Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

CUỘC ĐẤU TRANH CHỐNG BẮC THUỘC ĐẦU TIÊN CỦA NGƯỜI TÀY - THÁI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (407.78 KB, 14 trang )

CUỘC ĐẤU TRANH CHỐNG BẮC THUỘC ĐẦU TIÊN
CỦA NGƯỜI TÀY - THÁI
Vương Hùng

Theo chính sử Trung Quốc, các dân tộc cư trú ở phía nam Trường Giang được gọi
bằng tên chung là Bách Việt. Bách Việt sau tách rõ hơn chỉ các khu vực khác nhau: Đông
Việt (Triết Giang), Mân Việt (Phúc Kiến), Dương Việt (Giang Tây), Nam Việt (Quảng
Đông), Âu Việt (Quảng Tây), Lạc Việt (bắc Việt Nam).
Âu Việt hoặc Tây Âu, Tây Vu là đất cổ người Tày - Thái, Lạc Việt là đất cổ người
Việt - Mường. Hai tộc Việt này sống gần kề, mối giao hòa có từ lâu.
Sử ta chép rằng: Thời Hồng Bàng thị - Kinh Dương Vương từ hồ Động Đình (nay
thuộc Hồ Nam - Trung Quốc) xuống cai quản phương nam. Con Kinh Dương Vương là
Lạc Long Quân lấy Âu Cơ mà thành tổ chung của dân tộc ta. Đó là ghi chép theo tục
truyền; suy ra Lạc Long Quân tiêu biểu tộc Lạc Việt, Âu Cơ tiêu biểu tộc Âu Việt, giao
hòa với nhau.
Kể từ đó, cha truyền con nối, các vua Hùng tiếp nhau làm vua nước Văn Lang.
Đến đời Hùng Vương 18, vua không có con trai. Các lạc tướng, lạc hầu bất đồng với
nhau về người kế vị, bèn đồng thuận ủng hộ Thục Phán (thuộc Âu Việt) lên làm vua.
Thục Phán dùng tên hai cộng đồng tộc Việt = Âu Việt và Lạc Việt đặt thành tên
nước Âu Lạc (257 - 208 TCN).
Thời Thục Phán, nhà nước Âu Lạc đã có cuộc chiến quy mô rộng chống lại sự
bành trướng của phương Bắc, chiến sự diễn ra trên đất Âu Việt.
Tần Vương Chính - tức Tần Thủy Hoàng sau khi hoàn thành thống nhất Trung
Hoa, bắt những người trốn tránh, người ở rể, người đi buôn (tức là những tội phạm,
những người không có ruộng đất) cả thẩy 50 vạn người, năm 214 TCN, giao cho tướng
Đồ Thư chinh phục phương Nam. Đoàn quân này theo dòng Tây Giang, xâm lấn đất Nam
Việt (Quảng Đông), Âu Việt (Quảng Tây). Quân Tần tràn đến đâu, tàn sát hết trai tráng
địa phương, hiếp đoạt phụ nữ, chiếm nhà cửa ruộng đất, lập thành hương quận trực thuộc
Thiên triều, đồng hóa tức khắc các dân tộc bản địa theo phong tục phương Bắc.
Tình thế buộc Âu Lạc phải kiên quyết chống lại. Dưới sự chỉ huy của Thục Phán,
tổ chức du kích, ngăn bước tiến quân Tần.




Sách Hoài Nam tử viết: “Những người Âu Việt lánh vào rừng để ban đêm ra đánh, đại
phá được quân Tần. Họ áp dụng chiến thuật giáp binh, đòi hỏi lòng dũng cảm, đồng loạt
nhanh chóng tiếp cận đối phương và sử dụng thành thạo vũ khí trong tay”.
Tuy nhiên, trước đội quân xâm lược hơn hẳn về quân số, trình độ tổ chức và vũ
khí, người Âu Việt không thể bảo toàn đất đai, phải lui dần về thượng nguồn. Những chi
lớn của Tây Giang, thuận tiện đường thủy: Tầm Giang, Uất Giang, Ung Giang, Hồng
Thủy Hà, Hữu Giang… lần lượt bị các lâu thuyền của địch chiếm cứ. Quân Thục Phán
lui về giữ được Bằng Giang, Kỳ Cùng thượng nguồn của Tả Giang. Năm 209 TCN, Tần
Thủy Hoàng chết, cuộc Nam chinh bị bỏ dở, nhà nước Âu Lạc vẫn đứng vững.
Thục Phán kiên quyết dũng cảm trong chiến đấu, song lại ngờ nghệch cả tin nên
mắc mưu xảo trá của Triệu Đà.
Triệu Đà, vốn người huyện Chân Định, nước Hán (nay là huyện Chính Định tỉnh
Hà Bắc, Trung Quốc) một tướng trẻ trong đội quân Nam chinh của nhà Tần. Nhân nhà
Tần sụp đổ, nhà Hán lên thay. Triệu Đà liền khoanh vùng đất phương nam vừa chiếm
được, thành lập nước Nam Việt, tuyên bố không thần phục nhà Hán. Ông ta lấy vợ người
địa phương, sinh hoạt theo phong tục địa phương, tự xưng là “Man di trưởng lão”. Vì
những đàn ông trưởng thành ở đây đã bị tàn sát trong cuộc chiến, dân của ông ta đều là
những trẻ mới lớn, nên được gọi là đồng tộc (quan thoại đọc là tóng, bạch thoại đọc
thồng), người địa phương gọi trại thành nồng hoặc nùng. Sau này người ta nói đấy là chữ
Choang viết theo cổ tự.
Như vậy thời đó hình thành hai nước Việt. Nước Âu Lạc Việt của Thục Phán và
nước Nam Việt của Triệu Đà.
Thục Phán chống xâm lăng phương Bắc, nay thấy ông láng giềng mình tuyên bố
chống Hán, ngỡ rằng hai nước Việt có thể liên minh kết bạn, nên mới gả con gái yêu của
mình cho con trai Triệu Đà để thành thông gia. Ngờ đâu Triệu Đà trở mặt tiêu diệt Thục
Phán. Âu Lạc bị Nam Việt thôn tính.
(Sự nhầm lẫn này không riêng Thục Phán, các sử gia nước ta tới thời cận đại vẫn
mắc).

Sau khi Thục Phán mất. Năm 111 TCN, Tây Vu Vương dòng dõi An Dương
Vương Thục Phán đã nổi dậy khởi nghĩa chống ách đô hộ nhà Triệu. Đây là cuộc khởi
nghĩa được ghi ở dòng đầu cuốn Almanach - Những sự kiện lịch sử Việt Nam (Nhà xuất
bản Văn hóa thông tin, H.1999), chương 2: Những cuộc khởi nghĩa.
Tây Vu Vương dịch xuôi sát nghĩa là Pùa Pựt Tày - vua Pựt Tày.


Cuộc khởi nghĩa này sớm hơn cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng tròn 150 năm (40 43). Như vậy đây là cuộc đấu tranh chống Bắc thuộc sớm nhất của người Tày - Thái được
ghi trên sử sách. Thời đó nước Âu Lạc bị chia thành hai quận Giao Chỉ và Cửu Chân
thuộc quyền cai trị của Triệu Vũ Vương; để rồi 97 năm sau mới thuộc về nhà Tây Hán.

THỜI KỲ PHONG KIẾN TỪ THẾ KỶ X ĐẾN XVII
SỰ KIỆN NÙNG TRÍ CAO

Vương Hùng

Nùng Trí Cao là một nhân vật lịch sử sống vào nửa đầu thế kỉ XI. Theo Đại Việt
sử kí toàn thư, Trí Cao là con Nùng Tồn Phúc, thủ lĩnh châu Quảng Nguyên. Quảng
Nguyên thời đó ở giữa lưu vực Bằng Giang, tức đất các huyện Hoà An, Hà Quảng, Thông
Nông, Nguyên Bình, Thạch An, Quảng Uyên, Phục Hoà của tỉnh Cao Bằng hiện nay.
Năm 1039, hoàng đế Lý Thái Tông nghe tin báo Tồn Phúc tiếm hiệu xưng vương,
bèn thân chinh cầm quân lên bắt. Gia đình Tồn Phúc 5 người bị đem chém ở chợ kinh đô.
Nùng Trí Cao và mẹ là A Nùng trốn thoát. Năm sau, 1040, mẹ con quay trở lại giữ
châu Quảng Nguyên. Vua sai tướng lên dẹp bắt sống Trí Cao giải về kinh sư. Vua Lý
nghĩ lại tha tội, lưu cho đi học 3 năm, rồi thả Trí Cao về quản đất cũ của cha, còn cấp
thêm 4 động và cả châu Tư Lang nữa (tức Thượng Lang, Hạ Lang sau này).
Năm 1043, vua sai Nguỵ Trưng đến châu Quảng Nguyên ban Nùng Trí Cao đô ấn,
phong tước Thái bảo.
Năm 1048, Nùng Trí Cao chiếm động Vật Ác, ngoài biên. Vua sai thái uý Quách
Thịnh Dật đi đánh. Tới nơi Nùng Trí Cao hàng ngay không chống cự.

Năm 1052, Nùng Trí Cao tự xưng Nhân huệ hoàng đế, đặt quốc hiệu Đại Nam,
dẫn 5000 quân tràn sang đất Tống, phá trại Hoành Sơn, hãm các châu Ung, Quý, Đằng,
Ngô, Củng, Tầm thuộc tỉnh Quảng Tây và Khang, Đoan thuộc tỉnh Quảng Đông (Trung
Quốc). Có Hoàng Sư Mật người bên ấy, vận động quần chúng nổi dậy nội ứng, nên lực
lượng tiến công phát triển nhanh chóng, số người kéo theo lên đến hàng vạn.
Hoàng Sư Mật vốn là cháu bên mẹ của Nùng Trí Cao. Mẹ Trí Cao quê ở Vũ Lặc,
bờ Tả Giang, ngược sông lên trú tại bến Kim Pha (Cao Bằng). Hoàng Sư Mật đỗ tiến sĩ ở


Quảng Châu, nhưng không ra làm quan với nhà Tống, chuyên đi dạy học. Có lẽ Sư Mật
không phải là tên thật, mà là hiệu gọi ông thầy bí mật họ Hoàng.
Quân Nùng Trí Cao đến đâu liền phá nhà tù, mở các kho của quân Tống phát cho
dân. Dân khắp vùng hưởng ứng, thế lực ngày càng mạnh. Trí Cao điều quân xuôi theo
sông tiến hành vây hãm thành Quảng Châu, đồng thời đòi vua Tống cắt đất chia dân.
Thấy dân đều theo Trí Cao, Tống Nhân Tông lo sợ họp triều thần định đáp ứng yêu sách,
song vì Địch Thanh dâng biểu xin đi đánh nên thôi. Địch Thanh là một tướng kiêu dũng
vừa được gọi từ Thiểm Tây về.
Vây hãm Quảng Châu gần 2 tháng, không hạ được thành, quân Trí Cao núng thế.
Trong thành kiên trì cố thủ, vòng ngoài Địch Thanh tiến đánh, Nùng Trí Cao bị kẹt ở
giữa, nên phái Lương Châu về cấp báo Thăng Long xin hoàng đế Lý Thái Tông cho quân
cứu viện.
Được hoàng đế chuẩn y, nhưng khi 2 vạn quân của tướng Vũ Nhị lên đến nơi thì
quân Nùng Trí Cao đã bị vỡ sau trận quyết tử ở phố Quy Nhân (Tông Quỷ). Hoàng Sư
Mật cùng thủ hạ, tức bộ tham mưu nổi dậy, 57 người và 2200 quân Tày Nùng bị chết tại
trận. Vũ Nhị không thể làm gì hơn, chỉ còn đàm phán phân định địa giới với Địch Thanh,
đoạn hai bên lui quân về nội địa. Nùng Trí Cao thu gom tàn quân, cùng gia đình rút về
phía tây men dọc biên giới Đại Việt - Đại Tống sang Đại Lý (Vân Nam) mưu đồ tiếp tục
sự nghiệp. Nhưng nhà Tống vẫn theo dõi hành trình, kiên quyết phục thù. Năm sau, 1053,
doanh trại quân Nùng tạm đóng ở đấy bị quân Tống tập kích lúc nửa đêm, cả gia đình
Nùng Trí Cao bị bắt, riêng bản thân Nùng Trí Cao biệt tăm không còn xuất hiện.

Cuộc chiến do Nùng Trí Cao khởi phát diễn ra trên đất Tống từ năm 1048 đến năm
1053, là một sự kiện lớn, xôn xao cả kinh đô Khai Phong. Giới sử học Trung Quốc và
Việt Nam đã bỏ nhiều công sức để tìm hiểu nguyên nhân, động cơ của sự kiện này.
Văn bia bên Tống ghi: “Nùng Trí Cao có mối thù với Giao Chỉ, muốn phụ thuộc
vào Tống, xin được cai quản châu Ung, nhưng vua Tống không cho nên mới nổi loạn”.
Sử bên ta cho rằng: Cuộc nổi dậy của Nùng Trí Cao thực chất là một hiện tượng
cát cứ của tù trưởng miền núi khi chính quyền trung ương chưa dủ khả năng khống chế.
Nó không khác xa so với các cuộc nổi dậy khác thời thế kỉ X-XI ở nước ta. Sử gia Lê
Văn Hưu bình: Sự kiện này xảy ra là do thái độ dung dưỡng của Lý Thái Tông đối với
Nùng Trí Cao. Thưởng phạt không nhất quán, mê hoặc bởi cái thuyết từ ái của Phật mà
tha cho bày tôi phản nghịch thì lòng nhân ấy trở thành nhu nhược.
Thực ra sự kiện Nùng Trí Cao có nguyên nhân tiềm ẩn và thời điểm bột phát.


Nguyên nhân tiềm ẩn:
Lưu vực sông Hồng là địa bàn cư trú của người Lạc Việt (Kinh, Mường cổ). Lưu
vực Tây Giang là địa bàn cư trú của người Âu Việt, (Tày Thái cổ). Thời Tiên Tần (221
TCN) người phương Bắc gọi khu vực này là Văn Lang và Nam Cương. Đó là tiếng của
họ, thời ấy chưa biết chữ hán.
Văn Lang có nghĩa vùng đất có những chàng trai xăm mình.
Nam Cương có nghĩa vùng đất biên cương phía nam.
Chưa có tín sử, chuyện tương truyền như vậy đã in đậm trong kí ức dân gian. Nam
Cương hợp nhất với Văn Lang thành Âu Lạc, rồi Âu Lạc bị phương Bắc thôn tính, phải
sống dưới chế độ Bắc thuộc nghìn năm.
Mãi tới thế kỉ X, thời Ngũ đại, phong kiến phương Bắc khủng hoảng, trong vòng
nửa thế kỉ, năm triều đại liên tiếp bị đổ. Tình thế đó tạo cho người Nam giành được
quyền tự chủ và tiến tới độc lập sau trận đánh tan quân Nam Hán của Ngô Quyền (938).
Triều Bắc Tống thiết lập năm 960, vẫn coi nước ta như một quận của họ, hễ có dịp
là đem quân xâm lược. Thời nhà Đinh (968-980), nhà Tiền Lê (980-1009), nhà Lý (1010>) nguy cơ bị xâm lược luôn luôn thường trực. Các vua Đại Việt cần duy trì những tù
trưởng mạnh ở biên giới, kết thân với họ, dùng họ làm phên giậu. Người Tày, Nùng,

Choang ở lưu vực Tây Giang ấp ủ khôi phục lãnh thổ Nam Cương xưa, ước mơ có lại vị
trí của mình thời Âu Lạc.
Vua Lý Thái Tông biết rõ điều này nên có thái độ nên có thái độ xử lí co duỗi
mềm dẻo sát với thực tế. Tống Nhân Tông cũng biết nên khi khắc bia phủ định ý chí đòi
độc lập của phong trào, cho rằng cuộc nổi dậy đó xuất phát từ tham vọng cá nhân Nùng
Trí Cao, không đại diện cho lợi ích cộng đồng dân tộc mình.
Thời điểm bột phát.
Nhà Tống diệt xong các nước nhỏ, lập được triều đình ổn định, nhưng rất sợ đụng
độ với nhà Liêu ở phương Bắc. Hiệp ước Thiền Uyên - giữa Tống và Liêu - qui định
hàng năm Tống phải nộp cho Liêu 20 vạn tấm lụa và 10 vạn lạng bạc. Vừa phải cung
phụng triều đình, vừa phải đóng góp cống nước ngoài, gánh nặng đó đè lên vai nhân dân.
Nhất là ở biên cương phía Nam, các chỉ huy sở càng sách nhiễu tệ, sự đóng góp thật quá
quắt. Không kể bị trưng binh, phu phen liên miên, gặt mười gánh lúa, dân chỉ được ăn
hai, dệt mười tấm vải dân chỉ được dùng một (theo sách giáo khoa sử Trung Quốc). Lòng
uất ức trong dân chúng sôi sục chỉ chờ có dịp là bùng lên.


Nguyên Hạo xưng đế ở Tây Hạ. Năm 1041 đánh tan 2 vạn quân Tống ở Lục Bàn
Sơn. Đến năm 1043, Nguyên Hạo cầu hoà, triều Tống lại cung cấp cho nhiều tiền bạc và
vải vóc. Cách cư xử mềm nắn rắn buông của vua Tống như vậy kích thích quyết tâm của
Nùng Trí Cao, Hoàng Sư Mật. So sánh nhân lực, vật lực vùng Tày, Nùng, Choang này
còn có phần khả quan hơn vùng Ninh Hạ - Hồi Tộc.
Song đáng tiếc, kết quả không diễn ra như dự tính.
Nhà Tống đàn áp cuộc nổi dậy vô cùng tàn khốc, những người tham gia đều bị giết
hoặc phải bỏ xứ trốn chạy theo Trí Cao. Dù sao sau đó triều đình vẫn bắt buộc phải thay
đổi cách cai trị, nới nhẹ sự đóng góp của dân chúng, thực hành chính sách mới của Phạm
Trọng Yêm và biến pháp của Vương An Thạch, tình hình mới dần ổn định.
Còn vua Lý nước Đại Việt, vì tránh cuộc chiến với Đại Tống nên truất tước Thái
Bảo của Nùng Trí Cao để tạo điều kiện cho cuộc đàm phán. Nùng Trí Cao bỏ lại chiếc ấn
vua ban tại quê nhà trên đỉnh đồi Khau Dắn (Đồi Ấn), trước khi lánh sang Đại Lý. Đến

khi nghe tin Nùng Trí Cao mất, dân lập đền thờ, vua Lý lại truy phong “Khau Sầm đại
vương nhất đẳng thần”.
Dân Tày, Nùng, Choang hai bên biên giới Việt Trung lập nhiều đền thờ Nùng Trí
Cao và cùng ăn tết ngày 14 tháng 7 âm lịch rất trọng, đó là ngày độ vong thất trận ở phố
Quy Nhân. Điều ấy cho thấy công tích Nùng Trí Cao in đậm trong tâm khảm dân chúng.
Miếu Linh Ấn (thờ chiếc ấn để lại) ở Bản Ngần, xã Vĩnh Quang, huyệ Hoà An là
nơi thờ Nùng Trí Cao qui mô hơn cả trên địa bàn Cao Bằng. Ở đấy có mấy hàng thơ, đối
tóm tắt đánh giá sự kiện Nùng Trí Cao.
Tái ngoại cao tiêu độ lập kì
Nùng vương sự nghiệp thế gian hy
Tạm dịch:
Ra ngoài biên tái dựng cao cờ độc lập
Sự nghiệp vua Nùng trên thế gian hiếm thấy

Đế nghiệp vị thành nhân dĩ lão
Vương phong thân tích quốc đồng hưu
Tạm dịch:
Sự nghiệp đế chưa thành mà người đã già (chết)


Vua phong công tích lớn cả nước cùng nghỉ ngơi.
Miếu Linh Ấn được Bộ Văn hoá Thông tin xếp hạng di tích văn hoá lịch sử năm
1992.
Sự kiện Nùng Trí Cao đặc biệt không giống những cuộc nổi dậy khác trong lịch sử
nước ta, nó góp phần củng cố nước Đại Việt thời ấy. 23 năm sau, năm 1075, Lý Thường
Kiệt phải lặp lại tương tự hành động của Nùng Trí Cao để ngăn chặn tham vọng bành
trướng xuống phía nam của nhà Tống. Vì vậy sự kiện này cần được đánh giá lại công
bằng, khoa học hơn theo nhãn quan mới.
28/01/2005



CUỘC ĐẤU TRANH CHỐNG BẮC THUỘC ĐẦU TIÊN
CỦA NGƯỜI TÀY - THÁI
Vương Hùng

Theo chính sử Trung Quốc, các dân tộc cư trú ở phía nam Trường Giang được gọi
bằng tên chung là Bách Việt. Bách Việt sau tách rõ hơn chỉ các khu vực khác nhau: Đông
Việt (Triết Giang), Mân Việt (Phúc Kiến), Dương Việt (Giang Tây), Nam Việt (Quảng
Đông), Âu Việt (Quảng Tây), Lạc Việt (bắc Việt Nam).
Âu Việt hoặc Tây Âu, Tây Vu là đất cổ người Tày - Thái, Lạc Việt là đất cổ người
Việt - Mường. Hai tộc Việt này sống gần kề, mối giao hòa có từ lâu.
Sử ta chép rằng: Thời Hồng Bàng thị - Kinh Dương Vương từ hồ Động Đình (nay
thuộc Hồ Nam - Trung Quốc) xuống cai quản phương nam. Con Kinh Dương Vương là
Lạc Long Quân lấy Âu Cơ mà thành tổ chung của dân tộc ta. Đó là ghi chép theo tục
truyền; suy ra Lạc Long Quân tiêu biểu tộc Lạc Việt, Âu Cơ tiêu biểu tộc Âu Việt, giao
hòa với nhau.
Kể từ đó, cha truyền con nối, các vua Hùng tiếp nhau làm vua nước Văn Lang.
Đến đời Hùng Vương 18, vua không có con trai. Các lạc tướng, lạc hầu bất đồng với
nhau về người kế vị, bèn đồng thuận ủng hộ Thục Phán (thuộc Âu Việt) lên làm vua.
Thục Phán dùng tên hai cộng đồng tộc Việt = Âu Việt và Lạc Việt đặt thành tên
nước Âu Lạc (257 - 208 TCN).
Thời Thục Phán, nhà nước Âu Lạc đã có cuộc chiến quy mô rộng chống lại sự
bành trướng của phương Bắc, chiến sự diễn ra trên đất Âu Việt.
Tần Vương Chính - tức Tần Thủy Hoàng sau khi hoàn thành thống nhất Trung
Hoa, bắt những người trốn tránh, người ở rể, người đi buôn (tức là những tội phạm,
những người không có ruộng đất) cả thẩy 50 vạn người, năm 214 TCN, giao cho tướng
Đồ Thư chinh phục phương Nam. Đoàn quân này theo dòng Tây Giang, xâm lấn đất Nam
Việt (Quảng Đông), Âu Việt (Quảng Tây). Quân Tần tràn đến đâu, tàn sát hết trai tráng
địa phương, hiếp đoạt phụ nữ, chiếm nhà cửa ruộng đất, lập thành hương quận trực thuộc
Thiên triều, đồng hóa tức khắc các dân tộc bản địa theo phong tục phương Bắc.

Tình thế buộc Âu Lạc phải kiên quyết chống lại. Dưới sự chỉ huy của Thục Phán,
tổ chức du kích, ngăn bước tiến quân Tần.


Sách Hoài Nam tử viết: “Những người Âu Việt lánh vào rừng để ban đêm ra đánh, đại
phá được quân Tần. Họ áp dụng chiến thuật giáp binh, đòi hỏi lòng dũng cảm, đồng loạt
nhanh chóng tiếp cận đối phương và sử dụng thành thạo vũ khí trong tay”.
Tuy nhiên, trước đội quân xâm lược hơn hẳn về quân số, trình độ tổ chức và vũ
khí, người Âu Việt không thể bảo toàn đất đai, phải lui dần về thượng nguồn. Những chi
lớn của Tây Giang, thuận tiện đường thủy: Tầm Giang, Uất Giang, Ung Giang, Hồng
Thủy Hà, Hữu Giang… lần lượt bị các lâu thuyền của địch chiếm cứ. Quân Thục Phán
lui về giữ được Bằng Giang, Kỳ Cùng thượng nguồn của Tả Giang. Năm 209 TCN, Tần
Thủy Hoàng chết, cuộc Nam chinh bị bỏ dở, nhà nước Âu Lạc vẫn đứng vững.
Thục Phán kiên quyết dũng cảm trong chiến đấu, song lại ngờ nghệch cả tin nên
mắc mưu xảo trá của Triệu Đà.
Triệu Đà, vốn người huyện Chân Định, nước Hán (nay là huyện Chính Định tỉnh
Hà Bắc, Trung Quốc) một tướng trẻ trong đội quân Nam chinh của nhà Tần. Nhân nhà
Tần sụp đổ, nhà Hán lên thay. Triệu Đà liền khoanh vùng đất phương nam vừa chiếm
được, thành lập nước Nam Việt, tuyên bố không thần phục nhà Hán. Ông ta lấy vợ người
địa phương, sinh hoạt theo phong tục địa phương, tự xưng là “Man di trưởng lão”. Vì
những đàn ông trưởng thành ở đây đã bị tàn sát trong cuộc chiến, dân của ông ta đều là
những trẻ mới lớn, nên được gọi là đồng tộc (quan thoại đọc là tóng, bạch thoại đọc
thồng), người địa phương gọi trại thành nồng hoặc nùng. Sau này người ta nói đấy là chữ
Choang viết theo cổ tự.
Như vậy thời đó hình thành hai nước Việt. Nước Âu Lạc Việt của Thục Phán và
nước Nam Việt của Triệu Đà.
Thục Phán chống xâm lăng phương Bắc, nay thấy ông láng giềng mình tuyên bố
chống Hán, ngỡ rằng hai nước Việt có thể liên minh kết bạn, nên mới gả con gái yêu của
mình cho con trai Triệu Đà để thành thông gia. Ngờ đâu Triệu Đà trở mặt tiêu diệt Thục
Phán. Âu Lạc bị Nam Việt thôn tính.

(Sự nhầm lẫn này không riêng Thục Phán, các sử gia nước ta tới thời cận đại vẫn
mắc).
Sau khi Thục Phán mất. Năm 111 TCN, Tây Vu Vương dòng dõi An Dương
Vương Thục Phán đã nổi dậy khởi nghĩa chống ách đô hộ nhà Triệu. Đây là cuộc khởi
nghĩa được ghi ở dòng đầu cuốn Almanach - Những sự kiện lịch sử Việt Nam (Nhà xuất
bản Văn hóa thông tin, H.1999), chương 2: Những cuộc khởi nghĩa.
Tây Vu Vương dịch xuôi sát nghĩa là Pùa Pựt Tày - vua Pựt Tày.


Cuộc khởi nghĩa này sớm hơn cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng tròn 150 năm (40 43). Như vậy đây là cuộc đấu tranh chống Bắc thuộc sớm nhất của người Tày - Thái được
ghi trên sử sách. Thời đó nước Âu Lạc bị chia thành hai quận Giao Chỉ và Cửu Chân
thuộc quyền cai trị của Triệu Vũ Vương; để rồi 97 năm sau mới thuộc về nhà Tây Hán.

THỜI KỲ PHONG KIẾN TỪ THẾ KỶ X ĐẾN XVII
SỰ KIỆN NÙNG TRÍ CAO

Vương Hùng

Nùng Trí Cao là một nhân vật lịch sử sống vào nửa đầu thế kỉ XI. Theo Đại Việt
sử kí toàn thư, Trí Cao là con Nùng Tồn Phúc, thủ lĩnh châu Quảng Nguyên. Quảng
Nguyên thời đó ở giữa lưu vực Bằng Giang, tức đất các huyện Hoà An, Hà Quảng, Thông
Nông, Nguyên Bình, Thạch An, Quảng Uyên, Phục Hoà của tỉnh Cao Bằng hiện nay.
Năm 1039, hoàng đế Lý Thái Tông nghe tin báo Tồn Phúc tiếm hiệu xưng vương,
bèn thân chinh cầm quân lên bắt. Gia đình Tồn Phúc 5 người bị đem chém ở chợ kinh đô.
Nùng Trí Cao và mẹ là A Nùng trốn thoát. Năm sau, 1040, mẹ con quay trở lại giữ
châu Quảng Nguyên. Vua sai tướng lên dẹp bắt sống Trí Cao giải về kinh sư. Vua Lý
nghĩ lại tha tội, lưu cho đi học 3 năm, rồi thả Trí Cao về quản đất cũ của cha, còn cấp
thêm 4 động và cả châu Tư Lang nữa (tức Thượng Lang, Hạ Lang sau này).
Năm 1043, vua sai Nguỵ Trưng đến châu Quảng Nguyên ban Nùng Trí Cao đô ấn,
phong tước Thái bảo.

Năm 1048, Nùng Trí Cao chiếm động Vật Ác, ngoài biên. Vua sai thái uý Quách
Thịnh Dật đi đánh. Tới nơi Nùng Trí Cao hàng ngay không chống cự.
Năm 1052, Nùng Trí Cao tự xưng Nhân huệ hoàng đế, đặt quốc hiệu Đại Nam,
dẫn 5000 quân tràn sang đất Tống, phá trại Hoành Sơn, hãm các châu Ung, Quý, Đằng,
Ngô, Củng, Tầm thuộc tỉnh Quảng Tây và Khang, Đoan thuộc tỉnh Quảng Đông (Trung
Quốc). Có Hoàng Sư Mật người bên ấy, vận động quần chúng nổi dậy nội ứng, nên lực
lượng tiến công phát triển nhanh chóng, số người kéo theo lên đến hàng vạn.
Hoàng Sư Mật vốn là cháu bên mẹ của Nùng Trí Cao. Mẹ Trí Cao quê ở Vũ Lặc,
bờ Tả Giang, ngược sông lên trú tại bến Kim Pha (Cao Bằng). Hoàng Sư Mật đỗ tiến sĩ ở


Quảng Châu, nhưng không ra làm quan với nhà Tống, chuyên đi dạy học. Có lẽ Sư Mật
không phải là tên thật, mà là hiệu gọi ông thầy bí mật họ Hoàng.
Quân Nùng Trí Cao đến đâu liền phá nhà tù, mở các kho của quân Tống phát cho
dân. Dân khắp vùng hưởng ứng, thế lực ngày càng mạnh. Trí Cao điều quân xuôi theo
sông tiến hành vây hãm thành Quảng Châu, đồng thời đòi vua Tống cắt đất chia dân.
Thấy dân đều theo Trí Cao, Tống Nhân Tông lo sợ họp triều thần định đáp ứng yêu sách,
song vì Địch Thanh dâng biểu xin đi đánh nên thôi. Địch Thanh là một tướng kiêu dũng
vừa được gọi từ Thiểm Tây về.
Vây hãm Quảng Châu gần 2 tháng, không hạ được thành, quân Trí Cao núng thế.
Trong thành kiên trì cố thủ, vòng ngoài Địch Thanh tiến đánh, Nùng Trí Cao bị kẹt ở
giữa, nên phái Lương Châu về cấp báo Thăng Long xin hoàng đế Lý Thái Tông cho quân
cứu viện.
Được hoàng đế chuẩn y, nhưng khi 2 vạn quân của tướng Vũ Nhị lên đến nơi thì
quân Nùng Trí Cao đã bị vỡ sau trận quyết tử ở phố Quy Nhân (Tông Quỷ). Hoàng Sư
Mật cùng thủ hạ, tức bộ tham mưu nổi dậy, 57 người và 2200 quân Tày Nùng bị chết tại
trận. Vũ Nhị không thể làm gì hơn, chỉ còn đàm phán phân định địa giới với Địch Thanh,
đoạn hai bên lui quân về nội địa. Nùng Trí Cao thu gom tàn quân, cùng gia đình rút về
phía tây men dọc biên giới Đại Việt - Đại Tống sang Đại Lý (Vân Nam) mưu đồ tiếp tục
sự nghiệp. Nhưng nhà Tống vẫn theo dõi hành trình, kiên quyết phục thù. Năm sau, 1053,

doanh trại quân Nùng tạm đóng ở đấy bị quân Tống tập kích lúc nửa đêm, cả gia đình
Nùng Trí Cao bị bắt, riêng bản thân Nùng Trí Cao biệt tăm không còn xuất hiện.
Cuộc chiến do Nùng Trí Cao khởi phát diễn ra trên đất Tống từ năm 1048 đến năm
1053, là một sự kiện lớn, xôn xao cả kinh đô Khai Phong. Giới sử học Trung Quốc và
Việt Nam đã bỏ nhiều công sức để tìm hiểu nguyên nhân, động cơ của sự kiện này.
Văn bia bên Tống ghi: “Nùng Trí Cao có mối thù với Giao Chỉ, muốn phụ thuộc
vào Tống, xin được cai quản châu Ung, nhưng vua Tống không cho nên mới nổi loạn”.
Sử bên ta cho rằng: Cuộc nổi dậy của Nùng Trí Cao thực chất là một hiện tượng
cát cứ của tù trưởng miền núi khi chính quyền trung ương chưa dủ khả năng khống chế.
Nó không khác xa so với các cuộc nổi dậy khác thời thế kỉ X-XI ở nước ta. Sử gia Lê
Văn Hưu bình: Sự kiện này xảy ra là do thái độ dung dưỡng của Lý Thái Tông đối với
Nùng Trí Cao. Thưởng phạt không nhất quán, mê hoặc bởi cái thuyết từ ái của Phật mà
tha cho bày tôi phản nghịch thì lòng nhân ấy trở thành nhu nhược.
Thực ra sự kiện Nùng Trí Cao có nguyên nhân tiềm ẩn và thời điểm bột phát.


Nguyên nhân tiềm ẩn:
Lưu vực sông Hồng là địa bàn cư trú của người Lạc Việt (Kinh, Mường cổ). Lưu
vực Tây Giang là địa bàn cư trú của người Âu Việt, (Tày Thái cổ). Thời Tiên Tần (221
TCN) người phương Bắc gọi khu vực này là Văn Lang và Nam Cương. Đó là tiếng của
họ, thời ấy chưa biết chữ hán.
Văn Lang có nghĩa vùng đất có những chàng trai xăm mình.
Nam Cương có nghĩa vùng đất biên cương phía nam.
Chưa có tín sử, chuyện tương truyền như vậy đã in đậm trong kí ức dân gian. Nam
Cương hợp nhất với Văn Lang thành Âu Lạc, rồi Âu Lạc bị phương Bắc thôn tính, phải
sống dưới chế độ Bắc thuộc nghìn năm.
Mãi tới thế kỉ X, thời Ngũ đại, phong kiến phương Bắc khủng hoảng, trong vòng
nửa thế kỉ, năm triều đại liên tiếp bị đổ. Tình thế đó tạo cho người Nam giành được
quyền tự chủ và tiến tới độc lập sau trận đánh tan quân Nam Hán của Ngô Quyền (938).
Triều Bắc Tống thiết lập năm 960, vẫn coi nước ta như một quận của họ, hễ có dịp

là đem quân xâm lược. Thời nhà Đinh (968-980), nhà Tiền Lê (980-1009), nhà Lý (1010>) nguy cơ bị xâm lược luôn luôn thường trực. Các vua Đại Việt cần duy trì những tù
trưởng mạnh ở biên giới, kết thân với họ, dùng họ làm phên giậu. Người Tày, Nùng,
Choang ở lưu vực Tây Giang ấp ủ khôi phục lãnh thổ Nam Cương xưa, ước mơ có lại vị
trí của mình thời Âu Lạc.
Vua Lý Thái Tông biết rõ điều này nên có thái độ nên có thái độ xử lí co duỗi
mềm dẻo sát với thực tế. Tống Nhân Tông cũng biết nên khi khắc bia phủ định ý chí đòi
độc lập của phong trào, cho rằng cuộc nổi dậy đó xuất phát từ tham vọng cá nhân Nùng
Trí Cao, không đại diện cho lợi ích cộng đồng dân tộc mình.
Thời điểm bột phát.
Nhà Tống diệt xong các nước nhỏ, lập được triều đình ổn định, nhưng rất sợ đụng
độ với nhà Liêu ở phương Bắc. Hiệp ước Thiền Uyên - giữa Tống và Liêu - qui định
hàng năm Tống phải nộp cho Liêu 20 vạn tấm lụa và 10 vạn lạng bạc. Vừa phải cung
phụng triều đình, vừa phải đóng góp cống nước ngoài, gánh nặng đó đè lên vai nhân dân.
Nhất là ở biên cương phía Nam, các chỉ huy sở càng sách nhiễu tệ, sự đóng góp thật quá
quắt. Không kể bị trưng binh, phu phen liên miên, gặt mười gánh lúa, dân chỉ được ăn
hai, dệt mười tấm vải dân chỉ được dùng một (theo sách giáo khoa sử Trung Quốc). Lòng
uất ức trong dân chúng sôi sục chỉ chờ có dịp là bùng lên.


Nguyên Hạo xưng đế ở Tây Hạ. Năm 1041 đánh tan 2 vạn quân Tống ở Lục Bàn
Sơn. Đến năm 1043, Nguyên Hạo cầu hoà, triều Tống lại cung cấp cho nhiều tiền bạc và
vải vóc. Cách cư xử mềm nắn rắn buông của vua Tống như vậy kích thích quyết tâm của
Nùng Trí Cao, Hoàng Sư Mật. So sánh nhân lực, vật lực vùng Tày, Nùng, Choang này
còn có phần khả quan hơn vùng Ninh Hạ - Hồi Tộc.
Song đáng tiếc, kết quả không diễn ra như dự tính.
Nhà Tống đàn áp cuộc nổi dậy vô cùng tàn khốc, những người tham gia đều bị giết
hoặc phải bỏ xứ trốn chạy theo Trí Cao. Dù sao sau đó triều đình vẫn bắt buộc phải thay
đổi cách cai trị, nới nhẹ sự đóng góp của dân chúng, thực hành chính sách mới của Phạm
Trọng Yêm và biến pháp của Vương An Thạch, tình hình mới dần ổn định.
Còn vua Lý nước Đại Việt, vì tránh cuộc chiến với Đại Tống nên truất tước Thái

Bảo của Nùng Trí Cao để tạo điều kiện cho cuộc đàm phán. Nùng Trí Cao bỏ lại chiếc ấn
vua ban tại quê nhà trên đỉnh đồi Khau Dắn (Đồi Ấn), trước khi lánh sang Đại Lý. Đến
khi nghe tin Nùng Trí Cao mất, dân lập đền thờ, vua Lý lại truy phong “Khau Sầm đại
vương nhất đẳng thần”.
Dân Tày, Nùng, Choang hai bên biên giới Việt Trung lập nhiều đền thờ Nùng Trí
Cao và cùng ăn tết ngày 14 tháng 7 âm lịch rất trọng, đó là ngày độ vong thất trận ở phố
Quy Nhân. Điều ấy cho thấy công tích Nùng Trí Cao in đậm trong tâm khảm dân chúng.
Miếu Linh Ấn (thờ chiếc ấn để lại) ở Bản Ngần, xã Vĩnh Quang, huyệ Hoà An là
nơi thờ Nùng Trí Cao qui mô hơn cả trên địa bàn Cao Bằng. Ở đấy có mấy hàng thơ, đối
tóm tắt đánh giá sự kiện Nùng Trí Cao.
Tái ngoại cao tiêu độ lập kì
Nùng vương sự nghiệp thế gian hy
Tạm dịch:
Ra ngoài biên tái dựng cao cờ độc lập
Sự nghiệp vua Nùng trên thế gian hiếm thấy

Đế nghiệp vị thành nhân dĩ lão
Vương phong thân tích quốc đồng hưu
Tạm dịch:
Sự nghiệp đế chưa thành mà người đã già (chết)


Vua phong công tích lớn cả nước cùng nghỉ ngơi.
Miếu Linh Ấn được Bộ Văn hoá Thông tin xếp hạng di tích văn hoá lịch sử năm
1992.
Sự kiện Nùng Trí Cao đặc biệt không giống những cuộc nổi dậy khác trong lịch sử
nước ta, nó góp phần củng cố nước Đại Việt thời ấy. 23 năm sau, năm 1075, Lý Thường
Kiệt phải lặp lại tương tự hành động của Nùng Trí Cao để ngăn chặn tham vọng bành
trướng xuống phía nam của nhà Tống. Vì vậy sự kiện này cần được đánh giá lại công
bằng, khoa học hơn theo nhãn quan mới.

28/01/2005



×