họ với sự quan tâm
của các chính phủ. TPP còn bao gồm các cam kết cụ thể về phát triển và xây dựng năng
lực thương mại, để đảm bảo rằng tất cả các bên có khả năng đáp ứng các cam kết trong
Hiệp định và tận dụng đầy đủ các lợi ích của nó.
+ Nền tảng cho hội nhập khu vực: TPP được kỳ vọng tạo ra một nền tảng cho hội
nhập kinh tế khu vực và có thể cho phép các nền kinh tế khác trong khu vực châu Á-Thái
Bình Dương tham gia.
Phạm vi
TPP bao gồm 30 chương, đề cập đến thương mại và các vấn đề liên quan: Từ
thương mại hàng hoá, hải quan, thuận lợi thương mại, các biện pháp vệ sinh dịch tễ, hàng
rào kỹ thuật; đầu tư, dịch vụ, thương mại điện tử, mua sắm Chính phủ, sở hữu trí tuệ, lao
động, môi trường… Những vấn đề này giúp TPP đáp ứng yêu cầu phát triển, khả năng
cạnh tranh, giải quyết tranh chấp và các quy định về thể chế.
Cùng với việc cập nhật những tiến bộ của các FTA thế hệ trước, TPP kết hợp các
vấn đề thương mại mới đang nổi lên và các vấn đề xuyên suốt. Chúng bao gồm các vấn đề
liên quan đến Internet và các nền kinh tế kỹ thuật số, sự tham gia của các doanh nghiệp
nhà nước trong thương mại quốc tế và đầu tư, khả năng của các doanh nghiệp nhỏ tận
dụng lợi thế của Hiệp định thương mại và các chủ đề khác.
TPP tập hợp 12 nước có điều kiện địa lý, ngôn ngữ và lịch sử, quy mô và mức độ
phát triển khác nhau. Các nước trong khối đều nhận thức rằng điều này là một tài sản độc

22


đáo nhưng cũng yêu cầu sự hợp tác chặt chẽ, xây dựng năng lực cho các nước ở trình độ
phát triển thấp hơn. Trong một số trường hợp, giai đoạn chuyển đổi và cơ chế đặc biệt cho

phép một số thành viên TPP một khoảng thời gian bổ sung cần thiết để nâng cao năng lực
thực thi các nghĩa vụ mới.
- TPP tạo ra các quy tắc thương mại khu vực
TPP được quy định trong 30 chương. Các lộ trình cam kết và phụ lục được quy
định kèm theo các chương này liên quan tới thương mại hàng hóa và dịch vụ, đầu tư, mua
sắm chính phủ và nhập cảnh tạm thời của khách kinh doanh. Ngoài ra, chương về Doanh
nghiệp Nhà nước bao gồm các ngoại trừ của từng nước được quy định trong phụ lục kèm
theo.
1.3.3.3. Những ích lợi và thiệt hại, phát sinh khi tham gia Hiệp định TPP của một
số nước thành viên
TPP được xem là thỏa thuận thương mại lớn nhất trong lịch sử nhân loại, giúp
giảm thuế xuất nhập khẩu, cũng như các loại bảo hộ thương mại tại 12 quốc gia thành
viên. Các nước này hiện chiếm đến khoảng 40% tỷ trọng kinh tế toàn cầu.
Các thành viên TPP gồm Ốt-xtrây-lia, Bru-nây, Ca-na-đa, Chi-lê, Nhật Bản, Malai-xi-a, Mê-hi-cô, Niu Di-lân, Pê-ru, Xinh-ga-po, Hoa Kỳ và Việt Nam.
TPP sẽ loại bỏ 18.000 thuế quan đối với hàng hóa Mỹ, đồng thời mở ra cơ hội cho
mọi đối tượng từ các nhà sản xuất tôm của Việt Nam cho tới chủ nông trại bò sữa của Niu
Di-lân cơ hội tiếp cận giá rẻ hơn với các thị trường ở khắp khu vực Thái Bình Dương.
Các nước tham gia đàm phán TPP cũng đã thảo luận về nhiều vấn đề, bao gồm các
lĩnh vực kinh doanh nông nghiệp và công nghiệp, cũng như hoạt động cạnh tranh với khối
doanh nghiệp nhà nước. Tuy nhiên, chi tiết của các vòng đàm phán vẫn không được công
khai ra công chúng, mà các nhà thương thuyết sẽ soạn ra một bộ tài liệu cho Chính phủ
nước họ.
- Với Nhật Bản
Các nhà sản xuất ôtô và phụ tùng ôtô của Nhật Bản có thể là đối tượng hưởng lợi
lớn nhất từ TPP, bởi họ sẽ được tiếp cận thị trường Mỹ, thị trường xuất khẩu ô tô lớn nhất
thế giới, với mức giá sản phẩm mềm hơn.Nhật Bản buộc phải giảm một số hàng rào bảo
hộ đối với nông dân trồng lúa gạo của nước này. Theo đó, Nhật sẽ phải đưa ra mức thuế
quan bằng 0 đối với lượng gạo nhập khẩu tương đương 1% tổng tiêu thụ gạo trong
nước.Chủ các trang trại nuôi gia súc của Nhật có thể chịu tác động mạnh hơn, bởi thuế
quan đối với thịt bò nhập khẩu vào Nhật sẽ giảm xuống 9% trong vòng 16 năm, từ mức

38,5%. Thuế nhập khẩu thịt lợn cũng bị cắt giảm mạnh.
- Đối với Ốt-xtrây-lia (Úc)

23


TPP sẽ làm giảm 9 tỷ Đôla Úc thuế quan mỗi năm đối với hàng hóa xuất khẩu của
nước này. Úc sẽ giành quyền tiếp cận với thị trường đường của Mỹ. Nhật cũng sẽ giảm
thuế nhập khẩu đối với đường và thịt bò của Australia. Hải sản và nông sản vườn của Úc
sẽ được áp mức thuế nhập khẩu thấp hơn, trong khi hạn ngạch ưu đãi cũng được áp dụng
đối với các sản phẩm hạt, ngũ cốc và gạo của nước này. Úc và Niu Di-lân đã gây sức ép
thành công buộc Mỹ phải nhượng bộ về thời gian bảo hộ sinh dược, chỉ cho phép các
công ty giữ độc quyền sinh được trong vòng 5 năm thay vì 12 năm như mong muốn của
Mỹ. Thời hạn bảo hộ rút ngắn thể dẫn tới việc giá thuốc giảm xuống và mức độ cạnh
tranh cao hơn. Thuế quan giảm xuống đối với mọi mặt hàng từ sắt thép, dược phẩm, máy
móc, giấy cho tới phụ tùng ô tô đều có lợi cho các nhà sản xuất Australia.
- Đối với Niu-Di-lân
Thuế quan sẽ được giảm xuống đối với 93% hàng xuất khẩu của Niu-Di-lân sang
các nước đối tác TPP, giúp tiết kiệm cho nước này khoảng 259 triệu đôla Niu-Di-lân
tương đương 168 triệu USD. Ngành sữa, lĩnh vực chiếm khoảng 1/4 tổng kim ngạch xuất
khẩu của Niu-Di-lân, sẽ tiết kiệm được khoảng 102 triệu đôla Niu-Di-lân tiền thuế quan
mỗi năm. Một số hàng rào thuế quan đối với sản phẩm sữa của Niu-Di-lân vẫn duy trì
những thị trường chủ chốt như Mỹ, Nhật, Canada và Mê-hi-cô. Ngoài ra, Canada chỉ chấp
nhận nhập khẩu lượng sữa tương đương 3,3% lượng tiêu thụ trong nước trong vòng 5 năm
tới. Thuế quan đối với thịt bò Niu-Di-lân sẽ được bãi bỏ, trừ trường hợp Nhật giảm thuế
đánh vào thịt bò nhập khẩu xuống 9% từ 38,5%. Thuế quan đối với các mặt hàng xuất
khẩu khác của Niu-Di-lân gồm hoa quả, hải sản, rượu vang và thịt cừu cũng được bãi bỏ.
- Ma-lai-xi-a
Các nhà xuất khẩu điện tử, hóa chất, dầu cọ và cao su của Ma-lai-xi-a sẽ hưởng lợi
từ TPP. Ma-lai-xi-a là quốc gia sản xuất dầu cọ lớn thứ 2 toàn cầu và là một trong những

nước trồng cây cao su lớn nhất thế giới. Các doanh nghiệp quốc doanh của Ma-lai-xi-a có
thể chịu sức ép từ TPP do thỏa thuận này kêu gọi quyền tiếp cận bình đẳng đối với hoạt
động mua sắm của Chính phủ. Các nhà xuất khẩu hàng điện tử, hóa phẩm, dầu cọ và cao
su của Ma-lai-xi-a được hưởng lợi từ TPP. Ma-lai-xi-a là nước sản xuất dầu cọ lớn thứ nhì
thế giới và một trong những nước sản xuất cao su lớn nhất thế giới.

1.3.4. Sự cần thiết phải nâng cao sức cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam
khi gia nhập TPP
1.3.4.1. Sự cần thiết phải nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa nói chung
Hoạt động xuất khẩu có vai trò vô cùng to lớn đối với nền kinh tế quốc dân cũng

24


như sự phát triển nói chung của một quốc gia. Mà để duy trì và phát triển tốt hoạt động
xuất khẩu thì vấn đề cạnh tranh của sản phẩm được quan tâm hàng đầu. Nếu sức cạnh
tranh của hàng hóa xuất khẩu cao, hoạt động xuất khẩu tiến triển tốt, khi đó tạo điều kiện
cho ta có điều kiện để nhập khẩu máy móc thiết bị, phục vụ sản xuất trong nước, thúc đẩy
CNH,HĐH đất nước.
Thông qua hoạt động xuất khẩu, các quốc gia sẽ nhận biết được lợi thế so sánh của
mình với các nước khác, và họ sẽ tập trung vào những lĩnh vực thuộc lợi thế của họ để tối
đa hóa lợi ích thu được, Vì vậy, khi tham gia xuất khẩu hàng hóa, các quốc gia sẽ phát
huy tối đa lợi thế của mình để phát triển sản xuất. Việc mở rộng thị trường ra nước ngoài
còn giúp đa dạng hóa các ngành nghề ở các nước xuất khẩu, từ đó nhiều công việc được
tạo ra, thu nhập của người dân và đời sống nhân dân được cải thiện. Điều này càng khẳng
định tầm quan trọng của hoạt động xuất khẩu và muốn hoạt động xuất khẩu phát triển,
tức là ta có thể bán được nhiều hàng hóa ra nước ngoài, điều đó đồng nghĩa với việc ta sẽ
phải phục vụ khách hàng tốt hơn đối thủ cạn tranh, có nghĩa là sức cạnh tranh của sản
phẩm của ta phải cao hơn, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng.
Ngày nay, trong xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới, các hàng rào mậu dịch

được rỡ bỏ dần, thay vào đó là chế độ tự do mậu dịch. Khi đó, quốc gia nào, doanh nghiệp
nào có hàng hóa chất lượng cao hơn, giá cả sẽ cao hơn sẽ được khách hàng chấp nhận,
những hàng óa chất lượng thấp trong khi đó giá cả cao hơn sẽ bị thải loại dần. Như vậy,
công cụ để tồn tại và pháp triển trong điều kiện hiện nay của các doanh nghiệp chính là
sức cạnh tranh của hàng hóa, là khả năng doanh nghiệp có thể đáp ứng được khách hàng
tốt hơn đối thủ cạnh tranh như thế nào.
Bên cạnh đó, quy luật cạnh tranh của nền kinh tế thị rường bộc các doanh nghiệp
phải luôn đổi mới, vươn lên để có thể trụ vững trong cạnh tranh. Theo quy luật, khi tham
gia thị trường, cả người bán và người mua đều muốn tối đa hóa lợi ích của mình. Người
mua thì luôn muốn nhận được hàng hóa có chất lượng tốt với giá cả thấp nhất trong khi
người bán lại luôn muốn định giá ở mức cao nhất có thể nhằm tối đa hóa lợi nhuận. Do
đó, trên thị trường, người thắng cuộc sẽ là người cung cấp những hàng hóa mà người mua
thích nhất, có nghĩa là sản xuất phải cho ra những sản phẩm được coi là có chất lượng cao
nhất xong giá thành thấp hơn so với đối thủ cạnh tranh, điều đó đồng nghĩa với việc tăng
sức cạnh tranh của hàng hóa.
1.3.4.2. Sự cần thiết phải nâng cao sức cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam
sau khi gia nhập TPP
- Nguyên nhân chủ quan
Một là, hàng nông sản Việt Nam nhìn chung chưa có sức cạnh tranh cao.

25


×